Tải bản đầy đủ (.pdf) (56 trang)

Nghiên cứu nghệ thuật quân sự việt nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân pháp xâm lược (1946 1954)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (578.47 KB, 56 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH
***************

QUAN VĂN TÂN

NGHIÊN CỨU NGHỆ THUẬT
QUÂN SỰ VIỆT NAM TRONG CUỘC
KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN
PHÁP XÂM LƯỢC (1946-1954)
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Giáo dục quốc phòng và an ninh

HÀ NỘI - 2018


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH
***************

QUAN VĂN TÂN

NGHIÊN CỨU NGHỆ THUẬT
QUÂN SỰ VIỆT NAM TRONG CUỘC
KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN
PHÁP XÂM LƯỢC (1946-1954)
TÓM TẮT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Giáo dục quốc phòng và an ninh
Người hướng dẫn khoa học

Đại tá. ThS. Nguyễn Văn Phong



HÀ NỘI - 2018


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được khóa luận này, trước hết em xin bày tỏ lòng biết
ơn đến các Thầy cô giáo trong Trung tâm giáo dục quốc phòng & an ninh,
Trường ĐHSPHN2 đã tận tình truyền đạt những tri thức quý báu, giúp đỡ em
hoàn thành tốt khóa học và khóa luận tốt nghiệp.
Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến Thầy giáo, Đại tá.
ThS Nguyễn Văn Phong, người đã bỏ ra nhiều tâm huyết, tận tình giúp đỡ em
trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu, đóng góp những ý kiến quý báu để
em hoàn thành tốt khóa luận tốt nghiệp này.
Tiếp đó là lời cảm ơn bố mẹ, anh chị em gái trong gia đình, trong thời
gian qua đã theo sát và ủng hộ con, em trong học tập cũng như làm khóa luận
tốt nghiệp.
Khóa luận này chắc chắn không tránh khỏi những sai sót, kính mong
nhận được sự giúp đỡ, chỉ dẫn, đóng góp ý kiến của các thầy cô và các bạn để
bài khóa luận của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 15 tháng 05 năm 2018
Tác giả đề tài

Quan Văn Tân


LỜI CAM ĐOAN
Khóa luận này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của Thầy giáo, Đại
tá. ThS Nguyễn Văn Phong, em xin cam đoan rằng: đây là kết quả nghiên cứu
của riêng em, không trùng với bất kì chương trình nghiên cứu khoa học nào

của tác giả khác.
Nếu sai, em xin chịu hoàn toàn trách nhiệm!
Hà Nội, ngày 15 tháng 05 năm 2018
Tác giả đề tài

Quan Văn Tân


DANH MỤC CÁC DANH TỪ VIẾT TẮT

Stt

Từ viết tắt

Viết đầy đủ

1

ĐHQG

Đại học quốc gia

2

GD&ĐT

Giáo dục đào tạo

3


XHCN

Xã hội chủ nghĩa

4

Nxb

Nhà xuất bản


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU......................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 1
2. Mục đích nghiên cứu ................................................................................... 2
3. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................. 2
4. Đối tượng nghiên cứu.................................................................................. 2
5. Phạm vi nghiên cứu ....................................................................................... 2
6. Phương pháp nghiên cứu đề tài ..................................................................... 2
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài ...................................................... 3
8. Cấu trúc của đề tài. ........................................................................................ 3
Chương 1. ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ CHI PHỐI TIẾN TRÌNH CUỘC
KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (1946-1954) ... 4
1.1. Điều kiện lịch sử chi phối .......................................................................... 4
1.1.1. Tình hình thế giới .................................................................................... 4
1.1.2. Tình hình trong nước............................................................................... 6
1.2. Phát triển lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam ..................................... 7
1.2.1. Lực lượng vũ trang ba thứ quân .............................................................. 7
1.2.2. Phát triển lực lượng chiến tranh du kích lên lực lượng chính quy ....... 10
Tiểu kết chương 1....................................................................................................... 13

Chương 2. SỰ CHỈ ĐẠO KHÁNG CHIẾN VÀ PHƯƠNG THỨC KẾT
THÚC CHIẾN TRANH CỦA ĐẢNG ................................................................... 14
2.1. Phương châm kháng chiến của Đảng ....................................................... 14
2.1.1. Kháng chiến toàn dân ............................................................................ 14
2.1.2. Kháng chiến toàn diện........................................................................... 15
2.1.3. Kháng chiến trường kì........................................................................... 15
2.1.4. Kháng chiến dựa vào sức mình là chính ............................................... 15
2.1.5. Triển vọng kháng chiến......................................................................... 16


2.2. Diễn biến và kết quả tiến trình cuộc kháng chiến .............................................. 17
2.2.2. Chiến dịch biên giới Thu Đông năm 1950 ............................................ 18
2.2.3. Chiến dịch Đông Xuân 1953-1954 ....................................................... 19
2.2.4. Chiến dịch Điện Biên Phủ ..................................................................... 22
2.2.5. Một số kinh nghiệm tác chiến ............................................................... 24
2.3. Hiệp định Giơ- ne-vơ ............................................................................... 26
2.4. Nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp xâm lược (1946-1954) ..................................................................... 27
2.4.1. Nguyên nhân thắng lợi .......................................................................... 27
2.4.2. Ý nghĩa lịch sử ...................................................................................... 28
Tiểu kết chương 2....................................................................................................... 29
Chương 3. MỘT SỐ KINH NGHIỆM LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG TA
TRONG CHIẾN TRANH NHÂN DÂN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM
LƯỢC (1946-1954) .................................................................................................... 30
3.1. Nêu cao tinh thần tự lực tự cường, vừa chiến đấu vừa xây dựng lực lượng
vũ trang với ba thứ quân làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc ..................... 30
3.2. Xây dựng cǎn cứ địa và hậu phương tại chỗ vững chắc là điều kiện hình
thành thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp ............................................... 34
3.3. Xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ kháng chiến kiến quốc ................. 39
Tiểu kết chương 3....................................................................................................... 46

