Tải bản đầy đủ (.doc) (125 trang)

Phát triển du lịch sinh thái của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên đầu tư và phát triển nông nghiệp hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.44 MB, 125 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu của tôi. Số liệu và
kết quả nghiên cứu là trung thực và chưa từng được sử dụng trong bất cứ luận
văn, luận án nào.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn đều
đã được cám ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều được chỉ rõ
nguồn gốc.
Hà Nội, ngày 22 tháng 10 năm 2012
Tác giả luận văn

Trần Thị Bích Thủy

i


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp này ngoài sự cố gắng nỗ lực của bản
thân còn có sự chỉ bảo tận tình của các thầy cô giáo cũng như sự động viên
giúp đỡ của các tổ chức, gia đình, bạn bè.
Lời đầu tiên, tôi xin bày tỏ lòng kính trọng cũng như lòng biết ơn sâu sắc
đến cô giáo PGS.TS. Nguyễn Thị Minh Hiền – Phó chủ nhiệm Khoa Kinh tế và
Phát triển nông thôn, trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội đã tận tình hướng
dẫn, đóng góp ý kiến quý báu, động viên giúp đỡ tôi trong suốt quá trình làm
luận văn.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy, cô giáo trong khoa Kinh
tế và Phát triển nông thôn cũng như các thầy cô giáo trong Bộ môn Phát triển
nông thôn Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội đã trang bị cho tôi rất nhiều
kiến thức, kỹ năng để tôi có thể hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Tổng giám đốc Công ty THHH MTV
Đầu tư và Phát triển nông nghiệp Hà Nội và các phòng ban trong công ty đã
giúp đỡ tôi rất nhiều trong quá trình thực tập.


Cuối cùng tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới toàn thể gia đình, bạn
bè đã luôn động viên và tạo mọi điều kiện cho tôi hoàn thành luận văn tốt
nghiệp của mình.
Ngày 22 tháng 10 năm 2012
Tác giả luận văn

Trần Thị Bích Thủy

ii


MỤC LỤC
Nội dung

Trang

iii


DANH MỤC BẢNG
Bảng

Nội dung

iv

Trang


DANH MỤC SƠ ĐỒ, HÌNH

Sơ đồ,
hình,

Nội dung

v

Trang


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DLST

Du lịch sinh thái

STT

Số thứ tự

HADICO

Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Đầu tư và Phát
triển nông nghiệp Hà Nội

WTO

Tổ chức du lịch thế giới (World Tourims Organization)

TCTK


Tổng cục thống kê

UBND

Ủy ban nhân dân

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

CBCNV

Cán bộ công nhân viên

PTNN

Phát triển nông nghiệp

HĐTV

Hội đồng thành viên

HTX

Hợp tác xã

KHCN

Khoa học công nghệ


KHTSCĐ

Khấu hao tài sản cố định

NTTS

Nuôi trồng thủy sản

WTO

Tổ chức thương mại thế giới (World Trade Organization)

ASEAN

Các quốc gia Đông Nam Á

SXKD

Sản xuất kinh doanh

CNKT

Công nhân kỹ thuật

ĐH

Đại học




Cao đẳng

TC

Trung cấp

LĐPT

Lao động phổ thông

vi


PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Ngày nay, khi chất lượng đời sống dân cư ngày càng cao và xu hướng hội
nhập, hợp tác toàn cầu ngày càng sâu rộng, nhu cầu về du lịch trong nước cũng
như nước ngoài trở thành một nhu cầu thiết yếu trong đời sống xã hội. Về mặt
kinh tế, du lịch trở thành ngành kinh tế tổng hợp, năng động và được coi là
phương sách hiệu quả để mỗi vùng, mỗi quốc gia phát triển kinh tế của mình.
Du lịch có mối liên hệ chặt chẽ với môi trường. Trong phát triển du lịch, môi
trường là yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến tốc độ phát triển du lịch và là
nguồn lực thu hút khách du lịch.
Để phục vụ nhu cầu du lịch ngày một đa dạng của con người trong xã
hội ngày càng phát triển, du lịch sinh thái có thể coi là loại hình du lịch đang
nhận được sự quan tâm cao của xã hội. Du lịch sinh thái là giải pháp cho sự
phát triển du lịch bền vững, bảo tồn được tài nguyên thiên nhiên hoang sơ và
đảm bảo lợi ích cho các bên tham gia, đồng thời đáp ứng được nhu cầu của
khách du lịch. Du lịch sinh thái được xác định là loại hình du lịch có tiềm
năng và thế mạnh của Việt Nam trên con đường hội nhập với tất cả các nước

trên thế giới và trong khu vực. Đặc biệt, sau khi Việt Nam trở thành thành
viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới WTO. Năm 2010, du lịch
Việt Nam đã thu hút được hơn 5 triệu lượt khách quốc tế, với doanh thu 96
nghìn tỷ đồng(TCTK, 2011). Du lịch sinh thái là sự kết hợp của các sản phẩm
nông nghiệp, sản phẩm sinh thái và sản phẩm văn hoá mà chúng bao hàm các
chức năng khác nhau như kinh tế, xã hội, giáo dục, môi trường, giải trí, chữa
bệnh… Du lịch sinh thái còn là thức phát triển mối giao hòa về mặt tự nhiên,
văn hóa và con ngừời giữa các vùng đô thị và nông thôn thông qua việc đến ở
hoặc tham quan có mục đích nhằm hưởng thụ các sản vật địa phương tại từng
gia đình nông hộ hoặc các trang trại, các doanh nghiệp nông nghiệp. Việc xây
1


