Tải bản đầy đủ (.doc) (121 trang)

HUY ĐỘNG CỘNG ĐỒNG xây DỰNG môi TRƯỜNG GIÁO dục ở TRƯỜNG TRUNG học PHỔ THÔNG CHU văn THỊNH, HUYỆN MAI sơn, TỈNH sơn LA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (712.21 KB, 121 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

NGUYỄN TRUNG THÀNH

HUY ĐỘNG CỘNG ĐỒNG XÂY DỰNG MÔI TRƯỜNG
GIÁO DỤC Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG CHU VĂN
THỊNH, HUYỆN MAI SƠN, TỈNH SƠN LA

Chuyên ngành: Giáo dục và phát triển cộng đồng
Mã số: Thí điểm
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Kim Dung

HÀ NỘI - NĂM 2019
LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, được thực
hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Thị Kim Dung. Các số
liệu, những kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn này hoàn toàn
trung thực.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn

Nguyễn Trung Thành

LỜI CẢM ƠN


Trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thiện luận văn, tác giả đã


nhận được sự động viên, khuyến khích và tạo điều kiện giúp đỡ nhiệt tình của
các cấp lãnh đạo, các thầy cô giáo, anh chị em, bạn bè đồng nghiệp và gia
đình. Tác giả bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các giảng viên trường ĐH Sư
phạm Hà Nội, Đại học Sư phạm Tây Bắc đã tạo điều kiện, giúp đỡ tác giả
trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Đặc biệt, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Thị
Kim Dung đã trực tiếp hướng dẫn, tận tình chỉ bảo, giúp đỡ tác giả tiến hành
các hoạt động nghiên cứu khoa học để hoàn thành luận văn này.
Tác giả xin chân thành cảm ơn Sở GD & ĐT tỉnh Sơn La, cán bộ 12 xã
trên địa bàn nhà trường tuyển sinh, cha mẹ học sinh, cán bộ giáo viên và học
sinh nhà trường đã cung cấp tài liệu, số liệu, tham gia đóng góp nhiều ý kiến,
tạo điều kiện thuận lợi cho tác giả trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn
thành luận văn.
Với thời gian nghiên cứu còn hạn chế, thực tiễn công tác lại vô cùng
bận rộn, luận văn không tránh khỏi những thiếu sót, tác giả rất mong nhận
được các ý kiến đóng góp chân thành từ các nhà nghiên cứu, nhà khoa học,
bạn bè, đồng nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn !
Sơn La, tháng 05 năm 2019
Tác giả luận văn

Nguyễn Trung Thành

MỤC LỤC



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BGH


Ban giám hiệu

CBGV

Cán bộ giáo viên

CBQL

Cán bộ quản lý



Cộng đồng

CMHS

Cha mẹ học sinh

CSVC

Cơ sở vật chất

GD&ĐT

Giáo dục và Đào tạo

GV

Giáo viên


HS

Học sinh

HĐCĐ

Huy động cộng đồng

MTGD

Môi trường giáo dục

QLGD

Quản lý giáo dục

RCT

Rất cần thiết

RKT

Rất khả thi

TB

Trung bình

TDTT


Thể dục thể thao

XHHGD

Xã hội hóa giáo dục

DANH MỤC CÁC BẢNG


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 2.1. Ý kiến về thực trạng MT vật chất của nhà trường
Thực trạng các mối quan hệ ở trường THPT Chu
Biểu đồ 2.2.
Văn Thịnh
Ý kiến của CBQL, GV và CĐ về sự cần thiết phải
Biểu đồ 2.3.
phối hợp trong XD MTGD
Ý kiến của CBQL, GV và CĐ về ý nghĩa của việc
Biểu đồ 2.4.
huy động cộng đồng xây dựng môi trường giáo dục
Ý kiến của CBQL, GV, CB và HS về mức độ tham

50

Biểu đồ 2.5. gia của các lực lượng cộng đồng vào các nội dung

61

53

55
58

xây dựng MTGD
Ý kiến của CBQL, GV, CB và HS về mức độ huy
Biểu đồ 2.6. động cộng đồng tham gia xây dựng môi trường

Biểu đồ 2.7.

giáo dục
Ý kiến của CBQL, GV, CB và HS về sự huy động
các lực lượng cộng đồng trong xây dựng MTGD
Ý kiến của CBQL, GV và CB về mức độ ảnh

Biểu đồ 2.8. hưởng của các nhân tố đến hiệu quả huy động các
lực lượng cộng đồng trong xây dựng MTGD

63

64

70


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Trong lí luận giáo dục lâu nay vẫn luôn khẳng định chất lượng giáo
dục nói chung và chất lượng học tập của học sinh nói riêng luôn chịu sự tác
động của 3 yếu tố là gia đình, nhà trường và xã hội. Nhà trường, với tư cách
là một thiết chế giáo dục chuyên biệt, mang tính hướng đích cần phải được

xây dựng trở thành môi trường tích cực, lành mạnh, an toàn, mang tính giáo
dục cao. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng khi học sinh được học tập trong những
môi trường như thế sẽ kích thích động cơ học tập, có sự chia sẻ, giúp đỡ lẫn
nhau giữa học sinh và kết quả cuối cùng là thành tích học tập được nâng cao
[22]. Như vậy, môi trường giáo dục có vai trò hết sức quan trọng trong sự
hình thành và phát triển nhân cách của học sinh cũng như nâng cao kết quả
học tập.
1.2. Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục
và đào tạo đã khẳng định Giáo dục và Đào tạo là sự nghiệp của Đảng, nhà
nước và toàn dân. Trong xu thế xã hội hoá giáo dục hiện nay, cộng đồng có ý
nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự phát triển giáo dục của nhà trường.
Chính vì vậy, nhà trường cần huy động cộng đồng vào các hoạt động giáo
dục để thực hiện mục tiêu giáo dục. Mọi thành viên của cộng đồng đều có
thể tham gia một cách tích cực xây dựng môi trường giáo dục (MTGD) lành
mạnh, môi trường văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc. Cộng đồng còn là nguồn
cung cấp nhân lực, vật lực, tài lực giúp nhà trường hoàn thành nhiệm vụ giáo
dục học sinh và là lực lượng tham gia tổ chức, quản lí, giám sát các hoạt
động giáo dục của nhà trường, quản lí học sinh ngoài nhà trường có hiệu
quả.
Với tầm quan trọng của công tác huy động cộng đồng (HĐCĐ) xây dựng
MTGD cho học sinh, Đảng và Nhà nước đã ban hành một số văn bản chỉ đạo

