Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Tích hợp giáo dục pháp luật trong dạy học môn giáo dục công dân lớp 12 ở trường trung học phổ thông yên phong số 1, tỉnh bắc ninh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (954.21 KB, 84 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
----------------

ĐOÀN THỊ THU NGUYỆT

TÍCH HỢP GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TRONG
DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 12
Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
YÊN PHONG SỐ 1, TỈNH BẮC NINH HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Phƣơng pháp dạy học môn Giáo dục công dân
ở trƣờng THPT

HÀ NỘI - 2019


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
----------------

ĐOÀN THỊ THU NGUYỆT

TÍCH HỢP GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TRONG
DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 12
Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
YÊN PHONG SỐ 1, TỈNH BẮC NINH HIỆN NAY
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Phƣơng pháp dạy học môn Giáo dục công dân
ở trƣờng THPT


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
ThS. NGUYỄN QUANG THUẬN

HÀ NỘI - 2019


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện khóa luận, em đã nhận đƣợc sự giúp đỡ, sự động viên,
hƣớng dẫn, chỉ bảo tận tình và chu đáo của thầy giáo ThS. Nguyễn Quang Thuận và
những ý kiến đóng góp của các thầy cô trong khoa Giáo dục Chính trị.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới các thầy giáo, cô giáo
trong khoa Giáo dục Chính trị, đặc biệt là sự hƣớng dẫn chỉ bảo tận tình của thầy
giáo ThS. Nguyễn Quang Thuận.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn đến các thầy giáo, cô giáo, các em học sinh
trƣờng THPT Yên Phong số 1, tỉnh Bắc Ninh đã tạo điều kiện giúp đỡ em hoàn
thành khóa luận của mình.
Do điều kiện thời gian, năng lực nghiên cứu còn hạn chế nên khóa luận không
tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận đƣợc sự đóng góp ý kiến của các
thầy cô và các bạn để khóa luận của em đƣợc hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 12 tháng 05 năm 2019
Sinh viên

Đoàn Thị Thu Nguyệt


LỜI CAM ĐOAN
Khóa luận tốt nghiệp này đƣợc hoàn thành dƣới sự hƣớng dẫn của thầy giáo,
ThS. Nguyễn Quang Thuận. Em xin cam đoan rằng:
Đây là kết quả nghiên cứu của riêng em không trùng lặp với bất cứ công trình

nghiên cứu nào.
Trong quá trình làm khóa luận, em đã kế thừa những thành tựu của các nhà
khoa học với sự trân trọng và biết ơn.
Hà Nội, ngày 12 tháng 05 năm 2019
Sinh viên

Đoàn Thị Thu Nguyệt


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

TỪ VIẾT TẮT

NỘI DUNG

GDCD

Giáo dục công dân

GDPL

Giáo dục pháp luật

GDPT

Giáo dục phổ thông

GD&ĐT

Giáo dục và Đào tạo


GV

Giáo viên

HS

Học sinh

PPDH

Phƣơng pháp dạy học

SGK

Sách Giáo khoa

THPT

Trung học phổ thông

TW

Trung ƣơng


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC TÍCH HỢP GIÁO DỤC

PHÁP LUẬT TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP
12 Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG YÊN PHONG SỐ 1, TỈNH
BẮC NINH ........................................................................................................ 5
1.1. Cơ sở lý luận của việc tích hợp giáo dục pháp luật trong dạy học
môn Giáo dục công dân ở trƣờng trung học phổ thông ................................ 5
1.2. Cơ sở thực tiễn của việc tích hợp giáo dục pháp luật trong dạy học
môn Giáo dục công dân lớp 12 ở trƣờng trung học phổ thông Yên Phong
số 1, tỉnh Bắc Ninh hiện nay” ..................................................................... 10
1.3. Sự cần thiết phải tích hợp giáo dục pháp luật trong dạy học môn
Giáo dục công dân lớp 12 ở trƣờng THPT Yên Phong số 1, tỉnh Bắc
Ninh hiện nay .............................................................................................. 17
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1.............................................................................. 21
Chƣơng 2: QUY TRÌNH VÀ ĐIỀU KIỆN THỰC HIỆN QUY TRÌNH
TÍCH HỢP GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO
DỤC CÔNG DÂN LỚP 12 Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
YÊN PHONG SỐ 1, TỈNH BẮC NINH ......................................................... 22
2.1. Quy trình tích hợp giáo dục pháp luật trong dạy học môn Giáo dục
công dân lớp 12 ở trƣờng THPT Yên Phong số 1, tỉnh Bắc Ninh” ............ 22
2.2. Điều kiện thực hiện hiệu quả tích hợp giáo dục pháp luật trong dạy
học môn Giáo dục công dân lớp 12 ............................................................ 30
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2.............................................................................. 32
Chƣơng 3: THỰC NGHIỆM TÍCH HỢP GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 12 Ở TRƢỜNG . 33
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG YÊN PHONG SỐ 1, TỈNH BẮC NINH ........ 33


3.1. Kế hoạch thực nghiệm ......................................................................... 33
3.2. Nội dung thực nghiệm.......................................................................... 34
3.3. Kết quả thực nghiệm ............................................................................ 50
3.4. Kết luận thực nghiệm ........................................................................... 54

TIỂU KẾT CHƢƠNG 3.............................................................................. 56
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ......................................................................... 57
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 60
PHỤ LỤC


DANH MỤC BẢNG

Bảng 3.1: Kết quả học tập môn GDCD của HS lớp thực nghiệm và lớp đối
chứng trƣớc khi tiến hành thực nghiệm .......................................... 51
Bảng 3.2: Kết quả học tập môn GDCD của HS lớp thực nghiệm và lớp đối
chứng sau khi tiến hành thực nghiệm ............................................. 52


DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 3.1: Kết quả học tập môn GDCD của HS lớp thực nghiệm và lớp
đối chứng trƣớc khi tiến hành thực nghiệm (Đơn vị: %) ............... 51
Biểu đồ 3.2: Kết quả học tập môn GDCD của HS lớp thực nghiệm và lớp
đối chứng sau khi tiến hành thực nghiệm (Đơn vị: %) ................... 53


MỞ ĐẦU
1. Lí do lựa chọn đề tài
“Môn GDCD có vai trò quan trọng trong việc hình thành nhân cách của học
sinh, của con ngƣời Việt Nam trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0. Đặc biệt,
những hiện tƣợng suy thoái đạo đức và vi phạm pháp luật diễn ra ngày càng phổ
biến. Nhận thức tầm quan trọng của nó, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã lồng ghép giáo
dục pháp luật vào hệ thống giáo dục nhằm tác động tới ý thức của ngƣời học, từ đó
điều chỉnh thái độ và hành vi phù hợp với pháp luật hiện hành.

