Tải bản đầy đủ (.docx) (69 trang)

Sự thay đổi của xã hội, kinh tế đến chính trị của nhật bản từ sau cải cách minh trị đến kết thúc chiến tranh thế giới thứ hai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (373.15 KB, 69 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN
KHOA TRIẾT HỌC
------------

LÊ THỊ THÊU

SỰ THAY ĐỔI CỦA XÃ HỘI, KINH TẾ
ĐẾN CHÍNH TRỊ CỦA NHẬT BẢN TỪ SAU
CẢI CÁCH MINH TRỊ ĐẾN KẾT THÚC
CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH TRIẾT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2015-X

Hà Nội - 2019
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN


KHOA TRIẾT HỌC
------------

LÊ THỊ THÊU

SỰ THAY ĐỔI CỦA XÃ HỘI, KINH TẾ
ĐẾN CHÍNH TRỊ CỦA NHẬT BẢN TỪ SAU
CẢI CÁCH MINH TRỊ ĐẾN KẾT THÚC
CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC


NGÀNH TRIẾT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2015-X
Giảng viên hướng dẫn: GS.TS Trần Thị Hạnh

Hà Nội - 2019


LỜI CẢM ƠN
Hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, trước hết em xin chân thành cảm
ơn sự dạy dỗ nhiệt tình của các thầy cô giáo trong khoa Triết học, trường Đại
học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội trong suốt thời
gian em học tập tại khoa, tại trường.
Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất tới PGS.TS Trần Thị
Hạnh đã giúp đỡ và hướng dẫn em rất tận tình trong quá trình thực hiện và
hoàn thiện khóa luận tốt nghiệp này.
Mặc dù đã rất cố gắng, nhưng chắc chắn khóa luận sẽ không tránh khỏi
những hạn chế và thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự đóng góp ý
kiến của các thầy, các cô, cùng toàn thể các bạn để khóa luận này được hoàn
thiện hơn.
Hà Nội, ngày 4 tháng 6 năm 2019
Sinh viên

Lê Thị Thêu


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................3
1. Lý do chọn đề tài...........................................................................................3
2. Tình hình nghiên cứu....................................................................................3

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu................................................................6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.................................................................6
5. Cơ sở lý luận và Phương pháp nghiên cứu....................................................6
6. Ý nghĩa nghiên cứu.......................................................................................7
NỘI DUNG.......................................................................................................8
CHƯƠNG 1: SỰ THAY ĐỔI CỦA KINH TẾ -CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI
NHẬT BẢN TỪ SAU CÁI CÁCH MINH TRỊ ĐẾN HỘI NGHỊ
WASHINGTON (1921-1922)..........................................................................8
1.1...............Sự thay đổi kinh tế -chính trị - xã hội sau cải cách Minh Trị 1868
...........................................................................................................................8
1.1.1. Cải cách chính trị, kinh tế, xã hội............................................................8
1.1.2. Cải cách về giáo dục, văn hóa...............................................................13
1.1.3. Cải cách về ngoại giao...........................................................................21
1.2. Sự thay đổi đường lối ngoại giao của Nhật Bản từ chiến tranh Thế giới
thứ nhất đến Hội nghị Washington (1921-1922).............................................23
1.2.1. Về kinh tế - chính trị - xã hội................................................................23
1.2.2. Hội nghị Wasington 1921-1922.............................................................30
1


CHƯƠNG 2: NỘI DUNG TƯ TƯỞNG ĐỐI NGOẠI CỦA NHẬT BẢN
TỪ SAU HỘI NGHỊ WASHINGTON ĐẾN KẾT THÚC CHIẾN TRANH
THẾ GIỚI THỨ HAI....................................................................................33
2.1. Kijūrō Shidehara và tư tưởng ngoại giao theo hướng “hợp tác phát triển
kinh tế”............................................................................................................33
2.1.1. Kijūrō Shidehara 幣幣幣幣幣.......................................................................33
2.1.2. Tư tưởng ngoại giao theo hướng “hợp tác phát triển kinh tế” của
Shidehara.........................................................................................................36
2.2. Tư tưởng của phe quân phiệt về tăng cường phát triển quân sự..............46
2.2.1. Nguyên nhân xuất hiện tư tưởng chủ nghĩa quân phiệt.........................46

2.2.2.. . .Sự thay đổi của Nhật Bản trước sự lớn mạnh của chủ nghĩa quân phiệt
.........................................................................................................................51
2.2.3.............Sự thay đổi của xã hội Nhật Bản sau chiến tranh Thế giới thứ hai
.........................................................................................................................56
Tiểu kết............................................................................................................59
KẾT LUẬN....................................................................................................60
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................62

2


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, trong các quốc gia thuộc khu vực châu Á thì Nhật Bản là một
trong những con rồng châu Á với tốc độ phát triển kinh tế nhanh chóng. Nhật
Bản là một đất nước với lãnh thổ được bao quanh bởi biển và nguồn tài
nguyên thiên nhiên thấp, hàng năm phải chịu nhiều thiên tai như động đất,
sóng thần nhưng vẫn vươn lên là một cường quốc. Trong lịch sử phát triển
của Nhật Bản, chúng ta thấy đường lối lãnh đạo sáng suốt của những nhà cầm
quyền Nhật Bản. Trong đó đáng nói đến nhất là công cuộc “Cải cách Minh
Trị”. Trong khi các nước phương Đông đang phải đứng trước mối nguy hại bị
xâm lược từ phương Tây, vì chính sách “Bế quan tỏa cảng” mà các quốc gia
đã thực hiện, Nhật Bản đã nhanh chóng đưa ra con đường mới cho đất nước
mình bằng cách tiến hành ký các Hiệp ước với phương Tây và tiến hành chính
sách cải cách thay đổi đất nước.
Sau khi thực hiện công cuộc cải cách thì Nhật đã vươn lên, ngăn chặn
sự xâm lược từ bên ngoài và còn trở thành đất nước quân phiệt trong thế chiến
thứ hai. Trong quá trình phát triển để đưa Nhật Bản đi lên từ một nước phong
kiến trở thành một đế quốc quân phiệt thì những quyết định, chính sách của
Chính phủ liên tục thay đổi cho phù hợp với hoàn cảnh đất nước.