1


thực hiện chủ trương xã hội hóa công tác giáo dục (XHHCTGD) như Nghị
quyết số 05/2005/NQ- CP, ngày 18/4/2005 “đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt
động giáo dục, y tế và thể dục thể thao”; Nghị quyết số 29- NQ/TW của
Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định Giáo dục và đào tạo là sự nghiệp của
Đảng, Nhà nước và của toàn dân; Quyết định số 20/2005/QĐ-BGD & ĐT,

phê duyệt đề án: “Quy hoạch phát triển XHHCTGD giai đoạn 2005 - 2010”;
Tại điều 12, Luật Giáo dục của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009 đã nêu “Phát triển giáo dục, xây dựng
xã hội học tập là sự nghiệp của Nhà nước và của toàn dân. Nhà nước giữ vai
trò chủ đạo trong phát triển sự nghiệp giáo dục; thực hiện đa dạng hóa các
loại hình trường và các hình thức giáo dục; khuyến khích, huy động và tạo
điều kiện để tổ chức, cá nhân tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục. Mọi tổ
chức, gia đình và công dân có trách nhiệm chăm lo sự nghiệp giáo dục, phối
hợp với nhà trường thực hiện mục tiêu giáo dục, xây dựng MTGD lành mạnh
và an toàn” [19].
1.3. Đất nước ta đã và đang bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và hội nhập quốc tế. Nhiều cơ hội được mở ra và không ít thách thức
mang đến cho chúng ta. Đối với thế hệ trẻ, các em có nhiều hoài bão ước mơ,
nhưng lại thiếu vốn sống, thiếu kinh nghiệm, vì vậy một bộ phận rất dễ bị cám
dỗ bởi những ham muốn trước mắt. Số học sinh, sinh viên có đạo đức, lối sống
lệch chuẩn, tiêu cực... đang ngày càng gia tăng và đã gây bao nỗi băn khoăn, lo
lắng cho gia đình và xã hội. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng này
nhưng một trong những nguyên nhân quan trọng là chúng ta chưa chú trọng xây
dựng một MTGD tích cực, lành mạnh, an toàn, mang tính giáo dục cao cũng như
chưa chú trọng thu hút sự tham gia của cộng đồng.
1.4. Thực tế việc HĐCĐ xây dựng MTGD đã tạo nên nguồn lực tinh
thần và vật chất quan trọng để thúc đẩy sự nghiệp giáo dục phát triển. Tuy

2


nhiên, hiện nay nhiều trường hiểu xã hội hoá giáo dục (XHHGD) và huy động
cộng đồng xây dựng MTGD chưa đầy đủ, thường chỉ chú trọng nhiều hơn đến
việc huy động vật chất và kinh phí dẫn đến sự hiểu sai của cộng đồng cũng
như hiệu quả giáo dục chưa cao.

1.5. Trường THPT Chu Văn Thịnh, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La là
trường phổ thông miền núi có học sinh dân tộc thiểu số chiếm 98% tổng số
học sinh, nhiều em nhà ở xa trường, học sinh ở bán trú tương đối đông, cơ sở
vật chất của trường còn nhiều khó khăn… Những năm qua, việc thực hiện
HĐCĐ xây dựng MTGD của nhà trường đã đạt những kết quả nhất định. Đã
có nhiều sự quan tâm của phụ huynh học sinh và chính quyền địa phương
trong việc huy động xây dựng MTGD của nhà trường. Tuy nhiên, kết quả huy
động cộng đồng tham gia xây dựng MTGD vẫn còn gặp không ít khó khăn
như nhận thức về vấn đề này còn nhiều cách hiểu khác nhau, việc tổ chức
thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về huy động
cộng đồng tham gia xây dựng môi trường giáo dục còn nhiều hạn chế, chưa
phát huy tốt việc khuyến khích và huy động các lực lượng trong xã hội tham
gia vào hoạt động giáo dục. Việc HĐCĐ trong giáo dục đạo đức, truyền thống
cho học sinh còn hạn chế, việc huy động từ cộng đồng nguồn lực vật chất
cũng chưa hiệu quả.
Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn nêu trên, tôi chọn vấn đề: “Huy
động cộng đồng xây dựng môi trường giáo dục ở trường Trung học phổ thông
(THPT) Chu Văn Thịnh, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La.”, làm đề tài nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng huy động cộng đồng xây
dựng môi trường giáo dục ở trường THPT Chu Văn Thịnh, đề xuất biện pháp
HĐCĐ xây dựng MTGD, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục ở trường
THPT Chu Văn Thịnh.