Phổ biến GDPL là nút thắt, là cầu nối để đƣa pháp luật vào đời sống xã hội.
Bởi, thực hiện pháp luật sẽ phát huy đƣợc hiệu quả tối đa khi mỗi ngƣời nhận thức
đƣợc bản chất và vị trí của nó. Chính vì vậy, GDPL trong nhà trƣờng có ý nghĩa
chiến lƣợc, là nền tảng vững chắc hình thành lối sống, nhận thức của công dân.
Có thể nói, trƣờng THPT Yên Phong số 1 là một trong những trƣờng đi đầu
trong đổi mới giáo dục. Tuy nhiên, một bộ phận không nhỏ giáo viên, phụ huynh
hay học sinh trong nhà trƣờng chƣa đánh giá đƣợc tầm quan trọng của pháp luật và
môn GDCD. Do đó, nó tác động không nhỏ tới chất lƣợng giáo dục trong nhà
trƣờng nói chung và đối với học sinh nói riêng.
Để triển khai công tác giảng dạy GDPL trong môn học, đặc biệt là môn
GDCD lớp 12 ở trƣờng THPT Yên Phong số 1, tỉnh Bắc Ninh đáp ứng yêu cầu đào
tạo nhân lực cho đất nƣớc. Thì việc giảng dạy cần có sự vào cuộc và quan tâm của
toàn xã hội, ngành giáo dục và đặc biệt là đội ngũ trực tiếp giảng dạy môn GDCD
cần thƣờng xuyên tu dƣỡng, rèn luyện đạo đức nghề nghiệp, tinh thần trách nhiệm
và những kĩ năng trong việc thiết kế bài giảng có chất lƣợng, phƣơng pháp giảng
dạy hiệu quả nhằm trang bị tri thức và giúp học sinh, sinh viên hiểu đúng về pháp
luật hiện đại. Thúc đẩy HS tích cực trong học tập, nắm vững kiến thức cơ bản của
môn học, tạo cơ sở tiền đề vững chắc cho tƣơng lai. Và quan trọng hơn nữa, học
sinh phải biết áp dụng lý thuyết vào đời sống thực tiễn. Với những lý do trên, tôi
chọn đề tài: “Tích hợp giáo dục pháp luật trong dạy học môn Giáo dục công dân
lớp 12 ở trường trung học phổ thông Yên Phong số 1, tỉnh Bắc Ninh hiện nay” là
đề tài nghiên cứu khóa luận của bản thân.”

1


2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
* Nhóm công trình nghiên cứu khoa học ở nước ngoài
Giáo dục pháp luật là lĩnh vực đã từ lâu nhận đƣợc sự quan tâm của các nhà
khoa học, trong đó có các tác giả nƣớc ngoài. Một số công trình nghiên cứu tiêu

biểu nhƣ:
- Tháng 6/2006, tại Paris, Cộng hòa Pháp diễn ra Hội nghị toàn thể Ban chấp
hành Hội luật gia dân chủ quốc tế. Tại Hội nghị có một bài Hội thảo với chủ đề
“Giáo dục pháp luật trong thời đại toàn cầu hóa” (Legal Education in the Age of
Globalization) đã thu hút sự quan tâm của nhiều luật gia trên thế giới. Chủ đề tập
trung bàn luận về tính cấp thiết và các phƣơng thức GDPL cho các tầng lớp xã hội ở
mỗi quốc gia, chỉ ra nội dung GDPL[10].
- Súc Ni Lăn Đon Kun Lạ Vông, Giáo dục pháp luật trong các trường đào
tạo, bồi dưỡng của Bộ An ninh nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào [15]. Luận
án phân tích các vấn đề lý luận, thực tiễn về GDPL. Đồng thời, đề xuất một số giải
pháp nâng cao chất lƣợng GDPL trong đào tạo, bồi dƣỡng của Bộ An ninh nƣớc
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào.
- Jones Casey trong bài viết “Quan điểm liên môn - Ưu điểm, hạn chế và các
lợi ích tương lai của các nghiên cứu liên môn” (2009): “Nếu chỉ nhăm nhăm vào
kiến thức liên môn, tích hợp thì có thể rời xa kiến thức cốt lõi của môn học, vì khi
chú ý đến kiến thức liên môn, giáo viên sẽ chú ý đến phần giao nhau giữa các môn
học, mà phần giao ấy là nơi thể hiện ít hơn đặc trưng của môn học”[11].
* Nhóm công trình nghiên cứu khoa học ở Việt Nam
Xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn, Bí thƣ Trung ƣơng Đảng (2013), Chỉ thị số
32 - CT /TW đã chỉ rõ: “Phổ biến, giáo dục pháp luật là một bộ phận của công tác
giáo dục chính trị tư tưởn, giáo dục đạo đức”.
Nhìn chung, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề giáo dục
pháp luật nói chung và giáo dục pháp luật trong nhà trƣờng nói riêng nhƣ:
- Bộ Tƣ pháp (1995), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về giáo dục pháp luật
trong công cuộc đổi mới, Đề tài khoa học cấp Bộ [5].

2


- Hoàng Thị Kim Quế (2002), Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong

quản lý xã hội ở nước ta, Đề tài khoa học cấp Bộ [13].
- Lê Hồng Sơn (2004), Nâng cao chất lượng giáo dục pháp luật trong đào tạo
sỹ quan hậu cần hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học [14].
Cho đến nay có rất nhiều đề tài nghiên cứu xung quanh vấn đề về GDPL cho
mọi đối tƣợng. Ƣu điểm là các đề tài nghiên cứu có những cách tiếp cận và mục tiêu
khác nhau. Tuy nhiên, hầu hết các đề tài chỉ dừng lại ở mức nghiên cứu, vị trí và vai
trò của GDPL, phân tích thực trạng mang tính cấp bách của vấn đề mà chƣa có đề
tài nào tập trung nghiên cứu cụ thể trong dạy học môn GDCD lớp 12. Từ đó, tác giả
tiếp tục nghiên cứu: “Tích hợp giáo dục pháp luật trong dạy học môn GDCD lớp 12
ở trường THPT Yên Phong số 1, tỉnh Bắc Ninh hiện nay”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, khóa luận làm rõ thực trạng tích
hợp GDPL trong dạy học môn GDCD lớp 12 ở trƣờng THPT và khẳng định tính
cấp thiết, khả thi và hiệu quả của tích hợp GDPL. Từ đó, góp phần nâng cao hiệu
quả chất lƣợng dạy học, bồi dƣỡng ý thức pháp luật; tạo hứng thú cho HS nhằm đáp
ứng các yêu cầu về đổi mới giáo dục và đào tạo.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Để thực hiện đƣợc mục đích nghiên cứu nêu trên khóa luận tập trung nghiên
cứu những vấn đề sau:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của việc tích hợp giáo dục pháp luật
trong dạy học môn GDCD ở trƣờng trung học phổ thông.
- Xây dựng quy trình, điều kiện và thực nghiệm sƣ phạm dạy học tích hợp
GDPL trong dạy học môn GDCD ở trƣờng THPT Yên Phong số 1, tỉnh Bắc Ninh.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
- Nghiên cứu vấn đề dạy học tích hợp GDPL trong dạy học môn GDCD lớp 12 ở
trƣờng THPT Yên Phong số 1, tỉnh Bắc Ninh.
- Đối tƣợng là GV dạy môn GDCD và HS lớp 12 trƣờng THPT Yên Phong số 1,
tỉnh Bắc Ninh.