dựng chương trình hỗ trợ các nông hộ, các doanh nghiệp phát triển những sản
vật thông qua các hoạt động du lịch sinh thái để tạo ra tầng lớp thị dân làm
nông nghiệp trong Thủ đô mở rộng này là rất quan trọng. Chính các thị dân
nông hộ này sẽ đóng vai trò quan trọng cho việc cung cấp các sản phẩm sạch
từ thiên nhiên, tạo ra một vành đai thực phẩm tinh khiết cho dân cư Hà Nội.
Phát triển du lịch sinh thái là góp phần phát triển vành đai xanh của Thủ đô,
đồng thời bảo tồn được nguồn gen của các loài thực vật quý hiếm, bảo vệ và
tôn trọng thiên nhiên, tham gia giáo dục cộng đồng cư dân đô thị và đặc biệt
thế hệ trẻ bằng các hoạt động du lịch sinh thái.
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Đầu tư và phát triển nông
nghiệp Hà nội là một doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc UBND Thành phố
Hà Nội, được sáp nhập từ nhiều đơn vị của ngành nông nghiệp Thủ đô với
nhiệm vụ chủ yếu là sản xuất, kinh doanh các sản phẩm nông nghiệp đạt chất
lượng cao và an toàn; phát triển nông nghiệp gắn với cảnh quan và du lịch
sinh thái nhằm tăng hiệu quả trong sản xuất kinh doanh, bảo vệ tài nguyên
môi trường, tăng thu nhập cho người lao động.
Hoạt động kinh doanh về du lịch sinh thái của Công ty hiện nay chủ

yếu tại Khu du lịch sinh thái Từ Liêm với tổng diện tích là 40ha và đã thu
hút được hàng ngàn lượt du khách trong và ngoài nước đến thăm quan, ăn
uống, nghỉ ngơi hàng năm.
Tuy nhiên, thực tế phát triển du lịch sinh thái của công ty còn chưa phát
huy hết tiềm năng, chưa khai thác được hết các nguồn lực có lợi thế, thiếu
định hướng và giải pháp phát triển theo chiều sâu…
Xuất phát từ những vấn đề trên, tôi đã chọn đề tài “ Phát triển du lịch
sinh thái của Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Đầu tư và Phát
triển nông nghiệp Hà nội ” làm đề tài nghiên cứu.

2


1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển du lịch sinh thái tại công ty
TNHH một thành viên đầu tư và phát triển nông nghiệp Hà Nội, đưa ra định
hướng và những giải pháp chủ yếu để mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng
DLST tại Công ty.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Góp phần hệ thống hoá các vấn đề lý luận cơ bản và thực tiễn về phát
triển du lịch sinh thái.
- Phân tích thực trạng phát triển du lịch sinh thái trong những năm gần
đây, phát hiện những vấn đề cần giải quyết nhằm mở rộng quy mô và nâng
cao chất lượng dịch vụ du lịch sinh thái của Công ty.
- Đưa ra những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển du lịch sinh thái của
công ty TNHH một thành viên đầu tư và phát triển nông nghiệp Hà Nội.
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề phát triển du lịch sinh thái, với chủ thể là công

ty TNHH một thành viên đầu tư và phát triển nông nghiệp Hà Nội.
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
 Thời gian: Các tài liệu để sử dụng nghiên cứu tổng thể từ năm 2009
-2011, khảo sát thực tế năm 2011, định hướng đến năm 2015.
 Địa điểm: Luận văn được thực hiện tại Khu du lịch sinh thái Vườn
Quả Từ Liêm tại xã Minh Khai, huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội- thuộc
công ty TNHH một thành viên Đầu tư và Phát triển nông nghiệp Hà nội.
 Nội dung: Nghiên cứu các nội dung chủ yếu nhằm mở rộng quy mô và
nâng cao chất lượng du lịch sinh thái tại công ty TNHH một thành viên đầu tư
và phát triển nông nghiệp Hà Nội.

3


PHẦN 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH THÁI
2.1 Cơ sở lý luận về phát triển du lịch sinh thái
2.1.1 Một số khái niệm cơ bản
2.1.1.1 Khái niệm về du lịch
Theo tổ chức Du lịch thế giới, du lịch là hoạt động của con người đến
và ở tại những nơi ngoài môi trường hàng ngày của họ trong một thời gian
nhất định với mục đích giải trí, công vụ hay những mục đích khác.
Theo Điều 4 chương I Luật du lịch Việt nam năm 2005, giải thích từ du
lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư
trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải
trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định.
Định nghĩa của Michael Coltman về du lịch, đó là sự kết hợp và tương
tác của bốn nhóm nhân tố trong quá trình phục vụ du khách bao gồm: du
khách, nhà cung ứng dịch vụ du lịch, cư dân sở tại và chính quyền nơi đón
du khách. Ông thể hiện sự tương tác của các nhân tố này dưới dạng sơ đồ

như sau:
Nhà cung ứng
dịch vụ du lịch

Du khách

Chính quyền
địa phương nơi
đón du khách

Cư dân sở tại

Sơ đồ 2.1 Các nhân tố cấu thành du lịch
4


Khoa Du lịch và Khách sạn trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội
đã đưa ra định nghĩa nhằm làm rõ góc độ kinh tế và kinh doanh của du lịch
như sau: "Du lịch là một ngành kinh doanh bao gồm các hoạt động tổ chức
hướng dẫn du lịch, sản xuất, trao đổi hàng hóa và dịch vụ của những doanh
nghiệp, nhằm đáp ứng các nhu cầu về đi lại lưu trú, ăn uống, tham quan, giải
trí, tìm hiểu các nhu cầu khác của du khách. Các hoạt động đó phải đem lại lợi
ích kinh tế chính trị - xã hội thiết thực cho nước làm du lịch và cho bản thân
doanh nghiệp" (Nguyễn Văn Đính và Trần Thị Minh Hòa, 2006).
Như vậy, ta thấy du lịch là một hoạt động có nhiều đặc thù, gồm nhiều
thành phần tham gia, tạo thành một tổng thể hết sức phức tạp. Hoạt động du lịch
vừa có đặc điểm của ngành kinh tế lại có đặc điểm của ngành văn hóa – xã hội.
Từ định nghĩa trên ta thấy nhận thức của con người về du lịch dần được
hoàn thiện từ hoạt động không có ý nghĩa kinh tế thì nay nó được coi là một
ngành kinh tế dịch vụ quan trọng góp phần vào việc phát triển kinh tế đất nước.

