Tải bản đầy đủ (.pdf) (61 trang)

Khảo sát hệ thống từ ngữ chỉ màu sắc trong thơ vương duy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 61 trang )

TRƢỜNG ĐAI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
===o0o===

LÊ THỊ THANH HUYỀN

KHẢO SÁT
HỆ THỐNG TỪ NGỮ CHỈ MÀU SẮC
TRONG THƠ VƢƠNG DUY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Hán Nôm

HÀ NỘI - 2019


TRƢỜNG ĐAI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
===o0o===

LÊ THỊ THANH HUYỀN

KHẢO SÁT
HỆ THỐNG TỪ NGỮ CHỈ MÀU SẮC
TRONG THƠ VƢƠNG DUY
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Hán Nôm
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:

TS. Nguyễn Thị Hải Vân


HÀ NỘI - 2019


LỜI CẢM ƠN

Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo
TS. Nguyễn Thị Hải Vân - ngƣời trực tiếp hƣớng dẫn, chỉ bảo tận tình giúp
tôi hoàn thành khóa luận này.
Tôi cũng xin đƣợc gửi lời cảm ơn tới tất cả các thầy cô giáo trong khoa
Ngữ Văn, đặc biệt là các thầy cô trong tổ Văn học Việt Nam đã giúp đỡ và tạo
mọi điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành khóa luận
Khóa luận đƣợc hoàn thành song không tránh khỏi những hạn chế,
thiếu sót. Tôi rất mong nhận đƣợc những ý kiến đóng góp từ phía thầy cô và
các bạn để đề tài nghiên cứu của chúng tôi tiếp tục đƣợc hoàn thiện. Tôi xin
trân trọng cảm ơn.
Hà Nội, ngày 08 tháng 05 năm 2019
Ngƣời thực hiện

Lê Thị Thanh Huyền


LỜI CAM ĐOAN
Khóa luận tốt nghiệp này đƣợc hoàn thành dƣới sự hƣớng dẫn của TS.
Nguyễn Thị Hải Vân. Tôi xin cam đoan rằng:
Đây là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, kết quả này không trùng với
kết quả của bất kì tác giả nào đã đƣợc công bố.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 08 tháng 05 năm 1019
Ngƣời thực hiện


Lê Thị Thanh Huyền


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài...................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ......................................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu ............................................................................... 3
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu ............................................................... 3
5. Nhiệm vụ đề tài ....................................................................................... 4
6. Phƣơng pháp nghiên cứu ......................................................................... 4
7. Cấu trúc khóa luận................................................................................... 4
NỘI DUNG .................................................................................................... 5
CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG .................................................... 5
1.1. Vƣơng Duy: thi hào tinh thông hội họa ................................................ 5
1.1.1. Vương Duy - một nhà thơ nổi tiếng................................................. 5
1.1.2. Vương Duy - một họa sĩ tài ba ........................................................ 7
1.1.3. Vương Duy họa sĩ luôn đi liền với Vương Duy thi sĩ ....................... 8
1.2. Màu sắc trong hội họa và hội họa Trung Hoa ....................................... 9
1.2.1. Những màu sắc có trong nghệ thuật hội họa .................................. 9
1.2.2. Màu sắc sử dụng trong hội họa Trung Hoa .................................. 11
1.3. Từ chỉ màu sắc trong tiếng Hán .......................................................... 17
1.3.1. Từ chỉ màu sắc đơn âm tiết........................................................... 17
1.3.2. Từ chỉ màu sắc đa âm tiết ............................................................. 18
Chƣơng 2. KHẢO SÁT TỪ CHỈ MÀU SẮC TRONG THƠ VƢƠNG DUY .... 22
2.1. Số từ chỉ màu sắc trong thơ Vƣơng Duy ............................................. 22
2.1.1. Các từ chỉ màu trắng trong các bài thơ của Vương Duy............... 22
2.1.2. Các từ chỉ màu xanh trong thơ Vương Duy .................................. 24
2.1.3.Các từ ngữ chi những màu khác .................................................... 26
2.2. Tần số xuất hiện từ chỉ màu sắc trong thơ Vƣơng Duy ....................... 28



2.3. Chức năng ngữ pháp của từ chỉ màu sắc trong thơ Vƣơng Duy .......... 32
2.3.1. Cách sử dụng cụm từ trong thơ Vương Duy.................................. 32
2.3.2 Chức năng của tính từ chỉ màu sắc trong câu................................ 35
Chƣơng 3. GIÁ TRỊ BIỂU ĐẠT CỦA CÁC TỪ NGỮ CHỈ MÀU SẮC
TRONG THƠ VƢƠNG DUY ...................................................................... 38
3.1. Giá trị của các từ chỉ màu sắc trong việc xây dựng bức tranh thiên nhiên . 38
3.1.1. Những bức tranh sơn thủy điền viên với những màu sắc tươi tắn . 38
3.1.2. Những bức tranh sơn thủy điền viên với màu sắc thanh đạm ........ 41
3.2. Giá trị của các từ chỉ màu sắc trong việc thể hiện con ngƣời
Vƣơng Duy ............................................................................................... 45
3.2.1. Một hồn thơ nhạy cảm, tinh tế, giàu tình yêu thiên nhiên .............. 45
3.2.2. Một nỗi lòng mang nhiều tâm sự .................................................. 48
KẾT LUẬN .................................................................................................. 53
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 55


