Tải bản đầy đủ (.pdf) (61 trang)

Nghệ thuật tạo sức mạnh tổng hợp bằng lực, thế, thời của đảng ta trong kháng chiến chống pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (587.19 KB, 61 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH

NGUYỄN XUÂN TÁM

NGHỆ THUẬT TẠO SỨC MẠNH
TỔNG HỢP BẰNG LỰC, THẾ, THỜI
CỦA ĐẢNG TA TRONG
KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Giáo dục quốc phòng và an ninh

Hà Nội – 2018


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH

NGUYỄN XUÂN TÁM

NGHỆ THUẬT TẠO SỨC MẠNH
TỔNG HỢP BẰNG LỰC, THẾ, THỜI
CỦA ĐẢNG TA TRONG
KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Giáo dục quốc phòng và an ninh

Người hướng dẫn khoa học

CN. Trần Ngọc Lâm



Hà Nội - 2018


LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn thầy Thượng tá Trần Ngọc Lâm đã tận tình
giúp đỡ, hướng dẫn em hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.
Em cũng xin chân thành cảm ơn các thầy trong Ban Giám đốc, các thầy
trong Trung tâm GDQP&AN Trường ĐHSP Hà Nội 2 đã giúp đỡ tạo mọi
điều kiện thuận lợi cho em trong quá trình học tập, rèn luyện và hoàn thành
khóa luận tại trung tâm.
Em xin cảm ơn sự giúp đỡ, động viên, khích lệ của gia đình, bạn bè
trong lớp và người thân trong quá trình học tập, rèn luyện và hoàn thành khóa
luận cuối khóa.
Trong quá trình làm khóa luận do thời gian nghiên cứu có hạn, cho nên
khóa luận của em không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Em rất mong
được sự đóng góp ý kiến của các thầy, các cô và các bạn để khóa luận tốt
nghiệp của em được hoàn thiện và đầy đủ hơn.

Em xin chân thành cảm ơn.

Hà Nội, ngày

tháng

năm 2018

Tác giả

Nguyễn Xuân Tám



LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu và sự
cố gắng nỗ lực của bản thân em dưới sự hướng dẫn tận tình của thầy Thượng
tá Trần Ngọc Lâm.
Nội dung của khóa luận tốt nghiệp này không trùng với kết quả nghiên
cứu của các tác giả khác. Nếu sai em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Hà Nội, ngày

tháng

năm 2018

Tác giả

Nguyễn Xuân Tám


DANH MỤC VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT TẮT

CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ

1

BCHTW

Ban chấp hành trung ương


2

BTTM

Bộ tổng tham mưu

3

GDQP&AN

Giáo quốc phòng và an ninh

4

LLVT

Lực lượng vũ trang

5

QP & AN

Quốc phòng và an ninh

6

QPTD

Quốc phòng toàn dân


7

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

STT


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI .................................................................................. 1
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU ......................................................................... 2
3. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU ......................................................................... 2
4. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU ...................................................................... 2
5. PHẠM VI NGHIÊN CỨU ............................................................................ 2
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU................................................................. 2
7. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI ........................... 3
8. BỐ CỤC CỦA KHÓA LUẬN ...................................................................... 3
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGHỆ THUẬT TẠO SỨC
MẠNH TỔNG HỢP BẰNG LỰC, THẾ, THỜI TRONG CHIẾN TRANH ... 4
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM ............................................................................... 4
1.1.1. Khái niệm về Thế trận ............................................................................. 4
1.1.2.Khái niệm về Thời.................................................................................... 4
1.1.3.Khái niệm về Lực ..................................................................................... 5
1.2. CƠ SỞ HÌNH THÀNH NGHỆ THUẬT TẠO SỨC MẠNH TỔNG HỢP
BẰNG LỰC, THẾ, THỜI TRONG CHIẾN TRANH ....................................... 5
1.2.1. Nghệ thuật tạo sức mạnh tổng hợp lực, thế, thời của ông cha ta ............ 5

1.2.2. Nghệ thuật tạo sức mạnh từ khi có Đảng lãnh đạo ................................. 8


TIỂU KẾT CHƯƠNG 1.................................................................................. 11
CHƯƠNG 2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGHỆ THUẬT TẠO SỨC
MẠNH TỔNG HỢP BẰNG LỰC, THẾ, THỜI CỦA ĐẢNG TA TRONG
KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC ...................... 12
2.1. BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CÁCH MẠNG CỦA
ĐẢNG TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP. ....................................... 12
2.1.1. Bối cảnh quốc tế .................................................................................... 12
2.1.2. Bối cảnh trong nước .............................................................................. 14
2.1.3. Vai trò Đảng Cộng sản Việt Nam ......................................................... 15
2.2. NGHỆ THUẬT TẠO SỨC MẠNH TỔNG HỢP BẰNG LỰC, THẾ,
THỜI CỦA ĐẢNG TA TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP. ............. 17
2.2.1. Nghệ thuật tạo sức mạnh bằng lực ........................................................ 17
2.2.2 . Nghệ thuật tạo sức mạnh bằng thế ....................................................... 25
2.2.3 . Nghệ thuật tạo sức mạnh bằng thời...................................................... 29
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2.................................................................................. 36
CHƯƠNG 3. NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM NHẰM NÂNG CAO
NGHỆ THUẬT TẠO SỨC MẠNH TỔNG HỢP BẰNG LỰC, THẾ, THỜI
CỦA ĐẢNG TA TRONG CHIẾN TRANH NHÂN DÂN BẢO VỆ TỔ
QUỐC HIỆN NAY. ........................................................................................ 37
3.1. PHÁT HUY TINH THẦN TOÀN QUỐC KHÁNG CHIẾN, ĐẨY MẠNH
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC, BẢO VỆ VỮNG
CHẮC TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA. ................................. 37