2.1.1.2 Khái niệm về du lịch sinh thái, khách DLST
* Khái niệm về du lịch sinh thái
Định nghĩa của Epler Wood, Gazt và Lindberg năm 1991 được sử dụng
khá rộng rãi : “Du lịch sinh thái là chuyến tham quan có mục đích đến các
khu thiên nhiên nhằm tìm hiểu văn hóa và lịch sử hình thành thiên nhiên môi
trường, thận trọng để không làm biến đổi sự nguyên sơ của hệ sinh thái, tạo ra
các lợi ích kinh tế nhằm bảo tồn tài nguyên thiên nhiên có lợi cho cộng đồng
địa phương ”.
Theo tổ chức du lịch thế giới (WTO- World Tourism Organisation) : Du
lịch sinh thái là loại hình du lịch được thực hiện tại những khu vực tự nhiên
cũ nhưng ít bị can thiệp bởi con người, với mục đích để chiêm ngưỡng, học
hỏi về các loài động thực vật cư ngụ trong khu vực đó, giúp giảm thiểu và
tránh được các tác động tiêu cực tới khu vực mà du khách đến thăm. Ngoài ra,
DLST phải đóng góp vào công tác bảo tồn những khu vực tự nhiên và phát
5


triển những khu vực cộng đồng lân cận một cách bền vững đồng thời phải
nâng cao được khả năng nhận thức về môi trường và công tác bảo tồn đối với
người dân bản địa và du khách đến thăm.
Định nghĩa của Tổ chức du lịch thế giới đầy đủ nhất nội dung cũng như đặc
điểm của du lịch sinh thái, đó là địa điểm để tổ chức được một tour du lịch, mục
đích chuyến đi của du khách, đặc biệt là việc giáo dục và nâng cao nhận thức
cho du khách cùng với đó là trách nhiệm của các tổ chức cũng như du khách
trong việc bảo tồn và gìn giữ môi trường tự nhiên, môi trường văn hóa để đảm
bảo cho sự phát triển bền vững ở những nơi mà du khách tới tham quan.
Tại hội thảo xây dựng chiến lược quốc gia về phát triển DLST tại Hà
Nội năm 1999 đã đưa ra định nghĩa: “Du lịch sinh thái là một loại hình du lịch
dựa vào thiên nhiên và văn hóa bản địa có tính giáo dục môi trường và đóng
góp cho các nỗ lự bảo tồn và phát triển bền vững với sự tham gia tích cực của

cộng đồng địa phương” Đây là định nghĩa đầu tiên của Việt Nam về DLST và
được coi là cơ sở lý luận cho các nghiên cứu và ứng dụng thực tế về phát triển
DLST ở nước ta.
* Khái niệm về khách du lịch sinh thái
Có nhiều quan điểm khác nhau về du khách nhưng chủ yếu đều dựa vào
các tiêu thức như mục đích, thời gian và không gian của chuyến đi để xác định.
Nhà xã hội học Albert Cohen quan niệm rằng: Du khách là một người đi
tự nguyện, mang tính nhất thời, với mong muốn được giải trí từ những điều
mới lạ và sự thay đổi thu nhận được từ một chuyến đi tương đối xa và không
thường xuyên.
Ông Odgivie, nhà kinh tế học người Anh, đưa ra khái niệm: Du khách
là tất cả những người thỏa mãn hai điều kiện: rời khỏi nơi ở thường xuyên
trong khoảng thời gian dưới một năm và chi tiêu tiền bạc tại nơi họ đến thăm
mà không kiếm tiền ở đó (dẫn theo Trần Thị Thúy Lan, 2005). Khái niệm của

6


ông chưa làm rõ được mục đích của người đi du lịch và phân biệt với những
người cũng rời khỏi nơi cư trú của mình nhưng không phải là du khách.
Định nghĩa của Liên hiệp các quốc gia – League of Nations năm 1937 về
du khách như sau: Du khách nước ngoài, bất cứ ai đến thăm một đất nước khác
với nơi cư trú thường xuyên của mình trong khoảng thời gian ít nhất là 24 giờ
(Nguyễn Văn Đính và Trần Thị Minh Hòa, 2006). Định nghĩa này nhấn mạnh
về mặt thời gian của du khách, tuy nhiên, trong thực tế lượng khách đến và đi
trong thời gian ít hơn 24 giờ ngày càng nhiều, do đó làm nảy sinh khái niệm
khách thăm quan. Khách thăm quan là những người chỉ đi thăm viếng trong
chốc lát, trong ngày, thời gian chuyến đi không quá 24 giờ.
Hội nghị Liên hợp quốc về du lịch tại Roma – Italy (1963) đưa ra quan
niệm về du khách quốc tế và nội địa. Quan niệm này cũng được tổ chức du

lịch thế giới - WTO (World Tourims Organization) thừa nhận. Du khách quốc
tế là những người lưu trú ít nhất là một đêm nhưng không quá một năm tại
một quốc gia khác với quốc gia thường trú với nhiều mục đích khác nhau
ngoài hoạt động để được trả lương ở nơi đến.
Du khách nội địa là một người đang sống trong một quốc gia, không kể
quốc tịch nào, đi đến một nơi khác không phải nơi cư trú thường xuyên trong
quốc gia đó trong khoảng thời gian ít nhất 24 giờ và không quá một năm với
các mục đích khác nhau ngoài hoạt động để được trả lương ở nơi đến.
Theo quan niệm này thì mục đích của du khách rộng hơn so với các
quan niệm khác, chỉ trừ mục đích lao động kiếm tiền ở nơi đến.
Quan niệm về du khách ở Việt Nam. Theo Điều 4 chương 1 và điều 34
chương 5 Luật du lịch Việt Nam năm 2005 quy định về du khách như sau: Du
khách là người đi du lịch hoặc kết hợp đi du lịch, trừ trường hợp đi học, làm
việc hoặc hành nghề để nhận thu nhập ở nơi đến, du khách bao gồm du khách
nội địa và du khách quốc tế; Du khách nội địa là công dân Việt Nam, người
nước ngoài thường trú tại Việt Nam đi du lịch trong phạm vi lãnh thổ Việt
7