3


3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu: MTGD ở trường THPT Chu Văn Thịnh.
3.2. Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp HĐCĐ xây dựng MTGD ở

trường THPT Chu Văn Thịnh.
4. Giả thuyết nghiên cứu
Công tác HĐCĐ xây dựng MTGD ở trường THPT Chu Văn Thịnh,
huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La còn nhiều hạn chế, chưa phát huy tốt khả năng
của cộng đồng tham gia xây dựng MTGD cho học sinh. Nếu đề xuất và tổ
chức thực hiện các biện pháp khoa học, phù hợp thực tiễn, phát huy được ưu
thế của gia đình và sức mạnh của các lực lượng xã hội, sẽ góp phần nâng cao
hiệu quả HĐCĐ xây dựng MTGD nói riêng và nâng cao chất lượng giáo dục
ở trường THPT Chu Văn Thịnh.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Hệ thống hóa cơ sở lý luận về huy động cộng đồng xây dựng môi
trường giáo dục cho học sinh phổ thông.
5.2. Khảo sát, đánh giá thực trạng huy động cộng đồng xây dựng
môi trường giáo dục ở trường trung học phổ thông Chu Văn Thịnh.
5.3. Đề xuất một số biện pháp huy động cộng đồng xây dựng môi
trường giáo dục ở trường trung học phổ thông Chu Văn Thịnh phù hợp
thực tiễn.
6. Phạm vi nghiên cứu
6.1. Về khách thể khảo sát
Khảo sát cán bộ quản lý Sở Giáo dục và Đào tạo Sơn La; Ban giám hiệu,
giáo viên, cán bộ, học sinh trường THPT Chu Văn Thịnh; lãnh đạo các đoàn
thể trong trường, lãnh đạo Đảng, chính quyền địa phương, các đoàn thể, cơ
quan doanh nghiệp nơi trường đóng.

4


Các số liệu về trường THPT Chu Văn Thịnh và huy động cộng đồng chỉ
tính từ 2015 đến nay.
6.2. Về nội dung

Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng và biện pháp HĐCĐ xây dựng
MTGD ở trường THPT Chu Văn Thịnh, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La.
7. Các phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Phân tích, tổng hợp tài liệu lí luận về HĐCĐ xây dựng MTGD ở trường
THPT, Nghị quyết, Chính sách của Đảng, Nhà nước; nghiên cứu các văn bản,
tài liệu của ngành Giáo dục và Đào tạo, các công trình khoa học có liên quan
đến huy động cộng đồng xây dựng môi trường giáo dục ở trường THPT.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Sử dụng phương pháp này nhằm
trưng cầu ý kiến của các đối tượng thông qua phiếu điều tra. Các nội dung cần
trưng cầu ý kiến là các vấn đề có liên quan đến HĐCĐ trong việc xây dựng
MTGD ở trường THPT Chu Văn Thịnh.
Đồng thời, sử dụng phương pháp này cùng với phương pháp chuyên gia
để đánh giá tính cấp thiết và khả thi của các biện pháp được đề xuất.
- Phương pháp phỏng vấn: nhằm trao đổi về những vấn đề có liên quan
đến HĐCĐ việc xây dựng MTG ở trường THPT Chu Văn Thịnh
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục: Kinh nghiệm huy động
cộng đồng xây dựng môi trường giáo dục cho học sinh
- Phương pháp toán thống kê: Sử dụng thống kê toán học để xử lý và
phân tích số liệu điều tra.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, tài liệu tham khảo và phụ
lục, luận văn gồm 3 chương:

5


Chương 1: Cơ sở lý luận về huy động cộng đồng xây dựng môi trường
giáo dục ở trường THPT.

Chương 2: Thực trạng công tác huy động cộng đồng xây dựng môi
trường giáo dục ở trường THPT Chu Văn Thịnh, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La.
Chương 3: Biện pháp huy động cộng đồng xây dựng môi trường giáo
dục ở trường THPT Chu Văn Thịnh, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La.

6


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HUY ĐỘNG CỘNG ĐỒNG XÂY DỰNG MÔI
TRƯỜNG GIÁO DỤC Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Các công trình nghiên cứu trên thế giới
Những năm đầu thế kỷ 21, nhiều nước phát triển trên thế giới như Anh,
Đức, Mỹ, Pháp, Nhật Bản, Ôxtrâylia, Malaysia, Singapore, Hàn Quốc... tiến
hành cải cách giáo dục nhằm đổi mới toàn diện nền giáo dục của đất nước.
Một trong những phương hướng cải cách giáo dục là tập trung thu hút và tăng
cường sự tham gia của các lực lượng xã hội, cộng đồng vào hoạt động giáo
dục nhà trường nói chung và xây dựng MTGD. Luật giáo dục của Hoa Kì,
Trung Quốc, Nhật Bản, Pháp, Đức… các chiến lược phát triển Giáo dục đến
năm 2020 của nhiều nước trên thế giới đều coi trọng phương thức HĐCĐ.
Các quốc gia Đông Nam Á cũng đang tích cực đẩy mạnh phát triển giáo dục
bằng cách phát huy sức mạnh của cộng đồng trong việc tham gia phát triển
giáo dục.
Chính vì vậy, có khá nhiều nghiên cứu về sự tham gia của cộng đồng
vào giáo dục nói chung cũng như những nghiên cứu về sự tham gia của cộng
đồng trong xây dựng MTGD nhà trường. Có thể kể đến một số công trình tiêu
biểu về sự tham gia của cộng đồng vào nhà trường như: Tài liệu hướng dẫn
sự tham gia hiệu quả của cha mẹ học sinh (CMHS), gia đình và cộng đồng ở
các trường Bắc Carolina: “Cha mẹ và cộng đồng” của Tangri, S. và Moles;

"Sự tham gia của phụ huynh trong các trường học” của Comer, J; “Cha mẹ là
các đối tác trong giáo dục: Gia đình và nhà trường cùng nhau tham gia” của
Berger, E. H; “Báo cáo nghiên cứu giáo dục quốc gia năm 1988” của tác giả
Horn và West Horn. Nhà trường và CMHS cùng nhau tham gia vào quá trình
ra quyết định, lập kế hoạch hoạt động của nhà trường hay thành lập tổ chức