3.2. XÂY DỰNG VÀ PHÁT HUY TINH THẦN ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN,
ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ TRONG CHIẾN TRANH NHÂN DÂN BẢO VỆ TỔ
QUỐC.............................................................................................................. 43

3.3. ĐỀ RA ĐƯỢC ĐƯỜNG LỐI ĐÚNG ĐẮN VÀ QUÁN TRIỆT THỰC
HIỆN SÂU RỘNG TRONG TOÀN ĐẢNG, TOÀN DÂN VÀ TOÀN QUÂN
......................................................................................................................... 46
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 52
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 53


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trải qua hơn 4000 năm lịch sử, dân tộc Việt Nam đã khẳng định một
truyền thống đấu tranh anh dũng và vẻ vang. Trong suốt chiều dài lịch sử ấy,
dân tộc ta liên tục phải chống lại kẻ thù xâm lược trong tình thế chiến đấu
không cân sức trên nhiều phương diện (so sánh lực lượng đối kháng). Kẻ thù
xâm lược có tiềm lực kinh tế mạnh, quân số đông, vũ khí trang bị hiện đại.
Trong quá trình đấu tranh chống giặc ngoại xâm, nghệ thuật quân sự
Việt Nam được hình thành và phát triển, góp phần quan trọng vào thắng lợi
của dân tộc. Những loại hình nghệ thuật quân sự đã trở thành binh pháp tiêu
biểu như: Nghệ thuật chiến tranh nhân dân, nghệ thuật sử dụng lực lượng vũ
trang, nghệ thuật tổng hợp sức mạnh lực, thế, thời và mưu kế, nghệ thuật nghi
binh…
Lực, thế, thời là ba yếu tố có mối quan hệ hữu cơ với nhau tạo nên
chiến thắng, đặc biệt trong cuộc kháng chiến chống Pháp, kẻ thù có sức mạnh
quân sự, tiềm lực kinh tế hơn ta nhưng Đảng ta đã vận dụng được lực lượng,
thế trận và nắm bắt thời cơ, tạo thời cơ đúng lúc để chiến thắng đối phương
điển hình như Chiến dịch biên giới 1950 và đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên
Phủ 1954. Nghệ thuật tạo sức mạnh tổng hợp bằng lực, thế, thời có vai trò đặc
biệt quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc ta, có ý nghĩa
vô cùng quan trọng đến thắng lợi của dân tộc ta, giúp chúng ta hiểu được
nghệ thuật tạo sức mạnh tổng hợp bằng lực, thế, thời là bài học kinh nghiệm
vô cùng quý báu, cũng là cơ sở để Đảng ta vận dụng nghệ thuật đó vào công

cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Vì vậy tác giả chọn đề tài:” Nghệ
thuật tạo sức mạnh tổng hợp lực, thế, thời trong kháng chiến chống pháp” làm
đề tài khóa luận cuối khóa của mình.
1


2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu nghệ thuật tạo sức mạnh tổng hợp bằng lực, thế, thời của
Đảng ta trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Từ đó để vận dụng phát triển nghệ thuật tạo sức mạnh tổng hợp bằng
thế, lực, thời của Đảng ta trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay

3. Nhiệm vụ nghiên cứu
làm rõ những vấn đề chung về nghệ thuật tạo sức mạnh tổng hợp bằng
lục, thế, thời trong chiến tranh.
Làm rõ những vấn đề chung của nghệ thuật tạo sức mạnh tổng hợp lực,
thế, thời trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
Đồng thời đưa ra một số bài học kinh nghiệm nhằm nâng cao nghệ thuật
tạo sức mạnh tổng hợp bằng lực, thế, thời của Đảng ta trong chiến tranh nhân
dân bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
4. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu nghệ thuật tạo sức mạnh tổng hợp bằng lực, thế, thời trong
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

5. Phạm vi nghiên cứu
Nghệ thuật quân sự Việt Nam trong kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược
6. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp lịch sử, phân tích, so sánh, tổng hợp, chứng minh..
2



Thông qua việc nghiên cứu thu thập tài liệu của Đảng, Quân đội, các
kênh thông tin quân đội, lịch sử quân sự Việt Nam.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Củng cố sâu sắc thêm nội dung, kiến thức về nghệ thuật quân sự nói
chung và nghệ thuật tạo sức mạnh tổng hợp bằng lực, thế, thời dưới sự lãnh
đạo của đảng trong kháng chiến chống Pháp nói riêng.
Kết quả làm tài liệu nghiên cứu học tập các nội dung liên quan.
Phát triển và vận dụng nghệ thuật tạo sức mạnh tổng hợp bằng lực, thế,
thời trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

