Tải bản đầy đủ (.doc) (127 trang)

PHỐI hợp NHÀ TRƯỜNG và CỘNG ĐỒNG TRONG GIÁO dục nếp SỐNG văn MINH CHO học SINH TIỂU học HUYỆN MAI sơn, TỈNH sơn LA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1010.98 KB, 127 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

MAI THỊ BÍCH THỦY

PHỐI HỢP NHÀ TRƯỜNG VÀ CỘNG ĐỒNG TRONG
GIÁO DỤC NẾP SỐNG VĂN MINH CHO HỌC SINH TIỂU HỌC
HUYỆN MAI SƠN, TỈNH SƠN LA

Chuyên ngành: Giáo dục và Phát triển cộng đồng
Mã ngành: Thí điểm

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Đỗ Thị Thanh Thủy

HÀ NỘI - 2019


CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài nghiên cứu “Phối hợp nhà trường và cộng đồng
trong giáo dục nếp sống văn minh cho học sinh tiểu học huyện Mai Sơn, tỉnh
Sơn La” dưới sự hướng dẫn của TS. Đỗ Thị Thanh Thuỷ là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu có trích dẫn nguồn chính xác, kết quả
nghiên cứu nêu trong Luận văn là trung thực, chưa từng được công bố trong bất
kỳ một nghiên cứu nào khác.
Người thực hiện

Mai Thị Bích Thủy


LỜI CẢM ƠN


Để hoàn thành luận văn này, bản thân em đã nhận được sự giúp đỡ rất
nhiều từ các thầy cô giáo, bạn bè, các cơ quan trong và ngoài ngành GD&ĐT.
Em gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới các phòng ban chức năng Trường Đại học
Sư phạm Hà Nội, Trường Đại học Tây Bắc; khoa Tâm lý - Giáo dục Trường Đại
học Sư phạm Hà Nội cùng các thầy cô đã tận tình chỉ dạy và tạo điều kiện giúp
đỡ em trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn khoa học này.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Đỗ Thị Thanh Thuỷ, người đã
luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo, giúp đỡ và động viên em trong suốt quá trình
nghiên cứu và hoàn thành đề tài nghiên cứu này.
Xin cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã luôn khích lệ, động viên
và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu khoa học.
Mặc dù đã cố gắng rất nhiều, nhưng luận văn không tránh khỏi những
thiếu sót; em rất mong nhận được sự thông cảm, chỉ dẫn, giúp đỡ và đóng góp ý
kiến của các nhà khoa học, các quý thầy cô, các cán bộ phối hợp và các bạn
đồng nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 05 năm 2019
Tác giả

Mai Thị Bích Thủy


MỤC LỤC

Trang
CAM ĐOAN...............................................................................................................................1
LỜI CẢM ƠN.............................................................................................................................2
5. Nhiệm vụ nghiên cứu..............................................................................................................4
Chương 1.....................................................................................................................................7
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ GIÁO DỤC NẾP SỐNG VĂN MINH CHO HỌC SINH TIỂU HỌC...7

Kết luận chương 1.....................................................................................................................37
Chương 2...................................................................................................................................39
THỰC TRẠNG PHỐI HỢP GIỮA NHÀ TRƯỜNG VÀ CỘNG ĐỒNG................................39
TRONG GIÁO DỤC NẾP SỐNG VĂN MINH CHO HỌC SINH TIỂU HỌC.....................39
HUYỆN MAI SƠN, TỈNH SƠN LA.......................................................................................39
Bảng 2.5: Học sinh đánh giá mức độ thực hiện nếp sống văn..................................................44
Kết luận chương 2.....................................................................................................................69
Chương 3...................................................................................................................................70
CÁC BIỆN PHÁP PHỐI HỢP NHÀ TRƯỜNG VÀ CỘNG ĐỒNG TRONG GIÁO DỤC
NẾP SỐNG VĂN MINH CHO HỌC SINH TIỂU HỌC HUYỆN MAI SƠN, TỈNH SƠN LA
...................................................................................................................................................70
Bảng 3.1: Kết quả khảo nghiệm về tính cần thiết của một số biện pháp phối hợp nhà trường và
cộng đồng trong giáo dục nếp sống văn minh cho HSTH huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La..........88
Bảng 3.2: Kết quả khảo nghiệm về tính khả thi của một số biện pháp phối hợp nhà trường và
cộng đồng trong giáo dục nếp sống văn minh cho HSTH huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La..........90
Kết luận chương 3.....................................................................................................................92
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ...........................................................................................93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................98
29. Từ Điển Xã Hội Học - Tái bản (2003), NXB Khoa học xã hội..........................................99
30. Từ điển từ và ngữ Hán - Việt (2002), NXB Từ điển Bách khoa, Hà Nội...........................99
PHỤ LỤC................................................................................................................................100
PHỤ LỤC 1.............................................................................................................................101
PHỤ LỤC 2.............................................................................................................................103


CHỮ VIẾT TẮT

STT

Chữ viết tắt


Chữ viết đầy đủ

1

CBQL

Cán bộ quản lý

2

GS

Giáo sư

9

PGS

Phó giáo sư

5

BGH

Ban giám hiệu

3

GV


Giáo viên

4

GVCN

Giáo viên chủ nhiệm

6

HS

Học sinh

7

HSTH

Học sinh tiểu học

8

PHHS

Phụ huynh học sinh

9

NXB


Nhà xuất bản


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
CAM ĐOAN...............................................................................................................................1
LỜI CẢM ƠN.............................................................................................................................2
5. Nhiệm vụ nghiên cứu..............................................................................................................4
Chương 1.....................................................................................................................................7
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ GIÁO DỤC NẾP SỐNG VĂN MINH CHO HỌC SINH TIỂU HỌC...7
Kết luận chương 1.....................................................................................................................37
Chương 2...................................................................................................................................39
THỰC TRẠNG PHỐI HỢP GIỮA NHÀ TRƯỜNG VÀ CỘNG ĐỒNG................................39
TRONG GIÁO DỤC NẾP SỐNG VĂN MINH CHO HỌC SINH TIỂU HỌC.....................39
HUYỆN MAI SƠN, TỈNH SƠN LA.......................................................................................39
Bảng 2.5: Học sinh đánh giá mức độ thực hiện nếp sống văn..................................................44
Bảng 2.5: Học sinh đánh giá mức độ thực hiện nếp sống văn..................................................44
Kết luận chương 2.....................................................................................................................69
Chương 3...................................................................................................................................70
CÁC BIỆN PHÁP PHỐI HỢP NHÀ TRƯỜNG VÀ CỘNG ĐỒNG TRONG GIÁO DỤC
NẾP SỐNG VĂN MINH CHO HỌC SINH TIỂU HỌC HUYỆN MAI SƠN, TỈNH SƠN LA
...................................................................................................................................................70
Bảng 3.1: Kết quả khảo nghiệm về tính cần thiết của một số biện pháp phối hợp nhà trường và
cộng đồng trong giáo dục nếp sống văn minh cho HSTH huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La..........88
Bảng 3.1: Kết quả khảo nghiệm về tính cần thiết của một số biện pháp phối hợp nhà trường và
cộng đồng trong giáo dục nếp sống văn minh cho HSTH huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La..........88
Bảng 3.2: Kết quả khảo nghiệm về tính khả thi của một số biện pháp phối hợp nhà trường và
cộng đồng trong giáo dục nếp sống văn minh cho HSTH huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La..........90
Bảng 3.2: Kết quả khảo nghiệm về tính khả thi của một số biện pháp phối hợp nhà trường và
cộng đồng trong giáo dục nếp sống văn minh cho HSTH huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La..........90