3


4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Về nội dung: Nghiên cứu vấn đề tích hợp giáo dục pháp luật trong dạy học
môn GDCD lớp 12 ở trƣờng THPT Yên Phong số 1, Bắc Ninh.
- Thời gian khảo sát: Đề tài này đƣợc khảo sát từ tháng 2/2019 đến tháng
4/2019.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài
Đề tài vận dụng phƣơng pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ
nghĩa duy vật lịch sử và sử dụng tổng hợp các phƣơng pháp nghiên cứu lý luận và
thực tiễn. Cụ thể:
- Sử dụng phƣơng pháp nghiên cứu lí luận: phân tích, tổng hợp, so sánh, hệ
thống hoá, khái quát hoá, trừu tƣợng hóa,…
- Sử dụng phƣơng pháp nghiên cứu thực tiễn: phƣơng pháp quan sát,
phƣơng pháp điều tra, phƣơng pháp phỏng vấn, trò chuyện, phƣơng pháp hỏi ý
kiến chuyên gia,...
6. Ý nghĩa của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận
-“Góp phần hệ thống hóa và làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn về tích hợp
giáo dục pháp luật trong dạy học môn GDCD lớp 12 ở trƣờng THPT Yên Phong số
1, Bắc Ninh.
- Phân tích thực trạng và điều kiện thực hiện quy trình tích hợp giáo dục pháp
luật trong dạy học môn GDCD lớp 12 ở trƣờng THPT Yên Phong số 1, Bắc Ninh.
- Tiến hành thực nghiệm tích hợp giáo dục pháp luật trong dạy học môn
GDCD lớp 12 ở trƣờng THPT Yên Phong số 1, Bắc Ninh.”
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Có thể sử dụng khóa luận làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và giảng
dạy môn GDCD lớp 12.

7. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung khóa luận
gồm 3 chƣơng, 9 tiết.

4


Chƣơng 1: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC TÍCH HỢP GIÁO DỤC PHÁP
LUẬT TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 12 Ở
TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG YÊN PHONG SỐ 1,
TỈNH BẮC NINH
1.1. Cơ sở lý luận của việc tích hợp giáo dục pháp luật trong dạy học môn Giáo
dục công dân ở trƣờng trung học phổ thông
1.1.1. Dạy học tích hợp
“Qúa trình dạy học là một chuỗi liên tiếp các hoạt động của ngƣời dạy và ngƣời
học đan xen, hỗ trợ với nhau trong khoảng không gian và thời gian nhất định, nhằm
thực hiện các nhiệm vụ dạy học. Hay nói cách khác, dạy học là quá trình thực hiện
các thao tác có tổ chức và định hƣớng giúp ngƣời học phát triển các năng lực, vận
dụng lý thuyết vào đời sống.”
Bàn về bản chất của quá trình dạy học xét theo hai góc độ:”
Thứ nhất, góc độ học sinh:“Quá trình phản ánh hiện thực vào não bộ kích
thích khả năng tìm hiểu và hoàn thiện vốn hiểu biết của mình. Đồng thời, hoạt động
đƣợc tổ chức dƣới sự hƣớng dẫn của GV, không tìm ra cái mới mà tái tạo lại chân
lí. Mặt khác, quá trình dạy học phụ thuộc vào tâm lý lứa tuổi và năng lực của HS để
tiến hành giáo dục.”
Thứ hai, góc độ GV:“GV đƣợc biết đến là ngƣời tổ chức và định hƣớng cho
HS thực hiện chuỗi hoạt động kích thích tính tự giác, tích cực học tập, sáng tạo của
HS. Từ đó, kiểm tra, đánh giá điều chỉnh và xác nhận kết quả học tập của HS.”
“Tích hợp có nghĩa là sự hợp nhất, sự hòa nhập, sự kết hợp. Nội hàm khoa
học khái niệm tích hợp có thể hiểu một cách khái quát là sự hợp nhất hay nhất thể

hóa các bộ phận khác nhau để đưa tới một đối tượng mới như là một thể thống nhất
trên những nét bản chất nhất của các thành phần đối tượng, chứ không phải là
phép cộng giản đơn những thuộc tính của các thành phần ấy”[6-tr.5].
“Dạy học tích hợp là hành động liên kết một cách hữu cơ, có hệ thống các đối
tượng nghiên cứu, học tập của một vài lĩnh vực môn học khác nhau thành nội dung
thống nhất, dựa trên cơ sở các mối liên hệ về lí luận và thực tiễn được đề cập đến
trong các môn học đó nhằm hình thành ở học sinh các năng lực cần thiết.