Những nhân tố nào đã khiến cho tình hình của Nhật Bản có những thay
đổi như thế? Liệu rằng nếu sự thay đổi này diễn ra chỉ do một phía từ các nhà
lãnh đạo thì có đẫn đên thành công như vậy? Hay cần phải có sự hiệp sức
đồng lòng của toàn bộ nhân dân nước Nhật?
Vì những lý dó trên, tôi chọn đề tài “Sự thay đổi của xã hội, kinh tế đến
chính trị của Nhật Bản từ sau cải cách Minh Trị đến kết thúc chiến tranh Thế
giới thứ hai” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu

3


Qua những công trình nghiên cứu về lịch sử Nhật Bản nói chung và tư
tưởng về đường lối ngoại giao nói riêng đặc biệt là giai đoạn từ sau cải cách
Minh Trị đến kết thúc chiến tranh Thế giới thứ hai, có thể khái quát được một
số nghiên cứu chủ yếu sau:
Thứ nhất là nhóm nghiên cứu về tình hình kinh tế - xã hội Nhật Bản nói
chung
Trong số những công trình nghiên cứu này thì đáng chú ý nhất là công
trình Lịch sử Nhật Bản (tái bản lần một năm 2012) của tác giả Nguyễn Quốc
Hùng chủ biên, NXB Thế giới, Hà Nội. Trong tác phẩm này của Nguyền
Quốc Hùng biên dịch thì ông đã liệt kê chi tiết các vấn đề của kinh tế xã hội
Nhật Bản xuyên suốt từ thời kỳ cổ đại đến hiện đại trong đó có giai đoạn từ
cải cách Minh Trị đến kết thúc chiến tranh Thế giới thứ hai. Cuốn sách diễn tả
chi tiết nguyên nhân kinh tế chính trị xã hội dẫn đến cuộc cải cách Minh Trị
năm 1868. Xuất phát từ chính nhu cầu trong nước, sau khi kế hoạch “Bế quan
tỏa cảng” bị thất bại, để tránh bị các cường quốc phương Tây xâm lược thì
Nhật Bản buộc phải đưa ra một sự lựa chọn nhát định là: tiếp tục duy trì thái
độ đối nghịch với phương Tây giống các nước kahsc trong khu vực trong một
khoảng thời gian tạm thời trước khi bị xâm lược hoặc phải tiến hành cải cách

xây dựng lại đất nước tránh thành nước thuộc địa. Trước tình thế đó, Chính
quyền Mạc phủ không đủ năng lực phát triển đát nước, đồng thời nhân dân
trong cả nước đứng lên ủng hộ Thiên hoàng khiến cho chế độ Mạc phủ Edo
tồn tại hơn 200 năm bị sụp đổ. Sau khi lên ngôi, nhận được sự đồng lòng giúp
sức từ toàn bộ nhân dân Nhật Bản từ Trung ương đến địa phương nên công
cuộc cải cách diễn ra nhanh chóng và thành công. Nhưng cuốn sách tập trung
chủ yếu nhất vào vấn đề kinh tế, xuất nhập khảu của Nhật Bản sau cải cách
Minh Trị mà chưa chú trọng nhiều đến yếu tố văn hóa tư tưởng của nhân dân
Nhật Bản để xây dựng một cơ cấu nhà nước mới. Đồng thời, trong giai đoạn
từ những năm 30 của thế kỷ XX đến khi kết thúc chiến tranh Thế giới thứ hai
thì tác giả lại chú trọng nhiều đến các cuộc chiến tranh với Trung Quốc và
4


Nga, sự lớn mạnh của chủ nghĩa quân phiệt và sự thất bại của Nhật Bản tại
chiến tranh Thế giới thứ hai. Vì cuốn sách là Lịch sử Nhật Bản nên vấn đề mà
tác giả đưa ra chủ yếu là việc kể lại những mốc lịch sử một cách nối tiếp nhau
chứ chwua có sự liên hệ giữa nguyên nhân xã hội đến tư tưởng ngoại giao của
Nhật Bnar thười điểm đó.
Ngoài ra, công trình nghiên cứu của tác giả Võ Minh Vũ (2005), Cải
cách địa tô ở Nhật Bản thời Minh Trị, trong Luận văn Thạc sĩ năm 2005 của
mình tại Bộ môn Nhật Bản thì tác giả lại chú trọng hơn đến vấn đề về cải cách
địa tô, phân chia ruộng đất. Nhưng công trình chú trọng đến các số liệu mà
chưa nêu ra được nguyên nhân sâu xa của cải cách ruộng đất đối với sự thay
dổi của xã hội Nhật Bnar tại thời điểm đó. Khi xã hội còn đang phụ thuộc
nhiều vào nông nghiệp thì chính sách về đất đai ảnh hưởng rất nhiều đến cơ
cấu xã hội. Thời kỳ Mạc phủ thì ruộng đất thuộc về giai cấp lãnh chúa, người
nông dân phải trực tiếp canh tác trên mảnh đát đó và nộp tô thuế lại cho địa
chủ, nhưng sau cải cách thì việc nộp tô thuế lại phải do người chủ sở hữu của
mảnh đất đó phải nộp, những người nông dân có một chút vốn có thể tự tiến

hành trao đổi mua bán ruộng đất với nhau. Điều này giúp cho nông dân có thể
yên tâm và chú trọng hơn vào sản xuất và hưởng được thành phẩm thu được
trên mảnh đất của mình.
Thứ hai, nhóm các công trình nghiên cứu về tư tưởng ngoại giao của
Nhật Bản
Trong các công trình này thì tiêu biểu nhất là tác phẩm Ngoại giao
Nhật Bản của tác giả Ire Akira được Nxb Tri thức xuất bản năm 2013 tại Hà
Nội. Tác phẩm là cái nhìn của một người Nhật về con đường ngoại giao của
Nhật Bản qua các thời kỳ lịch sử. Do tác phẩm của một người Nhật Bản viết
nên có những chi tiết được nhìn nhận qua lăng kính chủ quan, bảo vệ người
Nhật. Đáng chú trọng trong cuốn sách này là nội dung của tác giả về “Triết lý
ngoại giao Shidehara”. Ire Akira đã đưa ra những lý luận về đường lối ngoại
giao mà Bộ trưởng Shidehara đã đưa ra tại thời điểm sau Hội nghị
5


Washington khi mối quan hệ của Nhật Bản và Hoa Kỳ đang trở nên căng
thẳng. Các nội dung trong đường lối ngoại giao hòa bình hợp tác phát triển
kinh tế mà Shidehara đã đươc ra được Ire Akira nhận xét và đánh giá cao.
Nhưng thiếu xót của công trình này là ông đã không chú trọng đến mối quan
hệ rành buộc tác động lẫn nhau của hai đường lối ngoại giao tại thời điểm đó
là ngoại giao của phe quân phiệt và ngoại giao của phe hòa bình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Phân tích, làm rõ sự thay đổi của tình hình kinh
tế - xã hội đến việc thay đổi các tư tưởng ngoại giao của chính phủ Nhật Bản
từ sau cải cách Minh Trị đến Chiến tranh thế giới lần thứ II
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Thứ nhất: Phân tích sự thay đổi trong cơ cấu kinh tế-xã hội và văn hóatư tưởng của Nhật Bản sau cải cách Minh Trị
Thứ hai: Phân tích nội dung tư tưởng ngoại giao mềm mỏng của Nhật
Bản sau Hội nghị Washington

Thứ ba: Phân tích nội dung tư tưởng quân phiệt phát triển mạnh mẽ và
sụp đổ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Sự thay đổi về cơ cấu xã hội dẫn đến sự thay
đổi về đường lối lãnh đạo của Chính phủ Nhật Bản từ năm 1868 đến năm
1945.
Phạm vi nghiên cứu: Các cuốn sách, bài báo, bài giảng chuyên đề về
lịch sử Nhật Bản từ cải cách Minh Trị đến năm 1945.
5. Cơ sở lý luận và Phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Khóa luận được thực hiện thông qua vận dụng những
nguyên lý cơ bản của triết học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào giải
quyết vấn đề lý luận và thực tiễn.