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trung Quốc là một đất nƣớc nổi tiếng với nền văn học đồ sộ có từ lâu
đời. Thơ ca đời Đƣờng (618 - 907) đã đóng góp một vị trí quan trọng trong
nền văn học ấy. Những thành tựu thơ ca đời Đƣờng đã tạo nên thời đại hoàng
kim của lịch sử phát triển thơ ca trong xã hội phong kiến Trung Quốc. Nhà
Đông phƣơng học Murdoch đã nhận xét về thơ ca đời Đƣờng nhƣ sau: “Thời
đó, hiển nhiên Trung-Hoa đứng đầu các dân tộc văn minh trên thế giới. Đế
quốc ấy hùng cƣờng nhất, văn minh nhất, thích sự tiến bộ nhất và đƣợc cai trị
tốt nhất thế giới. Chƣa bao giờ nhân loại đƣợc thấy một nƣớc khai hóa phong
tục đẹp đẽ nhƣ vậy…” [3;18].
Quá trình hình thành và phát triển của thơ ca đời Đƣờng gắn bó chặt

chẽ với sự thống trị Trung Quốc suốt gần 300 năm của nhà Đƣờng (618 - 907)
đã để lại số lƣợng tác phẩm vô cùng đồ sộ. Ngày nay, bộ Toàn Đường thi ấn
hành dƣới thời Khang Hy ta thấy gồm 900 quyển, 30 tập với gần 500 vạn bài
thơ của hơn 2300 nhà thơ, trong đó Lí Bạch, Đỗ Phủ, Vƣơng Duy, v.v… là
những nhà thơ lớn nổi tiếng thế giới.
Sự phồn vinh của văn học Đƣờng không chỉ bởi số lƣợng các tác phẩm
đồ sộ mà còn do nội dung và hình thức sáng tác của các nhà thơ thời kì này đã
có sự chuyển biến mạnh mẽ. Về nội dung đã thay vì đi sâu khám phá cái rỗng
tuếch nghèo nàn của văn học quý tộc mà đã bắt đầu hƣớng đến cuộc sống quý
tộc phong phú rộng rãi đồng thời kết hợp đƣợc nhiều ngành nghệ thuật vào
trong thơ ca nhƣ trong thơ có nhạc, trong thơ có họa, có điêu khắc,… Về mặt
hình thức đã có nhiều phát triển mới mẻ, sáng tạo. Trong số các nhà thơ đó
không thể không kể đến Vƣơng Duy - một nhà thơ có tầm ảnh hƣởng sâu
rộng. Ông đƣợc đánh giá là một trong bốn “ngôi sao sáng chói” của thơ ca đời
Đƣờng (cùng với Lí Bạch, Đỗ Phủ và Bạch Cƣ Dị).

1


Vốn đƣợc tôn là tổ sƣ của họa phái Nam Tông là “Văn nhân họa” nên
trong thơ Vƣơng Duy những câu thơ kết hợp với hội họa đƣợc sử dụng rất
nhiều. Trong thơ Vƣơng Duy, những nét chấm phá của tranh thủy mặc là
những dòng thơ đơn giản lạ kì nhƣng lại không mất đi vẻ trang trọng, mĩ lệ.
Dù Vƣơng Duy là một con ngƣời đa tài: đàn hay, vẽ giỏi, chữ đẹp, văn
chƣơng xuất chúng nhƣng ngƣời đời biết đến Vƣơng Duy nhiều nhất là một
Vƣơng Duy họa sĩ luôn đi liền với một Vƣơng Duy thi sĩ của núi rừng cây cỏ.
Chính vì vậy mà câu thơ “Khi xem tranh của Duy Ma Cật ta thấy gồm cả một
bài thơ. Khi đọc thơ Duy ma Cật ta còn thấy gồm cả một bức tranh” của Tô
Thức đã trở thành câu nói cửa miệng để mọi ngƣời ca ngợi Vƣơng Duy.
Thơ của Vƣơng Duy đã vƣợt qua 10 thế kỉ để tồn tại cho đến ngày nay,

nó không chỉ có chỗ đứng trong nền văn chƣơng Trung Quốc mà nó còn có
ảnh hƣởng rất lớn đến văn chƣơng trong khu vực nói riêng và Việt Nam nói
chung. Vƣơng Duy là tác giả đƣợc đƣa vào dạy trong chƣơng trình Ngữ văn
THPT hiện hành. Vì vậy, việc “Khảo sát hệ thống từ ngữ chỉ màu sắc
trong thơ Vƣơng Duy” là một đề tài đáng đƣợc chú ý và quan tâm. Qua đó,
ngƣời viết có cơ hội mở rộng kiến thức, phục vụ tốt hơn công tác giảng dạy
tác phẩm của Vƣơng Duy nói riêng và thơ Đƣờng nói chung ở chƣơng trình
Ngữ Văn Trung học cơ sở và Trung học phổ thông thêm phong phú và sâu
sắc.
2. Lịch sử vấn đề
Vƣơng Duy là nhà thơ nổi tiếng trong văn thơ cổ điển Trung Quốc. Thơ
Vƣơng Duy là một biểu tƣợng của truyền thống thi ca Đông phƣơng. Thơ ông
là một bức tranh sống động về đƣờng nét, màu sắc với sự cân đối, hài hòa cả
về nội dung và hình thức.
Ở Việt Nam, từ xƣa đến nay ngƣời ta cũng đặc biệt chú ý đến những
sáng tác của Vƣơng Duy. So với các tác giả nhƣ Lí Bạch, Đỗ Phủ,.. tuy tài
liệu nghiên cứu về Vƣơng Duy có phần non kém hơn nhƣng chúng ta không

2


thể phủ nhận rằng tài liệu về thơ Vƣơng Duy cũng đa dạng và phong phú.
Trong cuốn Vương Duy - chân diện mục của Vũ Thế Ngọc dịch và chú
giải đã giới thiệu về cuộc đời, sự nghiệp, phong cách sáng tác của Vƣơng Duy
và cũng đã đề cập đến màu sắc trong thơ Vƣơng Duy nhƣng đó mới chỉ là
lƣớt sơ qua chứ chƣa có những nhận định và tìm hiểu cụ thể.
Trong tạp chí nghiên cứu khoa học Vương Duy và Yosa Buson - “Thi
trung hữu họa” của Nguyễn Thị Nguyệt Trinh cũng đã liệt kê đƣợc số lƣợng
màu sắc trong thơ Vƣơng Duy nhƣng đó mới chỉ là liệt kê và mới chỉ chạm
vào bề nổi của vấn đề chứ chƣa đi sâu vào phân tích.