5


Trong dạy học tích hợp, học sinh dưới sự chỉ đạo của giáo viên thực hiện việc
chuyển đổi liên tiếp các thông tin từ ngôn ngữ của môn học này sang ngôn ngữ của
môn học khác; học sinh học cách sử dụng phối hợp các kiến thức, những kĩ năng và
những thao tác để giải quyết các tình huống phức hợp - thường là gắn với thực tiễn.
Chính nhờ quá trình đó, học sinh nắm vững kiến thức, hình thành khái niệm, phát
triển năng lực và các phẩm chất cá nhân.
Dạy học tích hợp là một quan điểm sư phạm, ở đó người học cần huy động mọi
nguồn lực để giải quyết một tình huống phức hợp – có vấn đề nhằm phát triển các
năng lực và phẩm chất cá nhân. Tuy nhiên, người ta cũng gọi là phương pháp dạy
học tích hợp, khi đó cần hiểu đó là một phương pháp dạy học phức hợp” [6-tr.9].
Nhƣ vậy, dạy học tích hợp có thể hiểu là GV lồng ghép nhiều nội dung có liên
quan đến bài học của môn học khác nhau kết hợp nhiều phƣơng pháp, phƣơng tiện dạy
học. Thông qua đó, giúp HS huy động mọi nguồn lực để giải quyết một tình huống
phức hợp nhằm phát triển các năng lực và hình thành phẩm chất cho mỗi cá nhân.
1.1.2. Giáo dục pháp luật
a) Giáo dục
Theo từ điển từ và ngữ Hán – Việt,“Giáo dục là quá trình hoạt động có ý thức,
có mục đích, có kế hoạch, có tổ chức nhằm bồi dưỡng cho người ta những phẩm
chất đạo đức và những tri thức cần thiết để người ta có khả năng tham gia mọi mặt

của đời sống xã hội”.
Nhƣ vậy, giáo dục đƣợc hiểu theo hai nghĩa:
Thứ nhất,“theo nghĩa rộng là quá trình tác động có mục đích, tổ chức, nội
dung,... thông qua các hoạt động học trên lớp kết hợp với hoạt động giao lƣu bên
ngoài nhằm hình thành cho ngƣời học lý tƣởng, động cơ, tình cảm, một số tích cách
của nhân cách, hành vi, thói quen và cách cƣ xử đúng đắn trong xã hội. Chẳng hạn
các hoạt động ngoại khóa nhƣ: báo cáo thời sự thực trạng pháp luật ở nƣớc ta hiện
nay, biễu diễn văn nghệ liên quan tới chủ đề ngoại khóa, thăm quan các khu di tích
lịch sử,.... đƣợc tổ chức ngoài giờ lên lớp nhằm tác động tích cực đến quá trình hình
thành và phát triển nhân cách của ngƣời học.”

6


Thứ hai,“giáo dục đƣợc hiểu theo nghĩa hẹp là quá trình hình thành nhân cách
cho ngƣời học thông qua các hoạt động trải nghiệm trên lớp dƣới sự định hƣớng của
ngƣời dạy.”
b) Pháp luật
“Vấn đề pháp luật có rất nhiều tác giả nghiên cứu và quan điểm khác nhau về
pháp luật. Trong đó, “Pháp luật Việt Nam là hệ thống các quy tắc xử sự do Nhà
nước Việt Nam ban hành hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của
đại đa số nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, được
quy định bởi cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn mới, là công cụ
chủ yếu điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm mục đích xây dựng một xã hội công
bằng, phồn thịnh và văn minh”[9–tr.60].
Tuy nhiên,“pháp luật có thể hiểu là hệ thống các quy tắc xử sự, là công cụ điều
chỉnh các quan hệ xã hội do Nhà nƣớc ban hành, thể hiện ý chí của giai cấp cầm
quyền và đƣợc thực hiện bằng các biện pháp cƣỡng chế của Nhà nƣớc. Mỗi hình
thái kinh tế - xã hội đều có một kiểu Nhà nƣớc và kiểu pháp luật tƣơng ứng.”
Dƣới góc độ lý luận, cho đến nay, vẫn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về

vai trò của pháp luật: “Có quan điểm cho rằng vai trò và giá trị cao nhất của pháp
luật là chức năng điều chỉnh các quan hệ xã hội của nó” [19-tr.130]; tác giả
Nguyễn Đình Đặng Lục khẳng định: “Với tư cách là những chuẩn mực, pháp luật
có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách”
[12-tr.83]; tác giả Vũ Anh Tuấn cho rằng: “Vai trò của pháp luật được thể hiện
bằng hoạt động xây dựng pháp luật được thể hiện bằng hoạt động xây dựng pháp
luật, thực hiện pháp luật, ý thức pháp luật cùng với hình thức thể hiện của pháp
luật” [18-tr.43];...
“Từ kết quả phân tích trên có thể chỉ ra rằng, vai trò của pháp luật đƣợc thông
qua bởi nhiệm vụ, chức năng và mối liên kết giữa cá nhân và xã hội. Xét góc độ nhà
nƣớc, pháp luật có vai trò là công cụ quản lý, điều hành bộ máy nhà nƣớc. Xét góc
độ cá nhân, pháp luật giữ vai trò là công cụ thực hiện quyền làm chủ của nhân dân
lao động. Từ đó, hƣớng tới xây dựng một nhà nƣớc bình đẳng; một môi trƣờng an

7


toàn, lành mạnh, yêu thƣơng; mọi công dân đều hình thành nhân cách, ý thức và
trách nhiệm đối với cộng đồng.”
c) “Giáo dục pháp luật”
“Khi bàn về giáo dục pháp luật có rất nhiều quan điểm khác nhau của các nhà
khoa học trên thế giới và Việt Nam.”Chẳng hạn nhƣ:
Vũ Thị Thu Thủy (2018), Quản lý giáo dục pháp luật cho học sinh các trường
trung học phổ thông trong bối cảnh hiện nay, Luận án tiến sĩ, Hà Nội cho rằng:
“Giáo dục pháp luật là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có chủ định của chủ
thể giáo dục tác động lên đối tượng giáo dục một cách có hệ thống và thường xuyên
nhằm mục đích hình thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm pháp luật và hành vi
phù hợp với các đòi hỏi của pháp luật hiện hành.
Giáo dục pháp luật cho học sinh trường trung học phổ thông là tác động có hệ
thống, có kế hoạch, có mục đích của các chủ thể giáo dục (hiệu trưởng, phó hiệu

trưởng, tổ trưởng chuyên môn... và các tổ chức chính trị xã hội trong và ngoài nhà
trường trung học phổ thông) đến học sinh trung học phổ thông nhằm trang bị cho
học sinh trình độ pháp luật nhất định, để từ đó có ý thức đúng đắn về pháp luật, tôn
trọng và tự giác ứng xử, xử sự theo yêu cầu của pháp luật”[17- tr. 25]
Thông tƣ số 32/2018/TT-BGDĐT ngày 26/12/2018 của Bộ trƣởng Bộ Giáo dục
và Đào tạo về chƣơng trình GDPT môn GDCD: “Giáo dục pháp luật là quá trình tác
động sư phạm có mục đích, có kế hoạch giúp học sinh có ý thức, hành vi phù hợp với
quy định của pháp luật; có tri thức phổ thông, cơ bản, thiết thực đối với đời sống và
định hướng nghề nghiệp về pháp luật, trên cơ sở đó hình thành, phát triển các phẩm
chất chủ yếu và năng lực cốt lõi của người công dân Việt Nam, đáp ứng nhu cầu phát
triển cá nhân và thực hiện quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân”.
“Có thể nói, giáo dục pháp luật, tuyên truyền, phổ biến pháp luật giữ vị trí và
vai trò đặc thù riêng. Song, giáo dục pháp luật bao hàm cả tuyên truyền và phổ
biến pháp luật nhằm nâng cao ý thức pháp luật. Bởi lẽ, so với tuyên truyền, phổ
biến thì giáo dục cũng nhằm nâng cao nhận thức, tình cảm song nội dung rộng
hơn, phƣơng thức tiến hành chặt chẽ hơn, đối tƣợng xác định hơn, mục đích lớn