6


Cụ thể là: nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát
triển được vận dụng khảo cứu quá trình chuyển biến của kinh tế, chính trị, xã
hội và tư tưởng Nhật Bản cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng,
tồn tại xã hội và ý thức xã hội thể hiện cụ thể trong sự hình thành và phát triển
của tư tưởng ngoại giao của Nhật Bản cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn được quán triệt xuyên
suốt khi triển khai khóa luận.
Phương pháp: Khóa luận sử dụng một số phương pháp cụ thể của
ngành lịch sử, ngành Châu Á học và ngành triết học.
6. Ý nghĩa nghiên cứu
Nhằm làm rõ hơn về tác động của bối cảnh xã hội và thế giới đến tư
tưởng “Mở rộng sức ảnh hưởng của Nhật Bản trên thế giới” của Chính phủ và
người dân Nhật Bản.

7. Bố cục
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khóa luận chia làm 2 chương, 4 tiết:
Chương 1: Sự thay đổi của kinh tế-chính trị-xã hội từ sau cải cách Minh
Trị đến Hội nghị Washington (1921-1922)
1.1.

Sự thay đổi kinh tế -chính trị - xã hội sau cải cách Minh Trị
1868

1.2.

Sự thay đổi đường lối ngoại giao của Nhật Bản từ chiến tranh
Thế giới thứ nhất đến Hội nghị Washington (1921-1922)

Chương 2: Nội dung tư tưởng đối ngoại của Nhật Bản từ sau Hội nghị
Washington đến kết thúc chiến tranh thế giới thứ hai.
2.1.

Kijūrō Shidehara và tư tưởng ngoại giao theo hướng “hợp tác
phát triển kinh tế”

2.2.

Tư tưởng của phe quân phiệt về tăng cường phát triển quân sự

7


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: SỰ THAY ĐỔI CỦA KINH TẾ -CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI

NHẬT BẢN TỪ SAU CÁI CÁCH MINH TRỊ ĐẾN HỘI NGHỊ
WASHINGTON (1921-1922)
1.1.

Sự thay đổi kinh tế -chính trị - xã hội sau cải cách Minh Trị 1868

1.1.1. Cải cách chính trị, kinh tế, xã hội
Cuối thời kỳ Edo, cũng như các nước khác của phương Đông thì chế độ
phong kiến ngày càng không còn phù hợp vưới xã hội và ngày một đi xuống.
Trong tình hình đó, các quốc gia phương Đông còn phải đối mặt với nguy cơ
bị các cường quốc phương Tây xâm lược và biến thành thuộc địa. Từ chính sự
thay đổi của tình hình thế giới và tình hình nội bộ Nhật Bản, đồng thời để
tránh nguy cơ trở thành một nước nô lệ, Nhật Bản đã đưa ra quyết định “mở
cửa” với các nước phương Tây sau khi kế hoạch “Bế quan tỏa cảng thất bại”.
Chính trị Nhật Bản chuyển từ chế độ phong kiến sang chế độ quân chủ lập
hiến, quyền lực chuyển từ tay dòng họ Tokugawa sang Thiên hoàng. Đây
được coi là bước chuyển quan trọng làm thay đổi hoàn toàn Nhật Bản trong
giai đoạn cuối thế kỷ XIX.
Việc đầu tiên sau khi chính quyền của Thiên hoàng tiếp nhận đất nước
đã tiến hành sự kiện Vương chính phục cổ (Osei fukko): ngày 3 tháng 1 năm
1868, Tướng quan Tokugawa Yoshinobu chính thức bị tước đất đai, chức vụ
để trao lại cho Thiên hoàng. Ngày 11 tháng 4 năm 1868, Mạc phủ đã ra lệnh
mở cửa thành Edo để đầu hàng quân đội triều đình. Sự kiện này đã dánh dấu
mốc cho việc kết thúc chế độ nắm quyền của dòng họ Tokugawa dựng lên từ
đầu thế kỷ XVII.
Chính quyền mới đặt ra mục tiêu cho đất nước là Phú quốc cường binh
(Fukoku Kyohei) với đường lối chiến lược là: độc lập quốc gia và phấn đấu
từng bước tiến lên bình đẳng với các nước phương Tây.
Ban lãnh đạo mới cho rằng thời điểm này Nhật Bản còn chưa đủ mạnh,
vì vậy phải tiến hành nâng cao sức mạnh quân sự trên có sở của sức mạnh

8


kinh tế. Tư tưởng đó đã được thể hiện trong Năm lời thề (Gokazo no
goseimon: ngũ điều ngự thệ văn) được công bố trong ngày 14 tháng 3 năm
1868 gồm:
1. Hội nghị phải được mở rộng và những vấn đề quốc gia phải do
công luận quyết định.
2. Trên dưới một lòng ra sức chăm lo cho công việc đại sự quốc gia.
3. Từ bách quan văn võ đến thường dân, mọi người phải được tự do
theo đuổi chí nguyện của mình để trong nước không còn sự bất
mãn.
4. Phải từ bỏ những tập quán xấu và mọi việc phải dựa và công đạo
(công pháp quốc tế).
5. Phải tiếp thu kiến thức từ khắp nơi trên thế giới để chấn hưng đất
nước[8, tr.249].
a. Những cải cách về chính trị - xã hội
Sau khi Thiên hoàng nắm giữ quyền hành thì việc đầu tiên trong việc
thay đổi cơ cấu xã hội đó là việc xóa bỏ mâu thuẫn giữa các giai cấp và sự
cách biệt giữa các tầng lớp trong xã hội. Năm 1869, hình thành 4 tầng lớp mới
cho xã hội đó là: Hoa tộc (Kazoku gồm các Daimyo và các quý tộc cao cấp),
Sĩ tộc (shizoku gồm các võ sĩ của các Daimyo và các Bakufu), Tốt tộc
(Sostuzoku gồm các giai cấp công, nông, thương), Bình dân (Heimin gồm các
võ sĩ cấp dưới sau khi Mạc phủ sụp đổ không có công việc cụ thể). Trong quá
trình bình đẳng tứ dân thì tầng lớp Sĩ tộc phải hy sinh nhiều nhất. Khi các võ
sĩ bị tước bỏ quyền đeo kiếm thì họ còn bị dẫn cắt bỏ lương bổng để phát triển
kinh tế đất nước.
Theo đó, mọi người đều có quyền tự do chuyển đổi chỗ ở và nghề
nghiệp của mình; tự do kinh doanh; xác lập quyền sở hữu ruộng đất.