Kết luận chương 3.....................................................................................................................92
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ...........................................................................................93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................98
29. Từ Điển Xã Hội Học - Tái bản (2003), NXB Khoa học xã hội..........................................99
30. Từ điển từ và ngữ Hán - Việt (2002), NXB Từ điển Bách khoa, Hà Nội...........................99
PHỤ LỤC................................................................................................................................100
PHỤ LỤC 1.............................................................................................................................101
PHỤ LỤC 2.............................................................................................................................103



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhờ có giáo dục, con người mới đã tiếp thu những tinh hoa của nhân loại cho
bản thân, rồi tiếp tục sáng tạo làm thăng tiến bản thân để trở thành con người tiến bộ
về: thể chất - tri thức - tinh thần. Điều 2 của Luật Giáo dục năm 2005 nêu rõ “mục tiêu
giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức
khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp
ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Đại hội XII của Đảng đã khẳng định: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các
yếu tố cơ bản của giáo dục đào tạo theo hướng coi trọng phẩm chất, năng lực của
người học”. Đây là sự tiếp tục khẳng định quan điểm của Nghị quyết Trung ương 8
khoá XI. Mục tiêu này thể hiện sự chuyển biến căn bản về chất lượng, hiệu quả về giáo
dục đào tạo, hướng đến xây dựng một nền giáo dục hiện đại, nhân văn đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc thời kỳ mở cửa hội nhập quốc tế. Giáo dục
là một hoạt động mang tính xã hội cao.
Muốn thực hiện được mục tiêu giáo dục toàn diện cho học sinh (HS), cần phải
coi trọng cả giáo dục nhà trường, giáo dục gia đình và giáo dục xã hội. Chỉ riêng nhà
trường, chỉ riêng ngành giáo dục thì không thể làm tốt công tác giáo dục toàn diện

được. Nói chuyện tại Hội nghị cán bộ Đảng ngành giáo dục tháng 6/1957, Bác Hồ căn
dặn “Phải nhất thiết liên hệ mật thiết với gia đình HS. Bởi vì giáo dục trong nhà
trường, chỉ là một phần, còn cần có giáo dục ngoài xã hội và trong gia đình để giúp
cho việc giáo dục trong nhà trường được tốt hơn. Giáo dục trong nhà trường dù tốt
mấy nhưng không thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng
không hoàn toàn”.
Văn hoá nhà trường là một dạng văn hoá tổ chức, là sự tổng hợp các giá trị nhân
văn, các chuẩn mực, các niềm tin và hành vi ứng xử của các thành viên trong nhà
trường. Từ lâu, vấn đề xây dựng nhà trường văn hoá (văn hoá học đường) phải được coi
là trọng tâm, quan trọng nhất. Đó là môi trường quan trọng và cần thiết để rèn luyện

1


nhân cách và giáo dục thế hệ trẻ sống có hoài bão, có lý tưởng đẹp. Vì vậy môi trường
giáo dục lành mạnh là điều kiện tiên quyết để đào tạo thế hệ trẻ trở thành những người
công dân tốt có tài năng, đạo đức.
Ngày 10/8/2018, Bộ trưởng Bộ GDĐT Phùng Xuân Nhạ đã ký ban hành Chỉ thị
số 2919/CT-BGDDT về nhiệm vụ chủ yếu năm 2018 - 2019 của ngành Giáo dục. Căn
cứ tình hình thực tiễn, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ thị toàn ngành Giáo dục
ưu tiên tập trung thực hiện các nhóm nhiệm vụ yếu trong năm học 2018 - 2019 trong
chỉ thị bộ trưởng nêu rõ nhiệm vụ: “Tăng cường giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống,
kỹ năng sống, văn hoá ứng xử trong nhà trường; thực hiện tốt hoạt động chào cờ, hát
quốc ca trong các cơ sở giáo dục, chú trọng giáo dục bản sắc văn hoá dân tộc; xây
dựng môi trường giáo dục an toàn, lành mạnh, thân thiện, phòng chống bạo lực học
đường hiệu quả; bố trí HS, sinh viên trực tiếp tham gia hoạt động vệ sinh và ý thức
bảo quản nhà vệ sinh, đảm bảo trường lớp sạch, đẹp; củng cố, kiện toàn, nâng cao
hiệu quả, đổi mới công tác y tế trường học, bảo đảm chăm sóc sức khoẻ cho học
sinh...”
Hiện nay còn một bộ phận HS chưa ứng xử đúng mực với người lớn tuổi, với bạn

bè trong nhà trường và ngoài xã hội. Nhiều HS có lối sống chưa lành mạnh, biểu hiện
rõ nhất là ở hành vi nói tục, chửi bậy, không đội mũ bảo hiểm, dàn hàng ngang trên
đường gây cản trở giao thông, thiếu sự tôn trọng mọi người trong cộng đồng....Vì vậy,
giáo dục nếp sống văn minh trong nhà trường và cộng đồng sẽ góp phần ngăn chặn
đẩy lùi thói hư tật xấu, không để xảy ra bạo lực trong học đường, khơi dậy niềm tự
hào, ý thức trách nhiệm của HS với việc giữ gìn truyền thống văn hoá dân tộc. Góp
phần quan trọng vào nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức, giáo dục nếp sống văn
minh của HS.
Nhận thấy tầm quan trọng của việc giáo dục nếp sống văn minh của HS, nhất là
các em học sinh tiểu học (HSTH) là lứa tuổi chưa phát triển hoàn thiện nhân cách nên
các em nhiều khi chưa phân biệt được đúng sai mà làm theo cảm tính, theo số đông và
dẫn đến có những biểu hiện lệch lạc trong ứng xử... Những điều đó đã gây ảnh hưởng
không nhỏ tới sự phát triển toàn diện của trẻ. Do vậy, ngành giáo dục huyện Mai Sơn,
tỉnh Sơn La đã có nhiều biện pháp nhằm hạn chế những biểu hiện lệch lạc và rèn luyện