8


hơn. Xét dƣới góc độ nhất định thì tuyên truyền, phổ biến chính là các phƣơng
thức giáo dục cụ thể.”
“Tóm lại, giáo dục pháp luật là một dạng hoạt động có mục đích, có tính định
hƣớng của con ngƣời, tác động lên các đối tƣợng giáo dục nhằm đạt kết quả cuối
cùng - đó là hình thành tri thức pháp luật, tình cảm đối với pháp luật và hành vi xử
sự phù hợp với pháp luật hiện hành.”
1.1.3.Tích hợp giáo dục pháp luật trong dạy học môn Giáo dục công dân lớp
12 ở trường trung học phổ thông
“Có thể nói, môn Giáo dục Công dân ở trƣờng trung học phổ thông có vai trò
trực tiếp trong quá trình hình thành ý thức, hành vi đạo đức, pháp luật và lối sống cho

học sinh. Nhìn tổng thể, đây đƣợc coi là môn học có đặc điểm nổi bật là gần với con
ngƣời và xã hội. Đặc điểm đó khiến môn Giáo dục Công dân có những lợi thế nhất
định để định hƣớng giáo dục pháp luật cho các em học sinh. Cụ thể, môn GDCD có
năm phần, trong đó, chƣơng trình GDCD lớp 12 với chủ đề Công dân với pháp luật
bao gồm các bài sau:”
“Bài 1: Pháp luật và đời sống
Bài 2: Thực hiện pháp luật
Bài 3: Công dân bình đẳng trƣớc pháp luật
Bài 4: Quyền bình đẳng của công dân trong một số lĩnh vực của đời sống xã hội
Bài 5: Quyền bình đẳng giữa các dân tộc, tôn giáo
Bài 6: Công dân với các quyền tự do cơ bản
Bài 7: Công dân với các quyền dân chủ
Bài 8: Pháp luật với sự phát triển của công dân
Bài 9: Pháp luật với sự phát triển bền vững của đất nƣớc
Bài 10: Pháp luật với hòa bình và sự phát triển tiến bộ của nhân loại
“Tích hợp giáo dục pháp luật trong dạy học môn Giáo dục Công dân lớp 12 là
lồng ghép pháp luật vào trong môn học, xác định mục đích rõ ràng, cụ thể thông qua
các hoạt động trải nghiệm, hƣớng dẫn học sinh hiểu đƣợc bản chất, vai trò của pháp
luật cũng nhƣ đặc thù của môn học. Từ đó, tạo niềm tin, hứng thú cho học sinh;
hình thành tri thức và hành vi phù hợp.”

9


Sơ đồ khái quát cơ chế của giáo dục pháp luật:
Động cơ

Mục đích

Hoạt động


“Qúa trình tích hợp giáo dục pháp luật trong dạy học môn GDCD lớp 12 tác
động vào hai đối tƣợng:”
“Thứ nhất, đối với học sinh: Đây là đối tƣợng chịu tác động trực tiếp trong
quá trình giáo dục. Đẩy mạnh giáo dục pháp luật trong dạy học môn Giáo dục Công
dân lớp 12 theo hƣớng tích hợp gắn với thực tiễn tạo sức hấp dẫn, thu hút sự chú ý
của HS, có ƣu thế trong việc tạo ra động cơ, hứng thú học tập cho HS.Thông qua
các nội dung tích hợp, tăng cƣờng cho HS tinh thần chủ động, linh hoạt, làm chủ
kiến thức và biết vận dụng kiến thức tổng hợp vào giải quyết các tình huống pháp
luật thực tế. Đồng thời, các hoạt động trải nghiệm giúp HS phát huy vị trí và vai trò
trung tâm của mình dƣới sự định hƣớng của GV. ”
“Thứ hai, đối với giáo viên: Mặc dù việc tích hợp giáo dục pháp luật trong dạy
học môn GDCD lớp 12 gây khó khăn lớn trong việc trang bị lƣợng kiến thức pháp
luật khổng lồ, dành nhiều thời gian và công sức trong việc đầu tƣ giáo án nhƣng đây
chỉ là bƣớc đầu tiên của quá trình. Thực chất, GV thƣờng xuyên phải trang bị kiến
thức chuyên môn, học hỏi kiến thức và phƣơng pháp tích cực. Việc cần làm lúc này là
vận dụng kiến thức đó vào xây dựng bài học, xác định năng lực hƣớng tới hình thành
cho HS, bản chất và nội dung pháp luật cốt lõi,.... sắp xếp thành một hệ thống lôgic.
Khi đó, GV không phải là ngƣời truyền thụ kiến thức pháp luật cho HS mà là ngƣời
tổ chức, định hƣớng và kiểm tra HS tiếp cận lĩnh hội tri thức.”
1.2. Cơ sở thực tiễn của việc tích hợp giáo dục pháp luật trong dạy học môn
Giáo dục công dân lớp 12 ở trƣờng trung học phổ thông Yên Phong số 1, tỉnh
Bắc Ninh hiện nay”
1.2.1. Khái quát về trường trung học phổ thông Yên Phong số 1, tỉnh Bắc Ninh”
“Trƣờng THPT Yên Phong số 1 thành lập năm 1963, tại thị trấn Chờ (Yên
Phong). Là một trong số vùng đất học nức tiếng ở Việt Nam. Cũng vì những lợi thế