KẾT LUẬN ................................................................................................................. 47
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................... 49


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chiến tranh là thử thách lớn nhất đối với mỗi quốc gia, mỗi dân tộc trên
tất cả các mặt của đời sống xã hội. Thử thách đó càng lớn hơn nhiều với nước
ta vào cuối năm 1946. Nền độc lập mới giành được 16 tháng, chính quyền còn
non trẻ chưa được củng cố vững mạnh, vừa kháng chiến vừa kiến quốc nên
các mắt của đời sống chưa thực sự ổn định, mặt khác dân tộc ta lại phải đối
đầu với cuộc chiến tranh trên quy mô toàn quốc.
Cuộc Cách mạng tháng Tám, nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản đã giành chính quyền từ tay phát xít Nhật. Chủ tịch Hồ Chí
Minh công bố Tuyên ngôn Độc lập, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời.
Nhưng thực dân Pháp từ lâu đã có ý đồ xâm lược trở lại Đông Dương.
Sớm ý thức được mâu thuẫn giữa Anh - Mỹ - Pháp - Liên xô. Để tránh
phải đổ máu và có thời gian chuẩn bị, Đảng và nhà nước ta đã tích cực chủ
động linh hoạt chuẩn bị mọi mặt để sẵn sàng đối phó với hành động của địch.
Đồng thời làm hết sức mình để cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân pháp
không lan rộng ra cả nước.
Cùng với sự tài tình lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam,
đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh và với tinh thần nồng nàn yêu nước, ngoài
ra ta phải kể đến sự đóng góp to lớn của nhân dân các dân tộc Việt Nam. Kẻ
thù dù có lớn mạnh đến đâu, dù có nguy hiểm cỡ nào cũng không thể thắng
được tinh thần đoàn kết, lòng yêu nước của dân tộc ta. Họ đã hi sinh cả tuổi
trẻ, sức khỏe và gia đình để cùng nhau đứng lên đánh thắng mọi âm mưu của
các kẻ thù xâm lược.
Bằng tài năng chính trị quân sự kiệt suất và tấm lòng tận trung với nước
của các anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, tiêu biểu là Đại Tướng Võ

Nguyên Giáp, với phương châm: “Đánh chắc, tiến chắc”. Ngoài ra, với chiến

1


thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954 và hiệp định Giơ-ne-vơ đã đánh dấu
sự thất bại của thực dân Pháp trên chiến trường Việt Nam. Từ đó miền Bắc
Việt Nam được giải phóng tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội và trở thành
hậu phương vững chắc cho tiền tuyến miền Nam, làm tiền đề cho công cuộc
giải phóng miền nam Việt Nam thống nhất đất nước sau này.
Từ cở sở lý luận như vậy em đã quyết định chọn đề tài “Nghiên cứu
nghệ thuật quân sự Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược (1946-1954)” làm khóa luận tốt nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu một cách khái quát, hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn về
“Nghệ thuật quân sự Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược (1946-1954)”.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu diễn biến của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược (1946-1954)
- Nghiên cứu tình hình thế giới trong giai đoạn 1946-1954.
- Rút ra bài học kinh nghiệm của Đảng ta trong cuộc kháng chiến
chống thực dân pháp xâm lược (1946-1954). Làm cơ sở cho việc giải phóng
miền Nam thống nhất đất nước sau này.
4. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu nghệ thuật quân sự Việt Nam trong cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược (1946-1954).
5. Phạm vi nghiên cứu
Giáo trình lịch sử quân sự Việt Nam, tập bài giảng lịch sử quân sự Việt
Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1946-1954).

6. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Phương pháp luận, phương pháp phân tích, phương pháp thống kê,
phương pháp tổng hợp, phương pháp lôgic… để làm rõ nội dung nghiên cứu.

2


7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Đề tài đã làm sáng tỏ về vấn đề “Nghệ thuật quân sự Việt Nam trong
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1946-1954)”.
Trên cơ sở rút ra một số bài học kinh nghiệm quý báu trong cuộc kháng
chiến chống thực dân pháp xâm lược. Làm cơ sở cho công cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước và xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa trong giai đoạn hiện nay.
8. Cấu trúc của đề tài.
Đề tài gồm 3 chương, tiểu kết, kết luận:
Chương 1: Điều kiện lịch sử chi phối tiến trình cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp xâm lược (1946-1954).
Tiểu kết chương 1
Chương 2. Sự chỉ đạo kháng chiến và phương thức kết thúc chiến tranh
của Đảng.
Tiểu kết chương 2
Chương 3. Một số kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng ta trongchiến tranh
nhân dân chống thực dân Pháp xâm lược (1946-1954).
Tiểu kết chương 3