9


Sơ đồ cơ cấu tổ chức chính quyền Trung ương
Mô hình nhà nước Thái chính quan về cơ bản tồn tại đến khi chế độ nội
các được ấp dụng từ tháng 12 năm 1885. Tuy vậy trong quá trình hoạt động
vẫn có sự thay đổi như vào tháng 7 năm 1869 thì chính phủ lại được chia
thành 2 quan 6 bộ trong đó Thần chỉ quan tách ra nằm độc lập chỉ phụ trách
các vấn đề về tôn giáo còn Thái chính quan trực tiếp quản lý các cơ quan còn
lại.
Tháng 7 năm 1868, các han bị phế bỏ và thay đổi cơ cấu thành chế độ 3
phủ và 302 huyện. Đến tháng 11 năm 1868 hợp nhất thành 3 phủ và 72 huyện.
Đến ngày 14 tháng 7 năm 1871, chính phủ đã công bố chiếu thư “Phế phiên
trí huyện”. năm 1888 được cấu tạo thành 1 đạo, 3 phủ và 43 huyện và cơ cấu
tổ chức này được áp dụng cho đến tận ngày nay.
Về quân đội, chính phủ thành lập 2 bộ: Bộ lục quân và Bộ hải quân
thay thế cho Bộ binh. Trong đó, hải quân được tổ chức theo mô hình hải quân
của Anh còn lục quân được tổ chức theo mô hình của Phổ.
Cải cách về địa tô, mọi người tiến hành nộp tô thuế theo giá trị của
mảnh đất, có thể nộp bằng tiền mặt hoặc vật phẩm. Mức thuế là 30% giá trị
đất và người phải nộp thuế là người chủ của mảnh đất chứ không phải là
người lao động làm thuê trên mảnh đất đó.
10


b. Những cải cách về kinh tế
Chính quyền tiến hành cải cách kinh tế theo cách xóa bỏ chế độ mang
tính chất phong kiến và thiết lập một nền kinh tế hiện đại, khuyến khích mọi
người phát triển kinh tế phát triển đất nước và lấy kinh tế để đầu tư cho quân
đội, xây dựng nền quân sự lớn mạnh.

Chính phủ đề ra các chính sách phát triển kinh tế “Minh Trị sơ kỳ”, lấy
xuất phát điểm từ một nước công nghiệp với 72,6% là nông dân. Mục tiêu
được đề ra là: phát triển công nghiệp hiện đại hóa; mở rộng sản xuất nông
nghiệp, giảm mức thuế từ 3% xuống 2,5% giá đất [44, tr.235].
Những biện pháp cụ thể được đề ra: du nhập chuyển giao kỹ thuật sản
xuất hiện đại, thuê chuyên gia nước ngoài trong thời kỳ đầu nhưng đến cuối
thời Minh Trị thì các chuyên gia được thay đổi dần bằng chuyên gia người
Nhật Bản; cử người đi đào tạo ở nước ngoài; mở các trường trung cấp nghề để
đào tạo lực lượng lao động; hợp tác kỹ thuật, chuyển giao công nghệ.
Năm 1870, chính phủ tiến hành thành lập bộ Công nghiệp, năm 1874
bộ Nội vụ và bộ Tài chính được thành lập. Đồng thời, chính phủ tiến hành
nhượng lại một số công ty quốc doanh cho những nhà tư bản lớn quản lý nếu
có khả năng hay chuyển nhượng cho các công ty độc quyền có thế lực lớn
như Mitsui, Mitsubishi. Ngoài ra, nhà nước sẽ quản lý các công xưởng quân
sự và các mỏ khai khoáng.
Về hệ thống vận tải: đường xe lửa đầu tiên nối Tokyo với Yokohama
khánh thành vào năm 1872 do sự giúp đỡ của các chuyên gia Anh. Vào năm
1874, tuyến xe lửa thứ hai từ Osaka đến Kobe được hoàn thành và nhiều
tuyến đường khác được xây dựng và đi vào hoạt động. Đường biển, công ty
Mitsubishi do Iwasaki Yataro (1834 – 1885) thành lập năm 1875 là công ty
đầu tiên chuyên vận tải đường biển. Công ty này nhận được sự giúp đỡ của
chính phủ sau khi hoàn thành việc chuyên chở quân nhu giúp quân chính phủ
chiến thắng trong cuộc chiến tranh Tây Nam. Đến năm 1893, Nhật Bản đã có
hơn 2.000 dặm đường xe lửa, 100.000 tấn trọng tải tàu biển chạy bằng hơi
nước.
11


Hệ thống điện tín, điện thoại và bưu chính được đầu tư xây dựng và
đưa vào hoạt động rộng rãi. Hệ thống tài cính tiền tệ được cải cách, áp dụng

chế độ “Bản vị vàng” để cố định tỷ giá Yên là 1 Đôla Mỹ bằng 2 Yên Nhật.
Việc áp dụng cố định tỷ giá Yên để tạo điều kiện cho việc xuất khẩu.
Từ đây, nền kinh tế Nhật Bản dần phát triển từ một nước nhập khẩu
chuyển dần sang xuất khẩu các mặt hàng như dệt, đóng tàu (xuất khẩu sang
Trung Quốc).
Với các chính sách phát triển kinh tế được chính quyền Minh Trị đề ra,
mặc dù chưa thể hoàn thành đầy đủ và hoàn thiện so với mục tiêu nhưng kinh
tế của Nhật Bản cũng có sự phát triển mạnh mẽ. Đến giữa thời kỳ Minh Trị thì
nền kinh tế Nhật Bản đã thấy rõ sự phát triển mạnh mẽ, vượt xa các nước
phương Đông thời bấy giờ và thoát khỏi nguy cơ bị xâm lược từ các nước
phương Tây. Hơn nữa, cùng với những điều kiện mà Nhật Bản đã đạt được thì
chính quyền Minh Trị đã giành lại quyền sửa đổi ở các bản hiệp ước trước đó
với phương Tây, bình đẳng hơn với các nước phương Tây không cần lệ thuộc
và giành lợi ích về cho đất nước.
Việc xóa bỏ bất bình đẳng giữa các giai cấp tầng lớp trong xã hội và
mọi người được phép tự do lựa chọn nghề nghiệp đã giải phóng một lực
lượng lớn các võ sỹ để tham gia vào quá trình lao động kiến thiết đất nước.
Những người nông dân trẻ có thể từ bỏ việc làm ruộng để lên thành phố
học nghề và tham gia vào các công việc công nghiệp, làm công nhân.
Nhờ vào cải cách địa tô, Nhật Bản vẫn chú trọng phát triển nông nghiệp
nhưng phát triển theo cách mới, nguồn lực về nông nghiệp vẫn đóng vai trò
quan trọng.
Việc đầu tư và phát triển cho công nghiệp nhẹ: tơ lụa, bông sợi (kéo sợi
bằng máy thay cho kéo sợi bằng tay khiến cho năng suất lao động tăng mạnh);
các ngành công nghiệp nặng: cơ khí sản xuất máy móc, đóng tàu, cơ điện, hóa
chất,… hàng hóa của công nghiệp trước hết phục vụ cho đất nước nhưng sau
này đã có sự dư thừa và xuất khẩu ra nước ngoài. Từ năm 1899 đến năm
1903, Nhật Bản là nước xuất khẩu tơ sống nhiều nhất thế giới, đạt mức 15
triệu pound (tương đương 6.806 tấn) mỗi năm [6, tr.109].
12