10



riêng có, trƣờng đã thu hút đƣợc nhiều giáo viên khắp nƣớc đến công tác, rồi sinh
cơ lập nghiệp tại Yên Phong, coi Yên Phong là quê hƣơng thứ 2. Hiện nay, trƣờng
THPT Yên Phong số 1 có 122 cán bộ giáo viên. Cụ thể nhƣ sau: Ban giám hiệu có 4
ngƣời (một hiệu trƣởng và ba hiệu phó) đều có bằng thạc sĩ; 8 cán bộ hành chính,
hơn 100 giáo viên (trong đó có 45 giáo viên đã có bằng thạc sĩ, 20 giáo viên khác
đang là học viên cao học). Có thể nói, tỉ lệ giáo viên của trƣờng đã và đang học cao
học đứng đầu trong tỉnh Bắc Ninh, toàn trƣờng có khoảng 50 đến 60 giáo viên đạt
giáo viên giỏi cấp tỉnh nhiều năm liền; giáo viên dạy giỏi cấp trƣờng khoảng 50 - 60
ngƣời/năm.”
“Về cơ sở vật chất, hiện trƣờng đƣợc xây dựng trên quỹ đất có diện tích 1,3 ha
bao gồm: một khu hiệu bộ (2 tầng); một nhà A (3 tầng) dành cho các lớp khối
10,11; một nhà B (5 tầng) dành cho các lớp khối 10, 11 còn lại,các lớp khối 12, thƣ
viện đọc, thƣ viện điện tử, 4 phòng chức năng (lí, hóa, sinh, tin), 2 phòng tin học và
phòng của các tổ chuyên môn; một nhà đa năng (1 tầng) dành cho học sinh học giáo
dục thể chất, tổ chức các hội thi, văn nghệ,.... Trƣờng có 45 lớp học và đều đƣợc
trang bị hệ thống máy chiếu, bảng thông minh và camera, ngoài ra camera còn đƣợc
trang bị ngoài cổng và nhiều phòng chức năng để đảm bảo an ninh.”
“Nhìn chung, toàn trƣờng có hơn hai nghìn học sinh thì tỉ lệ học sinh khá và
giỏi đạt 97,5 %, có 98% học sinh đạt hạnh kiểm khá trở lên. Đặc biệt, từ năm 2009 2013, trƣờng liên tục nằm trong tốp 200 trƣờng THPT có điểm thi ĐH cao nhất toàn
quốc; liên tục dẫn đầu hoặc trong tốp dẫn đầu tỉnh về kết quả thi giáo viên, học sinh
giỏi cấp tỉnh.... Riêng năm 2013, thống kê bƣớc đầu có 83% học sinh đỗ ĐH, CĐ
trong đó đỗ ĐH nguyện vọng 1 chiếm tới 69,8%. Bên cạnh đó, nhà trƣờng đã gặt hái
nhiều thành tích tiêu biểu nhƣ: nhiều năm đạt danh hiệu “Lá cờ đầu” khối các trƣờng
THPT toàn Hà Bắc; năm học 2000- 2001 đƣợc Chủ tịch nƣớc thƣởng Huân chƣơng
Lao động hạng Nhì; năm học 2009 - 2010 đƣợc UBND tỉnh công nhận Tập thể Lao
động xuất sắc; năm học 2010 - 2011 đƣợc Bộ GD - ĐT tặng cờ thi đua xuất sắc; năm
học 2011 - 2012 đƣợc Chính phủ tặng cờ thi đua xuất sắc; năm học 2012 - 2013 đƣợc
UBND tỉnh công nhận Tập thể Lao động xuất sắc và đƣợc Chủ tịch nƣớc tặng thƣởng

11



Huân chƣơng Lao động hạng nhất.... Trƣờng THPT Yên Phong số 1 từng bƣớc khẳng
định chất lƣợng giáo dục của nhà trƣờng, là địa chỉ tin cậy, là điểm sáng trong bức
tranh giáo dục tỉnh Bắc Ninh.”
1.2.2. Thực trạng ý thức pháp luật của học sinh THPT hiện nay”
“Có thể nói, lứa tuổi học sinh THPT đƣợc đánh giá là lứa tuổi có nhiều chuyển
biến mạnh mẽ, ƣa thích sự khám phá, mới lạ; là thời kì dần hoàn thiện quá trình
phát triển nhân cách và trí tuệ của cá nhân; là lứa tuổi dễ chịu sự tác động của các
yếu tố bên ngoài (đặc điểm về sự phát triển thể chất, điều kiện sống và hoạt động).”
“Học sinh THPT còn đƣợc gọi là tuổi thanh niên, đây đƣợc coi là giai đoạn
phát triển bắt đầu từ lúc dậy thì và kết thúc khi bƣớc vào tuổi ngƣời lớn. Tuổi thanh
niên đƣợc tính từ 15 đến 25 tuổi, đƣợc chia làm 2 thời kì:
+ Thời kì từ 15 - 18 tuổi: gọi là tuổi đầu thanh niên.
+ Thời kì từ 18 - 25 tuổi: giai đoạn hai của tuổi thanh niên”.
“Tuổi học sinh THPT là thời kỳ trƣởng thành về mặt cơ thể. Ngƣời ta hay nói:
“Tuổi 17 bẻ gãy sừng trâu”. Chính sự phát triển mạnh mẽ về thể chất, đồng thời tâm
lý và nhân cách của các em học sinh cũng có sự phát triển. Một trong những yếu tố
tác động đến tâm lý lứa tuổi học sinh là điều kiện sống và hoạt động. Mỗi một điều
kiện sống và hoạt động các em lại có vị trí và trách nhiệm riêng phù hợp với từng
môi trƣờng. Chẳng hạn, trong gia đình lúc này em đƣợc mang cho mình quyền lợi
và trách nhiệm nhƣ ngƣời lớn, cha mẹ bắt đầu trao đổi với các em mọi vấn đề trong
gia đình. Từ đó, các em dần hình thành tinh thần trách nhiệm trong công việc, bắt
đầu quan tâm đến nề nếp, lối sống sinh hoạt và điều kiện của gia đình. Bên cạnh đó
trong nhà trƣờng, học tập vẫn là hoạt động chủ đạo nhƣng tính chất và mức độ cao
hơn so với lứa tuổi thiếu niên. Lúc này, bản thân đòi hỏi các em tự giác, tích cực
độc lập hoạt động, làm chủ kiến thức và vận dụng tri thức một cách sáng tạo, khoa
học.Ví dụ nhƣ: Thông qua nội dung bài 2 “Thực hiện pháp luật” môn GDCD các
em sẽ hình thành và ý thức đƣợc trách nhiệm của công dân trong xã hội, đồng thời
thực hiện đúng và tuân thủ quy định của pháp luật (đội mũ bảo hiểm khi tham gia

giao thông, đi nghĩa vụ quân sự theo quy định, nộp thuế,…).”