2


đạo đức, rèn kỹ năng sống cho HS. Trong đó, xây dựng nếp sống văn minh cho HSTH
là một nội dung rất được quan tâm. Bởi vì giáo dục nếp sống văn minh cho HS vừa là
trách nhiệm, vừa là cơ hội của mỗi giáo viên (GV) bởi họ đang dạy môn học đặc biệt môn dạy làm người. Khi có nếp sống đẹp, văn minh học trò sẽ có tình cảm sâu sắc và
tâm lý trong sáng để việc học tập và rèn luyện hiệu quả nhất.
Một trong những cách thức để xây dựng nếp sống văn minh cho HS thì các nhà
trường cần phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị và cộng đồng để thực hiện
nhiệm vụ nêu trên. Việc này đòi hỏi sự tham gia, phối hợp của nhiều lực lượng xã hội,
mà trực tiếp là gia đình và cộng đồng dân cư là hết sức quan trọng.
Tuy nhiên, lâu nay việc giáo dục phẩm chất nói chung, giáo dục nếp sống văn
minh cho HS nói riêng mới chỉ bó hẹp trong phạm vi nhà trường; trong khi giáo dục là
cả một quá trình mang bản chất xã hội sâu sắc, thể hiện nhiều góc độ, nhiều khía cạnh,
có sự tham gia chung của nhiều lực lương xã hội. Việc giáo dục nếp sống văn minh

cho HS nếu chỉ diễn ra trong phạm vi nhà trường tất yếu sẽ không phát huy sức mạnh
tổng hợp, không toàn diện đầy đủ dẫn tới chất lượng không cao...Trên địa bàn tỉnh Sơn
La nói chung và huyện Mai Sơn nói riêng, vấn đề giáo dục nếp sống văn minh cho
HSTH còn khá mới mẻ và hầu như chưa có ai nghiên cứu.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Phối hợp nhà trường
và cộng đồng trong giáo dục nếp sống văn minh cho học sinh tiểu học huyện Mai
Sơn, tỉnh Sơn La.” đáp ứng được yêu cầu của lý luận và thực tiễn về giáo dục nếp
sống văn minh cho HSTH.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu đề xuất các biện pháp phối hợp nhà trường và cộng đồng trong
giáo dục nếp sống văn minh cho HSTH trên địa bàn huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La,
nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục nếp sống văn minh cho HSTH góp phần thực hiện
mục tiêu giáo dục toàn diện cho HSTH.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Quá trình giáo dục nếp sống văn minh cho học sinh tiểu học.

3


3.2. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp phối hợp nhà trường và cộng đồng trong giáo dục nếp sống văn minh
cho HSTH huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La.
4. Giả thuyết khoa học
Hoạt động phối hợp giữa nhà trường và cộng đồng trong giáo dục nếp sống văn
minh cho HSTH huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La chưa đồng bộ, đạt hiệu quả chưa cao.
Nếu đề xuất được các biện pháp phù hợp với thực tiễn sẽ góp phần nâng cao hiệu quả
tham gia của các lực lượng xã hội trong giáo dục nếp sống văn minh cho học sinh tiểu
học huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu

5.1. Hệ thống hoá những vấn đề lí luận về phối hợp giữa nhà trường và cộng
đồng trong giáo dục nếp sống văn minh cho HSTH.
5.2. Đánh giá thực trạng phối hợp giữa nhà trường với cộng đồng trong giáo dục
nếp sống văn minh cho HSTH huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La.
5.3. Đề xuất và khảo nghiệm biện pháp phối hợp nhà trường và cộng đồng trong
giáo dục nếp sống văn minh cho HSTH huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La.
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
6.1. Về nội dung nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu các biện pháp phối hợp nhà trường và cộng đồng
trong giáo dục nếp sống văn minh cho HSTH huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La.
6.2. Về địa bàn nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu về các biện pháp phối hợp nhà trường và cộng đồng
trong giáo dục nếp sống văn minh cho HS khối 3, 4, 5 của 03 trường Tiểu học trên địa
bàn huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La gồm: Trường Tiểu học Chu Văn Thịnh, Tiểu học Hát
Lót, TH Tô Hiệu thuộc huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La và cộng đồng trên địa bàn của 03
trường nói trên của huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La.
6.3. Khách thể khảo sát
Chúng tôi tiến hành khảo sát 06 chuyên viên phòng giáo dục, 12 cán CBQL, 99
GV chủ nhiệm, 03 tổng phụ trách Đội, 120 HS, 120 PHHS lớp 3, 4, 5 và 06 cán bộ là

4


chính quyền địa phương, 03 bí thư Đoàn thanh niên, 04 công an thị trấn Hát Lót,
huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La của 03 trường TH được khảo sát.
6.4. Về thời gian
Nghiên cứu được tiến hành trong thời gian từ tháng 10 năm 2018 đến tháng 5
năm 2019.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý thuyết

Phân tích, tổng hợp, khái quát hoá, hệ thống hoá lý thuyết từ các tài liệu trong
nước và nước ngoài về vấn đề phối hợp nhà trường và cộng đồng trong giáo dục nếp
sống văn minh cho HSTH.
7.1.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi:
Sử dụng bảng hỏi (Phụ lục 1) nhằm thu thập các thông tin, số liệu về thực trạng
phối hợp nhà trường và cộng đồng trong giáo dục nếp sống văn minh cho HSTH
huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La.
- Phương pháp quan sát:
Quan sát, ghi chép các hoạt động của công tác phối hợp nhà trường và cộng đồng
trong giáo dục nếp sống văn minh cho HSTH huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La.
- Phương pháp phỏng vấn sâu:
Thu thập, bổ sung, kiểm tra và làm rõ hơn những thông tin mang tính chất định
tính về thực trạng giáo dục nếp sống văn minh cho HSTH, thực trạng phối hợp nhà
trường và cộng đồng trong giáo dục nếp sống văn minh cho HSTH huyện Mai Sơn,
tỉnh Sơn La.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm:
Tổng kết kinh nghiệm hoạt động của công tác phối hợp nhà trường và cộng đồng
trong giáo dục nếp sống văn minh cho HSTH huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La qua các
năm để so sánh và rút ra các bài học kinh nghiệm bổ ích, những ưu điểm cần học hỏi
và phát triển; làm cơ sở để đề xuất các biện pháp phối hợp nhà trường và cộng đồng
trong giáo dục nếp sống văn minh cho HSTH huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La.
- Phương pháp chuyên gia:

5


Sử dụng phương pháp chuyên gia dưới các hình thức: tổ chức trong vấn, phiếu
hỏi hoặc phỏng vấn trực tiếp các chuyên gia có nhiều kinh nghiệm để xin ý kiến (Bảng
hỏi phụ lục 3) về những vấn đề lý luận và thực tiễn thực trạng phối hợp nhà trường và

cộng đồng trong giáo dục nếp sống văn minh cho HSTH huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La.
7.1.3. Phương pháp thống kê toán học
Đề tài sử dụng các công thức thống kê toán học để phân tích định lượng và định tính
các kết quả nghiên cứu của luận văn với sự hỗ trợ của phần mềm tin học.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục và
nội dung chính của luận văn được thể hiện ở 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về giáo dục nếp sống văn minh cho học sinh tiểu
học.
Chương 2: Thực trạng phối hợp nhà trường và cộng đồng trong giáo dục nếp
sống văn minh cho HSTH huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La.
Chương 3: Đề xuất biện pháp phối hợp nhà trường và cộng đồng trong giáo dục
nếp sống văn minh cho HSTH huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La.