3


Chương 1

ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ CHI PHỐI TIẾN TRÌNH CUỘC KHÁNG
CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (1946-1954)
1.1. Điều kiện lịch sử chi phối
1.1.1. Tình hình thế giới
1.1.1.1. Chiến tranh thế giới thứ hai
Tình hình thế giới ngày càng có những diễn biến phức tạp, chiến tranh
thế giới thứ hai đang bước vào giai đoạn kết thúc. Nắm quyền chủ động, đầu
năm 1944, Liên Xô mở một loạt các chiến dịch lớn: Chiến dịch Ucraina ngày
01/03/1944, Crưm ngày 04/05/1944… Đến tháng 10 năm 1944 toàn bộ lãnh
thổ Liên Xô được giải phóng.
Từ tháng 08/1944 Liên Xô tiến vào lãnh thổ và lần lượt giải phóng các
nước Rumani, Hunggari, Bungari, Hilạp, Namtư, Hàlan, Tiệp…Từ 16/04 đến
02/05/1945 Hồng Quân mở chiến dịch tiến công BécLin. Ngày 02/05/1945
Liên Xô chiếm toàn bộ BécLin. Ngày 08/05/1945 Đức ký văn kiện đầu hàng
Đồng Minh, đến 09/05/1945 Đức đầu hàng vô điều kiện.
Mặt trận Thái Bình Dương: Từ tháng 1 đến tháng 03/1944 Mỹ tiếp tục đổ
bộ đánh chiếm Tânghinê, Mácsan, át mian... Từ tháng 06/1944 đến 04/ 1945.
Để giải phóng các nước châu á khỏi thảm hoạ phát xít và thực hiện lời
cam kết của mình. Ngày 08/08/1945 Liên Xô tuyên chiến với Nhật. Ngày
09/08/1945 cuộc tiến công vào Mãn Châu Lý bắt đầu, chỉ trong một thời gian
ngắn đã đánh tan đội quân Quan Đông của Nhật, giải phóng Mãn Châu Lý
(Trung Quốc), Bắc Triều Tiên, quần đảo Cu Rin…. Cùng ngày 6 và 9/8/1945
Mỹ ném 2 quả bom nguyên tử xuống Hi Rô Si Ma và Na Ga Sa Ki của Nhật.
Ngày 15/08/1945 Nhật đầu hàng Đồng Minh vô điều kiện, chiến tranh thế
giới thứ hai kết thúc.

4


Cuộc chiến tranh thế giới lần thứ II đã kéo dài 6 năm lẻ 01 ngày

(01/09/1939 đến 15/08/1945), lôi cuốn 61 nước với dân số 1700 triệu người
(86%) dân số thế giới. Làm chết 48,5 triệu người, 25 triệu người bị tàn phế.
Hàng vạn làng mạc bị thiêu cháy, hàng nghìn thành phố bị phá huỷ, tổn thất
vô cùng to lớn và để lại hậu quả cho đến ngày nay.
Trong cuộc chiến tranh thế giới thứ II, nghệ thuật quân sự của Liên Xô
và các nước Đức - Ý - Nhật có nhiều phát triển trên các lĩnh vực: chiến lược
quân sự, nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật. Những vấn đề đó đã và được
nhiều quốc gia trên thế giới nghiên cứu để vận dụng, phát triển nghệ thuật
quân sự của mình.
1.1.1.2. Về Phía Thực dân Pháp
Kháng chiến toàn quốc xảy ra trong điều kiện so sánh tương quan lực
lượng không có lợi cho ta. Đối tượng tác chiến của ta là đội quân nhà nghề
của thực dân Pháp, có trang bị tối tân, có trình độ tác chiến và chỉ huy cao một quân đội có kinh nghiệm trong chiến tranh xâm lược, đã thống trị nước ta
gần một thế kỷ, đội quân của một nước tư bản phát triển, có tiềm lực kinh tế,
khoa học và kỹ thuật khá hiện đại. Đến cuối nǎm 1946, đội quân này gồm
10 vạn tên đã có mặt trên đất nước ta.
Hành động đánh chiếm Việt Nam và Đông Dương của thực dân Pháp
nằm trong âm mưu và chiến lược phản kích toàn cầu của chủ nghĩa đế quốc
sau Chiến tranh thế giới thứ hai.
Pháp chiếm đóng Đông Dương nhằm ngǎn chặn làn sóng cách mạng và
chủ nghĩa xã hội ở vùng Đông Nam châu á. Chính vì vậy Anh, Mỹ tạo điều
kiện thuận lợi cho Pháp trở lại xâm lược Đông Dương và điểm mấu chốt là
Việt Nam.
Ở nước Pháp, giai cấp tư sản và lực lượng phản động được Mỹ giúp đỡ
đang tích cực hoạt động trành giành quyền lực trên vũ đài chính trị. Trong lúc

5


đó, lãnh tụ của Đảng xã hội Pháp từ chối hợp tác với Đảng Cộng sản Pháp để

giải quyết các vấn đề chính trị, xã hội. Điều đó tạo cơ hội thuận lợi cho lực
lượng thân Mỹ và phái chủ chiến trong Chính phủ Pháp trong việc đánh
chiếm lại Đông Dương và Việt Nam bằng vũ lực. Vấn đề Đông Dương được
Quốc hội Pháp thảo luận sôi nổi, đã hình thành những quan điểm và mâu
thuẫn giữa phái chủ chiến và phái chủ hoà, giữa những người cộng hoà và bọn
phản động thân Mỹ.
Trên đây là những điểm mạnh của phía Pháp trong chiến tranh Việt
Nam. Nhưng chúng cũng bộc lộ những điểm yếu không thể khắc phục được.
Sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, nền kinh tế nước Pháp sa sút, quân
đội thiếu hụt quân số. Trong điều kiện đó, Pháp vừa phải củng cố xây dựng
đất nước, vừa phải duy trì sự thống trị và đối phó với phong trào đấu tranh
giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa trong khối liên hiệp Pháp. Nếu chiến
tranh Việt - Pháp kéo dài thì nước Pháp sẽ khó khǎn hơn.
1.1.2. Tình hình trong nước
1.1.2.1. Thuận lợi cơ bản của ta
- Nhân dân đã giành quyền làm chủ, được hưởng quyền lợi do chính
quyền cách mạng mang lại nên phấn khởi và gắn bó với chế độ.
- Cách mạng nước ta có Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng
suốt lãnh đạo.
- Hệ thống XHCN đang hình thành, phong trào cách mạng thế giới phát triển.
- Phong trào đấu tranh vì hòa bình, dân chủ phát triển ở nhiều nước tư bản.
1.1.2.2. Khó khăn trước mắt
Việt Nam là nước nông nghiệp lạc hậu, kém phát triển, kinh tế Việt
Nam bị kìm hãm và bóc lột trong những nǎm thực dân Pháp thống trị, lại kiệt
quệ hơn bởi phát xít Nhật vơ vét tài nguyên phục vụ chiến tranh xâm lược của
chúng. Biểu hiện rõ nhất là trên 2 triệu người chết đói trong nǎm 1945.