Trong Tuyển tập thơ Đường, các tác giả đã giới thiệu sơ lƣợc về nhà
thơ Vƣơng Duy và một số bài thơ tiểu biểu của ông nhƣng tuyệt nhiên chƣa
đề cập đến màu sắc đƣợc sử dụng trong thơ của Vƣơng Duy.
Nhƣ vậy, những công trình nghiên cứu về nhà thơ Vƣơng Duy đa phần
đều đề cập đến phong cách, phần họa trong thơ của ông …nhƣng chƣa có hệ
thống và công trình nghiên cứu hoàn thiện về màu sắc trong thơ Vƣơng Duy.
Tuy nhiên, đây là những nguồn tƣ liệu quý báu làm nên nền tảng cơ sở giúp
chúng tôi lựa chọn và xây dựng đề tài “Khảo sát hệ thống từ ngữ chỉ màu
sắc trong thơ Vƣơng Duy”.
3. Mục đích nghiên cứu
Khóa luận này đƣợc thực hiện với mục đích chỉ ra vị trí, ý nghĩa quan
trọng của các từ ngữ chỉ màu sắc trong các bài thơ của Vƣơng Duy. Từ đó,
chúng tôi tiến hành thống kê, khảo sát và phân tích đối chiếu từ các bài thơ
của Vƣơng-Duy để chỉ ra sự đa dạng, phong phú và độc đáo của các từ ngữ
chỉ màu sắc trong thơ của ông và tác dụng của chúng đối với việc hình thành
phong cách nghệ thuật của Vƣơng Duy.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về “Khảo sát hệ thống từ ngữ chỉ màu sắc trong

3


thơ Vƣơng Duy” tập trung vào tìm hiểu sự phong phú, đa dạng của màu sắc
của thiên nhiên và cuộc sống, có tác động mĩ cảm sâu sắc đến con ngƣời đƣợc
nhắc đến trong các bài thơ của Vƣơng Duy. Đồng thời, ngƣời viết tập trung
vào các loại màu sắc, màu sắc nổi bật đƣợc sử dụng tạo nên nét thanh tịnh
trong thơ ông
Với đề tài nghiên cứu này, chúng tôi khảo sát trong khoảng 50 bài thơ
tiêu biểu của Vƣơng Duy
5. Nhiệm vụ đề tài

Thông qua việc thống kê, khảo sát và phân tích các bài thơ tiêu biểu
cuả Vƣơng Duy, chúng tôi chỉ ra thế giới màu sắc phong phú, sinh động và
độc đáo trong thơ Vƣơng Duy tạo nên phong cách riêng của tác giả. Đây
chính là thái độ, tâm trạng của nhà thơ trƣớc cuộc sống.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phƣơng pháp thống kê
Phƣơng pháp phân tích
Phƣơng pháp so sánh, đối chiếu
7. Cấu trúc khóa luận
Ngoài Phần Mở Đầu và Phần Kết Luận, Thƣ mục tham khảo, Khóa
luận gồm 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Một số vấn đề chung
Chƣơng 2: Khảo sát những từ ngữ chỉ màu sắc trong thơ Vƣơng Duy
Chƣơng 3: Giá trị của các từ ngữ chỉ màu sắc trong việc thể hiện con
ngƣời Vƣơng Duy

4


NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Vƣơng Duy: thi hào tinh thông hội họa
1.1.1. Vương Duy - một nhà thơ nổi tiếng
Vƣơng Duy (701 - 761), biểu tự là Ma Cật, hiệu Ma Cật cƣ sĩ. Quê ông
ở huyện Kỳ, Tấn Trung, Sơn Tây, Trung Quốc. Vƣơng Duy xuất thân trong
gia đình thuộc tầng lớp quý tộc. Gia đình ông là một gia đình rất danh giá ở
thời Đƣờng là Thái Nguyên Vƣơng thị. Cha ông là Vƣơng Xử Liêm làm chức
Tƣ Mã, mẹ là Thôi thị - một tiểu thƣ của một đại quý tộc phái khác là họ Thôi
ở Bác Lăng. Họ Vƣơng ở Thái Nguyên và họ Thôi ở Bác Lăng là hai trong

bảy đại quý tộc danh tiếng nhất thời Thịnh Đƣờng. Gia đình ông gồm có sáu
ngƣời con, Vƣơng Duy là con trai trƣởng, sau đó tới Vƣơng Tấn cùng hai em
trai và một em gái
Vƣơng Duy là một nhà thơ nổi tiếng thời Đƣờng và đã đƣợc ngƣời đời
tôn ông là Thi Phật. Cùng với Lý Bạch (Thi Tiên) và Đỗ Phủ (Thi Thánh) và
Lý Hạ (Thi Quỷ), Vƣơng Duy với biệt danh Thi Phật đã tạo nên Thánh - Tiên
- Phật - Quỷ cùng xuất hiện trong giai đoạn cực thịnh của thơ Đƣờng. Sinh ra
trong một gia đình thuộc tầng lớp quý tộc, đƣợc tiếp xúc với nền giáo dục của
nho giáo và những ngƣời tài hoa nên ngay từ nhỏ Vƣơng Duy đã sáng tác thơ
ca. Năm 716, khi mới mƣời lăm tuổi, Vƣơng Duy cùng em trai là Vƣơng Tấn
lên Trƣờng An và Lạc Dƣơng du học. Lúc này, Vƣơng Duy đã khét tiếng về
tài làm thơ nên đã đƣợc các gia đình quý tộc tiếp đãi trọng vọng. Không
những thế, em ruột của vua Huyền Tông Đƣờng Minh Hoàng là Kỳ Vƣơng
cũng rất nể phục và quý trọng tài làm thơ của ông nên cũng đã tiếp đãi vào
hàng thƣợng khách tri kỉ. Vì cảm kích trƣớc tấm lòng của Kỳ Vƣơng nên
Vƣơng Duy đã làm một bài thơ thay lời Kỳ Vƣơng đa tạ vua cho mƣợn Cửu