7


đại diện cho CMHS và cộng đồng để cải tiến nhà trường, như đề tài: “Minh
chứng mới về những tác động của nhà trường, gia đình và cộng đồng đến kết
quả học tập của học sinh”; “Mối quan hệ trong nhà trường là những mối quan
tâm lớn nhất” của tác giả Cotton Kathleen; “Sự tham gia của CMHS và
cộng đồng: một nghiên cứu điển hình” của Cynthia V.Crites;
Nghiên cứu của các giả Tangri, S. và Moles trong cuốn sách “Cha mẹ
và cộng đồng” đã cho thấy sự ảnh hưởng của CMHS khi tham gia vào quá
trình học tập của học sinh (HS). Các thành tích, kết quả đạt được và hành vi,
thái độ của HS có liên quan đến sự tham gia của cha mẹ. Tác giả Laura
Brannelly và Joan Sullivan - Owomoyela trong cuốn sách “Thúc đẩy sự tham
gia của cộng đồng đóng góp cho giáo dục trong các điều kiện xung đột” đã
phân tích sự tham gia của cộng đồng và xây dựng mô hình cộng đồng tham
gia vào giáo dục ở các nước Jordan, Afghanistan, Iraq, Liberia, Uganda và
vùng lãnh thổ Palestine. Ngoài ra, các nhà nghiên cứu cũng đã nêu rõ tầm
quan trọng và vai trò của cộng đồng trong việc tham gia vào xây dựng lại giáo
dục sau chiến tranh.
Trong luận án của Cynthia V.Crites “Sự tham gia của CMHS và cộng
đồng: một nghiên cứu điển hình”. Tác giả đã dựa trên phân tích điển hình, mô
tả những cách thức để tăng cường sự tham gia của CMHS và cộng đồng vào
giáo dục. Nghiên cứu chỉ ra rằng để tăng cường sự tham gia của CMHS và
cộng đồng thì nhà trường phải đề cao vai trò chủ động, tích cực của họ bằng

cách thu hút họ tham gia vào quá trình ra quyết định, lập kế hoạch hoạt động
của nhà trường [20].
Điểm qua một số nghiên cứu trên cho thấy, các tác giả đều khẳng định
tầm quan trọng của việc HĐCĐ vào các hoạt động giáo dục của nhà trường
nói chung cũng như xây dựng MTGD trong nhà trường. Đồng thời có thể rút

8


ra một số kinh nghiệm tổ chức các hoạt động có sự tham gia của CMHS, các
lực lượng xã hội, cộng đồng vào xây dựng MTGD nhà trường.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu ở Việt Nam
Tư tưởng “lấy dân làm gốc” đã được kết tinh truyền thống và trở thành
bản sắc độc đáo của dân tộc Việt Nam. Đảng ta đã vận dụng rất sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, luôn nêu cao khẩu hiệu “Cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng”, những tư tưởng đó được vận dụng có
hiệu quả trong công tác giáo dục và trở thành một trong những nguyên lý giáo
dục cơ bản: Kết hợp giáo dục nhà trường với giáo dục gia đình và giáo dục xã
hội.
Hiện nay, vấn đề HĐCĐ tham gia giáo dục được nhiều nhà khoa học và
nhà quản lý giáo dục, các tổ chức quan tâm nghiên cứu điển hình như: XHH
GD là một tư tưởng chiến lược, một bộ phận của đường lối giáo dục, một con
đường phát triển giáo dục ở nước ta. Trong cuốn “Xã hội hóa công tác giáo
dục” của nhóm cán bộ nghiên cứu Viện Khoa học giáo dục do Võ Tấn Quang
làm chủ biên đã viết “XHH là con đường giải quyết các mâu thuẫn trong giáo
dục hiện nay, mở ra con đường dân chủ hóa giáo dục, gắn với thực tiễn cuộc
sống tăng cường nguồn lực cho giáo dục”.
Bàn về HĐCĐ trong công tác giáo dục có nhiều tài liệu, nhiều bài viết
đề cập đến huy động cộng đồng: “HĐCĐ - Một động lực nâng cao dân trí,
đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” của Nguyễn Mậu Bành, “XHHGD Một số vấn đề về lý luận thực tiễn” của Nguyễn Sinh Huy, “Mấy vấn đề

XHHGD” của Lê Khanh. “XHHGD - Một điều kiện nâng cao chất lượng đào
tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” của Nguyễn Văn Sơn, “Một số ý kiến về
công tác thiết bị trường học” Nguyễn Văn Tư... Ngoài ra, để triển khai thực
hiện chủ trương HĐCĐ tham gia công tác giáo dục, còn có một số đề án như:
“Sự công bằng xã hội về giáo dục và giải pháp xã hội hóa giáo dục - đào tạo”

9


của Công đoàn Việt Nam. “Các giải pháp về tổ chức và cơ chế chính sách
nhằm triển khai thực hiện HĐCĐ trong lĩnh vực giáo dục đào tạo” của Vụ Tổ
chức cán bộ, Bộ Giáo dục - Đào tạo.
Bên cạnh đó còn có các luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ nêu lên khá rõ
một số giải pháp thực hiện chủ trương xã hội hóa ở các địa bàn cụ thể như:
“Các giải pháp tăng cường XHH sự nghiệp giáo dục trên địa bàn thành phố
Phan Thiết - tỉnh Bình Thuận” của Nguyễn Phan Hưng. “Một số giải pháp
quản lý nhằm đẩy mạnh công tác HĐCĐ trong giáo dục ở Phú Yên” của Trần
Văn Nhân. “Một số giải pháp tăng cường HĐCĐ tham gia sự nghiệp giáo dục
tỉnh Vĩnh Long” của Nguyên Thị Diệp. “Một số giải pháp thực hiện XHHGD
ở quận Thanh Xuân - Hà Nội” của Ngô Thị Doãn Thanh, “Một số giải pháp
đẩy mạnh xã hội hóa sự nghiệp giáo dục đào tạo ở Hà Nội” của Nguyễn Văn
Vinh, “HĐCĐ trong Giáo dục mầm non ở huyện Tuần Giáo, tỉnh Lai Châu”
của Nguyễn Thị Hương. “Quản lí hoạt động tham gia XHHGD của trường
THPT ở đồng bằng sông Hồng” của Lương Thị Việt Hà. “Các biện pháp
HĐCĐ tham gia quản lí giáo dục THPT trên địa bàn thành phố Thái Bình
trong giai đoạn hiện nay” của Phạm Đồng Thụy…
Nhìn chung, vấn đề huy động cộng đồng trong giáo dục đã được nghiên
cứu trên một số quan điểm, một số nội dung và biện pháp chung. Các tác giả
thường nghiên cứu về một địa phương cụ thể, tuy nhiên chưa có công trình
nào nghiên cứu về công tác HĐCĐ xây dựng MTGD ở một trường THPT cụ