6


Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ GIÁO DỤC NẾP SỐNG VĂN MINH
CHO HỌC SINH TIỂU HỌC
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Trên thế giới
Học sinh tiểu học (HSTH) là độ tuổi gắn với giai đoạn phát triển kì diệu nhất,
không lặp lại trong cuộc đời con người. Việc nghiên cứu về các khía cạnh tâm lý - xã
hội của nếp sống văn minh làm cơ sở cho quá trình giáo dục HS, từ lâu nay đã được
các nhà khoa học trên thế giới rất coi trọng. Trong phạm vi cho phép có thể đề cập đến
một số nghiên cứu sau:
Theo quan điển của J.J.Ruxô (1712-1778): Thiên nhiên tạo ra con người con
người có bản chất tốt đẹp, sống tự do, hạnh phúc. Ông khẳng định đối tượng giáo dục
là trẻ em, mục đích giáo dục là hạnh phúc. Về phương pháp giáo dục ông chủ trương

tìm cách ngăn cản thói hư tật xấu đột nhập trái tim con người, cần chuẩn bị cho trẻ có
khả năng đấu tranh loại bỏ mọi thói hư tật xấu. Theo quan điểm của J.J.Ruxô phải thay
đổi phương pháp và biện pháp giáo dục theo lứa tuổi ... [37,17-18]
Quan điểm E.d.Ward, B.Taylor nghiên cứu về nếp sống văn hóa, văn minh ông
cho rằng nếp sống văn minh dùng để chỉ toàn bộ tập hợp bao gồm cả khoa học, tín
ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục và những lỹ năng thói quen do con
người thu nhập được với tư cách là một thành viên trong xã hội.
Trách nhiệm của nhà trường trong việc tổ chức phối hợp với gia đình để giáo dục
HS là vấn đề từ lâu đã được xã hội và các nhà giáo dục rất coi trọng. Trong nền giáo
dục cận đại, J.A.Komenxki (1592 - 1670) là người đầu tiên nêu ra một hệ thống lý
luận chặt chẽ về tầm quan trọng của mối quan hệ thống nhất giữa gia đình và nhà
trường đối với kết quả giáo dục trẻ. Ông khẳng định lòng ham học của trẻ không thể
thiếu vắng sự kích thích từ bố mẹ và thầy cô: “Các bậc cha mẹ, giáo viên nhà trường,
bản thân môn học, phương pháp dạy học phải thống nhất làm thức tỉnh và duy trì khát
vọng học tập trong HS”… Nhiều nhà giáo dục lỗi lạc của Liên Xô đã nhấn mạnh đến
tầm quan trọng của sự phối hợp, hợp tác giữa nhà trường và gia đình trong việc thực

7


hiện mục đích giáo dục trong những người công dân chân chính trong tương lai đối với
nhà nước xã hội chủ nghĩa. V.A.Xukhomlinxki (1918 - 1970) đã khẳng định nếu gia
đình và nhà trường không có sự hợp tác để thống nhất mục đích, nội dung giáo dục thì
sẽ dẫn đến tình trạng “gia đình một đường, nhà trường một nẻo”. Vào đầu thế kỷ 21
này, một số nước phương Tây đã chú ý đề cao hơn vai trò của cha mẹ trong việc kết
hợp với nhà trường để giáo dục trẻ. Ông Alan Hohnson, bộ trưởng Bộ Giáo dục Anh,
trong bài phát biểu đã kêu gọi cha mẹ không nên phó thác việc chăm sóc, giáo dục con
em mình cho nhà trường. Ngược lại, ông khẳng định vai trò của các bậc phụ huynh rất
quan trọng, thậm chí sẽ mang lại một “sự khác biệt lớn” so với những kết quả mà trẻ
đạt được từ trường học.

Học thuyết Mac-Lênin đã đề cập đến vấn đề chung nhất của giáo dục gia đình.
Trong mỗi gia đình thì giáo dục con cái là một chức năng vô cùng quan trọng muốn
giáo dục thế hệ trẻ em phải củng cố mối quan hệ gia đình và tổ chức tốt các mối quan
hệ trong gia đình. [34,180-223]
Tác phẩm "Gia đình và nhà trường" của K.N.Crupxcaia (1869-1973) đã làm rõ
tầm quan trọng của mối quan hệ trong giáo dục gia đình và giáo dục cộng đồng. Theo
quan điểm của bà trong gia đình phải giáo dục con em có thói quen lao động hàng
ngày. Nếu gia đình hòa thuận sẽ giáo dục và bồi dưỡng cho con cái những phẩm chất,
hành vi tốt đẹp và phù hợp với hoàn cảnh. Chức năng giáo dục gia đình liên quan mật
thiết tới giáo dục trong nhà trường và giáo dục ngoài xã hội. "Nhà trường có ảnh
hưởng tích cực đến giáo dục trong gia đình và giáo dục ngoài xã hội." [34,230-231]
Giáo dục nếp sống văn minh là một mục tiêu quan trọng trong hoạt động giao
dục ở mỗi quốc gia. Bởi vậy mọi quốc gia trên thế giới đều rất quan tâm đến giáo dục
nếp sống văn minh.
1.1.2. Ở Việt Nam
Ngay từ khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 mới thành công. Hồ Chủ Tịch đã
viết tác phẩm “Đời sống mới” để hướng dẫn sửa đổi cách ăn cách mặc, cách ở, đi lại,
cách làm việc trong cán bộ và nhân dân nhằm xây dựng cuộc sống mới, trong đó chỉ
rõ:

8


"Đời sống mới không phải cái gì cũng bỏ hết. Không phải cái gì cũng làm mới.
Cái gì cũ mà xấu thì phải bỏ. Thí dụ: Ta phải bỏ hết tính lười biếng và tham lam.
Cái gì cũ mà không xấu, nhưng thiếu phiền phức thì phải sửa đổi cho hợp lý. Thí
dụ: Đơm cúng quá xa xỉ, ta phải giảm bớt đi…
Cái gì cũ thì phải phát triển thêm. Thí dụ: ta phải tương thân, tương ái, tận trung
với nước, tận hiếu với dân khi trước. Cái gì mới mà hay, thì phải làm. Thí dụ: ăn ở cho
hợp vệ sinh, làm việc cho có ngăn nắp.