Nam; Du khách quốc tế là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước
ngoài vào Việt Nam du lịch, công dân Việt Nam, người nước ngoài thường trú
tại Việt Nam ra nước ngoài du lịch. Theo quy định của Luật du lịch thì du
khách được phân biệt với nhau theo không gian sinh sống và di chuyển của họ
(Luật Du lịch, 2005).
2.1.1.3 Sản phẩm du lịch sinh thái
a) Một số khái niệm
Sản phẩm du lịch là một loại sản phẩm đặc biệt, nó không phải chỉ là
một sản phẩm lao động cụ thể biểu hiện dưới hình thái vật chất mà phần nhiều
là sản phẩm vô hình biểu hiện bằng nhiều loại dịch vụ nên khi nói đến dịch vụ
du lịch là nói đến một số lớn trong sản phẩm của ngành du lịch.

Sản phẩm du lịch là một tổng thể bao gồm các thành phần không đồng
nhất hữu hình và vô hình. Sản phẩm du lịch có thể là một món hàng cụ thể
như thức ăn, hoặc một món hàng không cụ thể như chất lượng phục vụ, bầu
không khí tại nơi thăm quan…
Hoặc có thể hiểu sản phẩm du lịch là các dịch vụ, hàng hóa cung cấp cho
du khách, được tạo nên bởi sự kết hợp của việc khai thác các yếu tố tự nhiên, xã
hội với việc sử dụng các nguồn lực: cơ sở vật chất, kỹ thuật và lao động tại một
cơ sở, một vùng hay một quốc gia nào đó (Trần Thị Thúy Lan, 2005).
Theo Điều 4 chương I Luật du lịch Việt Nam năm 2005, giải thích sản
phẩm du lịch là tập hợp các dịch vụ cần thiết để thỏa mãn nhu cầu của du
khách trong chuyến di du lịch. Theo cách hiểu này chúng ta có thể thấy rằng
khi nói đến sản phẩm du lịch tức là nói đến tất cả các dịch vụ được cung cấp
nhằm làm thỏa mãn nhu cầu của du khách, các dịch vụ đó có thể là dịch vụ
tham quan, dịch vụ vui chơi giải trí, dịch vụ lưu trú, mua bán, ăn uống…
Như vậy sản phẩm du lịch là một loại sản phẩm tổng hợp, nó bao gồm các
yếu tố vô hình và hữu hình, được tạo nên bởi sự kết hợp của việc khai thác các

8


yếu tố tự nhiên, xã hội với việc sử dụng các nguồn lực nhằm cung cấp cho du
khách tại một khu du lịch cụ thể nhằm làm thỏa mãn nhu cầu của khách hàng.
b) Những bộ phận hợp thành sản phẩm du lịch
Qua những khái niệm trên ta thấy sản phẩm du lịch bao gồm cả yếu tố
hữu hình và vô hình, có hai loại sản phẩm du lịch cơ bản:

 Sản phẩm du lịch hữu hình, tồn tại ở dạng vật thể: các đồ lưu niệm,
các món ăn, đồ uống khách sử dụng trong nhà hàng... sản phẩm dạng này
chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong sản phẩm du lịch nói chung.


 Sản phẩm du lịch vô hình, tồn tại ở dạng phi vật thể và chỉ có thể
biết được thông qua cảm nhận của khách du lịch, bao gồm: dịch vụ vận
chuyển; dịch vụ lưu trú và các dịch vụ bổ sung ở các cơ sở lưu trú; các dịch
vụ của các tổ chức du lịch; dịch vụ tham quan, giải trí công cộng ở các cơ sở
du lịch; dịch vụ lưu trú chữa bệnh và các dịch vụ tắm nghỉ gắn liền với nó; các
dịch vụ của các cơ sở thể thao; các dịch vụ vận tải du lịch; các dịch vụ và hàng
hoá được bán ở cơ sở (hàng tiêu dùng và đồ lưu niệm); …
Sản phẩm du lịch có thể là sản phẩm đơn lẻ hoặc có thể là sản phẩm
tổng hợp, do một đơn vị cung ứng trọn gói hay do nhiều đơn vị kinh doanh
cùng tham gia cung ứng.
Sản phẩm đơn lẻ là sản phẩm do các nhà cung ứng đưa ra nhằm thỏa
mãn một nhu cầu cụ thể của khách hàng. Các nhà cung ứng có thể là khách
sạn, nhà hàng, hãng vận chuyển… Tuy nhiên, người đi du lịch không chỉ để
thỏa mãn bởi một dịch vụ mà phải được thỏa mãn nhiều nhu cầu do nhiều sản
phẩm tạo nên.
Sản phẩm tổng hợp là sản phẩm phải thỏa mãn đồng thời một nhóm
nhu cầu, mong muốn của du khách. Chẳng hạn chương trình du lịch trọn gói
bao gồm nhiều dịch vụ đơn lẻ như dịch vụ vận chuyển, lưu trú, ăn uống, vui
9


chơi giải trí… Sản phẩm tổng hợp có thể do một cơ sở cung ứng hoặc do
nhiều cơ sở cùng tham gia cung ứng.
c) Đặc trưng của sản phẩm du lịch
Sản phẩm du lịch mang đặc trưng của một dịch vụ thông thường như
sau (Trần Thị Thúy Lan, 2005).
Tính vô hình. Sản phẩm du lịch về cơ bản là không cụ thể, không tồn
tại dưới dạng vật thể, thành phần chính của sản phẩm du lịch là dịch vụ
(chiếm 80 – 90% về mặt giá trị), hàng hóa chiếm tỷ lệ nhỏ. Do đó, việc đánh
giá chất lượng sản phẩm du lịch rất khó khăn, phụ thuộc vào du khách và