thể ở Sơn La.
Tất cả những công trình, bài viết kể trên là những gợi ý rất bổ ích về lý
luận và phương pháp đối với chúng tôi trong quá trình thực hiện đề tài luận
văn.

10


1.2. Khái quát về môi trường giáo dục học sinh trung học phổ thông
1.2.1. Khái niệm môi trường và môi trường giáo dục


Khái niệm Môi trường

Theo từ điển Văn hóa giáo dục Việt Nam (GS Vũ Ngọc Khánh biên
soạn, NXB Văn hóa, 2001) thì môi trường được hiểu là toàn bộ những nhân tố
bao quanh con người hay sinh vật và tác động lên cuộc sống của nó.
Theo từ điển Anh - Việt (Viện ngôn ngữ học, NXB TP HCM) khái niệm
môi trường (environment) là điều kiện, hoàn cảnh, những sự vật xung quanh;
sự bao quanh, sự bao vây, sự vây quanh làm tác động đến đời sống của mọi
người. Môi trường sống của con người gồm: môi trường tự nhiên, môi trường
xã hội, môi trường nhân tạo, trong đó môi trường xã hội có ý nghĩa rất quan
trọng với sự phát triển của con người. Môi trường xã hội là tổng thể các quan
hệ giữa con người với con người tạo nên sự thuận lợi hay trở ngại cho sự tồn
tại và phát triển của cá nhân cùng cộng đồng của họ [22].
Theo nghĩa rộng nhất, môi trường là tập hợp các điều kiện và hiện tượng
bên ngoài có ảnh hưởng tới một vật thể hay sự kiện. Bất cứ vật thể, sự kiện
nào cũng tồn tại và diễn biến theo các chiều hướng khác nhau trong sự tác
động của tập hợp những tác động vốn không thuộc bản thân chúng.



Khái niệm môi trường giáo dục

Tại khoản 1, điều 2, nghị định 80/2017/NĐ-CP định nghĩa môi trường
giáo dục là tất cả các điều kiện về vật chất và tinh thần có ảnh hưởng đến hoạt
động giáo dục, học tập, rèn luyện và phát triển của người học. Theo đó, môi
trường giáo dục được hiểu bao gồm tất cả yếu tố về cơ sở vật chất, kỹ thuật,
quan hệ xã hội và văn hóa của con người với hệ giá trị được xác lập trong
cộng đồng, có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến đời sống học tập và rèn
luyện của học sinh. Những điều kiện vật chất của môi trường giáo dục này
bao gồm các điều kiện tự nhiên, cơ sở vật chất phục vụ cho mọi hoạt động của

11


nhà trường, trong đó nổi bật là cơ sở vật chất của hoạt động dạy và học.
Những yếu tố tinh thần bao gồm không khí làm việc, những nét truyền thống,
các giá trị cùng với quan niệm và thái độ của thầy và trò trong hoạt động dạy
và học, trong các mối quan hệ, cung cách ứng xử của các thành viên, quan
điểm chỉ đạo của cán bộ quản lý…
Từ điển Bách khoa Việt Nam có định nghĩa môi trường giáo dục là tổng
hòa các mối quan hệ trong đó người giáo dục và người được giáo dục tiến
hành hoạt động dạy và học. Theo GS. Hà Thế Ngữ môi trường giáo dục rất đa
dạng, bao gồm môi trường nhà trường, gia đình và môi trường xã hội, tự
nhiên. Môi trường dạy học bao gồm các phương tiện và điều kiện vật chất, kĩ
thuật và tâm lý xã hội tác động thường xuyên và tạm thời, được người dạy và
người học sử dụng một cách có ý thức để đảm bảo cho lao động dạy và học
tiến hành thuận lợi và đạt hiệu quả cao, đây là một trong các yếu tố của quá
trình giáo dục.
Ở khía cạnh khác, MTGD là tập hợp không gian với các hoạt động xã

hội của cá nhân, các phương tiện và giao lưu được phối hợp với nhau, tạo
điều kiện thuận lợi để giáo dục đạt kết quả cao nhất [22]. Do đó, việc xác định
nhiệm vụ xây dựng và phát triển MTGD cho thế hệ trẻ là trọng tâm của ngành
giáo dục, của mỗi nhà trường, mỗi cộng đồng và của toàn xã hội.
Nói tóm lại, MTGD là toàn bộ cơ sở vật chất và tinh thần mà trong đó
người được giáo dục đang sống, lao động và làm việc, được sử dụng nhằm tác
động đến sự hình thành nhân cách của họ phù hợp với mục đích giáo dục đã
định.
Môi trường nhà trường là tổng thể các yếu tố tự nhiên và xã hội cần thiết
cho hoạt động dạy - học, tạo thành môi trường vật chất và môi trường xã hội
của nhà trường: Hạ tầng cơ sở vật chất phục vụ dạy - học; hệ thống mối quan