Làm thế nào cho đời sống của nhân dân ta, vật chất được đầy đủ hơn, tinh thần
được vui mạnh hơn. Đó là mục đích, đời sống mới”.
Ngày 15 tháng 1 năm 1975. Ban bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị số
214/CT-TW về việc thực hiện nếp sống mới trong việc cưới, việc tang, ngày giờ, ngày
hội. Để hướng dẫn thực hiện Chỉ thị, Phủ Thủ tướng đã ban hành Thể lệ về tổ chức
việc cưới, việc tang, ngày giỗ, ngày hội kèm theo Quyết định số 56-CP ngày 18/3/1975
của Hội đồng Chính phủ.
Năm 1980, Ban Chỉ đạo Nếp sống mới Trung ương được thành lập để chỉ đạo thực
hiện phong trào vận động xây dựng Nếp sống mới. Gia đình văn hoá mới.
Trong lịch sử giáo dục ở nước ta, từ lâu giữa nhà trường và gia đình đã có sự hợp
tác chặt chữ trong việc giáo dục trẻ, câu nói “Muốn sang thì bắc cầu Kiều, muốn con
hay chữ thì yêu lấy Thầy” đã khái quát ý nghĩa lớn lao về mối quan hệ này. Chủ tich
Hồ Chí Minh là một nhà giáo dục lớn của nước ta, Bác đã nhấn mạnh tầm quan trọng
về trách nhiệm của nhà trường phải tổ chức phối hợp với gia đình…“Phải mật thiết
liên hệ với gia đình học trò. Bởi vì giáo dục trong nhà trường dù tốt mấy nhưng thiếu
giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng không hoàn toàn” [21]
Tại khoản 2 Điều 3 của Luật GD 2005 ghi: “Hoạt động giáo dục phải được thực
hiện theo nguyên lý học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý
luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo
dục xã hội” [26].
Ở nước ta đã có nhiều công trình nghiên cứu, tổng hợp quan điểm lý luận và thực
tiễn về vai trò, nhiệm vụ của gia đình và sự phối hợp giữa nhà trường với gia đình và
xã hội trong việc giáo dục thế hệ trẻ như “Giáo dục gia đình” (Giáo trình đào tạo giáo

9


viên THCS, NXB Giáo Dục), “Xã hội hoá công tác giáo dục” (Phạm Minh Hạc tổng
chủ biên) [5], “Giáo dục học - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” (Hà Thế Ngữ)[7],
“Văn hoá gia đình với việc hình thành và phát triển nhân cách trẻ em” (Võ Thị Cúc)

[4]
Trong một số công trình nghiên cứu của mình giáo sư Nguyễn Văn Lê đã chỉ rõ
giao tiếp trong cộng đồng với sự chỉ dẫn của hành vi, cử chỉ cụ thể từ việc: chào, bắt
tay, cảm ơn, xin lỗi, xin phép, xin mời, trong ham gia giao thông, ở rạp hát, trong bệnh
viện, nơi công cộng đến cả việc ăn mặc, đúng giờ, giữ lời hứa, xử lý các tình huống
khó xử trong trường học, trong gia đình, trong cộng đồng...Có thể xem đây là những
nếp sống văn hóa trong đời sống xã hội của mỗi cá nhân. [15, 102-119]
Trong tác phẩm "Con người văn minh sống như thế nào?" của giáo sư Nguyễn
Lân đã lý giải và chỉ ra các việc làm cụ thể của nếp sống con người văn minh từ trong
đời sống của bản thân đến cuộc sống trong gia đình và xã hội. Đó là con người văn
minh rèn luyện về thể chất, tình thần và những tập quán tốt đẹp. Trong gia đình và
ngoài cộng đồng con người văn minh cần phải hình thành nên nếp sống văn minh
trong mỗi gia đình, văn minh trong cách cư sử giữa người với người, thực hiện nếp
sống văn minh trên đường phố, trong sinh hoạt nơi công cộng và trong giao tiếp hàng
ngày. [16, 102-119]
PGS Nguyễn Đức Minh với tác phẩm "Khoa học giáo dục con em trong gia
đình" qua những việc cụ thể: Trong mỗi gia đình ông bà, cha mẹ giúp con học tập tốt,
giáo dục con tự giác lao động, dạy con tinh thần làm chủ, vui chơi có văn hóa, hình
thành và giáo dục con nếp sống văn minh. Đặc biệt tác giả còn chú trọng làm nổi bật
gia đình với nhiệm vụ giáo dục hành vi văn hóa cho con. Nội dung những quy tắc hành
vi văn hóa cần giáo dục con trong gia đình: Có văn hóa trong ngôn ngữ, hình thức,
cách ăn mặc, cách cư sử, ăn uống, giờ giấc, khi tiếp khách, ở nơi công cộng." [22, 52106]
Theo Tạp chí Giáo dục Thủ đô số tháng 4/2016, Tác giả: Long Hà chỉ rõ sở
GD&ĐT Hà Nội đã tổ chức nhiều quốc hội thảo nhằm đánh giá từ đó đề xuất các giải
pháp nâng cao chất lượng giảng dạy bộ tài liệu “Giáo dục nếp sống thanh lịch, văn
minh cho HS Hà Nội”. Xác định giáo dục nếp sống thanh lịch, văn minh cho HSTH

10



chỉ đạt hiệu quả khi HS hứng thú và tích cực chủ động học tập, các tình huống phải
gần gũi, gắn bó với cuộc sống hàng ngày của các em, vì vậy trường TH đã phát huy
tính tích cực của HS trong việc thực hành nếp sống thanh lịch, văn minh. Các thầy cô
giáo đã tổ chức các hoạt động giáo dục một cách linh hoạt, phù hợp với điều kiện của
nhà trường, của lớp thông qua các hình thức học tập như: Tổ chức cho HS làm việc
theo nhóm, làm việc cá nhân, nghiên cứu tài liệu, tổ chức cho HS được phát biểu ý
kiến, bày tỏ quan điểm của mình, xử lý tình huống bằng cách đóng vai, tổ chức các trò
chơi học tập, giáo viên lại cho HS suy nghĩ và bày tỏ ý kiến cá nhân. Được chủ động
bày tỏ ý kiến của mình, tham khảo ý kiến của các bạn, nếp sống thanh lịch văn minh
dễ dàng hình thành trong suy nghĩ và thói quen của các em. [6]
Tác giả Bùi Thị Huyền - Năm 2014 “Giáo dục nếp sống thanh lịch - văn minh
thông qua môn đạo đức cho HS lớp 3”. Đề tài chỉ nêu chung chung các biện pháp để
giáo dục nếp sống thanh lịch, văn minh thông qua môn đạo đức cho HS lớp 3. [14]
Nhà văn Từ Sơn - Năm 1996 với luận văn: “Nghiên cứu xây dựng chương trình
giáo dục nếp sống văn minh thí điểm trên truyền hình” [28]. Luận văn cũng đã đề xuất
được một số biện pháp thuộc lĩnh vực truyền thông về xây dựng chương trình giáo dục
nếp sống văn minh thí điểm trên truyền hình, luận văn cũng chỉ ra được một số biện
pháp nếp sống văn minh khá phù hợp và với thời điểm tác giả nghiên cứu.
Tác giả Nguyễn Xuân Thanh (2016), với luận văn "Các biện pháp đổi mới giáo
dục nếp sống thanh lịch, văn minh cho HSTH thành phố Hà Nội" [36]. Tác giả cũng đã
đề xuất được một số biện pháp nhằm đổi mới giáo dục nếp sống thanh lịch, văn minh
cho HSTH thành phố Hà Nội, trong luận văn tác giả cũng chỉ ra được một số biện
pháp mới về giáo dục nếp sống văn minh phù hợp với HSTH tại thành phố Hà Nội.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn căn dặn: “Giáo dục trong nhà trường chỉ
là một phần, còn cần phải có sự giáo dục ngoài xã hội và trong gia đình, để giúp việc
giáo dục nhà trường tốt hơn. Giáo dục nhà trường dù tốt đến mấy, nhưng thiếu giáo
dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng không hoàn toàn” (Bài nói chuyện
của Bác Hồ với cán bộ Đảng trong ngành Giáo dục, tháng 6/1957); [19]
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Nếu nhà trường dạy tốt, mà gia đình
ngược lại, sẽ có ảnh hưởng không tốt đến trẻ và kết quả cũng không tốt. Cho nên