6



Sau khi giành được độc lập bằng Cách mạng tháng Tám nǎm 1945,
Nhà nước và nhân dân ta ra sức chống đói, tích cực sản xuất để ổn định đời
sống nhân dân. Nhưng trong thời gian ngắn, sự nỗ lực chưa được bao nhiêu
thì chiến tranh Việt - Pháp đã xảy ra.
1.2. Phát triển lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam
1.2.1. Lực lượng vũ trang ba thứ quân
Đấu tranh vũ trang của ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp đi từ
chiến tranh du kích lên chiến tranh chính quy. Khi xuất hiện chiến tranh chính
quy - tác chiến tập trung đánh lớn của bộ đội chủ lực - thì việc kết hợp chiến
tranh chính quy với chiến tranh du kích là nội dung cơ bản của nghệ thuật
phát động toàn dân đánh giặc, lấy lực lượng vũ trang ba thứ quân (bộ đội chủ
lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích) làm nòng cốt. Đây cũng là một quy
luật của đấu tranh vũ trang và chiến tranh cách mạng Việt Nam.
1.2.1.1. Bộ đội chủ lực
Bộ đội chủ lực là bộ phận quan trọng nhất của quân đội thường trực, là
lực lượng cơ động nòng cốt hoàn thành các nhiệm vụ chiến lược trên chiến
trường.
Nhiệm vụ cơ bản của bộ đội chủ lực là tiến hành những trận đánh tiêu
diệt lớn lực lượng chiến lược của quân địch bằng tác chiến tập trung, hiệp
đồng binh chủng, tác chiến hiện đại, bảo vệ nhiều vùng lãnh thổ quan trọng…
đồng thời dìu dắt bộ đội địa phương và dân quân du kích, lực lượng chính trị
của quần chúng, thực hiện những đòn đánh quyết định trên các hướng chiến
lược chủ yếu, chiến trường chủ yếu, làm biến chuyển so sánh lực lượng và
cục diện chiến tranh có lợi cho ta để tiến tới giành thắng lợi toàn cục của cuộc
kháng chiến.
Bộ đội địa phương, bộ phận của quân đội thường trực ở tại địa phương,
là lực lượng tập trung, cơ động của địa phương, được xây dựng thích hợp với

7



nhiệm vụ của từng khu, tỉnh (thành phố), huyện (thị xã), theo điều kiện thực
tế của chiến trường mà tổ chức thành những đơn vị mạnh, có chất lượng cao,
có những binh chủng cần thiết, có khả năng tác chiến tập trung với quy mô
nhất định trên từng địa phương cụ thể.
1.2.1.2. Bộ đội địa phương
Nhiệm vụ chủ yếu của bộ đội địa phương là tác chiến tiêu diệt sinh lực
địch và phương tiện chiến tranh của địch, làm nòng cốt để phát động chiến
tranh nhân dân, chiến tranh du kích ở địa phương giúp quần chúng đấu tranh
chính trị và nổi dậy; dìu dắt dân quân du kích trong chiến đấu và xây dựng,
phối hợp tác chiến với dân quân du kích, chủ động tiến công tiêu diệt, tiêu hao
quân địch.
Cụ thể, bộ đội địa phương: phải phụ trách đánh những trận vừa và phải
chuẩn bị chiến trường sẵn sàng khi Vệ quốc quân đánh trận to ở địa phương
mình; đồng thời phải phối hợp với bộ đội chủ lực trong các chiến dịch, các
đợt hoạt động chiến lược, là lực lượng để bổ sung và phát triển bộ đội chủ
lực. Bộ đội địa phương là một lực lượng nòng cốt bảo vệ tổ chức Đảng, chính
quyền địa phương, tính mạng tài sản của nhân dân, trật tự trị an, sản xuất ở
địa phương; gương mẫu chấp hành và vận động quần chúng chấp hành chủ
trương của Đảng và Nhà nước.
1.2.1.3. Dân quân du kích
Dân quân du kích là lực lượng đông đảo được vũ trang và có tổ chức ở
cơ sở, không thoát ly sản xuất. Đó là lực lượng bám đất, bám dân, vừa đánh
giặc vừa lao động sản xuất, vừa là quân vừa là dân. Đây là lực lượng hùng
hậu để bổ sung cho bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương.
Tổ chức ba thứ quân là một hình thức tổ chức thích hợp với yêu cầu
của phương pháp cách mạng, phương thức tiến hành chiến tranh nhân dân và
nghệ thuật quân sự Việt Nam. Với cách tổ chức lực lượng vũ trang đó, ta đã