8. Bố cục của khóa luận
Gồm phần mở đầu, 3 chương, kết luận, tài liệu tham khảo.

3


Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGHỆ THUẬT TẠO SỨC
MẠNH TỔNG HỢP BẰNG LỰC, THẾ, THỜI TRONG CHIẾN TRANH
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM

1.1.1. Khái niệm về Thế trận
Theo từ điển bách khoa Quân sự Việt Nam:
Thế trận là tổ chức, bố trí, triển khai lực lượng và thiết bị chiến trường
nhằm tạo thế có lợi và phát huy cao sức mạnh chiến đấu của các lực lượng
tham chiến để giành thắng lợi trong tác chiến. Thế trận phải phù hợp với ý
định tác chiến. Thế trận luôn vận động và phát triển theo các hoàn cảnh, điều
kiện củ thể của việc đối chọi mưu kế và cách đánh giữa hai bên đối địch. Thế
trận trong phạm vi chiến thuật là đội hình chiến đấu, trong phạm vi chiến dịch

và bố trí chiến dịch, trong phạm vi cả cuộc chiến tranh là bố trí chiến lược.
Thế trận càng hiểm, mưu kế càng hay thì sức mạnh của lực lượng càng lớn.
Trong chiến tranh nhân dân ở Việt Nam thế trận rất phong phú như: thế trận
cài răng lược, thế trận chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc…
1.1.2.Khái niệm về Thời
Theo từ điển bách khoa Quân sự Việt Nam:
Thời là tình thế xuất hiện trong thời điểm nhất định rất có lợi cho việc
phát huy sức mạnh giành thắng lợi trong khởi nghĩa, chiến tranh và trong tác
chiến. Thời cơ có thể do năng động chủ quan tạo nên và cũng có thể do sai
lầm của đối phương hoặc điều kiện khách quan đưa đến. Thời cơ thường xuất
hiện rất nhanh, đột ngột và đi cũng rất nhanh. Có thời cơ chiến lược, chiến
dịch, chiến thuật. Tạo thời cơ, nắm bắt đúng thời cơ, hành động đúng thời cơ
có ý nghĩa rất quan trọng trong việc giành thắng lợi.

4


Thời cơ khởi nghĩa là thời cơ bảo đảm cho khởi nghĩa giành thắng lợi,
đó là: Kẻ thù khủng hoảng, suy yếu nghiêm trọng, đa số quần chúng ủng hộ
khởi nghĩa, tổ chức lãnh đạo khởi nghĩa đã sẵn sàng hành động. Thời cơ khởi
nghĩa chỉ xuất hiện khi các điều kiện khách quan và chủ quan đã chín muồi,
có sự tác động, kết hợp chặt chẽ với nhau, chớp đúng thời cơ khởi nghĩa thành
công.
1.1.3. Khái niệm về Lực
Theo từ điển bách khoa Quân sự Việt Nam:
Có lực lượng Quân sự, lực lượng chính trị, lực lượng kinh tế, lực lượng
vũ trang, lực lượng tinh thần...”Lực”: Gọi tắt của lực lượng, thường dùng đi
đôi với thuật ngữ thế. Lực là toàn bộ sinh lực, phương tiện vật chất và các khả
năng khác được dùng để tiến hành chiến tranh và các hoạt động quân sự. Lực
là sinh lực, phương tiện vật chất được sử dụng chủ yếu, thứ yếu, tiến công.

1.2. CƠ SỞ HÌNH THÀNH NGHỆ THUẬT TẠO SỨC MẠNH TỔNG HỢP BẰNG
LỰC, THẾ, THỜI TRONG CHIẾN TRANH

1.2.1. Nghệ thuật tạo sức mạnh tổng hợp lực, thế, thời của ông cha ta
Việt Nam có truyền thống đấu tranh dựng nước và giữ nước vô cùng
oanh liệt. trong suốt chiều dài lịch sử, dân tộc ta luôn phải chống lại kẻ thù
xâm lược và thường ở trong tình thế chiến đấu không cân sức, nhất là vào thời
kì đầu của cuộc khởi nghĩa hoặc chiến tranh. So với lực lượng đối kháng, nói
chung chúng ta thua kém trên nhiều phương diện, ngoại trừ tinh thần yêu
nước, tinh thần đoàn kết và ý chí độc lập tự do của nhân dân. Chính trong
cuộc chiến không cân sức kéo dài ấy mà dân tộc ta hình thành nên rất nhiều
loại hình nghệ thuật quân sự đặc sắc như nghệ thuật chiến tranh nhân dân,
nghệ thuật chiến tranh du kích, nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật, nghệ
thuật khởi nghĩa vũ trang …và nghệ thuật tạo sức mạnh tổng hợp bằng lực,
5