11


muốn giáo dục các cháu thành người tốt, nhà trường, gia đình, đoàn thể xã hội đều
phải kết hợp chặt chẽ với nhau” (Nói chuyện về nhiệm vụ giáo dục thiếu niên nhi
đồng, ngày 12.2.1959. NXB Giáo dục. Hà Nội 1960). [20, 58]
Trong giáo trình Giáo dục học tập 2, chương XIV “Môi trường Giáo dục học”
của tác giả Trần Thị Tuyết Oanh đã khẳng định: Việc liên kết phối hợp giáo dục gia
đình, nhà trường và các tổ chức xã hội nhằm thực hiện mục đích phát triển nhân cách
con người được coi là một nguyên tắc quan trọng. Việc liên kết, phối hợp chặt chẽ giữa
ba môi trường giáo dục nhằm đảm bảo sự thống nhất về nhận thức cũng như cách thức
hành động để hiện thực hoá mục tiêu quá trình phát triển nhân cách, tránh sự tách rời,
mâu thuẫn, vô hiệu hoá lẫn nhau, gây nên tâm trạng nghi ngờ, hoang mang, dao động
đối với cá nhân trong việc lựa chọn, tiếp thu các giá trị tốt đẹp. Gia đình, nhà trường
và các tổ chức xã hội liên kết, phối hợp thống nhất mục đích, mục tiêu giáo dục thể
hiện ở những nội dung cơ bản nhằm phát triển toàn diện các mặt đức, trí, thể, mĩ, lao
động...Mỗi môi trường đều có một ưu thế đối với việc giáo dục định hướng nghề
nghiệp, rèn luyện kĩ năng, kỹ xảo, thói quen lao động chân tay, quan hệ ứng xử... đối với
HS. Nhà trường có ưu thế trong việc giáo dục toàn diện, đặc biệt là tri thức văn hoá, các
chuẩn mực đạo đức, ý thức công dân...bằng các phương pháp, phương tiện hiện đại
nhằm thúc đẩy mạnh quá trình phát triển nhân cách, các đoàn thể xã hội bằng các hình
thức tổ chức hoạt động xã hội ngoài giờ lên lớp giúp các em mở rộng kiến thức, gắn tri
thức với thực tiễn, chủ trương, chính sách chung của Đảng, Nhà nước, của địa phương
các lĩnh vực trong đời sống xã hội. [23, 23-41]
PGS, TS Hà Nhật Thăng và TS Lê Tiến Hùng trong nghiên cứu về "Tổ chức hoạt
động giáo dục" đã khẳng định được vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của gia đình,
nhà trường và cộng đồng trong giáo dục HS. Đặc biệt là hình thức phối hợp giữa nhà
trường, cộng đồng và gia đình HS, biện pháp liên kết các lực lượng xã hội trong giáo
dục trẻ. Đây là một trong những định hướng quan trọng cho việc xác định nội dung,

biện pháp phối hợp giữa nhà trường và cộng đồng trong giáo dục HS." [35, 23-41]
Việc phối hợp các môi trường giáo dục gia đình, nhà trường và các tổ chức xã hội
diễn ra dưới nhiều hình thức. Vấn đề cơ bản, quan trọng hàng đầu là các lực lượng
giáo dục đó phải phát huy tinh thần trách nhiệm, chủ động tìm ra các hình thức, giải

12


pháp, tạo mối liên kết, phối hợp vì mục đích giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ thành những
công dân hữu ích của đất nước. Do đó, không thể coi đây là trách nhiệm riêng của lực
lượng nào. Tuy nhiên gia đình và nhà trường có trọng trách lớn hơn, bởi vì trẻ em là
con cái của gia đình, là HS của nhà trường trước khi trở thành công dân của xã hội.
Trong lý luận cũng như trong thực tiễn giáo dục, sự thống nhất tác động giáo dục
từ nhà trường với các lực lượng xã hội được xem là vấn đề có tính nguyên tắc đảm bảo
cho mọi hoạt động giáo dục có điều kiện đạt hiệu quả tốt. Trong việc tổ chức kết hợp
các lực lượng giáo dục, nhà trường giữ vai trò trung tâm, tổ chức phối hợp dẫn dắt nội
dung, phương pháp giáo dục của gia đình và các lực lượng trong xã hội. Bởi lẽ nhà
trường là một tổ chức chuyên biệt đối với công tác giáo dục, được sự lãnh đạo trực tiếp
của Đảng và nhà nước, nắm vững quan điểm, đường lối, mục tiêu bồi dưỡng đào tạo
con người xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, nhà trường luôn luôn có đội ngũ thầy cô giáo
có trình độ, năng lực, nhiệt tình, tâm huyết và yêu nghề mến trẻ, đã được đào tạo có hệ
thống. Giáo dục nhà trường trong mọi thời đại có chức năng cơ bản là truyền thụ tri
thức văn hoá đã được rút kết từ các tinh hoa của nhân loại, mở mang trí tuệ cho HS.
Nhờ nắm vững những tri thức văn hoá cơ bản này mà nhân cách của các em được hình
thành và phát triển một cách vững vàng.
Phối hợp nhà trường với cộng đồng để giáo dục HS là một trong những nội dung
xã hội hoá giáo dục. Vấn đề xã hội hoá giáo dục nói chung đã được các nhà khoa học
giáo dục và phối hợp giáo dục quan tâm nghiên cứu ở nhiều công trình khác nhau, có
thể kể đến các công trình nghiên cứu: Xã hội hoá giáo dục - một vấn đề lí luận và thực
tiễn của Nguyễn Sinh Huy hay xã hội hoá giáo dục của Võ Quang Tuấn chủ biên...

Những nghiên cứu trên đã nghiên cứu vấn đề xã hội hoá trên bình diện lý luận và thực
tiễn, giới thiệu một số mô hình xã hội hoá đã phát huy được các nguồn lực của cộng
đồng trong hoạt động giáo dục HS và xây dựng cơ sở vật chất cho nhà trường, mối
quan hệ gắn bó, mật thiết giữa nhà trường, gia đình và xã hội. Tuy nhiên, những nội
dung cụ thể như mỗi lực lượng trong cộng đồng có vai trò, nhiệm vụ chức năng như
thế nào trong giáo dục HS; làm thế nào để nhà trường và cộng đồng phối hợp một cách
hiệu quả trong giáo dục nếp sống văn minh cho HSTH lại chưa được quan tâm nghiên
cứu.