5


Thành Cung để nghỉ mát. Vƣơng Duy sống trong một cuộc sống xa hoa
nhung lụa và đƣợc tham gia vào các buổi tiệc du hí của hoàng tộc và những
nhà đại quý tộc nên danh tiếng của ông ngày một vang xa.
Ngƣời ta chủ yếu biết Vƣơng Duy là một nhà thơ sơn thủy thi, thơ ông
chủ yếu viết về thiên nhiên sông núi bởi Vƣơng Duy chịu ảnh hƣởng của đạo
Phật và đạo Lão. Sở dĩ có điều này là do mẹ ông rất mực tín Phật pháp,
Vƣơng Duy chịu ảnh hƣởng từ mẹ. Ngày nay ngƣời ta còn giữ lại đƣợc
khoảng hơn 400 bài thơ của Vƣơng Duy với phong cách tinh tế trang nhã.
Thời trẻ, thơ Vƣơng Duy bộc lộ tâm trạng của tầng lớp tri thức có tài, có trí
nhƣng không đƣợcc dùng phải sống trong cảnh hàn vi còn bọn công tử quý

tộc dốt nát thì sống giàu có, xa hoa, trụy lạc. Những năm tháng sống nơi biên
ải, thơ ông có tình điệu khẳng khái, hiên ngang, đề cao lòng yêu nƣớc, đề cao
tinh thần của những ngƣời chiến sĩ yêu nƣớc sẵn sàng từ bỏ cuộc sống bình
yên nơi quê nhà mang gƣơm đao đi mở mang bờ cõi. Nhƣng nổi bật nhất
trong gia tài thơ ca của Vƣơng Duy là những bài thơ viết về thiên nhiên. Bởi
ông vốn là ngƣời ƣa thích cuộc sống tiêu dao, thanh tao, phong nhã, tâm hồn
ông hòa hợp với thiên nhiên, cỏ cây, với cuộc sống thanh bình nơi làng quê
yên ấm. Ông thƣờng miêu tả cảnh núi sông hùng vĩ, cảnh đêm trăng yên bình,
cảnh làm ruộng, gặt hái của những ngƣời nông dân chất phác hiền lành.
Không những thế, thơ Vƣơng Vƣơng Duy còn thấm đẫm tƣ tƣởng từ bi hỷ xả
của đạo Phật. Những bài thơ của ông mang hƣớng tĩnh phù hợp với cõi tâm
thanh tịnh của nhà thơ. Ông thƣờng tìm về chốn núi rừng thanh tĩnh cùng với
không gian u tịch mang đậm bản chất thiền. Thơ Vƣơng Duy có phong cách
riêng, tài thơ của ông giàu có ở cách thể hiện những đề tài khác nhau, việc
miêu tả thiên nhiên tinh tế và đầy sống động. Ngôn ngữ thơ cô đọng và điêu
luyện phù hợp với những ý tứ sâu sắc và truyền cảm.

6


1.1.2. Vương Duy - một họa sĩ tài ba
Không chỉ là một nhà thơ nổi tiếng đời Đƣờng mà Vƣơng Duy còn
đƣợc biết đến là một họa sĩ tài hoa. Phái điền viên sơn thủy không chỉ theo
ông vào trong thơ mà ngay cả trong tranh ông cũng thƣờng vẽ những bức
tranh thủy mặc. Tranh thủy mặc là những bức tranh về thiên nhiên, núi rừng,
sông hồ, cảnh vật hoang sơ… mà ngƣời và vật chỉ là những nét phụ cho
những bức tranhh ấy.
Ở đời nhà Đƣờng, Vƣơng Duy không đƣợc coi là họa sĩ nổi tiếng nhất
nhƣng đến đời Tống thì Vƣơng Duy lại trở thành một họa sĩ trác tuyệt và bắt
đầu đƣợc tôn xƣng là tổ sƣ của cả một họa phái. Tuy ở đời Đƣờng ông

không đƣợc tôn xƣng là họa sĩ bậc nhất nhƣng Vƣơng Duy vẫn đƣợc sách
“Đƣờng triều danh họa lục” ca tụng bức “Võng xuyên đồ” là một tuyệt phẩm
hãn hữu hay sách “Cựu Đƣờng thƣ” cũng kể lại những kì tích của ông trong
giới hội họa.
Theo ghi chép, Vƣơng Duy chính là ngƣời đã sáng tạo ra lối vẽ sơn
thủy bằng thủy mặc. Trong lòng Vƣơng Duy luôn muốn chứa đựng thiên địa
vạn vật nên khi ông đặt bút có thể ngay lập tức vẽ đƣợc những nét vẽ vô cùng
tự nhiên, phóng khoáng với tạo hình nhất sơn nhất thủy tuyệt đẹp. Những nét
vẽ của ông luôn giản dị tinh tế, đó không phải là sự đơn giản mà đó là sự giản
dị đã đạt đến cảnh giới cao nhất của nghệ thuật, là phƣơng pháp đạt đến độ
“dƣờng nhƣ không có phƣơng pháp”. Vƣơng Duy đã từng nói: “Trong lòng
thoải mái, không có chƣớng ngại, nhƣ hồ băng trong suốt… thì khi hạ bút vẽ
sẽ mang phong cách khí thế thoát tục”. Danh tiếng về tranh sơn thủy của
Vƣơng Duy nổi tiếng đến mức gần nhƣ lấn át đi tên tuổi của một thi hào
Vƣơng Duy. Khi thƣởng thức tranh của ông, Tô Đông Pha đã từng ca ngợi:
“Trƣớc tranh của Duy Ma Cật ta chỉ biết lùi lại cúi lạy, vô ngôn”. Phải tài hoa
và tinh tế đến mức nào thì mới có thể làm cho một ngƣời nổi tiếng nhƣ Tô
Đông Pha thốt ra câu nói đầy kính nể tranh Vƣơng Duy đến thế.