Bảng chỉ số sản xuất công nghiệp từ năm 1880 đến năm 1925
Năm
1880
1885
1890
1900
1905
1910
1915
1920
1925

Tính
chung
1,51
1,51
3,74
11,30
21,79
31,88
48,64
80,52
115,77

Dệt
1,10
1,60
5,85

20,40
27,75
36,95
57,90
77,58
111,70

Máy móc và
công cụ
2,38
2,36
4,67
12,53
27,78
32,46
39,93
91,33
99,21

Hóa chất
_
_
1,24
7,72
17,03
26,81
18,34
76,87
10,72


Hơi đốt
và điện
0,21
0,19
0,34
1,81
4,10
14,52
38,18
68,86
131, 00

Kim loại
1,30
0,79
1,29
1,34
15,22
31,48
59,55
80,55
124,38

Nguồn: M.Yoshino “Hệ thống quản lý Nhật Bản – truyền thống và
đổi mới”, tập 1, Viện Kinh tế Thế giới, Hn, 1986, tr 50.
Các ngành công nghiệp phát triển mạnh tại Nhật Bản thời kỳ này cho
thấy thành công của con đường cải cách của chính quyền Minh Trị. Các trung
tâm công nghiệp lớn đã được hình thành như: Tokyo, Osaka, Yokohama,
Kobe.
1.1.2. Cải cách về giáo dục, văn hóa

Để đưa Nhật Bản trở thành một quốc gia phát triển hiện đại như
phương Tây thì chính quyền Minh Trị (Meiji) đã chú trọng xây dựng nền giáo
dục theo mô hình của các nước phương Tây. Trong thời kỳ Edo, việc quản lý
về giáo dục đã tạo ra một tỷ lệ dân số biết chữ cao. Vì vậy, việc giáo dục thời
kỳ này trở nên dễ dàng hơn.
Sau khi tiếp nhận chính quyền từ Mạc phủ, ban lãnh đạo chính quyền
Minh Trị (Meiji) đã tiến hành một loạt cải cách nhằm theo đuổi khẩu hiệu
mang tính chiến lược: “Học tập phương Tây, đuổi kịp phương Tây, đi vượt
phương Tây”. Để triển khai khẩu hiệu này, một trong ba chính sách lớn của
chính quyền Minh Trị (Meiji) được thực thi đó là “Văn minh khai hóa”. Do
đó, một cao trào học tập các nước phương Tây đã diễn ra ở Nhật Bản trong
khoảng hai thập kỉ đầu thời Minh Trị (Meiji). Và việc tiếp thu văn minh văn
hóa phương Tây được bắt đầu ngay từ giáo dục. Mặt khác, việc thống nhất lại
13


đất nước cũng là điều kiện quyết định trong công cuộc cải cách giáo dục này
của Nhật Bản để vừa cung cấp nguồn nhân lực, vừa đảm bảo an ninh quốc
gia, toàn vẹn lãnh thổ.
Công cuộc cải cách giáo dục chính thức bắt đầu với việc Bộ giáo dục
công bố “Học chế” ngày 3 tháng 8 năm 1872. Học chế gồm 213 điều với một
số tư tưởng chủ đạo như sau:
Nhà trường dành cho tất cả mọi người và dựa vào kiến thức Âu –
Mỹ
-

Đào tạo con người làm giàu cho Tổ quốc và bảo vệ đất nước
Xây dựng nhiều trường học, mở rộng các trường cao đẳng và

chuyên nghiệp

Học chế đã phủ nhận lối suy nghĩ coi học vấn chỉ phục vụ cho lợi ích
quốc gia mà “học vấn chính là vốn liếng để lập thân”, chủ trương tư tưởng
thực học và khuyến khích mọi người tới trường.
Học chế đã vạch ra một hệ thống trường học thống nhất thay cho hệ
thống trường học có hai chế độ: một cho võ sĩ, một cho bình dân dưới thời
Edo. Sự thay đổi này chính là đặc điểm quan trọng nhất của giáo dục thời
Minh Trị (Meiji). Bên cạnh đó, học chế còn chia toàn quốc thành 8 khu Đại
học. Theo đó, ở mỗi khu có một trường Đại học. Mỗi khu đại học lại quản lý
32 khu trung học, mỗi khu trung học quản lý 210 khu tiểu học. Nghĩa là, theo
kế hoạch, Nhật Bản sẽ phải xây dựng trên toàn quốc 53.760 trường học, tức
trung bình có khoảng 600 dân 1 trường tiểu học.
Để phù hợp với tình hình đất nước, phương châm giáo dục Nhật Bản
hướng đến thời bấy giờ mang tính chất toàn diện, toàn dân, hướng đến một
nước Nhật Bản trong tương lai không những dồi dào nguồn nhân tài mà còn
phục vục công cuộc phát triển toàn diện đất nước trên mọi lĩnh vực. Để thực
hiện mục tiêu chiến lược này, chính quyền Minh Trị (Meiji) đã lần lượt cho
thực hiện cải cách bằng những nội dung và phương pháp khác nhau:
Về nội dung, cải cách đã tập trung xây dựng một nền giáo dục thực
dụng theo kiểu phương Tây, chú trọng tính hiệu quả trong công việc học tập
mang lại bởi sở dĩ, nền giáo dục Nho học trước đây quá thiên về hư học, tức
14


chỉ sử dụng Nho học trong việc cung cấp tri thức, giáo dục và đào tạo nhân tài
mang tính hàn lâm cao mà bỏ bê việc trang bị kiến thức khoa học kĩ thuật và
thực nghiệm. Hơn nữa, trong thời kì chủ nghĩa tư bản đang lên lúc bấy giờ thì
việc bức thiết đối với Nhật Bản chính là thực hiện một bước đi mới theo kiểu
phương Tây.
Giáo dục là cái nguồn cội của mọi sự phát triển đất nước. Do đó, chính
sách của Thiên hoàng Minh Trị (Meiji) đã tập trung ngay vào việc coi trọng