13


Tóm lại, qua tổng quan vấn đề nghiên cứu cho thấy: nếp sống văn minh, giáo dục
nếp sống văn minh cho HS đã được các nhà khoa học trong và ngoài nước quan tâm
nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu của các tác giả đã đạt được một số thành tựu nhất định
về lý luận và thực tiễn triển khai, song các công trình đó chủ yếu hướng đến nghiên
cứu các giá trị đạo đức, nếp sống văn hóa một cách chung nhất, không tách biệt cũng
như xác định rõ nếp sống văn minh hay sự ảnh hưởng của chúng với nhau, vấn đề nếp
sống văn minh, giáo dục nếp sống văn minhcũng như công tác phối hợp giữa nhà
trường với cộng đồng giáo dục nếp sống văn minh cho HS còn ít và chưa hệ thống,
còn nhiều khoảng trống cả về mặt lí luận và thực tiễn triển khai. Đặc biệt, chưa có
công trình nghiên cứu nào về phối hợp nhà trường và cộng đồng trong giáo dục nếp
sống văn minh cho HSTH huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La. Vì vậy, sự lựa chọn đề tài
nghiên cứu của luận văn đã xác định được điểm mới, đúng hướng và có ý nghĩa thực
tiễn cao. Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ phục vụ trực tiếp cho công tác giáo dục
nếp sống văn minh cho HS trong các trường tiểu học tỉnh Sơn La hiện nay.
1.2. Các khái niệm cơ bản
1.2.1. Phối hợp giáo dục và biện pháp phối hợp giáo dục
1.2.1.1. Phối hợp giáo dục
Theo từ điển Tiếng Việt [24]: “Phối hợp là cùng chung góp, cùng hành động ăn

khớp để hỗ trợ cho nhau”.
Như vậy, phối hợp giữa nhà trường với cộng đồng được hiểu là sự hợp tác, trao
đổi, cùng thống nhất hành động và hỗ trợ nhau thực hiện nhiệm vụ chung.
Phối hợp các lực lượng cộng đồng hay huy động các lực lượng cộng đồng là
quá trình vận động (động viên, khuyến khích, thu hút) và tổ chức.
Phối hợp giáo dục tạo nên sự gắn kết chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình và
cộng đồng, xây dựng được sự cảm thông chia sẻ của cộng đồng, gia đình với nhà
trường, đồng thời mỗi bên đều nhận thấy trách nhiệm của mình trong sự nghiệp giáo
dục và giáo dục nếp sống văn minh cho HSTH. Việc phối hợp chặt chẽ ba môi trường
giáo dục trên, trước là để đảm bảo sự thống nhất trong nhận thức cũng như hoạt động
giáo dục cùng một hướng, một mục đích, một tác động tổ hợp, đồng tâm tạo sức mạnh
kích thích, thúc đẩy quá trình phát triển nhân cách, nếp sống cho HSTH, tránh sự tách

14


rời mâu thuẫn, vô hiệu hóa lẫn nhau gây cho các em tâm trạng nghi ngờ, hoang mang,
dao động trong việc lựa chọn, định hướng các giá trị tốt đẹp của nhân cách. Sự phối
hợp nhà trường, gia đình và xã hội có thể diễn ra dưới nhiều hình thức. Vấn đề cơ bản
hàng đầu là tất cả các lực lượng giáo dục phải phát huy tinh thần trách nhiệm, chủ
động tạo ra những mối quan hệ phối hợp vì mục tiêu giáo dục đào tạo thế hệ trẻ thành
những người công dân hữu ích cho đất nước.
1.2.1.2. Biện pháp phối hợp giáo dục
Trong quá trình phối hợp nhà trường và cộng đồng trong giáo dục nếp sống văn
minh cho HSTH được thực hiện thông qua nhiều biện pháp phối hợp giáo dục khác
nhau, chúng ta có thể đề cập đến một số biện pháp như:
- Tuyên truyền nâng cao nhận thức cho các lực lượng cộng đồng về vai trò của
nhà trường và cộng đồng trong quá trình giáo dục và giáo dục nếp sống văn minh cho
học sinh.
- Thu hút sự tham gia của Hội cha mẹ, các lực lượng xã hội trong việc tổ chức

thực hiện các hoạt động dạy học và giáo dục của nhà trường.
- Xây dựng cơ chế phối hợp nhà trường và cộng đồng.
- Bồi dưỡng kĩ năng tổ chức các hoạt động giá dục nếp sống văn minh, quản lí
cho cán bộ Hội cha mẹ HS, cho tổ trưởng tổ dân phố, trưởng các ban ngành đoàn thể
địa phương.
- Bảo đảm tính dân chủ trong quá trình phối hợp nhà trường và cộng đồng tham
gia và các hoạt động giáo dục nếp sống văn minh cho HSTH.
Các biện pháp phát huy vai trò của nhà trường và cộng đồng trong quá trình giáo
dục nếp sống văn minh cho HSTH có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Mỗi biện pháp có
tác dụng chủ đạo về một mặt nào đó trong hoạt phối hợp nhà trường và cộng đồng trong
giáo dục nếp sống văn minh cho HSTH, tuy nhiên, tùy thuộc vào từng hoàn cảnh cụ thể,
sẽ có một hay một vài biện pháp được ưu tiên sử dụng.
1.2.2. Nếp sống văn minh và giáo dục nếp sống văn minh
1.2.2.1. Nếp sống văn minh
Thuật ngữ “nếp sống” được các nhà khoa học xem xét dưới nhiều góc độ khác
nhau và được khai thác ở các mức độ khác nhau:

15


Theo Từ điển Tiếng Việt: “nếp sống là thói quen sinh hoạt. Nếp sống mới. Phong
trào vận động sinh hoạt theo lối sống xã hội chủ nghĩa.” [24, 1678].
Hoặc Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam [12] “Nếp sống là lối sống hay phong
cách sống, nếp sống là những nét điển hình, được lặp đi lặp lại và định hình thành
phong cách, thói quen trong đời sống cá nhân, nhóm."
Giáo dục lối sống hay nếp sống thường để chỉ cách tổ chức cuộc sống sinh hoạt
bao gồm cả hoạt động vui chơi giải trí, giáo dục con cái, tổ chức các lễ hội...tương đối
ổn định của các thành viên trong gia đình. Theo TS Ngô Công Hoàn”. [17; 92-93],
khái niệm lối sống thường nói một giai cấp, một dân tộc, mọt quốc gia còn nếp sống
thường dùng trong phạm vi hẹp hơn lối sống.