8



đẩy mạnh chiến tranh du kích, phát triển chiến tranh chính quy, kết hợp giữa
chiến tranh du kích và chiến tranh chính quy một cách nhuần nhuyễn.
Tổ chức lực lượng vũ trang ba thứ quân của Đảng trong kháng chiến
chống Pháp không những phù hợp với quy luật chiến tranh giải phóng mà còn
phù hợp với cả quy luật chiến tranh bảo vệ tổ quốc ở nước ta. Việc hoàn thiện
về cơ cấu tổ chức của lực lượng vũ trang ba thứ quân là nhân tố đảm bảo cho
lực lượng vũ trang không ngừng lớn mạnh về mọi mặt, phát huy đầy đủ vai
trò của nó.
Chiến tranh du kích và chiến tranh chính quy của Việt Nam chỉ có thể
tiến hành hiệu quả trên cơ sở sự trưởng thành và lớn mạnh của lực lượng vũ
trang ba thứ quân. Việc xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân thời kỳ này
được tiến hành theo quy trình của cuộc chiến tranh, căn cứ vào tình hình của
cả nước, tình hình cụ thể của từng địa phương, từng chiến trường. Sự hỗ trợ
giữa ba thứ quân trong chiến đấu chính là hình thức phối hợp giữa lực lượng
tại chỗ và lực lượng cơ động và quá trình thực hành tác chiến du kích và
chính quy, là một nhân tố to lớn làm nên thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954).
Ngày nay, với hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
trong điều kiện sự nghiệp đổi mới đã giành được những thành tựu to lớn, đất
nước bước sang thời kỳ Công nghiệp hoá - hiện đại hoá và hội nhập kinh tế
thế giới.
Bên cạnh những thuận lợi, chúng ta cũng luôn phải đối mặt với những
âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch, nhằm chống phá cách mạng Việt
Nam, phá hoại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Chính vì thế,
nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang vẫn luôn luôn được Đảng và Nhà nước
quan tâm, chú trọng phát triển.
Những kinh nghiệm về xây dựng lực lượng vũ trang nói chung và kinh
nghiệm xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân trong kháng chiến chống


9


Pháp nói riêng vẫn được ứng dụng và phát triển để xây dựng một lực lượng
vũ trang ngày càng vững mạnh hơn, phù hợp với yêu cầu và nhiệm vụ của
tình hình mới.
Đến tháng 12-1946, lực lượng vũ trang của ta đã phát triển trên 8 vạn
người, nhưng trang bị còn quá thô sơ, phần lớn là giáo mác, súng trường, súng
kíp. Quân số phát triển nhanh, nhưng chưa được huấn luyện kỹ, cán bộ chưa
được đào tạo, huấn luyện nhiều. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng đánh giá quân
đội ta lúc đó là: quân đội ấu thơ, thừa về lòng dũng cảm, nhưng thiếu về trang
bị vũ khí, kém về tổ chức chỉ huy.
Chủ nghĩa đế quốc bao vây ta bốn phía. Chúng tìm mọi cách bưng bít
và xuyên tạc tính chất của cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Trong khi đó,
phương tiện thông tin của ta vừa yếu vừa thiếu, không có điều kiện liên lạc
với bè bạn xa gần để bạn bè hiểu ta, đồng tình giúp đỡ ta trong những nǎm
đâu của cuộc kháng chiến đầy khó khǎn thử thách.
1.2.2. Phát triển lực lượng chiến tranh du kích lên lực lượng chính quy
Chiến tranh du kích trong kháng chiến chống Pháp phát triển mạnh mẽ
về nội dung, phong phú, đa dạng về hình thức đánh địch. Quân và dân ta dùng
tác chiến du kích, đánh địch ngay tại địa phương mình, bằng mọi thứ vũ khí,
tiến công địch ở mọi nơi, mọi lúc khi chúng chiếm đóng, hành quân càn quét, ở
các vị trí, đồn bốt…; đánh phá phương tiện, cơ sở vật chất, hậu cần của chúng.
Chiến tranh du kích đã phát huy vai trò và tác dụng to lớn trong việc
tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch, gây cho địch những tổn thất và khó khăn
thường xuyên, liên tục, ngày càng nghiêm trọng cả về quân số, vũ khí,
phương tiện; làm cho tinh thần quân địch luôn căng thẳng, hoang mang, dao
động. Nhưng muốn đưa chiến tranh cách mạng phát triển, phải xây dựng bộ
đội chủ lực lớn mạnh về mọi phương diện, đưa chiến tranh du kích phát triển

lên chiến tranh chính quy. Nhận rõ quy luật này, ta đã tập trung và từng bước

10


xây dựng bộ đội chủ lực và không ngừng nâng cao khả năng, quy mô tác
chiến của bộ đội chủ lực, thực hiện đánh tiêu diệt địch từ trung đội, đại đội
tiến lên tiêu diệt tiểu đoàn và nhiều tiểu đoàn địch; từ đánh tiêu diệt từng đồn
bốt, cứ điểm, cụm cứ điểm đến tập đoàn cứ điểm, lớn nhất là tập đoàn cứ
điểm Điện Biên Phủ.
Thành công về chỉ đạo chiến lược quân sự của ta trong kháng chiến
chống Pháp là thành công của việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ, phối hợp
giữa chiến tranh du kích và chiến tranh chính quy, làm cho cả hai phương
thứác này kết hợp chặt chẽ để phát huy sức mạnh tổng hợp của lực lượng vũ
trang ba thứ quân, giữa quân sự và chính trị trong sức mạnh của toàn dân, của
cả tác chiến du kích và tác chiến tập trung. Đó cũng là sự kết hợp giữa đánh
nhỏ, đánh vừa và đánh lớn, lấy đánh nhỏ đánh vừa làm phổ biến, đánh lớn có
trọng điểm ở những địa bàn quan trọng và thời điểm quyết định.
Đảng ta lãnh đạo toàn dân kháng chiến, nhưng chư có kinh nghiệm
nhiều, lại chưa có điều kiện tiếp cận, học tập trao đổi kinh nghiệm với các
đảng và các nước anh em, trước hết là Liên Xô, Trung Quốc.
Sức mạnh của dân tộc được khơi dậy nhờ nhiều yếu tố. Đó là cuộc
kháng chiến của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, có
đường lối kháng chiến đúng đắn: Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu cao
tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường, phát huy truyền thống bất khuất của
dân tộc và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh Việt
Nam; nhân dân ta tin tưởng vào Đảng; cán bộ, đảng viên của Đảng đã thực sự
tỏ rõ tính tiên phong gương mẫu, dám đi đâu trong cuộc kháng chiến đây gian
khổ, hy sinh; chính quyền nhân dân được củng cố, tiêu biểu cho ý chí chống
xâm lược của toàn dân, đã huy động được sức mạnh của toàn dân, động viên