7


Vƣơng Duy không phải là ngƣời nổi tiếng bậc nhất về họa phái nhƣng
tranh của ông mới thực sự có ảnh hƣởng lớn đến tinh thần hậu thế. Vƣơng
Duy chƣa bao giờ lập trƣờng phái vẽ tranh nào và ông cũng không dạy ngƣời
khác vẽ tranh nhƣng các họa sĩ đời sau lại khởi hứng từ tranh ông rất nhiều
đặc biệt là Kinh Hạo, Lý Thành, Đổng Nguyên,.. Tuy sử sách không ghi rõ
các bức tranh của Vƣơng Duy nhƣng khi dâng Họa Phổ lên Tống Huy Tông
(1101 - 1125) ta thấy còn đến tên 126 bức tranh của ông gồm: tranh Phật,
tranh Bồ Tát, tranh Sơn Thủy,.. và có lẽ số lƣợc các bức họa của ông còn

nhiều hơn thế nữa. Tuy tất cả những tác phẩm của ông đã thất lạc từ nhiều thế
kỉ nhƣng chúng vẫn đƣợc ngƣời đời sau truyền tụng ngợi ca nhƣ: bức Võng
Xuyên Đồ và Giang sơn tuyết khê đồ.
1.1.3. Vương Duy họa sĩ luôn đi liền với Vương Duy thi sĩ
Vƣơng Duy là một ngƣời có tài hội họa và thơ ca trác tuyệt. Thi hào Tô
Đông Pha khi xem tranh và đọc thơ của ông đã ca ngợi hết lời và lời khen của
thi hào họ Tô đã đƣợc ngƣời đời sau truyền tụng thành câu nói “Thi trung hữu
họa, họa trung hữu thi” để ca ngợi Vƣơng Duy. Khi nói đến trong tranh có thơ
của Vƣơng Duy trƣớc hết phải nói đến những bức tranh sơn thủy của ông.
Vƣơng Duy dùng sự quyến rũ nhẹ nhàng để mô tả vẻ đẹp sông núi nƣớc non
từ đó thăng hoa đến một cảnh giới riêng, một phong cách mà chỉ mình ông có.
Trong tranh của mình, Vƣơng Duy thƣờng lấy sự mộc mạc thô sơ làm hứng
thú, lấy thủy mặc, màu mực để viết ý, vẽ phong cảnh nên đã đƣợc ngƣời đời
sau xƣng là “Văn nhân chi họa, tự Vƣơng Hữu Thừa thủy”. Tranh của ông tuy
vẽ phong cảnh sơn thủy điền viên mộc mạc nhƣng dạt dào cảm xúc, thấm
đẫm ƣu tƣ. Vƣơng Duy luôn đƣa thi cảnh vào họa cảnh làm cho ý tranh đầy
đặn hơn, sâu lắng hơn.
Một nhà thơ Vƣơng Duy lúc nào cũng đi liền với Vƣơng Duy họa sĩ.
Ông nổi tiếng với tài vẽ tranh trong thơ mà thế hệ sau đã ca tụng hết mực.

8


Nam họa hay văn nhân họa đƣợc xác lập chính thức vào đời Tống, tuy nhiên
Vƣơng Duy lại đƣợc xem là ngƣời mở đầu. Tranh trong thơ khiến các bài thơ
của ông có hình tƣợng hơn, tinh tế hơn và diệu kì hơn. Đọc thơ của Vƣơng
Duy ta nhƣ thấy từng bức tranh đang hiện ra trƣớc mắt. Hình ảnh suối Thanh
Khê dƣới ngòi bút của thi nhân vừa yên tĩnh, vừa sống động:
“Ngôn nhập hoàng hoa xuyên, mai trục thanh khê thủ
……..

Ngã tâm tố dĩ nhàn, thanh xuyên đạm nhƣ thử”
(Lời nói chui vào suối Hoàng hoa, hòa theo dòng Thanh Khê cùng chảy
........
Lòng ta vốn đã an nhàn sẵn, suối trong kia lại rất êm đềm)
Qua giai điệu không ngừng chảy của nó ta có thể thấy hiện ra bức tranh có các
cảnh trí thiên nhiên khác nhau, thể hiện rõ đặc tính và sức sống tràn trề của
nó. Và đặc biệt để làm nên chất họa trong thơ Vƣơng Duy không thể không
nhắc đến màu sắc. Có lúc thơ ông hiện lên bức họa với màu sắc sinh động
tƣơi tắn, lúc lại là những màu sắc nhạt màu. Ở đây ta có thể thấy màu sắc
trong thơ ông là màu sắc của hội họa thủy mắc sơn thủy. Nó giúp thơ ông
mang vẻ đẹp tĩnh tại, đạm mạc. Không những thế, trong các bài thơ của mình
Vƣơng Duy cũng sử dụng cấu đồ hội họa rất điêu luyện. Thơ ông có sự đối
lập mà thống nhất giữa đƣờng nét, màu sắc, hình khối, chiều kích… của các
sự vật hiện tƣợng giúp cho bài thơ có sự cân đối hài hòa. Với nghệ thuật
“dùng tranh vẽ thơ” và “dùng thơ để tả tranh” Vƣơng Duy xứng đáng là một
thiên tài nghệ thuật. Một con ngƣời họa sĩ luôn đi liền với một con ngƣời thi
sĩ đã tạo ra thi nhân Vƣơng Duy đƣợc ngƣời đời kính nể.
1.2. Màu sắc trong hội họa và hội họa Trung Hoa
1.2.1. Những màu sắc có trong nghệ thuật hội họa
Màu sắc là con đẻ của ánh sáng, là hiệu quả hiển thị của các loại ánh
sáng có bƣớc sóng dài, ngắn khác nhau, là do sựu phản chiếu của ánh sáng lên