mang tính chủ quan. Tuy nhiên, do sản phẩm du lịch không cụ thể nên rất dễ
bị sao chép, bắt chước, việc tạo ra sự khác biệt trong sản phẩm nhằm tính
cạnh tranh khó khăn hơn đối với sản phẩm hàng hóa.
Tính không đồng nhất. Do sản phẩm du lịch chủ yếu là dịch vụ, khách
hàng gần như không thể kiểm tra chất lượng sản phẩm trước khi mua, gây khó
khăn cho việc chọn sản phẩm. Vì vậy, việc quảng bá, giới thiệu sản phẩm đến
với khách hàng là rất cần thiết.
Tính đồng thời giữa sản xuất và tiêu dùng. Việc tiêu dùng sản phẩm du
lịch xảy ra cùng một thời gian và địa điểm sản xuất ra chúng. Đồng thời, sản
phẩm du lịch gắn liền với yếu tố tài nguyên du lịch nên không thể đưa sản
phẩm du lịch đến với khách hàng mà khách hàng phải tự đến nơi sản xuất ra
sản phẩm du lịch để thỏa mãn nhu cầu của mình.
Tính mau hỏng và không dự trữ được. Sản phẩm du lịch chủ yếu là
dịch vụ như dịch vụ vận chuyển, dịch vụ lưu trú, ăn uống… do đó, không thể
tồn kho, dự trữ được dẫn đến tình trạng quá tải, không đáp ứng được nhu cầu
của khách hàng khi lượng khách tập trung quá đông vào một thời điểm.
Tiêu dùng sản phẩm du lịch mang tính thời vụ. Thông thường không
diễn ra đều đặn mà có thể chỉ tập trung vào một thời điểm nhất định như cuối

10


tuần, trong ngày, trong mùa... đây là một trong những khó khăn lớn cho việc
tổ chức hoạt động kinh doanh.
2.1.1.4 Chất lượng dịch vụ du lịch
Du lịch được coi là một ngành kinh tế dịch vụ. Theo Tiêu chuẩn Việt
Nam và ISO – 9000, chất lượng dịch vụ là mức phù hợp của sản phẩm dịch
vụ thỏa mãn các yêu cầu đề ra hoặc định trước của người mua, nhà cung ứng
phải định kỳ xem xét lại các yêu cầu chất lượng.
Chất lượng dịch vụ là một khái niệm trừu tượng, khó nắm bắt bởi các

đặc tính riêng có của dịch vụ. Sự tiếp cận chất lượng được tạo ra trong quá
trình cung cấp dịch vụ, thường xảy ra trong sự gặp gỡ giữa khách hàng và
nhân viên giao tiếp.
Parasuraman A. đã cho rằng sự thỏa mãn của khách hàng về dịch vụ
được đo lường bằng sự so sánh giữa dịch vụ cảm nhận và dịch vụ trông đợi
của bản thân khách hàng (Parasuraman và cộng sự, 1988).
Sự hài lòng (S) = Sự cảm nhận (P) – Sự mong đợi (E)
Mối quan hệ giữa ba yếu tố S, P, E có tính chất quyết định mọi vấn đề của
dịch vụ, các biến số P, E đều phụ thuộc rất nhiều vào phong tục, tập quán, dân
tộc, tôn giáo và tâm sinh lý, nhu cầu chủ quan của cá nhân khách hàng.
Chất lượng dịch vụ chính là sự thỏa mãn khách hàng được xác định bởi
việc so sánh giữa dịch vụ cảm nhận và dịch vụ trông đợi. Năm 1985, ba tác
giả Parasuraman A., Zeithaml VA. và Berry LL. đưa ra mô hình chất lượng
dịch vụ như sau:

11


Thông tin
bằng lời

Nhu cầu cá
nhân

Chỉ tiêu đánh giá chất
lượng dịch vụ
Sự tin cậy
Tinh thần trách nhiệm
Sự đảm bảo
Sự thông cảm

Tính hữu hình

Dịch vụ
mong đợi (E)

Dịch vụ cảm
nhận (P)

Kinh nghiệm
từ trước
Chất lượng dịch vụ
được cảm nhận
Chất lượng dịch vụ vượt
quá mong đợi (P > E).
Chất lượng dịch vụ thỏa
mãn (P = E).
Chất lượng dịch vụ dưới
mức mong đợi (P < E).

Sơ đồ 2.2 Mô hình chất lượng dịch vụ
Trong đó, có 3 mức cảm nhận cơ bản về chất lượng dịch vụ:
- Chất lượng dịch vụ tốt: dịch vụ cảm nhận vượt mức trông đợi của
khách hàng;
- Chất lượng dịch vụ thỏa mãn: dịch vụ cảm nhận phù hợp với mức trông
đợi của khách hàng;
- Chất lượng dịch vụ tồi: dịch vụ cảm nhận dưới mức trông đợi của
khách hàng.
Như vậy, có thể khái quát lại chất lượng dịch vụ du lịch chính là sự
phù hợp của dịch vụ của các nhà cung ứng dịch vụ du lịch nhằm làm thỏa
mãn các yêu cầu của du khách thuộc thị trường mục tiêu. Chú ý, chất lượng

dịch vụ của mỗi nhà cung ứng cần thỏa mãn yêu cầu của du khách thuộc thị
trường mục tiêu chứ không phải với mọi thị trường.
* Các cách đánh giá chất lượng dịch vụ du lịch
Chất lượng dịch vụ du lịch được đánh giá dựa vào một số tiêu thức cơ
bản sau:
- Sự đa dạng của các loại hình dịch vụ, sự đa dạng về số lượng, chủng
loại nhiều hay ít của hệ thống các dịch vụ cung cấp. Sự đa dạng đảm bảo
mang lại cho du khách nhiều cơ hội lựa chọn;
12