được mọi tiềm nǎng của đất nước phục vụ kháng chiến.
Là chính quyền của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân tổ chức
cuộc kháng chiến bảo vệ độc lập dân tộc và lợi ích của nhân dân, nên vai trò

11


của chính quyền cách mạng đã tạo được thế và lực ngay từ những ngày đầu
của cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện.
Nhân dân ta tiến hành cuộc kháng chiến trong điều kiện quốc tế phức
tạp. Tình hình thế giới có những thuận lợi, đồng thời có những khó khǎn cho
cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, thế giới
hình thành hai phe đối lập về mặt chính trị, phát triển theo xu hướng phủ định,
bài trừ nhau. Cuộc kháng chiến của nhân dân ta vận động theo xu hướng phát
triển đó. Sớm muộn cuộc kháng chiến của nhân dân ta sẽ nhận được sự ủng
hộ, giúp đỡ của lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới, trước hết là các
nược xã hội chủ nghĩa và dân chủ nhân dân.
Nhưng do những điều kiện lịch sử hạn chế, từ nǎm 1950 mới thật sự có
điều kiện quốc tế thuận lợi trên. Từ đây cuộc kháng chiến của nhân dân ta
thực sự là một bộ phận của lực lượng tiến bộ và cách mạng trên thế giới, đối
lập với các thế lực đế quốc và phản động quốc tế.
Những nǎm đầu, cuộc kháng chiến của nhân dân ta ở trong thế bao vậy
của chủ nghĩa đế quốc. Nhưng, Đảng và nhân dân ta luôn xác định rằng, ta
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược lá góp phần bảo vệ hoà bình thế
giới, làm thất bại và đẩy lùi các thế lực gây chiến. Tinh thần chiến đấu dũng
cảm của Hồng quân Liên Xô đập tan chủ nghĩa phátxít; sự ra đời và trưởng
thành của các nước xã hội chủ nghĩa và dân chủ nhân dân; phong trào đấu
tranh giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa và phụ thuộc đang phát triển,
đã tạo nên nguồn sức mạnh tinh thần, cổ vũ quân và dân ta chiến đấu.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược tiếp tục sự nghiệp

của Cách mạng tháng Tám. Khí thế của Cách mạng tháng Tám đã thôi thúc
đông đảo thanh niên tự nguyện tham gia lực lượng vũ trang. Họ chiến đấu với
tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, bằng sức mạnh của “cả nước
đồng lòng, toàn dân đánh giặc”.

12


Tiểu kết chương 1
Kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1946-1954) là cuộc chiến
tranh yêu nước nhằm tiếp tục giải phóng dân tộc và bảo vệ nền độc lập của Tổ
quốc Việt Nam vừa mới giành được, chống chiến tranh xâm lược thực dân cũ
của đế quốc Pháp và can thiệp Mỹ.
Là cuộc chiến tranh nhằm bảo vệ và xây dựng chế độ mới, chế độ dân
chủ nhân dân, mở đường đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH), chống tàn dư phong
kiến thực dân và bọn phản động trong giai cấp địa chủ, tư sản mại bản cùng các
thế lực thù địch khác cấu kết với chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc.
Là cuộc chiến tranh liên minh giữa ba dân tộc Việt Nam - Lào - Cămpu
chia, chống kẻ thù chung là thực dân Pháp và can thiệp Mỹ.
Là một bộ phận của cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân tiến bộ thế
giới, góp phần đẩy mạnh phong trào độc lập dân tộc ở các nước thuộc địa và
phụ thuộc, bảo vệ công cuộc xây dựng CNXH ở Liên Xô, Trung Quốc (từ
1949 về sau), của các nước dân chủ nhân dân, thúc đẩy phong trào dân chủ
tiến bộ xã hội của nhân dân các nước đế quốc và phong trào hoà bình thế giới.
Đây là cuộc chiến tranh chính nghĩa của một dân tộc nhỏ chống lại một
đế quốc to, một nước nông nghiệp lạc hậu vốn là nước thuộc địa nửa phong
kiến chống lại một nước công nghiệp phát triển lại được Mỹ tiếp tay.
Đây là cuộc chiến tranh toàn dân, của toàn dân tộc, lấy lực lượng vũ
trang nhân dân ba thứ quân làm nòng cốt, đánh địch toàn diện, trong đó đấu
tranh vũ trang giữ vai trò nòng cốt quyết định chống lại quân đội chính quy

của thực dân Pháp
Đó là cuộc chiến tranh cách mạng để tiếp tục thực hiện mục tiêu và
nhiệm vụ cách mạng trong chiến tranh (vừa chiến đấu, vừa xây dựng, vừa
phục vụ kháng chiến, vừa đặt cơ sở cho xây dựng đất nước lâu dài).
Đó là cuộc chiến tranh mà sức mạnh tự lực, tự cường của dân tộc Việt
Nam được phát huy cao độ, kết hợp tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi.