9


những vật thể. Theo quang học khi luồng ánh sáng trắng đi qua lăng kính mặt
trời thì tách ra gồm bảy sắc là: vàng, cam, đỏ, lục, lam, chàm, tím. Trong hội
họa thì màu là chất liệu cụ thể do những sắc tố đƣợc chiết ra từ khoáng chất,
hóa chất, thảo mộc. Đó gọi là màu sắc tố.
Trong hội họa, ngƣời ta chia ra rất nhiều các loại màu khác nhau. Thứ

nhất là màu bậc nhất, hay còn gọi là màu chính, màu cơ bản. Loại màu này gồm
ba màu đó là: màu vàng, màu đỏ và màu lam. Từ ba màu cơ bản này ta có thể
pha ra tất cả các loại màu trong hội họa. Tuy nhiên loại màu cơ bản này không
thể pha ra màu đen và màu trắng vì không màu nào có thể pha trộn ra chúng
Loại màu thứ hai là màu bậc hai hay còn gọi là màu phụ. Loại màu này
gồm ba màu là: màu tím, màu lục và màu cam. Màu tím có thể đƣợc tạo ra từ
màu lam kết hợp với màu đỏ, màu lục đƣợc tạo ra khi màu vàng kết hợp với
màu lam và màu cam đƣợc tao ra khi pha màu vàng và màu đỏ với điều kiện
pha các màu với dung lƣợng bằng nhau.
Tiếp đến là màu bậc ba gồm các màu: cam vàng, Cam đỏ, Tím lam,
Tím đỏ, Lục lam, Lục vàng. Đƣợc pha với phân lƣợng bằng nhau từ màu bậc
1 với màu bậc 2 đứng cạnh nhau trên vòng thuần sắc. Tƣơng tự ta có màu bậc
4,5,6,7 …. Bằng cách pha với phân lƣợng bằng nhau giữa các màu đứng cạnh
nhau trong vòng thuận sắc ta tiếp tục có các màu bậc cao hơn.
Cùng với đó ta có các màu tƣơng phản hay còn gọi là màu đối kháng
nhau bởi khi đứng cạnh nhau thì màu này sẽ làm tƣơng phản màu kia hoặc
ngƣợc lại. Các màu tƣơng phản nhau là: vàng - tím, đỏ - lục, lam - cam.
Không những thế ta còn có các màu nóng và màu lạnh. Màu lạnh là
những màu ngả xanh: lục vàng, lục, lục lam, lam, tím lam, tím, tím đỏ tạo
cảm giác mát mẻ, dễ chịu hoặc lạnh lẽo. Đối lập với màu lạnh là các màu
nóng ngả đỏ nhƣ: vàng, cam vàng, cam, cảm đỏ, đỏ tạo cả giác ấm áp, gần và
gây kích thích thị giác

10


Màu xám thuộc loại màu trung tính, không thuộc màu nóng cũng không
thuốc màu lạnh. Nó đƣợc tạo ra do sự kết hợp của màu trắng và màu đen
Màu trung gian là loại màu điều giải sự mâu thuẫn đối kháng về sắc độ,
cƣờng độ, quang độ, đƣợc pha từ hai màu đang có sự tƣơng phản với nhau

Màu tƣơng đồng là loại màu thoạt nhìn chúng có vẻ giống nhau, nhóm
màu đứng cạnh nhau trong vòng thuần sắc. Đó là một dãy các màu nối tiếp
nhau, liên kết chặt chẽ, không phân biệt nóng lạnh
Các màu bổ túc xen kẽ: vàng và tím, đỏ và lục, lam và cam dùng để
làm màu nhấn, màu trọng điểm. Bên cạnh đó còn có màu bổ túc trực tiếp,bổ
túc kép, bổ túc bộ ba, bổ túc bộ bốn.
Màu chiếm diện tích trội nhất trong toàn bộ không gian, chi phối toàn
bộ hòa sắc của không gian đƣợc gọi là màu chủ đạo. Màu chủ đạo còn tùy
thuộc vào đề tài, không gian, thời gian, vị trí sử dụng, tâm lí ngƣời sử dụng, ý
đồ, tình cảm để xác định.
Màu sắc riêng: quy luật hỗ trợ cộng hƣởng của các màu sắc, ánh sáng,
môi trƣờng, không khí, vật thể. Sử dụng màu là để diễn tả sự cộng hƣởng ấy.
Màu sắc riêng là tên gọi của loại không gian chỉ sử dụng một màu pha
với trắng và đen tạo sự liên kết sắc độ một cách tinh tế hài hòa.
1.2.2. Màu sắc sử dụng trong hội họa Trung Hoa
Trong ngôn ngữ khác nhau ngƣời ta lại có những nguyên tắc riêng để
vạch ra những ranh giới từ chỉ màu sắc. Chính vì vậy đã dẫn đến sự khác màu
và số lƣợng ngôn ngữ chỉ các màu trong ngôn ngữ. Các từ chỉ màu sắc trong
tiếng Hán vì thế mà cũng có sự khác biệt so với các từ ngữ chỉ màu sắc trong
tiếng Việt.
Ta có thể thấy các từ ngữ chỉ màu sắc trong hội họa Trung Hoa vô cùng
phong phú có tài liệu cho rằng lên đến 1100 từ nhƣng ở đây chúng tôi chỉ
thống kê những màu sắc cơ bản:

11


STT

Màu sắc


Nghĩa

1



trắng

2



đỏ

3



vàng

4



xanh lam

5




vàng nhạt

6



đen

7



cam

8

绿

xanh lá

9



tím

10




ghi, xám

11

粉红

hồng phấn

12

粉蓝

xanh lợt

13

咖啡

café

14

红褐

đỏ đậm

15




vàng (gold)