- Chất lượng của các điều kiện thực hiện dịch vụ là yếu tố thuộc về vật
chất kỹ thuật, bao gồm: chất lượng của các trang thiết bị, sự đồng bộ, tổ chức
hợp lý đảm bảo sự thuận lợi cho quá trình phục vụ của người lao động và
thuận lợi cho khách trong quá trình tiêu dùng, vị trí thuận tiện của cơ sở...;
- Chất lượng của đội ngũ lao động hay phương hướng thực hiện các
dịch vụ. Sản phẩm du lịch do con người tạo ra là chính, đội ngũ lao động là
nhân tố quan trọng đảm bảo chất lượng phục vụ. chất lượng đội ngũ lao động
được đánh giá dựa vào trình độ của lao động (chuyên môn nghiệp vụ, trình độ
học vấn, trình độ ngoại ngữ, khả năng giao tiếp) và tinh thần thái độ trong
phục vụ đối với khách hàng và tinh thần tập thể trong thực hiện công việc.
Trên đây là ba chỉ tiêu cơ bản để đánh giá chất lượng dịch vụ. Để đo
lường chất lượng dịch vụ du lịch, người ta thường sử dụng các phương pháp
như phương pháp đo lường căn cứ vào đánh giá của người cung cấp, phương
pháp đo lường căn cứ vào đánh giá của các chuyên gia, phương pháp đo
lường căn cứ vào sự thỏa mãn khách hàng, so sánh chất lượng dịch vụ của
hãng với dịch vụ của hãng tốt nhất... Trong đó, phương pháp được sử dụng
phổ biến hiện nay là đo lường căn cứ vào sự thỏa mãn của khách hàng và có
các cách đánh giá như sau:
Đánh giá theo 5 thang đo chất lượng dịch vụ

Năm 1991, hai tác giả Leonard L. Berry và A. Parasuraman đã đưa ra 5
thang đo để đánh giá chất lượng dịch vụ, các chỉ tiêu sắp xếp theo tầm quan
trọng giảm dần, đó là: sự tin cậy, sự nhiệt tình, sự đảm bảo, lòng thông cảm và
yếu tố hữu hình.
- Sự tin cậy: Khả năng thực hiện dịch vụ chắc chắn, đáng tin và chính xác
như đã hứa của bên cung ứng dịch vụ với khách hàng, nó còn bao gồm sự nhất
quán mà ngay từ lần đầu tiên cung ứng dịch vụ doanh nghiệp phải thực hiện.
- Sự nhiệt tình: Ước muốn của nhân viên được sẵn sàng phục vụ khách
hàng và cung cấp dịch vụ nhanh chóng. Nhân viên sẵn sàng giúp đỡ khách
13


hàng một cách tích cực và cung cấp dịch vụ một cách hăng hái. Trong trường
hợp dịch vụ sai hỏng, khả năng khôi phục nhanh chóng có thể tạo ra cảm nhận
tích cực về chất lượng.
- Sự đảm bảo: Sự hiểu biết đúng đắn, tay nghề thành thạo và thái độ lịch
sự cùng với khả năng thể hiện sự chân thực và tự tin tạo lòng tin cho khách hàng.
- Lòng thông cảm: Sự lo lắng, chăm sóc quan tâm chung và tới từng cá
nhân khách hàng. Sự đồng cảm bao gồm cả khả năng tiếp cận và nỗ lực tìm
hiểu nhu cầu của khách hàng.
- Yếu tố hữu hình: Các phương tiện vật chất, trang thiết bị, con người và
các phương tiện thông tin.
* Chất lượng chức năng và chất lượng do cảm giác con người
- Chất lượng chức năng: Nhận được cái gì?
- Chất lượng do cảm giác con người: Nhận như thế nào?
2.1.2 Các đặc trưng của du lịch sinh thái
Các định nghĩa nêu trên đã đề cập đến DLST dưới nhiều giác độ và
phạm vi khác nhau. Tuy nhiên, đều thống nhất ở một số đặc trưng cơ bản
của DLST đó là:
- Thứ nhất: DLST là loại hình dựa vào thiên nhiên; du khách tìm đến

các điểm tài nguyên thiên nhiên (TNTN) (các vườn quốc gia, khu bảo tồn,
các TNTN khác...) để tìm hiểu, để được trở về sống hòa mình với thiên nhiên.
- Thứ hai: Hoạt động DLST đem lại lợi ích về kinh tế xã hội cho cộng
đồng; góp phần nâng cao thu nhập, xóa đói giảm nghèo, tạo thêm công ăn
việc làm cho người dân địa phương; đóng góp vào sự tiến bộ, chăm sóc sức
khỏe và phúc lợi công cộng cho cư dân nơi có tổ chức các loại hình hay
chương trình DLST.
Đối với một hoạt động du lịch nếu chỉ dựa vào hai đặc trưng trên thì được gọi
là du lịch dựa vào tự nhiên, du lịch đại chúng (mass tourism) chưa phải là DLST.
14