13


Chương 2
SỰ CHỈ ĐẠO KHÁNG CHIẾN VÀ PHƯƠNG THỨC KẾT THÚC
CHIẾN TRANH CỦA ĐẢNG
2.1. Phương châm kháng chiến của Đảng
Chúng ta còn yếu, phải chống lại kẻ địch mạnh hơn nên “vừa đánh vừa
vũ trang thêm, vừa đánh vừa đào tạo thêm cán bộ” phải “bảo toàn thực lực,
kháng chiến lâu dài”. Đảng khẳng định: “Kháng chiến; nhất định thắng lợi”,
nhưng “kháng chiến phải trường kỳ, vì đất ta hẹp, dân ta ít, nước ta nghèo, ta
phải chuẩn bị lâu dài và phải có sự chuẩn bị về toàn diện của toàn dân”.
Quan điểm của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh là nêu cao tinh thần độc
lập tự chủ, tự lực tự cường để khắc phục những mặt yếu của ta, cũng là khoét
sâu mặt yếu của địch. Vì “địch muốn dùng cách đánh mau, thắng mau. Nếu
chiến tranh kéo dài, hao binh tổn tướng, chúng sẽ thất bại” còn ta “mục đích
đánh lâu dài chính là để phát huy mọi lực lượng vật chất và tinh thần, bồi bổ
chỗ hơn, giảm bớt chỗ kém, để từ thế thua kém địch chuyển sang thế mạnh
hơn địch, đặng giành thắng lợi cuối cùng”.
Đảng chỉ đạo cuộc kháng chiến chống Pháp theo phương châm: “Kháng
chiến toàn dân, toàn diện,trường kì và dựa vào sức mình là chính” nó phát
triển qua ba giai đoạn: phòng ngự, cầm cự và tổng phản công. Đây là một dự
đoán khoa học về sự phát triển có tính quy luật của cuộc chiến giữa ta và địch

trong điều kiện tương quan lực lượng còn chênh lệch, bất lợi cho ta.
Tại sao ta phải kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức
mạnh là chính?
2.1.1. Kháng chiến toàn dân
Là toàn dân đánh giặc, lấy lực lượng vũ trang, có ba thứ quân làm nòng
cốt… “Bất kỳ đàn ông, đàn bà không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc, bất kỳ

14


người già, người trẻ. Hễ là người Việt Nam đứng lên đánh thực dân Pháp”,
thực hiện mỗi người dân là một chiến sỹ, mỗi làng xóm là một pháo đài.
2.1.2. Kháng chiến toàn diện
Đánh địch về mọi mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá, ngoại giao.
Trong đó:
Kháng chiến về chính trị: Thực hiện đoàn kết toàn dân, tăng cường xây
dựng Đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân dân; đoàn kết với Miên, Lào và
các dân tộc yêu chuộng tự do, hoà bình.
Kháng chiến về quân sự: Thực hiện vũ trang toàn dân, xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân, tiêu diệt địch, giải phóng nhân dân và đất đai, thực
hiện du kích chiến tiến lên vận động chiến, đánh chính quy, là “triệt để dùng
du kích, vận động chiến. Bảo toàn thực lực, kháng chiến lâu dài.... vừa đánh
vừa võ trang thêm, vừa đánh vừa đào tạo thêm cán bộ”.
Kháng chiến về kinh tế: Phá hoại kinh tế địch như đường giao thông,
cầu, cống, xây dựng kinh tế tự cung tự cấp, tập trung phát triển nông nghiệp,
thủ công nghiệp, thương nghiệp và công nghiệp quốc phòng theo nguyên tắc:
“Vừa kháng chiến vừa xây dựng đất nước”.
Kháng chiến về văn hoá: Xoá bỏ văn hoá thực dân, phong kiến, xây dựng
nền văn hoá dân chủ mới theo ba nguyên tắc: dân tộc, khoa học, đại chúng.
Kháng chiến về ngoại giao: Thực hiện thêm bạn bớt thù, biểu dương

thực lực. “Liên hiệp với dân tộc Pháp, chống phản động thực dân pháp”, sẵn
sàng đàm phán nếu Pháp công nhận Việt Nam độc lập.
2.1.3. Kháng chiến trường kì
Là để chống âm mưu đánh nhanh, thắng nhanh của Pháp, để có thời gian
để củng cố, xây dựng lực lượng, nhằm chuyển hoá tương quan lực lượng từ
chỗ ta yếu hơn địch đến chỗ ta mạnh hơn địch, đánh thắng địch.
2.1.4. Kháng chiến dựa vào sức mình là chính
Trước hết phải độc lập về đường lối chính trị, chủ động xây dựng và
phát triển thực lực của cuộc kháng chiến, đồng thời coi trọng viện trợ quốc tế.

15


Dù được sự ủng hộ của các nước anh em và bè bạn quốc tế nhưng ta
vẫn phải chủ động trong mọi tình huống, mọi hoàn cảnh. Không vì lý do đó
mà chủ quan, chểnh mảng. Do vậy cần tích cực, chủ động, linh hoạt, dựa vào
sức mình là chính.
2.1.5. Triển vọng kháng chiến
Mặc dù lâu dài, gian khổ, khó khăn, song nhất định thắng lợi.
Chiến tranh là một hiện tượng xã hội, sự phát triển của nó không theo đường
thẳng. Chiến tranh không chỉ là sự đấu lực mà còn là sự đấu trí của con người.
Sự tác động của con người làm cho tiến trình phát triển của chiến tranh có thể
có những đột biến và trong nhiều trường hợp không hoàn toàn đúng với dự
đoán ban đầu.
Thực tế lịch sử cuộc kháng chiến chống Pháp đã diễn ra theo một quá
trình vừa tuần tự vừa nhảy vọt, từ thấp đến cao, từ đánh nhỏ tiến lên đánh vừa
và đánh lớn, từ du kích chiến lên vận động chiến và trận địa chiến, và kết hợp
các phương thức tác chiến đó, đã đánh bại từng kế hoạch quân sự của địch và
kết thúc chiến tranh bằng một giải pháp chính trị.
Sự phân đoạn của cuộc kháng chiến chỉ là tương đối, phụ thuộc vào