12


hệ người - người; các quy định, quy tắc, được xây dựng và vận hành trong
nhà trường.
1.2.2. Đặc điểm của học sinh trung học phổ thông
Theo Đào Thị Oanh: “Quá trình phát triển của một đứa trẻ từ khi lọt
lòng mẹ cho đến tuổi trưởng thành được các nhà tâm lí học lứa tuổi chia ra
thành nhiều giai đoạn, tương ứng với đặc điểm phát triển tâm sinh lí của từng
giai đoạn. Khái niệm "Trẻ vị thành niên" được dùng để chỉ những trẻ nằm
trong độ tuổi từ 12 đến dưới 18 tuổỉ [12]. Trong đó, học sinh THPT là thời kì
các em học sinh từ 15-18 tuổi.
Đây là “giai đoạn đầu tuổi thanh niên” hay còn được gọi là "Tuổi thanh
xuân", là giai đoạn phát triển bắt đầu từ lúc dậy thì và kết thúc khi bước vào
tuổi người lớn. Đây được coi là giai đoạn cuối cùng của sự phát triển trẻ em,
là giai đoạn chuyển tiếp từ tuổi thơ sang tuổi trưởng thành. Giai đoạn này các
em có rất nhiều thay đổi từ đặc điểm thể chất đến sự phát triển nhận thức và
các mối quan hệ xã hội.

Ở lứa tuổi học sinh THPT, các em có hình dáng người lớn, có những nét
của người lớn nhưng chưa phải là người lớn. Nghĩa là lứa tuổi học sinh THPT
là lứa tuổi đang trở thành người lớn, trung gian giữa trẻ em và người lớn. Tức
là còn chưa có đủ độ chín trong suy nghĩ và hành động, chưa tự kiềm chế
được những hành vi bằng cách so sánh với các chuẩn mực xã hội. Khi người
lớn quá tin tưởng vào các em, buông lỏng quản lí, buông lỏng sự kiểm tra,
giám sát các em trong học tập và sinh hoạt thì đây là cơ hội tốt để các hành vi
sai lệch hình thành và phát triển. Do đó, sự kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường
với cộng đồng, với CMHS trong giáo dục các em ở mọi lúc, mọi nơi nói
chung và xây dựng MTGD thống nhất là rất quan trọng đối với lứa tuổi này.
HS lứa tuổi này cũng bắt đầu “cố gắng trở thành những người đàn ông,
những thiếu nữ thực thụ” theo những tiêu chuẩn xã hội quy ước. Các em còn

13


khao khát mong muốn biết được mình là người như thế nào; có năng lực gì?
Vì thế, những hoạt động ngoại khoá, hoạt động xã hội công ích sẽ đáp ứng
được những nhu cầu đó của học sinh nếu được tổ chức một cách phù hợp. Để
khẳng định và tự đánh giá bản thân, học sinh THPT có thể hành động theo hai
cách: cách thứ nhất là tự nguyện nhận những nhiệm vụ khó khăn, cố gắng
hoàn thành nó. Tuy nhiên, do kinh nghiệm sống còn hạn chế nên việc tự đánh
giá gặp không ít khó khăn và đôi khi gây ra ngộ nhận. Cách thứ hai là ngầm
so sánh mình với ý kiến của những người lớn, nhất là những người được các
em ngưỡng mộ, để lắng nghe ý kiến của họ về mình. Đây là cách mà nhiều
học sinh THPT thường làm. Nếu được giáo dục trong bầu không khí đạo đức
lành mạnh, một MTGD thân thiện, tích cực với những hoạt động tập thể thân
ái thì sẽ có sự phát triển tích cực, lành mạnh” [12].
Ở lứa tuổi mới lớn các em có thể tự đánh giá bản thân một cách sâu sắc
nhưng đôi khi vẫn chưa đúng đắn nên các em vẫn cần sự giúp đỡ của người

lớn. Một mặt, người lớn phải lắng nghe ý kiến của các em, mặt khác phải giúp
các em hình thành được biểu tượng khách quan về nhân cách của mình nhằm
giúp cho sự tự đánh giá của các em được đúng đắn hơn, tránh những lệch lạc,
phiến diện trong tự đánh giá. Cần tổ chức hoạt động của tập thể cho các em có
sự giúp đỡ, kiểm tra lẫn nhau để hoàn thiện nhân cách của bản thân.
Môi trường quan trọng nhất của sự phát triển nhân cách ở lứa tuổi THPT
là nhóm bạn bè cùng tuổi. Giao tiếp với bạn cùng tuổi là một kênh thông tin
đặc biệt quan trọng mà theo đó thanh thiếu niên biết được nhiều vấn đề cần
thiết cho bản thân mà vì những lí do khác nhau trẻ không muốn trao đổi với
người lớn, chẳng hạn như vấn đề giới tính. Chính vì thế, nhu cầu về tình bạn
của học sinh THPT ngày nay là rất lớn. Mức độ cởi mở của các em với những
người bạn gần gũi và mức độ hiểu nhau giữa những người bạn là cao hơn rất
nhiều so với tất cả những người khác xung quanh, kể cả cha mẹ. Tất nhiên sự

14


khác nhau ở đây cũng rất lớn. Một số em đề cao tình bạn tay đôi. Một số khác
thích chơi thành nhóm 3 - 5 người. Việc ý thức được sự thuộc về một nhóm
xã hội, ý thức được tính đoàn kết, sự giúp đỡ lẫn nhau mang nặng tình bè bạn
không chỉ làm cho thanh thiếu niên tự lập trước người lớn, mà còn mang lại
cho các em một cảm giác hết sức quan trọng, đó là cảm giác bình an và vững
chãi.
Ở lứa tuổi này, các em đã xuất hiện nhu cầu lựa chọn vị trí xã hội trong
tương lai cho bản thân và các phương thức đạt tới vị trí xã hội ấy. Xu hướng
nghề nghiệp có tác dụng thúc đẩy các mặt hoạt động và điều chỉnh hoạt động
của các em. Càng cuối cấp học thì xu hướng nghề nghiệp càng được thể hiện
rõ rệt và mang tính ổn định hơn. Nhiều em biết gắn những đặc điểm riêng về
thể chất, về tâm lý và khả năng của mình với yêu cầu của nghề nghiệp. Tuy
vậy, sự hiểu biết về yêu cầu nghề nghiệp của các em còn phiến diện, chưa đầy