giáo dục từ cấp bậc tiểu học và đào tạo đội ngũ giáo viên có chuyên môn
chuyên nghiệp. Việc giáo dục đối với trẻ em được thực hiện từ rất sớm để
hướng đến hình thành nhân cách trẻ Nhật Bản là người có tính tự lập, tự chủ
cao, có tinh thần học hỏi cầu tiến, biết khiêm nhường, kính trên nhường dưới
và luôn tôn trọng mọi người. Trong những năm đầu cải cách, để đẩy mạnh
chiến lược giáo dục toàn diện, chính phủ đã phải tiến hành song song hai biện
pháp: Một là, cưỡng chế người dân cho trẻ em đến trường bằng sắc lệnh; hai
là, hỗ trợ người dân về mặt tài chính, chẳng hạn cấp phát những đồ dùng thiết
yếu cho học tập của trẻ em như sách giáo khoa, phấn, bút chì,…Một hệ thống
trường tiểu học được thiết lập theo Luật trường Tiểu học và được coi là cơ sở
của hệ thống giáo dục quốc dân. Theo Học chế năm 1872 thì thời gian giáo
dục bắt buộc là 8 năm, nghĩa là tất cả trẻ em từ 6 đến 13 tuổi phải được đến
trường. Môn học chính được chú trọng đối với trẻ em là bậc tiểu học là môn
Tu thân. Bởi lẽ, quan niệm của người Nhật Bản là rèn luyện phẩm chất đạo
đức không tách rời việc học tập tri thức văn hóa. Đây chính là khía cạnh tạo
cho nền giáo dục Nhật Bản khác hẳn với nền giáo dục phổ thông ở các nước
phương Tây.
Đối với giáo viên, việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng được chính
phủ đặc biệt chú ý. Nhiều chính sách ưu tiên cho những người theo học ngành
sư phạm. Nhân việc nhận được tiền bồi thường chiến tranh của nhà Thanh sau
cuộc chiến tranh Trung – Nhật năm 1894-1895, chính quyền Minh Trị (Meiji)
đã dành một phần đáng kể để nâng lương cho giáo viên. Nhưng bên cạnh
15


những ưu tiên đó, chính phủ cũng buộc họ không được đổi nghề, kèm với đó
là việc đặt ra những tiêu chuẩn rất chặt chẽ, yêu cầu về trình độ giáo viên
ngày càng cao. Đó là yếu tố quan trọng trong việc đảm bảo chất lượng đào tạo
của các trường học ở Nhật Bản kể từ thời Minh Trị (Meiji).
Về mục đích, giáo dục Nhật Bản hướng đến một nền giáo dục tiên tiến

phương Tây trong mối quan hệ bình đẳng giữa tất cả các tầng lớp trong xã
hội, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn,... ai ai cũng được học tập. Việc
tiếp thu văn minh phương Tây là một chủ trương lớn của chính quyền Minh
Trị được khẳng định trong Năm lời thề (14-3-1868) khẩu hiệu mang tính
chiến lược: “Học tập phương Tây, đuổi kịp phương Tây, đi vượt phương Tây”.
Vốn là một dân tộc nhạy cảm với những biến đổi bên ngoài và có khả năng
thích nghi cao, Nhật Bản tiếp thu những thành tựu và văn hóa phương Tây
một cách khá nhanh chóng. Sau đó, Nhật Bản lần lượt từng bước biến nó
thành tài sản của mình, nghĩ là, luôn giữ thái độ tiếp thu một cách chủ động
mà vẫn đảm bảo việc duy trì và phát huy tốt bản sắc dân tộc. Do đó, việc du
nhập văn minh phương Tây dưới thời Minh Trị cũng được thực hiện với
phương châm như vậy.

Một số thành tựu trong công cuộc cải cách giáo dục
Trong công tác giáo dục và đổi mới giáo dục, “Tính đến năm 1890 đã
có khoảng 3.000 chuyên gia giáo dục ngoại quốc sang làm việc ở ngành giáo
dục Nhật Bản” [9, tr.129] . Với quyết tâm nâng cao trình độ dân trí, chính
quyền đã áp dụng chế độ giáo dục bắt buộc và bình đẳng cho tất cả mọi thành
phần xã hội. Nhờ đó, “năm 1873, mới chỉ có 28% tổng số cư dân đến tuổi đi
học thì năm 1882 con số này đã tăng lên 50%, năm 1895 là 67%, 1904 là
98%” [9, tr.129].
Thành tựu mà Nhật Bản đã đạt được trong giáo dục đúng như theo nhận
xét của Edwin O. Reischauer: “Một nền giáo dục phổ cập đã khiến cho Nhật
Bản trở thành nước đầu tiên ở châu Á có một quần chúng biết đọc biết viết.
Một trình độ giáo dục phổ thông cao, cũng như sức mạnh quân sự và khả

16


năng kĩ nghệ là lý do cắt nghĩa tại sao Nhật Bản đã chiếm được ưu thế tại

vùng Đông Á vào nửa đầu thế kỉ XX” [31, tr151]
Trong sự nghiệp duy tân đất nước, giáo dục là ngành đặc biệt được coi
trọng bởi vai trò đặc thù tạo nên nguồn lực trí thức cho sự phát triển căn bản
và bền vững của tất cả các ngành sản xuất, kĩ thuật, quản lý của Nhật Bản.
Trong công cuộc đổi mới giáo dục đó phải kể đến công lao của Fukuzawa
Yukichi (1835-1901). Ông được tôn vinh là “người thầy của dân tộc”, “người
cha của nước Nhật cận đại” và “Voltaire của Nhật Bản”. Tư tưởng cải cách
của ông có ảnh hưởng mạnh mẽ đến tiến trình thiết lập và sự phát triển của
một nhà nước mới và có ý nghĩa vạch đường đi cho dân tộc.
Để đẩy mạnh việc tiếp thu văn minh phương Tây, yêu cầu đất nước
phải có một nền tảng học, am hiểu những lĩnh vực chuyên môn của người
nước ngoài. Do đó, buộc phải có một đội ngũ học giả có quan hệ mật thiết với
nhau, cùng đóng góp công sức cho công cuộc đổi mới trong giáo dục, để vừa
có thể trao đổi học vấn, vừa có thể học hỏi lẫn nhau, Mori Arinori (Sâm Hữulễ;  ; 1847-1889) đã đề nghị “thiết lập một học hội vừa để chấn hưng học
thuật vừa để làm gương mẫu đạo đức” [48].
Vì thế Mori Arinori đã cùng bàn bạc với Nishimura Shigeki (Tây-thôn
Mậu-thụ;  ; 1828-1902) về khả năng thành lập một hội trí thức dựa theo
mô hình của Hoa Kỳ. Hội mang tên là Meirokusha (Minh-lục-xã), bởi lẽ việc
thành lập hội được thảo luận vào năm thứ 6 thời Minh Trị (1873) -- “Minh” là
Minh Trị, “lục” là 6, và “xã” là hội. Tôn chỉ thiết lập của hội công bố một năm
sau đó, được tóm tắt như sau: “Nhằm xúc tiến giáo dục trong nước, nhóm hữu
chí chúng tôi thương nghị về các biện pháp, hội họp các người đồng chí để
trao đổi ý kiến, mở mang kiến thức”[42, tr.403]. Qua tháng 2 năm 1875,
Meirokusha được chính thức thành lập.
Sau khi thành lập, hội trí thức Meirokusha đã bắt tay ngay vào việc
dịch thuật, truyền bá tri thức và những khái niệm khoa học sang Nhật ngữ,
đặc biệt là các thuật ngữ chính trị, khoa học, triết học. Không dừng lại ở đó,
các học giả còn nhận thấy giá trị tư tưởng và triết luận trong tinh thần văn
17