thế, thời đã được ông cha ta vận dụng một cách tài tình qua nhiều trận đánh và
giành được nhiều thắng lợi to lớn như:
Trong cuộc kháng chiến chống quân Tống của Lý Thường Kiệt trên
phòng tuyến sông Như Nguyệt cũng là một minh chứng cho tài thao lược của
ông cha ta. Nổi bật trong trận chiến này là thế trận phòng tuyến sông Như
Nguyệt; Dưới sự chỉ huy của Lý Thường Kiệt về lực lượng ta có gần 60.000
quân trong khi lực lượng địch có hơn 100.000 quân và có sự hỗ trợ của lực
lượng thủy binh. Tuy rằng lực lượng của ta ít hơn nhưng nhờ trí thông minh
của Lý Thường Kiệt, sau vài trận giao chiến ông nhận ra được quân địch vào
nước ta bị suy yếu do không chịu được khí hậu của Đại Việt cộng thêm chúng
đang hoang mang và lo sợ sau hai lần thất bại, nhận thấy thời cơ đã đến, Lý
Thường Kiệt cho quân phản công và giành được thắng lợi to lớn.
Ngô Quyền chỉ có một đội quân nhỏ mà trong mấy ngày đã đánh tan đội

quân Nam Hán lớn mạnh hơn. Đội quân nhỏ của Ngô Quyền đã biết dụng thế
và thời để chiến thắng. Cọc dưới lòng sông Bạch Đằng là “thế”, thủy triều là
“thời”. Do vận dụng thế, thời một cách tài tình nên Ngô Quyền đã giành thắng
lợi, chiến tranh chỉ diễn ra trong vòng mấy ngày. Đây là cuộc chiến tranh
ngắn nhất trong lịch sử chiến tranh Việt Nam. Nghệ thuật tạo sức mạnh tổng
hợp bằng lực, thế, thời được hình thành và vận dụng đạt kết quả cao trong
chiến đấu.
Cũng nói về nghệ thuật này, năm 1788-1789, Quang Trung đã sử dụng
loại hình nghệ thuật này trong kháng chiến chống quân xâm lược phương
Bắc. Đây là trận tiêu diệt chiến lược gọn gàng nhất và nhanh nhất của quân và
dân ta chống quân xâm lược. Quang Trung diệt 29 vạn quân Thanh chỉ trong
2 tháng (11-1788 – 30-12-1788), nếu chỉ thời gian tham chiến thì chỉ mất 5
ngày. Quang Trung nhận định muốn lấy ít thắng nhiều thì cần tạo ra bất ngờ,
6


tạo thời cơ. Quang Trung đã nhận thấy trước thời cơ và chọn thời cơ là tết Kỷ
Dậu làm thời điểm quyết chiến chiến lược ngay từ khi ông còn ở Phú Xuân.
Về thế trận: 5 mũi tiến công vào thành Thăng Long được Quang Trung bố trí
rất bài bản, vừa hợp lý, vừa rất lợi hại, khác nào răng lưới bủa vây con thứ
rừng để rồi sau đó phóng lao đâm chết nó. Quang Trung đã tận dụng khả năng
của các con sông lớn để phát huy sức mạnh của thủy quân. Lập thế trận hiểm
hóc, tận dụng thời cơ, tập trung lực lượng ở địa điểm và thời gian quyết định,
đánh đòn quyết định, giành thắng lợi nhanh, tiêu diệt gọn địch là đặc điểm
của nghệ thuật quân sự mà chúng ta cần học tập.
Hơn 4000 năm lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước cũng là hơn
4000 năm nghệ thuật quân sự Việt Nam được hình thành và vận dụng trong
các trận chiến đấu và giành nhiều thắng lợi to lớn. Nghệ thuật quân sự tạo sức
mạnh tổng hợp bằng thế, lực, thời đã được hình thành và lưu truyền cho đến
tận ngày nay và được Đảng ta vận dụng và sáng tạo trong mỗi trận chiến đấu.

Đúng như Hồ Chi Minh đã từng nói, nước nhỏ đánh một nước lớn thì phải
dùng “thế” và” thời”
Trong Bình Ngô Đại Cáo, Nguyễn Trãi viết:
“Yếu đánh mạnh hay đánh bất ngờ,
Ít địch nhiều thường dùng mai phục”
Trong Quân Trung Từ Mệnh Tập, Nguyễn Trãi viết: “Được thời có thế
thì mất biến thành còn, nhỏ hóa ra lớn. không thời mất thế thì to hóa ra nhỏ,
mạnh hóa yếu, an lại thành nguy”.