đủ, vì cậy công tác hướng nghiệp cho học sinh có ý nghĩa quan trọng. Qua đó,
giúp cho học sinh lựa chọn nghề nghiệp sao cho phù hợp với hứng thú, năng
lực và phù hợp với yêu cầu của xã hội.
Thái độ của các em đối với việc học tập cũng có những chuyển biến rõ
rệt. Học sinh đã lớn, kinh nghiệm của các em đã được khái quát, các em ý
thức được rằng mình đang đứng trước ngưỡng cửa của cuộc đời tự lập. Điều
này đã làm cho học sinh THPT bắt đầu đánh giá hoạt động chủ yếu theo quan
điểm tương lai của mình. Các em bắt đầu có thái độ lựa chọn đối với từng
môn học. Rất hiếm xảy ra trường hợp có thái độ như nhau với các môn
học. Do vậy, giáo viên THPT phải làm cho các em học sinh hiểu ý nghĩa và
chức năng giáo dục phổ thông đối với giáo dục nghề nghiệp và đối với sự
phát triển nhân cách toàn diện của học sinh.
Mặt khác, ở lứa tuổi này các hứng thú và khuynh hướng học tập của các
em đã trở nên xác định và được thể hiện rõ ràng hơn. Các em thường bắt đầu

15


có hứng thú ổn định đặc trưng đối với một khoa học, một lĩnh vực tri thức hay
một hoạt động nào đó. Điều này đã kích thích nguyện vọng muốn mở rộng và
đào sâu các tri thức trong các lĩnh vực tương ứng. Đó là những khả năng rất
thuận lợi cho sự phát triển năng lực của các em. Nhà trường cần có những
hình thức tổ chức đặc biệt đối với hoạt động của học sinh THPT nhất là học
sinh cuối cấp để tạo ra sự thay đổi căn bản về hoạt động tư duy, về tính chất
lao động trí óc của các em.
Cũng theo Đào Thị Oanh, lứa tuổi học sinh THPT là thời kì quan trọng
của sự phát triển thể chất và nhân cách. Những kết quả nghiên cứu sự phát
triển tâm, sinh lí của học sinh lứa tuổi này cho thấy đó là sự thay đổi có gia
tốc. Sự phát triển thể chất đi vào giai đoạn hoàn chỉnh, là thời kì trưởng thành
về giới tính, có sự ổn định và cân bằng hơn so với lứa tuổi trước đó trong các

hoạt động của hệ thần kinh (hưng phấn, ức chế) cũng như các mặt phát triển
khác về thể chất. Chính vì thế, rất cần những sân chơi, bãi tập, những khoảng
không gian với những trang thiết bị cần thiết để HS có chỗ được vui chơi,
luyện tập thể dục, thể thao và các hoạt động tập thể khác… Tức là cần có một
môi trường vật chất cần thiết nói chung và trong nhà trường nói riêng để các
em được tham gia vào các hoạt động giáo dục đa dạng. Và nghiên cứu xác
định những đặc điểm phát triển của lứa tuổi THPT, từ sinh học, tâm lí học và
xã hội học với vị trí, vai trò của chúng, để chú trọng xây dựng môi trường
giáo dục, tạo ảnh hưởng tích cực đến các em.
Nhìn chung, lứa tuổi THPT là thời kỳ đặc biệt quan trọng đối với cuộc
đời con người. Đây là thời kì có sự biến đổi lớn về chất trong toàn bộ nhân
cách để các em sẵn sàng bước vào cuộc sống tự lập. Do đó, cần phải nhận
thức đầy đủ vị trí của lứa tuổi này để có nội dung, phương pháp giáo dục
thích hợp nhằm đem lại hiệu quả tối ưu trong hoạt động sư phạm. Đặc biệt,
rất cần một môi trường giáo dục cả về vật chất và tinh thần thân thiện, an

16


toàn, lành mạnh và quan trọng nhất là các em phải được tôn trọng, được
thừa nhận và là trung tâm của mọi vấn đề. Để có được một môi trường giáo
dục như thế trong nhà trường rất cần sự tham gia của cộng đồng xã hội và
CMHS.
1.2.3. Ảnh hưởng của môi trường giáo dục đến học sinh trung học phổ
thông
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng: môi trường giáo dục không chỉ góp phần
quyết định sự hình thành và phát triển nhân cách con người mà quan trọng
hơn là yếu tố môi trường thực tế đã kích thích con người hoạt động năng động
và sáng tạo hơn [1, 52, 368-420]. Môi trường thuận lợi, đầy đủ điều kiện vật
chất dễ tạo cho người học thành công và thành công lớn hơn rất nhiều nếu

biết tận dụng điều đó. Tuy nhiên, không phải sự tác động của môi trường đến
người học là sự tác động tự phát mà tùy thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó đặc
biệt quan trọng là yếu tố chủ quan của chính người học. Cùng một môi trường
thuận lợi, nhưng an phận hài lòng, lười biếng, rụt rè, e ngại, ngại khó, ngại
khổ, ham chơi, chấp nhận được bao cấp, thiếu ý chí vươn lên, sợ thất bại thì
chẳng những môi trường không tạo điều kiện tốt mà còn làm hại bản thân con
người.
Ở khía cạnh giáo dục, Jean Marc Denomme và Madeleine Roy coi môi
trường là yếu tố tham gia trực tiếp vào quá trình dạy học chứ không đơn thuần
chỉ là nơi diễn ra hoạt động học. Nó có ảnh hưởng đến người dạy và người
học. Chính vì thế, tác giả cho rằng mô hình quen thuộc: Người dạy - Người
học - Tri thức được chuyển thành: Người dạy - Người học - Môi trường. Do
đó việc tạo lập, xây dựng và phát triển môi trường giáo dục là một nhiệm vụ
quan trọng của khoa học giáo dục [22].
Các nghiên cứu đi sâu tập trung vào ảnh hướng của môi trường vật chất
(vật lí) và môi trường tâm lí - xã hội (môi trường tinh thần) đối với quá trình