- Thứ ba: Các tổ chức cung ứng, các đơn vị doanh nghiệp du lịch, các đơn vị lữ
hành, cơ quan quản lý nguồn tài nguyên, cư dân địa phương và khách du lịch tham
gia vào DLST phải có trách nhiệm tích cực thực hiện các giải pháp về bảo vệ môi
trường, giảm thiểu các tác động tiêu cực của du lịch đối với môi trường và văn hóa.
- Thứ tư: Các chương trình hoạt động cần có các hướng dẫn viên có thể
phiên dịch và giảng giải về môi trường và văn hóa địa phương của vùng để
làm cho kiến thức của du khách tham quan ngày càng tăng lên
- Thứ năm: Cần có các phương tiện chuyên biệt và việc sắp xếp để hỗ
trợ các chương trình hoạt động DLST như các trung tâm thông tin, diễn giải
môi trường, đường mòn tự nhiên, cơ sở lưu trú, cơ sở ăn uống, sách báo và
các tài liệu in ấn khác v.v...
- Thứ sáu: DLST đòi hỏi các tài nguyên thiên nhiên và văn hóa của
điểm tới thăm thường xuyên được nghiên cứu và giám sát. Các hướng dẫn
viên đóng vai trò là người trung gian giữa thiên nhiên, cộng đồng của vùng và
khách du lịch; ngoài việc hướng dẫn giới thiệu, họ còn có vai trò giám sát các
hoạt động của du khách.
 Như vậy: Khi xem xét hoạt động du lịch ở một điểm TNTN chúng ta
cần phải dựa vào các đặc trưng nêu trên để có thể nhận định đúng về hoạt

động đó là DLST hay là du lịch tự nhiên hoặc du lịch dựa vào thiên nhiên.
Nếu chỉ có đặc trưng 1 và 2 thì hoạt động du lịch ở điểm tài nguyên đó không
đựơc xem là DLST mà thực chất là du lịch tự nhiên, du lịch đại chúng. Nếu đã
đạt được thêm đặc trưng 3 và một vài đặc trưng khác thì ta có thể đánh giá ở
khu vực đó đã có hoạt động DLST nhưng chưa hoàn chỉnh.
2.1.3 Vai trò của phát triển du lịch sinh thái
* Góp phần bảo vệ tài nguyên môi trường và phát triển du lịch bền vững
Chức năng của du lịch nói chung và DLST nói riêng là mang lại sự vui chơi

15


giải trí, phục hồi sức khoẻ cho con người. Với du lịch sinh thái còn là giáo dục du
khách ý thức bảo vệ môi trường và thấy rõ môi trường sinh thái là yếu tố quyết
định sự tồn tại và phát triển cho thế hệ tương lai. Sự gắn bó hữu cơ giữa môi
trường tự nhiên với con người là mật thiết không thể tách rời. Du lịch sinh thái
góp phần bảo vệ đa dạng sinh học, sử dụng các nguồn tài nguyên một cách bền
vững và là một trong những phương tiện để bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và phát
triển bền vững.
* Góp phần xoá đói giảm nghèo và cải thiện phúc
lợi cho người dân địa phương
Những nguồn tài nguyên hoang sơ, những muông thú quý hiếm, không
khí trong lành, nền văn hóa độc đáo là tiền đề để phát triển du lịch sinh thái,
từ đó sẽ tạo ra cơ hội để phát triển kinh tế ở địa phương. Khi du lịch sinh thái
phát triển, người dân được nhận vào làm tại các cơ sở kinh doanh du lịch, trở
thành hướng dẫn viên hoặc tham gia phục vụ du lịch tại địa phương. Điều này
làm giảm sức ép đối với các khu bảo tồn hơn so với khi trước người dân
không còn sự lựa chọn nào khác ngoài việc tàn phá tài nguyên thiên nhiên để
kiếm sống.
Du lịch sinh thái phát triển không những đem lại kinh tế trong vùng mà

đời sống văn hoá người dân, trình độ dân trí được nâng lên, người dân được
giao tiếp với du khách, giao lưu, trao đổi văn hóa từ đó họ có thể học hỏi nhiều
hơn, tri thức được mở mang từ các hoạt động như phim ảnh, ca hát, thể thao…
Có thể nói phát triển du lịch sinh thái là giải pháp tốt để phát triển kinh tế
- xã hội nó có thể góp phần xoá đói giảm nghèo, cải thiện đời sống của nhân
dân địa phương và nâng cao phúc lợi xã hội cho cộng đồng cư dân bản địa.
* Góp phần thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn
Phát triển du lịch sinh thái còn được coi là một giải pháp để thúc đẩy
chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn từ kinh tế nông nghiệp độc canh sang
16


nền kinh tế nông nghiệp đa canh, và phát triển nền kinh tế hàng hoá với các
ngành nghề đa dạng, đưa tỷ trọng GDP các ngành tiểu thủ công nghiệp, dịch
vụ gắn liền với kinh tế nông nghiệp và nông thôn phát triển.
Thu nhập của các hộ gia đình ở khu vực có nguồn tài nguyên du lịch sinh
thái đa dạng trong phát triển nông, lâm nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch
vụ, trong đó thu nhập từ các hoạt động phục vụ khách du lịch (như lưu trú, ăn
uống, hướng dẫn viên, các hàng hoá mỹ nghệ mang tính chất đặc thù của địa
phương…) chiếm tỷ trọng lớn. Điều này làm cho đời sống của cư dân địa
phương ngày càng được cải thiện và bảo đảm có một mức sống tốt hơn.
* Góp phần bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
Trong chiến lược phát triển du lịch sinh thái, người ta luôn đặt vấn để
bảo tồn và phát huy nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc là vì: Văn hóa địa
phương mang màu sắc riêng và tồn tại cùng với các hệ sinh thái của môi
trường thiên nhiên xung quanh. Chính các giá trị văn hóa địa phương là yếu tố
thu hút sự tìm hiểu của khách du lịch sinh thái đối với môi trường thiên nhiên.
* Du lịch sinh thái chỉ ra cách làm kinh doanh du lịch mà không xâm
hại tới văn hóa địa phương
Mối quan hệ giữa du lịch sinh thái với văn hoá là một mối quan hệ có

tính tất yếu khách quan. Tính tất yếu khách quan đó trước hết bắt nguồn từ
mối quan hệ nội tại: Du lịch là một hoạt động văn hoá. Hơn thế nữa mục tiêu
cuối cùng của du lịch là sự phát hiện, tiếp nhận và nâng cao giá trị văn hoá
vốn ẩn chứa trong các hiện tượng của cuộc sống. Ngoài nhu cầu muốn thưởng
thức không khí trong lành, tìm hiểu, khám phá thiên nhiên hoang dã du khách
còn có nhu cầu tìm hiểu nền văn hoá bản địa nơi họ đến thăm. Nền văn hoá
càng lâu đời, độc đáo càng thu hút và hấp dẫn du khách. Các điệu múa xoè
của các cô gái Thái vùng Tây Bắc, các điệu hát then, hát đối, các lễ hội cổ