16

褐紫红

đỏ bóoc đô

17

灰棕

tro

18

浅蓝

xanh da trời

19

深蓝

xanh lam đậm

20

浅绿


xanh lá nhạt

21

深绿

xanh lá đậm

22

深紫

tím đậm

12


23

浅紫

tím nhạt

24



xanh ngọc


25



sắc

26



xanh biếc

27



xanh ngắt

28



đỏ son

29



xanh biếc


30



đỏ

31



hạt dẻ

32



nâu

33



nâu

34

天蓝

xanh da trời


35



đen huyền

36



bạc

37

猩红

đỏ ổi

38

银红

đỏ bạc

39

肉红

đỏ thịt


40

桔红

cam quýt

41

血红

đỏ tƣơi

42

火红

đỏ rực

43

橘红

đỏ quýt

44

杏红

đỏ quả hạnh


45

牛血红

đỏ tiết bò

13


46

铜红

đỏ đồng

47

枣红

táo đỏ

48

米黄

ngà

49

金黄


vàng óng

50

蜡黄

vàng bóng

51

鹅黄

vàng tơ

52

姜黄

vàng nghệ

53

柠檬黄

vàng chanh

54

玛瑙红


đỏ mã não

55

黄褐

vàng nâu

56

鲜粉红

hồng tƣơi

57



đỏ sẫm

58

银白

trắng bạc

59




chè

60

土黄

vàng đất

61

杏黄

vàng quả hạnh

62

赤褐

nâu đỏ

63

碧绿

xanh bi

64

浅粉红


hồng nhạt

65

灰棕

nâu xám

66

靛蓝

chàm

67

青白

trắng xanh

68

青黄

vàng xanh

14



69

青莲

cánh sen

70

浅黄

vàng nhạt

71

深黄

vàng đậm

72



tƣơng

73

紫红

mận chín


74

深红

mận chín

75

天青

trong xanh

76

栗褐

nâu hạt dẻ

77

胭脂红

son đỏ

78

黄棕

vàng nâu


79



đồng

80

奶油白

trắng kem

81

墨绿

xanh sẫm

82

鲜红

đỏ tƣơi

83

象牙黄

vàng ngà


84

淡紫

tím hoa cà

85

蓝紫

Xanh tím than

86

乳白

trắng sữa

87

苔绿

xanh rêu

88

雪白

trắng tuyết


89

灰白

tro

90



hồng đào

91

玫瑰红

đỏ hoa hồng

15


92

宝蓝

lam sang

93

宝石红


đỏ bảo thạch

94

深褐

nâu đậm

95

浅褐

nâu nhạt

96

海绿

xanh nƣớc biển

97

海水蓝

xanh nƣớc biển

98

橄榄


quả ô-liu

99

孔雀蓝

xanh lông công

100

苍黄

vàng xanh

101

棕黑

nâu đen

102

鲜粉红

hồng tƣơi

103

鼠灰


ghi lông chuột

104



nhạt

105



nhạt

106



đậm

107

红棕

nâu đỏ

108

浅棕


nâu nhạt

109

深棕

nâu đậm

110

青蓝

xanh lam

111

群青

xanh thẫm

112

蛋黄

lòng đỏ trứng gà

Các màu sắc này là những màu sắc đƣợc sử dụng phổ biến trong hội
họa Trung Hoa với các sắc thái khác nhau. Các màu sắc này gồm cả các từ
ngữ đơn âm tiết và từ ngữ đa âm tiết. Trong đó số lƣợng các từ chỉ màu sắc


16


đơn âm tiết lớn hơn rất nhiều số lƣợng các từ ngữ chỉ màu sắc đơn âm tiết.
Những màu sắc này đã tạo nên một nền hội họa đỉnh cao của một trong những
quốc gia có nền văn hóa lâu đời nhất Châu Á.
1.3. Từ chỉ màu sắc trong tiếng Hán
1.3.1. Từ chỉ màu sắc đơn âm tiết
Các từ ngữ chỉ màu sắc do một âm tiết cấu thành đƣợc gọi là từ chỉ
màu sắc đơn âm tiết. Trong tiếng Hán các từ ngữ chỉ màu sắc đơn âm tiết vô
cùng phong phú: 紅 (đỏ), 黃 (vàng), 白 (trắng), 黑 (đen), 青 (thanh), 蓝 (lam),
灰 (xám), 紫 (tím), 褐 (màu hạt dẻ), 橙 (màu da cam), 赤 (đỏ), 绯 (đỏ), 朱 (đỏ
son), 绛 (đỏ thẫm),翠 (xanh biếc), 碧 (ngọc xanh biếc/ xanh biếc),苍 (xanh lá
cây/ xanh biếc gồm cả lam và lục)),乌 (đen), 玄 (đen), 漆 (đen), 殷 (đỏ đen), 粉
(hồng), 素(trắng), 缟 (trắng), 葱 (xanh), 赭 (đỏ), 黛 (đen vàng), 黝 (đen xanh),…
Những từ chỉ màu sắc đơn âm tiết chiếm số lƣợng rất lớn trong bảng các từ
ngữ chỉ màu sắc.
Tuy nhiên, về cấu tạo những từ chỉ màu sắc cơ bản trong tiếng Hán
cũng có rất nhiều ý kiến khác nhau. Theo Lƣu Quân Kiệt và Lƣu Vân Tuyền
Thì từ chỉ màu sắc trong tiếng Hán hiện đại gồm có mƣời màu cơ bản nhƣ: 红
(đỏ), 黄 (vàng), 绿 (lục), 白 (trắng), 黑 (đen),青 (xanh), 蓝 (lam), 灰 (xám), 紫
(tím), 褐 (màu hạt dẻ). Còn ông Lƣu Đan Thanh thì lại cho rằng chỉ có chín từ
chỉ màu sắc cơ bản là các màu giống ý kiến cuả Lƣu Quân Kiệt và Lƣu Vân
Tuyền nhƣng lại bỏ màu 褐 (màu hạt dẻ) đi. Ý Kiến của Chiêm Nhân Phƣơng
cho rằng chỉ có sáu từ là: 红 (đỏ), 黄 (vàng), 绿 (lục), 白 (trắng), 黑 (đen), 蓝
(lam) là từ chỉ màu sắc cơ bản; còn lại màu青 (xanh) và 灰 (xám) đƣợc cho
rằng là hai màu chuẩn cơ bản.
Trong tiếng Hán, nhữung từ chỉ màu sắc đơn âm tiết ngoài mƣời từ chỉ
màu sắc cơ bản: 红 (đỏ), 黄 (vàng), 绿 (lục), 白 (trắng), 黑 (đen), 青 (xanh),