7


1.2.2. Nghệ thuật tạo sức mạnh từ khi có Đảng lãnh đạo
Giai đoạn 1930-1945: Đây là giai đoạn được đánh dấu bằng nhiều mốc
son lịch sử đánh dấu cho sự chuẩn bị về lực lượng của Đảng ta. Năm 1930
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời đã đưa ra đường lối và quyết sách đưa cách
mạng ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Một trong những đường lối đó
là việc xây dựng và chuẩn bị lực lượng, dự đoán thời cơ, xây dựng thế trận để
tiến hành khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng trong cuộc kháng
chiến chống Pháp. Trong điều kiện cụ thể của nước ta, lực lượng để tiến hành
khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng không chỉ đơn thuần dựa vào
lực lượng vũ trang, quân đội, mà trước hết quan trọng nhất là lực lượng chính
trị của quần chúng được giác ngộ, được tổ chức chặt chẽ và rộng khắp; phải
bắt đầu bằng việc xây dựng lực lượng chính trị quần chúng, rồi trên cơ sở đó
xây dựng và phát triển lực lượng mọi mặt của cách mạng. Lực lượng chính trị
quần chúng không chỉ là nền tảng vững chắc và nguồn tiếp sức vô hạn cho
việc phát triển lực lượng vũ trang nhân dân, mà còn là lực lượng trực tiếp tiến
công địch, tiến hành công tác binh vận, địch vận, làm tan rã hàng ngũ địch.
Hơn nữa lực lượng của cách mạng, của kháng chiến không ngừng phát huy,
phát triển trong quá trình thực hiện đường lối “khởi nghĩa toàn dân” và “chiến

tranh nhân dân”. Đường lối đó lôi cuốn được mọi người dân Việt Nam tham
gia, “người có tiền góp tiền”, “người có sức góp sức”, mỗi người dân là một
chiến sĩ, đánh địch trên tất cả các mặt trận: quân sự, chính trị, kinh tế, văn
hóa, ngoại giao, tiến công địch ở khắp mọi lúc, mọi nơi, kể cả tiền tuyến và
hậu phương. Nhờ đó, đã huy động và tạo được sức mạnh to lớn của toàn dân
đánh giặc. Sức mạnh ấy còn được nhân lên gấp bội bằng sự kết hợp lực lượng
mọi mặt của toàn dân tộc với lực lượng cách mạng của thời đại, tranh thủ sự
giúp đỡ của các nước anh em, bầu bạn trong mặt trận chống đế quốc xâm
lược.
8


Trong chỉ đạo thực tiễn, để tạo lực lượng cho cách mạng, từ năm 1941
khi về nước trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, Chủ tịch Hồ
Chí Minh chủ trương thành lập mặt trận Việt Minh, thúc đẩy việc xây dựng
các tổ chức cách mạng của quần chúng, hình thành các đạo quân chính trị
ngày càng hùng hậu. Trên cơ sở đó, Người chỉ thị các đội du kích, thành lập
đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, đồng thời chăm lo xây dựng các
vùng căn cứ địa và chính quyền cách mạng ở các địa phương. Nhờ thế mà khi
thời cơ đến, với lực lượng cách mạng đã chuẩn bị sẵn sàng và chu đáo, nhân
dân trên mọi miền đất nước đã vùng lên giành toàn bộ chính quyền bằng cuộc
tổng khởi nghĩa Thánh Tám năm 1945. Cuộc cách mạng tháng 8 năm 1945
đánh dấu bước thành công lớn của nghệ thuật tạo sức mạnh tổng hợp bằng
lực, thế thời.
Giai đoạn 1945-1954: Sau thành công của cách mạng tháng 8 năm 1945
là chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954. Trong chiến thắng Điện Biên Phủ,
chúng ta đã lợi dụng được địa hình hiểm trở của núi rừng Tây Bắc để đưa ra
các phương thức tác chiến trong mỗi trận đánh: cách thức kéo pháo vào trận
địa, dấu pháo ở sườn núi, đào công sự, hầm hào nhưng tất cả những yếu tố đó
đều được đặt trên một nền tảng quan trọng là sự đồng lòng đồng sức của tinh

thần “tất cả cho tuyền tuyến và tất cả để chiến thắng”.
Nhân dân ở vùng tự do Thanh – Nghệ - Tĩnh, vùng mới giải phóng Tây
Bắc cũng như vùng sau lưng địch đều hăng hái tham gia phục vụ trận tuyến.
Chúng ta đã tổ chức những tuyến cung cấp dài 400-500km từ Thanh Hóa, Phú
Thọ đến Tây Bắc. Chúng ta đã huy động mọi phương tiện từ hiện đại đến thô
sơ có thể huy động được để vận chuyển lương thực, đạn dược ra mặt trận, các
đoàn xe ô tô đi không đèn trong suốt nhiều đêm, hàng vạn xe đạp thô sơ, xe
đẩy thô sơ, hàng ngàn thuyền mảng, đoàn lừa, ngựa được sử dụng để vận
chuyển cho tiền tuyến. Cả dân tộc Việt Nam đã đảm bảo công việc hậu cần
9


cho một lực lượng bộ đội lớn, tác chiến trên một mặt trận rất xa hậu phương,
trong một thời gian dài; một việc làm mà quân Pháp không thể lường trước
được, nằm ngoài sức tưởng tượng của chúng.
Như vậy tinh thần quyết chiến, quyết thắng, đoàn kết đồng lòng, đồng
sức của dân tộc ta và nghệ thuật phát huy yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân
hòa” đã là những nhân tố quyết định tạo nên sức mạnh tổng lực làm nên chiến
thắng Điện Biên Phủ.
Phát huy nghệ thuật tạo sức mạnh tổng hợp bằng lực, thế, thời được phát
huy cao trong các cuộc kháng chiến, đặc biệt đã làm nên chiến thắng lớn,
chiến dịch Điện Biên Phủ và cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược.