chiến lược quân sự của Đảng ta, và diễn biến thực tế của chiến trường. Mở
đầu cuộc kháng chiến là cuộc tấn công đồng loạt vào quân địch trong các
thành phố và thị xã, từ thủ đô Hà Nội đến các thành phố, thị xã.
Cuộc chiến đấu quyết liệt diễn ra ở từng thành phố, thị xã đến từng
đường phố, ta và địch giành giật nhau từng góc phố, từng cǎn nhà. Trong điều
kiện thông tin khó khǎn, Hà Nội nổ súng đầu tiên cũng chỉ cách nơi nổ súng
sau cùng là Đà Nẵng có 9 tiếng đồng hồ. Điều đó thể hiện quyết tâm “dám
đánh và quyết thắng” của quân và dân ta, nhầm tiêu hao, tiêu diệt lực lượng
địch, kìm chân địch một thời gian trong phạm vi đô thị để ta chuyển nhân, vật
lực ra vùng cǎn cứ, tạo dựng thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp chiến
đấu lâu dài.

16


2.2. Diễn biến và kết quả tiến trình cuộc kháng chiến
Địch chiếm giữ các thành phố, thị xã, ta chủ động rút đại bộ phận lực
lượng vũ trang ra khỏi các thành phố, đứng vững ở nông thôn, xây dựng thế
trận chiến tranh nhân dân vững chắc.
1.2.1. Chiến dịch Việt Bắc Thu Đông năm 1947
Tháng 10-1947, địch mở đợt tấn công lên Việt Bắc, nhằm tiêu diệt bộ
đội chủ lực và cơ quan đầu não kháng chiến của ta, hòng kết thúc chiến tranh
theo chiến thuật quân sự “tốc chiến, tốc thắng” của chúng. Địch huy động một
lực lượng lớn quân viễn chinh Pháp (khoảng 20.000 tên), 40 máy bay và phần
lớn lực lượng thuỷ quân và cơ giới tham gia chiến dịch.
Triệt để lợi dụng yếu tố địa hình thuận lợi, bộ đội chủ lực phối lực với
dân quan tự vệ đã chiến đấu dũng cảm, giữ vững quyền chủ động trong từng
tình huống, từng trận đánh. Nhiều trận ta đánh cho địch không kịp viện binh,
không kịp rút chạy. Sau hơn 200 trận đánh, chiến dịch Việt Bắc kết thúc thắng
lợi, đã phá tan kế hoạch “đánh nhanh; thắng nhanh” của địch. Việt Bắc trở

thành mồ chôn giặc Pháp.
Sau chiến dịch đánh lên Việt Bắc thất bại, địch thay đổi kế hoạch. Từ
trọng điểm đánh chiếm Bắc Bộ quay về “bình định” Nam Bộ, từ tập trung tiêu
diệt chủ lực của ta sang đánh phá cơ sở quần chúng và kinh tế của ta. Địch
tǎng cường “bình định” vùng chiếm đóng, ráo riết xây dựng nguy quản, nguy
quyền, thực hiện chính sách “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người
Việt đánh người Việt”.
Để phá kế hoạch thâm độc của địch, ta chủ trương đẩy mạnh chiến
tranh du kích, xây dựng, phát triển thế trận chiến tranh nhân dân. Bộ đội chủ
lực được phân tán thành các đại đội độc lập và các tiểu đoàn tập trung, phát
động trong quân đội phong trào luyện quân lập công. Trong nǎm 1948, quân
ta đã diệt hàng trǎm đồn bốt địch bằng nhiều hình thức tập kích bất ngờ, nội

17


ứng, bức rút và mở một số chiến dịch, tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh
lực địch, giải phóng nhiều vùng đất đai.
Cùng với sự trưởng thành của bộ đội chủ lực, dân quân du kích được
phát triển. Ta chú ý xây dựng các cǎn cứ và khu du kích, đẩy mạnh chiến
tranh du kích, hỗ trợ cho nhân dân đứng dậy phá tề diệt ác, xây dựng chính
quyền cơ sở.
2.2.2. Chiến dịch biên giới Thu Đông năm 1950
Chiến tranh nhân dân phát triển mạnh trong hai nǎm 1948 và 1949;
đồng thời, chúng ta cũng tạo được điều kiện quốc tế thuận lợi cho cuộc kháng
chiến. Ngày 1-10-1949, nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa ra đời. Nhân
thắng lợi to lớn này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi thǎm Trung Quốc và Liên Xô.
Chuyến đi thǎm của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm cho bè bạn xa gần
hiểu ta hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc kháng chiến của nhân dân ta.
Tình hình trong nước và quốc tế có những điều kiện thuận lợi cho ta

chủ động mở chiến dịch Biên giới vào tháng 9-1950.
Thắng lợi của chiến dịch Biên giới đã phá vỡ phòng tuyến biên giới của
địch, làm thay đổi cục diện chiến tranh. Ta đã phá thế bị bao vây, giành lại thế
chủ động trên chiến trường, từ phương thức tác chiến chủ yếu là du kích chiến
đã chuyển sang vận động chiến “công đồn diệt viện”, từ đánh nhỏ tiến lên
đánh vừa và đánh lớn giành thắng lợi lớn, mở ra một giai đoạn mới của cuộc
kháng chiến.
Từ tháng 12-1950 đến tháng 6-1951 ta liên tiếp mở ba chiến dịch đánh
địch ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ. Ba chiến dịch này tuy có giành được
những thắng lợi mới, nhưng không thực hiện được ý đồ chiến lược, là làm chủ
chiến trường Bắc Bộ.
Qua chiến dịch Biên giới và ba chiến dịch ở đồng bằng và trung du Bắc
Bộ, ta rút ra kinh nghiệm là phải chọn hướng và địa bàn tiến công cho đúng.

18


×