minh phương Tây nên đã chủ trương tiếp thu cả những văn minh đó nhưng
trên cơ sở vẫn duy trì và bảo tồn hệ tư tưởng phương Đông. Nishi Amane một quan viên của hai chính quyền Tokugawa và Minh Trị (Meiji) đã viết thư
gửi giáo sư J. J. Hoffmann – người mà ông từng thụ giáo trong thời gian du
học ở Leiden, Hà Lan, vào thập niên 1860 như sau: “Nhằm cải thiện quan hệ
với các nước Âu châu, nội chính và các cơ chế ở Nhật cần phải được đổi mới.
Nhưng muốn đổi mới thì phải có kiến thức về các ngành thống kê, luật pháp,
kinh tế, chính trị học, quan hệ ngoại giao, nhưng các ngành này chưa có ai
dạy ở Nhật. Bởi vậy, mục đích của chúng tôi là học đủ mọi thứ và nghiên cứu
cơ sở triết học của các ngành đó. Vì cơ sở tôn giáo trong luật pháp của nước
chúng tôi khác với triết học của Descartes, Locke, Hegel, và Kant, chúng tôi
sẽ nghiên cứu tất cả .... Chúng tôi cảm thấy việc nghiên cứu các đề tài này sẽ
có ích cho việc nâng cao trình độ văn hóa của chúng tôi” [Trích dẫn 7, tr.214].
Các học giả trong hội Meirokusha đã để lại rất nhiều tác phẩm có anh hưởng
mạnh mẽ đến xã hội lúc bấy giờ, trong đó có “Lân thảo” của Kato viết năm
1861, “Tây dương sự tình” của Fukuzawa Yukichi, “Bách nhất tân luận” của
Sishi Amane,…
Mặt khác, để canh tân đất nước trong giáo dục được toàn diện, người
Nhật cũng nhận ra điều cần thiết là phải kiên quyết loại bỏ lối tư duy cũ và
cách thức lỗi thời. Yêu cầu đặt ra là phải coi trọng thực học và những giá trị
thực tiễn hơn là lý chỉ mang tính thuyết hàn lâm, giáo điều. Do đó, cùng với
việc cử trí thức đi nước ngoài học tập, Nhật Bản còn cho mời các giáo sư,
chuyên gia ngoại quốc về giảng dạy và làm cố vấn trong các lĩnh vực khác
nhau.
Như vậy, sau khi chính quyền Tokugawa trao trả lại quyền lực chính và
đất đai cho Thiên hoàng và Nhật Bản mở cửa đất nước thì Nhật Bản đã bước
đầu khôi phục lại được tổn thất trước kia do chính quyền Tokugawa gây ra,
đặc biệt là trong hệ thống giáo dục, đưa nước Nhật ngày càng hưng thịnh sánh

18



ngang với sự phát triển của các nước phương Tây và đi đầu trong các nước
Đông Á về giáo dục.
Trong công cuộc tiếp thu nền tri thức của phương Tây thì trong đời
sống văn hóa Nhật Bản cũng có sự thay đổi rõ rêt khi chính quyền đưa ra lệnh
áp dụng trong cả nước về việc ăn mặc, đi lại của người dân. Theo đó, đàn ông
thay vì để tóc dài của thời Mạc phủ thì đến thời kỳ này đàn ông phải cắt tốc
ngắn giống Tây hóa, việc tham dự trong những buổi lễ quan trọng thì phải
mặc Âu phục đi giày da. Việc dùng đồ dùng phương Tây được coi là đúng
mốt và sang trọng.
Chính phủ Minh Trị ra quyết định thay đổi từ sử dụng lịch Âm sang sử
dụng lịch Dương theo các nước phương Tây.
Xu hướng Tây hóa trong xã hội Nhật Bản được thể hiện rõ nhất trong
việc ăn uống. Thời kỳ Mạc phủ mọi người chủ yếu ăn uống lấy các món rau,
cá là chủ yếu nhưng đến thời kỳ này thì việc ăn thịt được nhiều người làm
theo. Trong đó, việc ăn lẩu bò được mọi người coi là văn minh và mọi người
đều thi đua nhau ăn lẩu bò.
Đỉnh điểm của xu hướng Tây hóa là việc xây dựng Minh Lộc quán
(Rokumeikan) năm 1883 do kiến trúc sư người Anh Josiah Conder (18521920) thiết kế, sử dụng để tiếp khách nước ngoài và nơi gặp gỡ của giới
thượng lưu, đây là kiến trúc theo mô hình của châu Âu thời kỳ Trung cổ.
Từ đó ta thấy rõ quyết tâm cải cách đất nước theo phong trào Tây hóa
của Nhật Bản để đưa đất nước đi lên thoát khỏi xã hội phong kiến lạc hậu.
Việc tiếp cận văn hóa từ Âu – Mỹ kết hợp với văn hóa truyền thống đã
tạo nên nét văn hóa mới mang đặc trưng riêng cho văn hóa Nhật Bản. Các nét
văn hóa từ ăn mặc, đi lại đều theo phong cách phương Tây. Đồng thời, hàng
loạt các tòa soạn báo được mở ra.
Thiên chúa giáo du nhập vào Nhật Bản thời kỳ đầu còn bị sự bài xích
nhưng từ sau năm 1873 thì các nhà truyền giáo được phép hoạt động tự do và
Thiên chúa giáo không bị cấm tại Nhật Bản nữa.


19


Trong lĩnh vực học thuật cũng có sự thay đổi theo hướng phương Tây.
Về cả triết học, luật học hay kinh tế học thì trường phái chủ đạo được chính
quyền Minh Trị lựa chọn đều là trường phái của Đức.
Việc phổ cập giáo dục là một chính sách được coi là thành công trong
thời kỳ Minh Trị. Số người biết chữ ở Nhật Bản tăng cao, trình độ dân chí
được nâng lên tạo điều kiện cho sự phát triển nền văn học mới. nền văn học
này dựa trên chủ nghĩa tả thực để miêu tả chân thực về cuộc sống con người
và thiên nhiên Nhật Bản. Về thơ ca, thơ của thời kỳ Minh Trị chịu ảnh hưởng
nhiều từ phương Tây nên đã hình thành kiểu thơ mới không bị rành buộc như
kiểu thơ thời kỳ Mạc phủ.
Các lĩnh vực khác như hội họa, âm nhạc, kiến trúc cũng chịu ảnh hưởng
mạnh của phương Tây. Mọi người sẽ học khiêu vũ, tổ chức tiệc tùng, hòa
nhạc tại các phòng xây dựng theo phong cách châu Âu như Minh Lộc quán.
Các chính sách cải cách mà chính phủ Minh Trị đã đặt ra và tiến hành
là một bước đi vững chắc đưa nước Nhật thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc
hậu dễ bị phương Tây xâm lược. Chính sách giáo dục giúp cho Nhật Bản xây
dựng một lực lượng nhân công lao động có trình độ cao, phát triển kinh tế.
Việc đào tạo những người trẻ tuổi tại nước ngoài đã làm cho số lượng chuyên
gia kỹ thuật tăng. Các trường nghề được mở ra và việc thực hiện chính sách tự
do trong công việc đã làm cho cuộc sống người dân được nâng cao.
Các chính sách về phát triển kinh tế đã biến Nhật từ một nước phụ
thuộc và phương Tây thành một nước đã tự đứng lên xuất khẩu sản phẩm
sang phương Tây và có thể đặt điều kiện ký các bản hiệp ước bình đẳng với
phương Tây.
Về các lĩnh vực như quân sự, luật học,… Nhật Bản đã tiếp thu thành
công các thành tựu của phương Tây để áp dụng vào đất nước mà không phải