Như vậy, nếp sống bao gồm những cách thức, hành động, suy nghĩ, những quy ước
lặp đi, lặp lại hằng ngày thành những thói quen như: Tập quán sản xuất, sinh hoạt,
phong tục tập quán ... Nói một cách khác, nếp sống là cách thức sống, sinh hoạt, cách
ứng xử của con người, của cộng đồng được lặp đi lặp lại nhiều lần, được chọn lọc có sự
lắng đọng và tồn tại trong tiềm thức của nhân dân.
Bách khoa toàn thử mở Wikipeadia “Văn minh là sự sáng tạo, minh là tốt đẹp, là
sự kết hợp đầy đủ các yếu tố tiên tiến tại thời điểm xét xét đến để tạo nên, duy trì, vận
hành và tiến hoá xã hội loài người. Các yếu tố của văn minh có thể hiểu gọn lại là di
sản tích luỹ tri thức, tinh thần và vật chất của con người kể từ khi loài người hình
thành cho đến thời điểm xét đến”. [3]
Theo “Từ điển bách khoa Văn hóa học”, văn minh được hiểu như sau: “Văn minh
là hệ thống những phương tiện do con người tạo nên nhằm đảm bảo tính tự chủ thực
tiễn và tính chủ động thực tế trong việc tạo đầy đủ tiện nghi cho cuộc sống. Văn minh có
hai mặt: khoa học - kỹ thuật và xã hội - pháp chế. Tiêu chí phát triển của văn minh là
trình độ chế ngự của con người đối với các sức mạnh thiên nhiên và sự phát triển lĩnh
vực xã hội - pháp chế ( kể cả nhà nước pháp quyền), bảo đảm việc thực hiện quyền sống
và tự do của con người”. [32]
Tài liệu chuyên đề giáo dục nếp sống thanh lịch, văn minh cho HS tiểu học thành
phố Hà Nội đã nêu rõ văn minh là một khái niệm khá rộng lớn nói về trình độ phát
triển đạt đến một mức nhất định của xã hội loài người, có nền văn hóa vật chất và tinh

16


thần với những đặc trưng riêng. Ví dụ, văn minh Ai Cập; văn minh phương Đông…
Hiểu theo nghĩa hẹp thì văn minh là chỉ con người, sự vật, nếp sống, nếp sinh hoạt đã
được định hình với những đặc trưng trong sáng, đẹp đẽ của nền văn hóa phát triển cao.
Ví dụ: một nếp sống văn minh, một con người văn minh. [27]
Xét về hai khái niệm "văn hóa" và "Văn minh" trong nhiều trường hợp được sử
dụng với nhiều nghĩa giống nhau. Văn minh xét dưới góc độ nghĩa của từ " Văn" - vẻ

đẹp, "Minh" - vẻ sáng; Văn minh dùng để chỉ trình độ phát triển văn hóa về phương
diện vật chất và tinh thần đặc trưng cho một giai đoạn phát triển trong mọi khu vực và
mọi thời đại. [16;07]
Với cách hiểu về nếp sống văn minh như trên, chúng tôi đưa ra quan niệm về
Nếp sống văn minh là: nếp sống có văn hóa tích cực, tiến bộ phù hợp với các giá trị
sống của xã hội. Nếp sống văn minh có những biểu hiện vô cùng phong phú và có giá
trị văn hóa cao. Người có nếp sống văn minh là người có hành vi, thói quen trong sinh
hoạt (ăn, mặc, ở, nói năng, đi lại…), giao tiếp, ứng xử lịch sự, nhã nhặn ở mọi hoàn
cảnh và mọi nơi, mọi lúc. Người văn minh là người biết kế thừa có chọn lọc những nét
đẹp của truyền thống, biết tiếp thu những cái hay, cái tiến bộ và thể hiện trong đời sống
hàng ngày.
1.2.2.2. Giáo dục nếp sống văn minh
Dù xét trên các góc độ, phạm vi khác nhau, chúng ta có thể nhận thấy: Giáo dục
là một quá trình toàn vẹn hình thành nhân cách, được tổ chức một cách có mục đích và
kế hoạch, thông qua các hoạt động và quan hệ giữa người giáo dục và người được giáo
dục, nhằm truyền đạt và chiếm lĩnh những kinh nghiệm xã hội loài người. Chính vì
vậy giáo dục luôn là một quá trình có mục đích, có kế hoạch, là quá trình tác động qua
lại giữa nhà giáo dục và người được giáo dục. Thông qua quá trình tương tác giữa
người giáo dục và người được giáo dục để hình thành nhân cách toàn vẹn (hình thành
và phát triển các mặt đạo đức, trí tuệ, thẩm mĩ, thể chất, lao động) cho người được giáo
dục.
Tóm lại, giáo dục nếp sống văn minh là một quá trình hình thành cho học sinh ý
thức, những thái độ và hành vi, thói quen đúng đắn cần có trong sinh hoạt, giao tiếp,
ứng xử trong các môi trường: làng xóm bạn bè, tập thể và bản thân, gia đình, nhà

17


trường, xã hội thể hiện trong cuộc sống hàng ngày đối với gia đình. Qua quá trình giáo
dục nếp sống văn minh cho học sinh, các em được học cách cư xử một cách có trách

nhiệm và chia sẻ với bạn bè cùng trang lứa, với thầy cô ở trường, với anh chị em trong
gia đình, với người khác nói chung. HS được học cách nhận ra giá trị của gia đình,
thầy cô, bạn bè trong xã hội nhỏ bé mà em đang sống và học cả cách cư xử với chính
bản thân mình biết tự phục vụ, học cách bảo vệ môi trường, trân trọng những gì em có.
Không chỉ vậy, HS còn được giáo dục phải trân trọng các giá trị văn hóa truyền thống
và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Giáo dục nếp sống văn minh chú trọng giáo dục
thói quen và hành vi cư xử chuẩn mực trong cuộc sống hằng ngày cho học sinh.
1.3. Đặc điểm học sinh tiểu học
1.3.1. Đặc điểm nhận thức
HSTH là trẻ em từ 6 đến 11 tuổi, là một thực thể hồn nhiên, ngây thơ và trong
sáng. Ở mỗi trẻ em đều tiềm tàng khả năng phát triển về trí tuệ, lao động, rèn luyện và
hoạt động xã hội để đạt một trình độ nhất định về lao động nghề nghiệp, về quan hệ
giao lưu và chăm lo cuộc sống cá nhân, gia đình.
Trẻ em ở lứa tuổi TH là thực thể đang hình thành và phát triển cả về mặt sinh lý,
tâm lý, xã hội các em đang từng bước gia nhập vào xã hội thế giới của mọi mối quan
hệ. Do đó, HSTH chưa đủ ý thức, chưa đủ phẩm chất và năng lực của một công dân
trong xã hội, mà các em luôn cần sự bảo trợ, giúp đỡ của người lớn, của gia đình, nhà
trường và xã hội. HSTH dễ thích nghi và tiếp nhận cái mới và luôn hướng tới tương
lai. Nhưng cũng thiếu sự tập trung cao đổi, khả năng ghi nhớ và chú ý có chủ định
chưa được phát triển mạnh, tính hiếu động, dễ xúc động còn bộc lộ rõ nét. Trẻ nhớ rất
nhanh và quên cũng nhanh.
Đối với trẻ em ở lứa tuổi tiểu học thì tri giác của HSTH phản ánh những thuộc
tính trực quan, cụ thể của sự vật, hiện tượng và xảy ra khi chúng trực tiếp tác động lên
giác quan. Tri giác giúp cho trẻ định hướng nhanh chóng và chính xác hơn trong thế
giới. Tri giác còn giúp cho trẻ điều chỉnh hoạt động một cách hợp lý. Trong sự phát
triển tri giác của HS, GVTH có vai trò rất lớn trong việc chỉ dạy cách nhìn, hình thành
kỹ năng nhìn cho HS, hướng dẫn các em biết xem xét, biết lắng nghe. Bên cạnh sự
phát triển của tri giác, chú ý có chủ định của HSTH còn yếu, khả năng điều chỉnh chú

18



×