10


Tiểu kết chương 1
Trong nghệ thuật quân sự Việt Nam có nhiều loại hình nghệ thuật quân
sự khác nhau như lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều, nghệ thuật chiến tranh

nhân dân, nghệ thuật khởi nghĩa vũ trang… và điển hình là nghệ thuật tạo sức
mạnh tổng hợp bằng lực, thế, thời. nghệ thuật tạo sức mạnh tổng hợp lực, thế,
thời đã được ông cha ta vận dụng một cách tài tình qua nhiều trận đánh và
giành được nhiều thắng lợi to lớn như: kháng chiến chống quân Tống trên
phòng tuyến sông Như Nguyệt của Lý Thường Kiệt, chống quân Thanh của
Quang Trung hay chiến thắng của Ngô Quyền trên sông Bạch Đằng… Tất cả
nhưng thắng lợi đó đã cho ta thấy được sự tài ba của ông cha ta trong việc vận
dụng lực, thế, thời khi hoàn cảnh đất nước còn nghèo nàn, thường xuyên bị
quân giặc phương Bắc sang xâm lược, quân sĩ chưa đủ mạnh… Các vị tướng
tài của dân tộc nhận thức được rằng không thể dùng trứng chọi đá mà phải
dùng mưu, mưu muốn thành thì phải lợi dụng thế trận, lực lượng, thời cơ mà
vận dụng trong chiến đấu. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời năm 1930 đánh
dấu bước ngoặt lịch sử của cách mạng Việt Nam. Đảng ra đời với những
đường lối, quyết sách đúng đắn đã đưa cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này
đến thắng lợi khác. Đảng Cộng sản Việt Nam đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin một cách sáng tạo
vào hoàn cảnh của Việt Nam, cùng với đó là những kinh nhiệm quý báu của
cha ông ta để lại. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp nghệ thuật tạo
sức mạnh tổng hợp bằng lực, thế, thời đã được phát huy mạnh mẽ.

11


Chương 2.MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGHỆ THUẬT TẠO SỨC
MẠNH TỔNG HỢP BẰNG LỰC, THẾ, THỜI CỦA ĐẢNG TA TRONG
KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC
2.1. BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG
TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP.

2.1.1. Bối cảnh quốc tế

Trước khi chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc, các cường quốc Đồng
minh đã có nhiều cuộc gặp giữa ba vị nguyên thủ quốc gia Mỹ, Anh và Liên
Xô ở Têhêran (Iran 1943), Ianta (Liên Xô 2.1945), Pôtxđam (Đức 7.1945).
Nội dung thảo luận nhằm vào 2 vấn đề chủ yếu là tiêu diệt tận gốc chủ nghĩa
phát xít và giải quyết các vấn đề thời hậu chiến. Về các vấn đề sau chiến
tranh, ngoài việc đề ra biện pháp xử lý các nước bại trận và tổ chức Liên Hiệp
Quốc thì thực chất của mối quan tâm là sự phân chia khu vực ảnh hưởng giữa
các nước lớn, thực chất là giữa hai khối TBCN và XHCN. Việc chia xẻ bản
đồ thế giới phụ thuộc vào sự dàn xếp giữa các thế lực quốc tế, tạo nên những
vùng lãnh thổ được hoạch định theo một trật tự thế giới mới đang hình thành,
thường được gọi là Trật tự Ianta.
Theo đó, châu Âu bị chia thành hai mảng: Tây Âu do Mỹ, Anh, Pháp
chiếm đóng, Đông Âu do Liên Xô quản lý. Nước Đức cũng bị chia thành hai
miền tương tự – Tây Đức và Đông Đức. Và ngay thành phố thủ đô Beclin
cũng bị phân đôi – Tây Beclin và Đông Beclin. Chính vì thế mà nơi đây được
coi như một điểm nóng rất gay cấn, rất dễ biến thành ngòi nổ cho một cuộc
chiến tranh mới.
Ở Châu Á – Thái Bình Dương, dưới danh nghĩa giải giáp quân đội Nhật,
Mỹ được quyền chiếm đóng Nhật Bản; bán đảo Triều Tiên bị chia đôi theo vĩ
tuyến 38: Liên Xô đóng ở phía Bắc, Mỹ đóng ở phía Nam; Việt Nam bị chia
theo vĩ tuyến 16: quân Trung Hoa ở phía bắc, quân Anh ở phía nam.
12


Trong thời gian Thế chiến 2, phong trào giải phóng dân tộc đã có một
bước phát triển mạnh mẽ. Nhất là ở vùng Đông Á và Đông Nam Á, cuộc đấu
tranh chống ách thống trị thực dân gắn kết với cuộc đấu tranh chống phát xít
Nhật đã thu hút đông đảo quần chúng, tập hợp nhiều đảng phái chính trị tham
gia nhằm giải thoát khỏi tình trạng thuộc địa và phụ thuộc. Với những tên gọi
khác nhau, mặt trận dân tộc thống nhất chống Nhật đã ra đời ở Trung Quốc,