蓝 (lam), 灰 (xám), 紫 (tím),褐 (màu hạt dẻ) ra thì phần lớn đều là những từ

17


cổ ngữ. Mặc dù những từ trong tiếng Hán có thể sử dụng độc lập nhƣng phần
lớn các từ ngữ cổ rất ít khi đi một mình mà nó phải kết hợp với các từ khác
khi sử dụng trong Hán ngữ hiện đại, ví dụ nhƣ: 赤卫队 (đội xích vệ), 彤云
(mây đỏ, ráng đỏ), 丹枫 (cây bàng), 绯红的晚霞 (ráng chiều màu đỏ),...
Các từ ngữ chỉ màu sắc đơn âm tiết trong tiếng Hán đa phần đều là tính
từ. Khi kết hợp với chữ 色 (màu) nó sẽ tạo thành danh từ nhƣ: 红色 (đỏ), 黄
色 (vàng), 绿色 (lục),-玄色 (đen), 白色 (trắng), 翠色 (xanh biếc), 碧色 (ngọc
xanh biếc/ xanh biếc)...
Số lƣợng các từ chỉ màu sắc đơn âm tiết có ít tuy nhiên vai trò của nó là
vô cùng lớn. Chúng chính là những từ ngữ chỉ màu sắc cơ bản để tạo ra
những từ ngữ chỉ màu sắc đa âm tiết sau này.
1.3.2. Từ chỉ màu sắc đa âm tiết
Ngoài những từ chỉ màu sắc đơn âm tiết thì trong tiếng Hán còn có các
từ chỉ màu sắc đa âm tiết. Việc chuyển từ từ đơn âm tiết sang từ đa âm tiết là
một quá trình. Các từ ngữ chỉ màu sắc đa âm tiết đƣợc phát triển khá đầy đủ.
Số lƣợng của các từ chỉ màu sắc đa âm tiết đã vƣợt ra khỏi phạm vi những từ
chỉ màu sắc đơn âm tiết vốn hạn hẹp bằng cách sử dụng nhiều phƣơng thức
cấu tạo giúp cho sự vật hiện lên rõ ràng và cụ thể. Có rất nhiều phƣơng thức
cấu tạo của từ chỉ màu sắc đa âm tiết nhƣ:
Phƣơng thức tổ hợp, tức là dùng hai từ ngữ chỉ màu sắc đơn âm tiết
ghép lại để hình thành nên từ ngữ chỉ màu sắc đa âm tiết. Trong phƣơng thức
này ta có thể chia ra làm hai loại. Thứ nhất đó là từ chỉ màu sắc đa âm tiết do
hai từ chỉ màu sắc đơn âm tiết khác nhau tổ hợp thành: 绛紫 (tím đỏ). 紫红 (đỏ
tía), 青紫 (xanh tím), 灰白 (xám trắng), 苍白 (trắng xanh),... Chúng biểu thị loại
màu sắc hỗn hợp, màu sắc đứng trƣớc biểu thị màu phụ còn màu sắc phía sau

biểu thị màu chính, giữa hai hình vụ này là mối quan hệ chính - phụ. Ví dụ
nhƣ 灰白 (xám trắng) là trong màu xám mang một chút sắc trắng, hay 紫红 (đỏ

18


tía) tức mà trong màu đỏ pha lẫn một chút tía. Thứ hai là từ chỉ màu sắc đa
âm tiết đƣợc hình thành do hai từ ngữ chỉ màu sắc đơn âm tiết cùng một phạm
trù màu sắc với nhau tạo nên: 赤红 (đỏ), 朱红 (đỏ son), 绯红 (đỏ ửng), 绛红 (đỏ
thẫm)… Và ngữ nghĩa của các từ chỉ màu sắc này đa số thể hiện ở hình vị sau.
Phƣơng thức ví von là hình vị trƣớc trong từ chỉ màu sắc mang ý vị ví
von, biểu thị ý nghĩa giống nhƣ cái gì đó. Trong phƣơng thức ví von này ta
có thể chia làm hai loại. Ở loại thứ nhất ta có thể thêm chữ 色 (màu) vào sau
hình vị gọi tên vật thể nhƣ: 米色 (màu kem), 驼色 (màu lạc đà), 茶色 (màu
nƣớc chè), 桃红色 (màu hoa đào), 内色 (màu da ngƣời), 咖啡色 (màu cà
phê), 玫瑰色 (màu hoa hồng),… Những từ chỉ màu sắc đa âm tiết này mang
tính hình tƣợng giúp ngƣời nghe hình dung ra tính chất đặc trƣng của vật thể
ví dụ nhƣ: 古铜色的皮肤 (da dẻ màu đồng cổ), màu đồng cổ đây ngoài ngữ
nghĩa màu be, còn khiến ngƣời ta nghĩ đến tính bóng láng của màu đồng cổ.
Loại thứ hai là kiểu do hình vị gọi tên vật thể đƣợc thêm vào từ chỉ màu sắc
đơn âm tiết mà thành. Phạm vi màu sắc của hình vị danh từ đằng trƣớc
tƣơng đối hẹp, phạm vi màu sắc của từ chỉ màu sắc đơn âm tiết đằng sau
rộng hơn.Ví dụ nhƣ: a. 米色(màu kem), 杏黄(vàng mơ), 桔黄 (màu da cam),
桃红 (hoa đào), 银色 (trắng bạc), 玫瑰红 (màu hoa hồng), 孔雀蓝(màu
xanh công lông), 月白(trắng xanh),… b. 雪白(trắng tuyết), 乌黑 (đen nhƣ
cốc), 漆黑 (đen nhƣ mực), 铁青 (xanh thẫm), 火红 (đỏ gay), 血红 (đỏ lòm),
蜡黄 (vàng bệch),…
Trong đó loại a chủ yếu biểu thị bản thân màu sắc, đằng sau có thêm
vào chữ 色(màu), ví dụ: 米黄色 (màu kem), 杏黄色(vàng mơ), 桔黄 (màu da
cam), 桃红色(màu hoa đào), nhƣng từ chỉ màu sắc phƣơng thức-ví von đa âm

tiết nhƣ 玫瑰红 (màu hoa hồng), 孔雀蓝 (màu xanh công lông)… do bị hạn

19


×