chịu nhiều ảnh hưởng của việc thử nghiệm. Ví dụ về quân sự, mô hình hải
quân của Anh và mô hình lục quân của Đức là hai mô hình quân sự mạnh lúc
bấy giờ và Nhật Bản đã kế thừa và vận dụng thành công vào mô hình quân sự

20


của nước mình. Từ đó tạo điều kiện hình thành lực lượng quân sự mạnh mẽ
trong chiến tranh thế giới.
1.1.3. Cải cách về ngoại giao
Để đổi được sự hòa bình nhằm tập trung cho phát triển nền kinh tế và
thay đổi trong xã hội thì Nhật Bản cũng đã phải trả một cái giá nhất định.
Trong thời kỳ bắt đầu phá bỏ chính sách “Bế quan tỏa cảng” thì chính phủ
Minh Trị đã tiến hành ký các bản Hiệp ước bất bình đẳng với các nước
phương Tây và đổi lại việc không bị phương Tây xâm lược. Nhưng đến thời
điểm đất nước Nhật Bản đang trên đà phát triển thì đối với phương Tây, Nhật
Bản đã trở thành một mối “hiểm họa ngầm” vì thế cần thực hiện các biện
pháp nhằm ngăn chặn sự phát triển và bành trướng của Nhật Bản. Đối với
chính phủ Minh Trị thì lại cảm thấy ngược lại, khi họ có thể tự chủ về kinh tế
- xã hội đang trên đà phát triển mạnh, hơn thế nữa họ nhìn thấy tiềm năng
quân sự của chính quốc gia của mình. Vì thế nên họ cảm thấy các bản Hiệp
ước bất bình đẳng đã ký trước đó làm cản trở sự phát triển đất nước, các
cường quốc phương Tây cũng đang tìm cách chèn ép Nhật Bản. Chính vì vậy,
nhiệm vụ tiên quyết của Nhật Bản lúc này là tìm cách để xóa bỏ các bản Hiệp
ước bất bình đẳng đã ký với phương Tây trước đó. Nhưng nhiệm vụ này đã bị
thất bại nhanh chóng. Chúng ta có thể nhận thấy rất rõ ràng rằng: đối với các
cường quốc phương Tây thì miếng mồi béo bở như Nhật Bản họ sẽ không thể
nào để vượt ra khỏi tầm tay của họ được. Khi các bản Hiệp ước vẫn còn tồn
tại thì Nhật Bản vẫn còn là một nước chịu sự chi phối của phương Tây, các
bản Hiệp ước mất đi giá trị có thể khiến cho Nhật Bản thoát khỏi sự khống

chế và vượt lên. Điều này khác gì việc phương Tây tự họ tạo nên một đối thủ
cho chính bản thân mình. Phương Tây đến các nước phương Đông với mục
đích chính là để xâm lược và cướp nguồn tài nguyên chứ không phải để giúp
đỡ, xây dựng một đất nước lớn mạnh mà có thể trở thành đối thủ trong tương
lai của họ.

21


Với Nhật Bản, sau khi thất bại trong cuộc đàm phán thì chính phủ Minh
Trị đã tìm cách mở rộng sức ảnh hưởng của Nhật Bản ra bên ngoài. Mục tiêu
đầu tiên mà chính phủ Nhật Bản nhằm tới đó chính là Trung Quốc. Trong suốt
bao nhiêu năm tồn tại, Trung Quốc luôn tự xưng mình là “anh cả” của khu
vực Phương Đông. Trong lịch sử thì Trung Quốc cũng có nhiều lần đàn áp
Nhật Bản, vì thế để bước đầu khẳng định sức mạnh của đất nước, khếch
trương thanh thế của mình thì Nhật Bản đã lấy lý do tranh giành sức ảnh
hưởng của Nhật Bản trên chủ quyền của bán đảo Triều Tiên nhằm gây xung
đột với chính quyền nhà Thanh. Trong khoảng thời gian trước thì bán đảo
Triều Tiên vẫn chịu sự khống chế của chính quyền nhà Thanh, chính vì vậy
nên việc Nhật Bản có ý định với Triều Tiên đã dẫn đên cuộc xung đột Nhật –
Thanh năm 1904, đồng thời cũng dẫn đến chiến tranh Nhật – Nga năm 1905.
Hai cuộc chiến tranh Nhật Bản đều giành thắng lợi và yêu cầu hai nước
thua trận ký kết các bản hiệp ước nhằm công nhận chủ quyền của Bản đảo
Triều Tiên và sau này bán đảo Triểu Tiên sẽ phụ thuộc vào Nhật Bản. Đặc biệt
sau chiến tranh Nhât – Thanh, Nhật Bản giành lại những lợi ích từ việc nhà
Thanh bồi thường chiến tranh nhằm đẩy mạnh sự phát triển về quân sự.
Nguyên nhân Nhật Bản lựa chọn chiến tranh với nhà Thanh và Nga là
do: đây là hai nước có tiềm lực mạnh, và có sức ảnh hưởng trên khu vực châu
Á. Hơn thế nữa, trong thời điểm đấy thì hai nước đang trong giai đoạn suy
yếu nên khó có thể giành thắng lợi so với Nhật Bản. Khi Nhật Bản tiến hành

chiến tranh và giành thắng lợi có thể khiến cho các nước khác có cái nhìn
khác về nước Nhật: Nhật Bản không còn là một quốc gia nhỏ bé nằm ở châu
Á nữa mà giờ đây Nhật Bản đã trở nên mạnh mẽ khi có thể đánh thắng được
một đất nước lớn mạnh luôn xưng là “anh cả” châu Á và một nước nằm trong
khối các cường quốc phương Tây như Nga. Chính vì vậy, việc chiến thắng
trong hai cuộc chiến tranh không những giúp cho Nhật Bản củng cố thêm về
kinh tế do nhận được bồi thường mà còn giúp cho quân đội Nhật Bản trở nên
lớn mạnh hơn, người dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của chính phủ hơn. Hai
22


×