17


học tập và các khía cạnh khác có liên quan đến người học. Môi trường vật
chất cung cấp những công cụ cho HS tiến hành việc học và tác động vào sức
khỏe cũng như tâm lí học tập của các em. Môi trường tâm lí - xã hội tạo nên
bầu không khí tâm lí trong tập thể lớp học, trong nhà trường và thiết lập
những mối quan hệ hỗ trợ cho các tương tác giữa người học với nhiệm vụ học
tập, cho các mối quan hệ lành mạnh, tích cực giữa HS với HS, giữa HS với
giáo viên (GV) và giữa GV với nhau [29, 14- 15].
Môi trường vật chất bao gồm tổng thể những yếu tố vật chất về nơi hoạt
động dạy học diễn ra, như cấu trúc không gian, sự sắp xếp, bố trí các đồ dùng,
trang thiết bị, phương tiện, tài liệu phục vụ dạy học và nơi làm việc của GV

và HS trong phòng học, có thể gọi chung là môi trường lớp học. Những đặc
điểm ánh sáng, tiếng ồn, mức độ rộng hẹp của nơi làm việc, các khoảng
không gian trong phòng… Tính tiện dụng, khoa học và hấp dẫn của các trang
thiết bị và học liệu… trong lớp học có tác động đến tâm lí học tập cũng như
hành vi của các thành viên trong đó. Kyriacou (1991) đã viết: "Hình thức bao
quát bên ngoài của một lớp học sẽ thể hiện cho HS thấy được sự quan tâm đến
việc tạo ra môi trường khuyến khích học tập của các em".
Môi trường vật chất trong lớp học có ảnh hưởng đáng kể đến hành vi, tác
phong và kết quả học tập của học sinh. Một lớp học được sắp xếp gọn gàng,
tiện ích, hấp dẫn, linh hoạt trong sử dụng khoảng không gian trống… với
nhiệt độ, ánh sáng phù hợp sẽ tạo ra cho HS không khí thoải mái, tác phong
làm việc nhanh nhẹn, ngăn nắp, tôn trọng nề nếp, kỉ cương… [16, 21 –31].
Môi trường tâm lí - xã hội trong nhà trường và lớp học bao gồm những
mối quan hệ tương hỗ giữa GV và HS, giữa HS với các bạn cùng học và
những người khác như cha mẹ HS, các cán bộ chuyên môn, các nhà khoa
học… tham gia vào quá trình dạy học. Tương tác giữa người dạy với người
học và tương tác qua lại giữa người học với nhau là hai thành phần chủ yếu

18


trong môi trường tâm lí - xã hội của lớp học. L.S Vygotsky khẳng định: “Học
tập đánh thức rất nhiều quá trình phát triển bên trong mà chúng chỉ có thể
thực hiện được khi đứa trẻ đang tương tác với mọi người trong môi trường
của nó và trong sự hợp tác với bạn bè của nó". Điều đó có nghĩa là, thông qua
tương tác với bạn, với thầy cô, HS học được cách tư duy phản biện, cách tự
học, cách thức làm việc chuyên nghiệp, có kế hoạch, cách hợp tác với nhau để
hoàn thành nhiệm vụ…
Nghiên cứu cho thấy, ở những nhà trường có môi trường tâm lý xã
hội/môi trường tinh thần thân thiện, an toàn, hợp tác với các mối quan hệ

phong phú, đa dạng, bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau thì sẽ thúc đẩy sự phát
triển ở người học theo nhiều khía cạnh khác nhau như: phát triển năng lực
sáng tạo, giải quyết vấn đề, các kĩ năng xã hội, sự tự tin, sự gắn kết với nhà
trường… và cuối cùng là kết quả học tập của HS được cải thiện, chất lượng
giáo dục của nhà trường được nâng cao [16, 21 –31].
Nói tóm lại, không có sự phát triển nhân cách ngoài môi trường (gồm có
môi trường tự nhiên và môi trường xã hội). Môi trường là phương tiện, điều
kiện để cá nhân hoạt động lĩnh hội các phương thức hoạt động sống, các giá
trị vật chất và tinh thần trên cơ sở đó nhân cách được hình thành và phát triển.
(Nhân cách là sự phản ánh rõ nét đặc điểm của lịch sử, điều kiên sống sinh
hoạt, nguồn gốc giai cấp, địa vị xã hội của người đó). Khi điều kiện xã hội
biến đổi cơ bản thì bộ mặt cơ bản của con người cũng biến đổi theo.
Một môi trường giáo dục có nhiều yếu tố tích cực là cơ sở để phát triển
giáo dục bền vững. Điều kiện phát triển kinh tế - xã hội ổn định, có xu hướng
phát triển tốt; trật tự an toàn xã hội được đảm bảo, các trường được sự quan
tâm chỉ đạo sát sao của tỉnh và ngành. Hoạt động giáo dục được các nhà
trường quan tâm toàn diện trên tất cả các mặt (đức, trí, lao, thể, mỹ). Đội ngũ
cán bộ giáo viên được đào tạo cơ bản, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có

19


×