17


truyền của các dân tộc, các địa phương luôn được du khách quan tâm. Vì thế
các đơn vị kinh doanh du lịch sẽ phải hợp tác với các cơ quan nghiên cứu và
quản lý văn hoá tìm cách khôi phục và phát triển nó để phục vụ du khách coi
đó là một lợi thế của một điểm du lịch sinh thái để thu hút du khách.
2.1.4 Các loại hình du lịch sinh thái ở Việt Nam
Cùng với xu thế phát triển du lịch sinh thái trên thế giới, trong những
năm gần đây du lịch sinh thái ở Việt Nam đã và đang phát triển một số loại
hình phù hợp với điều kiện đặc thù của Việt Nam. Cụ thể là:
* Tham quan miệt vườn: Ở đồng bằng sông Cửu Long hiện nay, loại
hình này phát triển rất nhanh. Thông thường khách du lịch tới đây được tổ
chức thăm quan miệt vườn với các hình thức như: Đi thuyền trên kênh rạch,
nghe đàn ca tài tử, ngắm các vườn cây, thưởng thức các món ăn Nam Bộ,
thăm chợ trên sông; nghỉ đêm ở các vườn với thời gian tương đối dài để cùng
sống và sinh hoạt với dân cư miệt vườn.
* Thăm quan vườn chim: Những vườn chim ở Nam Bộ đã có từ lâu, diện
tích rộng, số lượng đàn chim lớn, thành phần phong phú có những loài quý hiếm
cần được bảo vệ. Nơi đây đã thu hút nhiều nhà khoa học và khách đến thăm quan.
Những vườn chim ở miền Bắc ít và mới hình thành, thành phần đàn chim

không phong phú nhưng lại có lợi thế ở gần Hà Nội nên thu hút được nhiều
khách du lịch và nhà khoa học đến nghiên cứu.
* Thăm bản làng dân tộc: Đây là nguồn tài nguyên nhân văn ở các khu
sinh thái tự nhiên. Ở các làng bản dân tộc nét độc đáo thu hút khách du lịch trong
và ngoài nước đó là cộng đồng dân cư với vốn văn hoá truyền thống của họ như
các món ăn đặc sản, kiến trúc nghệ thuật, lối sống, sinh hoạt lễ hội và văn hoá dân
gian… Loại hình này rất hấp dẫn du khách nước ngoài. Một số địa chỉ mà du khách
đặc biệt chú ý là: Bản Lác của người Thái ở thung lũng Mai Châu (Hòa Bình), các
bản dân tộc Dao, Thái, Nùng… ở vùng núi Tây Bắc như SaPa (Lao Cai), Yên Bái,
Điện Biên… và các buôn, sóc, ấp ở núi rừng Tây nguyên.
18


* Du lịch bằng thuyền: Sông nước Việt Nam rất đa dạng và phong phú,
do đó việc tổ chức những loại hình du lịch hấp dẫn như là các tour du lịch trên
sông nước Cửu Long, du ngoạn trên thuyền tại sông Hồng. Loại hình du lịch
này đang phát triển mạnh và thu hút nhiều du khách đặc biệt là du khách nước
ngoài khi đến thăm quan vùng sông nước miền Tây Nam Bộ.
Ở miền Bắc, các công ty lữ hành của Hà Nội đã tổ chức tour du lịch đi
thuyền đến Tam Cốc (Ninh Bình) hay các tour đi thuyền trên sông Hồng thăm
quan phong cảnh hai bên sông, trong chuyến đi du khách được tham gia vào
chương trình đi thăm quan và thưởng thức các điệu dân ca quan họ Bắc Ninh,
thăm làng gốm Bát Tràng, làng mộc Đồng Kỵ…Tour du lịch này hấp dẫn du
khách, nhất là du khách nước ngoài khi đến thăm quan Việt Nam nói chung và
Hà Nội nói riêng vì trong cùng một tour du lịch du khách có thể tham gia vào
nhiều hoạt động, thăm viếng khác nhau thoả mãn nhu cầu đa dạng khác nhau
(thưởng thức văn hoá dân gian, nghiên cứu các làng cổ Việt Nam, mua sắm
hàng lưu niệm, thưởng thức các món ăn Việt Nam khi đi trên thuyền…).
* Du lịch trong rừng: Là hoạt động du lịch sinh thái được ưa thích ở
nhiều nước trên thế giới. Ở nước ta đi bộ trong rừng là hoạt động chủ yếu kết

hợp với các mục đích tham gia nghiên cứu các khu bảo tồn thiên nhiên và
rừng nguyên sinh. Hiện nay loại hình này thường được phát triển cho du
khách đi thăm quan, đi dạo trong các khu rừng thông, trồng mới, và có thể là
các khu rừng cao su…
* Tham quan, nghiên cứu rừng nguyên sinh: Đây là loại hình du lịch
sinh thái phổ biến thu hút nhiều nhóm thị trường khách khác nhau. Đặc biệt là
các nhà nghiên cứu, học sinh sinh viên, khách du lịch nước ngoài. Những địa
điểm thu hút nhiều du khách là: Rừng quốc gia Cúc Phương, Cát Bà, Ba Vì ở
miền Bắc; Cát Tiên ở miền Nam; Bạch Mã ở miền Trung…
* Du lịch sinh thái biển: Ở nước ta thời gian gần đây bắt đầu phát triển
một số loại hình du lịch sinh thái biển như lặn biển tại Nha Trang, đảo Phú
19


×