Hàn Quốc, Việt Nam, Miến Điện, Inđônêxia…đều nhằm mục đích chung là
giành độc lập, tự do. Bước đột phá là ngay sau khi Nhật Bản đầu hàng
(15.8.1945), ba nước Inđônêxia, Việt Nam và Lào đều lần lượt tuyên bố độc
lập vào các ngày 17.8, 2.9 và 12.10 năm đó. Có thể coi đây là những quốc gia
độc lập đầu tiên trên thế giới thoát khỏi hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế
quốc sau Thế chiến 2. Còn ở các nơi khác, mặc dầu phong trào đấu tranh
chống phát xít kết hợp với yêu sách độc lập khá sôi nổi nhưng các đế quốc lại
trở về làm chủ thuộc địa cũ của mình: Mỹ trở về Philippin; Anh trở về Ấn Độ,
Miến Điện, Xingapo; Pháp trở về Campuchia …
Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới lần thứ hai bước vào giai đoạn
cuối. Hồng quân Xô Viết liên tiếp giành thắng lợi quyết định trên chiến
trường châu Âu, giải phóng một loạt nước và tiến thẳng vào sào huyệt phát xít
Đức tại Béc-lin. Ngày 9-5-1945, phát xít Đức đầu hàng vô điều kiện, chiến
tranh kết thúc ở châu Âu. Ngày 8-8-1945, Hồng quân Liên Xô tiến công như
vũ bão vào quân đội Nhật. Ngày 14-8-1945, phát xít Nhật đầu hàng vô điều
kiện, chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc. Theo thỏa thuận của các nước
Đồng minh, sau khi phát xít Nhật đầu hàng, quân đội Anh và Tưởng sẽ vào
Đông Dương để giải giáp quân đội Nhật. Trong khi đó, thực dân Pháp lăm le
dựa vào Đồng minh hòng khôi phục địa vị thống trị của mình; đế quốc Mỹ
đứng sau các thế lực này cũng sẵn sàng can thiệp vào Đông Dương; những

13


phần tử phản động, ngoan cố trong chính quyền tay sai Nhật đang âm mưu
thay thầy đổi chủ, chống lại cách mạng.
2.1.2. Bối cảnh trong nước
Ở trong nước, trải qua các cuộc diễn tập, đến năm 1945, phong trào cách
mạng dâng cao. Ngày 9-3-1945, phát xít Nhật làm cuộc đảo chính hất cẳng
Pháp. Ngay trong đêm đó, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương mở rộng

quyết định phát động một cao trào cách mạng làm tiền đề cho tổng khởi
nghĩa, thay đổi các hình thức tuyên truyền, cổ động, tổ chức và đấu tranh cho
thích hợp. Tháng 3-1945, Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau
và hành động của chúng ta”. Tháng 4-1945, Trung ương triệu tập Hội nghị
quân sự cách mạng Bắc Kỳ, quyết định nhiều vấn đề quan trọng, thống nhất
các lực lượng vũ trang thành Việt Nam giải phóng quân. Ngày 16-4-1945,
Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị tổ chức các Ủy ban Dân tộc giải phóng các cấp
và chuẩn bị thành lập Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam, tức Chính phủ
lâm thời cách mạng Việt Nam.
Từ tháng 4-1945 trở đi, cao trào kháng Nhật cứu nước diễn ra mạnh mẽ,
phong phú về nội dung và hình thức. Đầu tháng 5-1945, Bác Hồ từ Cao Bằng
về Tuyên Quang, chọn Tân Trào làm căn cứ chỉ đạo cách mạng cả nước và
chuẩn bị Đại hội quốc dân. Ngày 4-6-1945, Khu giải phóng Việt Bắc được
thành lập, đặt dưới sự lãnh đạo của Ủy ban chỉ huy lâm thời, trở thành căn cứ
địa của cả nước. Tháng 8-1945, Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng họp tại
Tân Trào (Tuyên Quang) khẳng định: “Cơ hội rất tốt cho ta giành độc lập đã
tới” và quyết định phát động toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền từ tay
phát xít Nhật và tay sai trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương; đề ra ba
nguyên tắc bảo đảm tổng khởi nghĩa thắng lợi, đó là: tập trung, thống nhất,
kịp thời. 23 giờ ngày 13-8-1945, Ủy ban Khởi nghĩa ra Quân lệnh số 1 hiệu
triệu toàn dân tổng khởi nghĩa. Ngày 16-8-1945, Đại hội Quốc dân họp tại
14