12


“Trong quá trình phát triển của bản thân, tự ý thức đƣợc đánh giá khá cao
trong quá trình phát triển nhân cách. Theo đó, các em có nhu cầu tìm hiểu và tự
đánh giá những đặc điểm tâm lý của mình theo chuẩn mực đạo đức xã hội, mục đích
cuộc sống. Lúc này, xuất hiện cái “tôi” trong bản thân các em. Các em không chỉ
nhận thức rõ cái tôi của mình mà còn nhận thức về vị trí của mình trong xã hội.
Theo lẽ đó, ý thức làm ngƣời lớn khiến các em có nhu cầu khẳng định mình, muốn
thể hiện cá tính của mình một cách độc lập, muốn ngƣời khác quan tâm, chú ý đến
mình…. Chẳng nói đâu xa, trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh “thƣờng xuyên” xuất hiện
cảnh một nhóm nữ sinh (3 đến 5 ngƣời) tham gia đánh bạn, xé quần áo một bạn nữ
và quay clip lên mạng xã hội để khẳng định vị trí “đàn anh” của mình. Mà các đối
tƣợng vi phạm thƣờng rơi vào học sinh khối 11, 12 ở trƣờng THPT. Sự việc này,
một phần cho thấy những học sinh tham gia đánh bạn chƣa hiểu hết giá trị yêu
thƣơng, tôn trọng con ngƣời, thậm chí bị lệch lạc về tƣ tƣởng, nhận thức. Đồng thời,
các em coi việc xé quần áo,làm nhục ngƣời khác làm thú vui và muốn khẳng định
chính mình. Vấn đề bạo lực học đƣờng hiện đã và đang diễn ra phổ biến ở trƣờng
học. Nó giống nhƣ một loại virút sẵn sàng hủy hoải phẩm chất và nhân cách của con
ngƣời. Hiện nay, các trƣờng THPT nói chung và trƣờng THPT Yên Phong 1, Bắc
Ninh nói riêng ta sẽ không ít nhiều chứng kiến cảnh tan trƣờng hoặc đến trƣờng HS
không đội mũ bảo hiểm, đi hàng ba, bốn, đèo ba bạn trên xe đạp điện khi tham gia
giao thông. Một tâm lý chung của các em là “ngại” đội mũ bảo hiểm vì cho rằng nó
xấu, nặng đầu hoặc muốn thể hiện bản thân. Mặc dù, trƣờng THPT Yên Phong số
1,Bắc Ninh rất tạo điều kiện, thƣờng xuyên phổ biến và đƣa ra hình phạt nghiêm
khắc đối với HS nhƣng hàng năm số lƣợng vụ tai nạn giao thông xảy ra không ít.
Do vậy, cần phải có sự vào cuộc của các cơ quan có thẩm quyền và toàn xã hội.
Một mặt, ngƣời lớn phải lắng nghe ý kiến của các em, mặt khác phải giúp các em

hình thành đƣợc biểu tƣợng khách quan về nhân cách của mình nhằm giúp cho sự tự
đánh giá của các em đƣợc đúng đắn hơn, tránh những lệch lạc, phiến diện trong tự
đánh giá. Cần tổ chức hoạt động của tập thể cho các em có sự giúp đỡ, kiểm tra lẫn
nhau để hoàn thiện nhân cách của bản thân. ”

13


“Vì vậy, nhà trƣờng, gia đình và xã hội cần phải liên kết mật thiết với nhau,
hợp tác và giúp đỡ nhau trong việc giáo dục nhân cách cho HS; kịp thời động viên
và quan tâm HS khi chúng có những biểu hiện lạ. Tránh trƣờng hợp thƣơng tâm nhƣ
nữ sinh lớp 12 Nguyễn Thị V. A trƣờng THPT Thuận Thành số 2, Bắc Ninh nhảy
cầu tự tử và hiện đang tạm giữ nghi phạm hiếp dâm. Ngày 14/4/2019, Hiếu đi ăn
hội cùng bạn bè ở huyện Thuận Thành và gặp Nguyễn Thị V. A. Sau đó, Hiếu rủ nữ
sinh đi uống nƣớc và chở thẳng vào nhà nghỉ Bắc Hà. Tại đây, Hiếu có hành vi sờ
soạng, kéo quần V. A để cƣỡng bức nhƣng nữ sinh chống cự nên Hiếu chƣa thực
hiện đƣợc hành vi của mình. Quân cùng 2 ngƣời bạn đến cứu V. A trong tình trạng
nữ sinh quần áo xộc xệch và đang khóc. Mặc dù 2 nhóm đã gặp nhau và Hiếu đã xin
lỗi V. A nhƣng do tâm lý hoảng loạn, lo sợ, xấu hổ với bản thân và gia đình, thiếu
kiến thức về pháp luật, ngại chia sẻ cho ngƣời thân V. A quyết định gieo mình
xuống cầu tự vẫn.”
1.2.3. Thực trạng giáo dục pháp luật trong dạy học môn Giáo dục công dân
lớp 12 ở trường THPT Yên Phong số 1, tỉnh Bắc Ninh”
Môn GDCD là môn học thuộc khoa học xã hội và nằm trong chƣơng trình
chính khóa của nhà trƣờng nhằm hình thành thế giới quan, nhân sinh quan ở ngƣời
học. Trang bị cho học sinh những hiểu biết tri thức, hình thành thái độ, tình cảm,
lòng tin đối với đƣờng lối của Đảng và tự giác chấp hành chính sách pháp luật của
nhà nƣớc. Từ đó, hình thành hành vi đúng đắn, có khả năng điều chỉnh cuộc sống
cho phù hợp với yêu cầu xã hội.
Trong quá trình đổi mới, nhận thức đƣợc tầm quan trọng của giáo dục pháp

luật, Bộ giáo dục & Đào tạo tiến hành nghiên cứu và quyết định đƣa giáo dục pháp
luật vào trong chƣơng trình dạy học, cụ thể là môn Giáo dục Công dân. Ở cấp
Trung học phổ thông, môn Giáo dục công dân đƣợc dạy cả 3 khối lớp (khối lớp
10,11 và 12) với thời lƣợng 35 tiết/ khối lớp, trong đó tập trung vào lớp 12. Nội
dung chƣơng trình dạy chú trọng vào vị trí, vai trò, bản chất của pháp luật từ đó
giúp học sinh hình thành tri thức, hình thành nhân cách; rèn luyện phẩm chất tốt;
điều chỉnh hành vi xử sự phù hợp với pháp luật;…Tuy nhiên, thực tế việc giảng dạy

14


hiện nay đối với môn học này ở trƣờng THPT Yên Phong số 1,tỉnh Bắc Ninh còn
nhiều bất cập. Cụ thể nhƣ sau:
Một là, cơ chế chính sách cho cán bộ, giáo viên giảng dạy môn còn chƣa đƣợc
thoả đáng. Do vậy chƣa có động lực thúc đẩy cán bộ giáo viên tâm huyết với nghề,
chƣa thực sự đầu tƣ, trí tuệ và công sức trong giảng dạy.
Hai là, sách giáo khoa để giảng dạy còn mang tính hình thức, nội dung môn
học chƣa phong phú đa dạng (chƣa bổ sung tính thời sự các vụ án, các vi phạm phổ
thông), chƣa có tính thực tế cao, do vậy gây ra tâm lý thụ động và nhàm chán của
học sinh; nội dung môn học chƣa hợp lý,....
Ba là, mặc dù hiện nay môn GDCD đã đƣợc đƣa vào kỳ thi THPT Quốc gia
nhƣng rất nhiều các lực lƣợng nhƣ: lãnh đạo quản lý, đội ngũ giáo viên, đại đa số
phụ huynh, đặc biệt là học sinh ở trƣờng THPT Yên Phong số 1, tỉnh Bắc Ninh
quan niệm coi đó chỉ là môn phụ nên ý thức học tập trong môn học còn chƣa cao,
tình trạng học để qua môn, học để thi, học đối phó là phổ biến. Thực tế, qua quan
sát các tiết dự giờ GDCD lớp 12 cho thấy lớp học còn trầm, ít những cánh tay giơ
lên phát biểu ý kiến, có một số học sinh tỏ ra không quan tâm đến nội dung môn
học dẫn tới làm việc riêng trong giờ, khi cô giáo tiến hành kiểm tra bài cũ các em tỏ
ra lúng túng hoặc chƣa mạnh dạn xung phong lên bảng,…. Trƣớc tình hình trên, tôi
tiến hành tìm hiểu điều tra bằng phiếu điều tra ở lớp 12A2 và 12A14 trƣờng THPT

Yên Phong số 1, tỉnh Bắc Ninh. Kết quả đạt đƣợc cho thấy (phụ lục 1):
- Tỉ lệ học sinh hứng thú học tập môn GDCD chiếm 26%; tỉ lệ học sinh không
hứng thú học tập môn GDCD chiếm 19,2 % và đại đa số học sinh cảm thấy bình
thƣờng (chiếm 54,8%).
- Tỉ lệ GV thi thoảng tổ chức các hoạt động lồng ghép tình huống pháp luật
trong nội dung bài học môn GDCD chiếm 100%.
- Tỉ lệ học sinh không học ở nhà môn GDCD chiếm 64,4% và số lƣợng học
sinh học ở nhà môn GDCD ít (chiếm 35,6%).
- Tỉ lệ học sinh rất thích cô giáo tổ chức các hoạt động lồng ghép tình huống
pháp luật trong nội dung bài học môn GDCD chiếm 77,9% và còn lại là tỉ lệ học
sinh tỏ ra thích chiếm 22,1%.

15


- Đại đa số học sinh chọn nội dung tuyên truyền, phổ biến đƣợc nhà trƣờng
tập trung vào các lĩnh vực an toàn giao thông và tệ nạn xã hội (ma túy, mại dâm,
cờ bạc,…).
-Tìm hiểu mức tiếp cận các quy định của pháp luật, 100% học sinh dừng lại ở
mức độ khi gặp phải vấn đề cần giải quyết liên quan đến pháp luật mới tìm hiểu.
Kết quả khảo sát phản ánh phần nào thực trạng học tập và giảng dạy môn
GDCD ở trƣờng THPT Yên Phong số 1, Bắc Ninh hiện nay. Thực tế chỉ ra rằng, chất
lƣợng học tập của HS trƣớc đây là không cao. Mặc dù, năm 2016 Bộ Giáo dục và
Đào tạo chính thức công bố phƣơng án thi, xét tuyển và tuyển sinh THPT quốc gia
năm 2017, theo đó môn GDCD chính thức đƣợc dùng để thi dƣới dạng tổ hợp cùng
với hai môn Lịch sử và Địa lý. Khi đó, cấu trúc và đặc trƣng đề thi theo 3 mức độ:
nhận biết, thông hiểu, vận dụng (vận dụng thấp và vận dụng cao). Công tác chuẩn bị
đƣợc GV và HS chú trọng hơn. GV có nhiều cố gắng trong việc đầu tƣ các bài giảng
nhằm trang bị kiến thức và nâng cao ý thức PL cho HS. Tuy nhiên, HS mang nặng tƣ
tƣởng học và thi để đối phó ( đặc biệt là HS chú trọng môn thi Cao đẳng, Đại học),

thụ động, ý thức PL và vận dụng lý thuyết vào thực tế cuộc sống kém.
Mặt khác, qua quá trình tìm hiểu tôi đƣợc biết nhà trƣờng hiện nay đã thành
lập Câu lạc bộ sách và hành động THPT Yên Phong số 1 nhằm đáp ứng nhu cầu
đọc sách, tìm hiểu tài liệu của học sinh. Tuy nhiên, lƣợng sách tham khảo liên quan
đến các lĩnh vực giáo dục pháp luật (có khoảng 5 đến 7 quyển), sách tham khảo
môn GDCD (không có), sách kĩ năng sống rất ít. Trong khi đó, lƣợng sách tham
khảo dành cho các môn nhƣ: Toán, Lí, Hóa, Anh,… nhiều hơn và dễ dàng tìm thấy
trên các tủ sách. Không chỉ vậy, trƣờng THPT Yên Phong số 1 nói riêng và một số
trƣờng THPT khác nói chung xuất hiện “trào lƣu” đẩy nhanh tiến độ tiết dạy để kết
thúc môn học sớm nhƣờng chỗ cho các môn thi chính. Có thể nói, kết quả điều tra
phản ánh phần nào thực trạng nhận thức về giáo dục pháp luật và vị trí của môn
GDCD của lãnh đạo quản lý, đội ngũ giáo viên, đại đa số phụ huynh, đặc biệt là học
sinh ở trƣờng THPT Yên Phong số 1, tỉnh Bắc Ninh.
Bốn là, số lƣợng tiết học ít (1 tiết/ tuần), lực lƣợng giáo viên thì mỏng (3 giáo
viên phụ trách dạy môn GDCD, mỗi giáo viên phụ trách giảng dạy 13,14 lớp, thậm

16


×