Tân Trào thông qua “10 chính sách lớn của Việt Minh”; thông qua “Lệnh
tổng khởi nghĩa”; quy định quốc kỳ, quốc ca; thành lập Ủy ban Dân tộc giải
phóng Trung ương, tức Chính phủ Lâm thời do đồng chí Hồ Chí Minh làm
Chủ tịch. Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi nhân dân cả nước tổng khởi
nghĩa, trong đó chỉ rõ: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn
quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả
nước đồng loạt vùng dậy, tiến hành tổng khởi nghĩa, giành chính quyền. Từ
ngày 14 đến ngày 18-8, cuộc tổng khởi nghĩa nổ ra giành được thắng lợi ở
nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, đại bộ phận miền Trung, một phần miền Nam
và ở các thị xã: Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Hội An, Quảng Nam... Ngày
19-8, khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi ở Hà Nội. Ngày 23-8, khởi
nghĩa thắng lợi ở Huế và ở Bắc Cạn, Hòa Bình, Hải Phòng, Hà Đông, Quảng
Bình, Quảng Trị, Bình Định, Gia Lai, Bạc Liêu... Ngày 25-8, khởi nghĩa
thắng lợi ở Sài Gòn - Gia Định, Kon Tum, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Trà Vinh,
Biên Hòa, Tây Ninh, Bến Tre... Ở Côn Đảo, Đảng bộ nhà tù Côn Đảo đã lãnh
đạo các chiến sĩ cách mạng bị giam cầm nổi dậy giành chính quyền.
2.1.3. Vai trò Đảng Cộng sản Việt Nam
Ngày 3-2-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời không chỉ chấm dứt sự
khủng hoảng về đường lối cứu nước, mà còn khẳng định vai trò quyết định về
sự lãnh đạo của của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với cách mạng Việt Nam.
Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định, muốn làm cách mạng thì
“Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân
chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản mọi
nơi.Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có
vững thuyền mới chạy”.
15


Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, với đường lối đúng đắn,
dựa trên cơ sở lý luận Mác - Lê-nin, phù hợp với điều kiện cụ thể của cách
mạng Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử loài người, Đảng ta đã quy tụ,
đoàn kết chung quanh mình tất cả các giai cấp và các tầng lớp nhân dân yêu
nước, xây dựng nên lực lượng cách mạng to lớn và rộng khắp, đấu tranh
chống thực dân, phong kiến vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Quá trình tổ chức và lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã tổ chức và

lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh giành nhiều thắng lợi quan trọng.
Qua 15 năm lãnh đạo cách mạng (1930 - 1945), với ba cao trào cách
mạng lớn (1930 - 1931, 1936 - 1939, 1939 - 1945), khi thời cơ đến, Đảng đã
nhanh chóng chớp lấy thời cơ, với tinh thần “Dù phải đốt cháy cả dãy Trường
Sơn cũng kiên quyết giành cho được độc lập”, Đảng ta đã phát động cuộc
Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.Với thắng lợi của cuộc
Cách mạng Tháng Tám năm 1945, dân tộc ta đã giành lại nền độc lập sau hơn
80 năm bị thực dân đô hộ.
Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã kịp thời đề ra những chủ
trương và quyết sách đúng đắn, khôn khéo, toàn diện trên tất cả các mặt chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại để giữ vững
chính quyền non trẻ.
Khi thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta, hưởng ứng lời kêu gọi của
Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đồng loạt đứng lên với
tinh thần “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định
không chịu làm nô lệ”, tiến hành cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân
Pháp xâm lược. Với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ,
dựa vào sức mình là chính, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, Đảng ta đã lãnh
đạo nhân dân ta vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ, hy sinh, giành thắng
16


lợi to lớn trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, kết thúc
bằng Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa
cầu”.
2.2. NGHỆ THUẬT TẠO SỨC MẠNH TỔNG HỢP BẰNG LỰC, THẾ, THỜI CỦA
ĐẢNG TA TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP.

2.2.1. Nghệ thuật tạo sức mạnh bằng lực
Do đặc điểm của cuộc chiến tranh chống pháp xâm lược của dân tộc ta

luôn phải lấy ít địch nhiều, lấy nhỏ thắng lớn, nên các cuộc tác chiến chiến
dịch và tác chiến chiến lược thường diễn ra trong điều kiện lực lượng chủ lực
của ta yếu hơn quân địch. Yêu cầu đặt ra là phải làm thế nào với lực lượng
sẵn có và có thể huy động được có thể đánh thắng chúng.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, trong mỗi thời
kì, trong mỗi giai đoạn của chiến tranh, việc xây dựng lực lượng, xác định
nhiệm vụ của các lực lượng cách mạng và chiến tranh cách mạng việc sử
dụng lực lượng có sự khác nhau nó phụ thuộc vào mục tiêu chiến lược và
phương thức tiến hành chiến tranh của từng trận đánh.
Cách tổ chức và bố trí lực lượng vũ trang nhân dân đã được Hồ Chí
Minh kế thừa từ truyền thống của tổ tiên ta đánh giặc: có quân triều đình,
quân các lộ và hương binh, làng chiến đấu nhưng đã được nâng lên một tầm
cao mới đó là sự kết hợp chặt chẽ giữa hai phương thức chiến tranh; phương
thức chiến tranh nhân dân địa phương (chiến tranh du kích) và phương thức
chiến tranh bằng các binh đoàn chủ lực (chiến tranh chính quy) nhằm tạo ra
sức mạnh tổng hợp để đánh bại mọi kẻ thù xâm lược. Từ trong kháng chiến
trường kỳ của dân tộc, so sánh lực lượng giữa ta và địch lúc đầu có sự chênh
lệch rất lớn. Địch có số lượng hơn ta nhiều về quân đội, máy bay, đại bác xe
tăng với các loại vũ khí hiện đại. Còn ta thì bắt đầu từ tầm vông, giáo mác của
17


×