Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.5 MB, 77 trang )

ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH TRÀ VINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH

PHAN THANH MỘNG QUYỀN

ISO 9001:2015

BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI THỨ BA
NGAY TÌNHPHAN
KHITHANH
GIAO DỊCH
SỰ VÔ HIỆU
MỘNG DÂN
QUYỀN
Ngành: LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
Mã ngành:
BẢO VỆ QUYỀN
LỢI8380103
NGƯỜI THỨ BA

NGAY TÌNH KHI GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT
DÂN
VÀhọc:
TỐ TS.
TỤNG
Người


hướng
dẫnSỰ
khoa
BÙIDÂN
KIM SỰ
HIẾU

TRÀ VINH, NĂM 2019
TRÀ VINH, NĂM 2019


ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH TRÀ VINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH

PHAN THANH MỘNG QUYỀN

BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI THỨ BA
NGAY TÌNH KHI GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU
Ngành: LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
Mã ngành: 8380103

LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ

Người hướng dẫn khoa học:
TS. Bùi Kim Hiếu

TRÀ VINH, NĂM 2019

i



LỜI CAM ĐOAN
Tôi: Phan Thanh Mộng Quyền, tôi xin cam đoan rằng Luận văn này là công
trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của TS. Bùi Kim Hiếu. Các kết quả
nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu,
ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác và trung thực.
Trà Vinh, ngày

tháng

năm 2019

Học viên

Phan Thanh Mộng Quyền

i


LỜI CẢM ƠN
Thực tại luôn cho ta thấy sự thành công nào cũng cần gắn liền với sự giúp đỡ từ
những người xung quanh.
Trong suốt khoảng thời gian làm luận văn em đã được Thầy TS. Bùi Kim Hiếu
hướng dẫn tận tâm về đề tài nghiên cứu. Nhờ có sự chỉ bảo và thầy đã dùng những tri
thức của mình truyền đạt kiến thức cho em. Nên luận văn của em đã hoàn chỉnh kịp
tiến độ, em xin cảm ơn chân thành đến Thầy.
Do em đang là sinh viên chưa đi làm nên chưa có thực tiễn nhiều. Nên không
tránh khỏi những thiếu sót, em mong nhận được ý kiến của Thầy/Cô để được hoàn
thiện hơn.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn!


ii


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................................ i
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................................. ii
MỤC LỤC ......................................................................................................................iii
TÓM TẮT ..................................................................................................................... vii
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1

1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI .................................................................... 1
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU.............................................................................. 2
2.1. Mục tiêu chung của luận văn ......................................................................... 2
2.2. Mục tiêu cụ thể của luận văn ......................................................................... 2
3. TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI ........... 3
4. PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .................... 4
5. PHẠM VI GIỚI HẠN ĐỀ TÀI ......................................................................... 5
5.1. Phạm vi nội dung ........................................................................................... 5
5.2. Phạm vi thời gian ........................................................................................... 5
5.3. Phạm vi không gian ........................................................................................ 6
6. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ ĐỐI TƯỢNG KHẢO SÁT ....................... 6
6.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài .................................................................... 6
6.2. Đối tượng khảo sát đề tài ............................................................................... 6
7. KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI .................................................................................. 6
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI THỨ BA NGAY TÌNH VÀ BẢO VỆ
QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI THỨ BA NGAY TÌNH KHI GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ
HIỆU ............................................................................................................................... 7

1.1. NGƯỜI THỨ BA NGAY TÌNH TRONG PHÁP LUẬT DÂN SỰ ............. 7

1.2. CƠ SỞ CỦA VIỆC BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI THỨ BA NGAY TÌNH 12
1.2.1. Cơ sở của việc bảo vệ người thứ ba ngay tình đối với những trường hợp
tài sản đã được đăng ký tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền........................... 12
1.2.2. Cơ sở để bảo vệ người thứ ba ngay tình đối với trường hợp tài sản chưa đăng ký,
chưa cấp giấy chứng nhận ............................................................................................. 13

iii


1.3. KHÁI LƯỢC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM VỀ
BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI THỨ BA NGAY TÌNH KHI GIAO
DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU .................................................................................. 15
1.3.1. Quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 về bảo vệ quyền lợi của người thứ
ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu........................................................... 15
1.3.2. Bảo vệ quyền lợi người thứ ba ngay tình trong giao dịch dân sự theo Bộ
luật Dân sự năm 2015.......................................................................................... 21
1.4. PHÁP LUẬT CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA QUY ĐỊNH VỀ VIỆC BẢO VỆ
QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI THỨ BA NGAY TÌNH KHI GIAO DỊCH DÂN
SỰ VÔ HIỆU ...................................................................................................... 25
1.4.1. Pháp luật dân sự của Pháp về việc bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay
tình khi giao dịch dân sự vô hiệu ........................................................................ 25
1.4.2. Pháp luật dân sự của Đức về việc bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay
tình khi giao dịch dân sự vô hiệu ........................................................................ 27
1.4.3. Pháp luật dân sự của Nhật Bản về việc bảo vệ quyền lợi của người thứ ba
ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu ............................................................... 28
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI THỨ BA NGAY TÌNH KHI
GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU ................................................................................... 30

2.1. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI

THỨ BA NGAY TÌNH KHI GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU ...................... 30
2.1.1. Pháp luật hiện hành về bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi
giao dịch dân sự vô hiệu...................................................................................... 30
2.1.1.1. Quy định của pháp luật về điều kiện để quyền lợi của người thứ ba ngay
tình được bảo vệ .................................................................................................. 30
2.1.1.2. Quy định của pháp luật về sự xung đột lợi ích giữa chủ sở hữu của tài
sản với người thứ ba ngay tình .......................................................................... 32
2.1.2.2. Thực tiễn bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân
sự vô hiệu và việc áp dụng điều khoản chuyển tiếp (Điều 688 BLDS năm 2015)
............................................................................................................................. 42
iv


2.1.2.3. Thực tiễn bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình trong thi hành án
dân sự .................................................................................................................. 45
2.2.1. Hoàn thiện quy định của pháp luật về thuật ngữ trong Khoản 2 Điều 133
Bộ luật dân sự năm 2015 ..................................................................................... 54
2.2.2. Hoàn thiện quy định của pháp luật tại Khoản 3 Điều 133 Bộ luật dân sự
năm 2015 ............................................................................................................. 56
2.2.3. Hoàn thiện quy định của pháp luật về việc sử dụng thuật ngữ trong Điều
133 và Điều 167 của Bộ luật dân sự năm 2015 .................................................. 58
2.2.4. Hoàn thiện quy định của pháp luật về các trường hợp người thứ ba ngay
tình khi tham gia giao dịch dân sự được bảo vệ theo quy định tại Điều 133 Bộ
luật dân sự 2015 .................................................................................................. 59
2.2.5. Hoàn thiện quy định của pháp luật về dấu hiệu để xác định người thứ ba
ngay tình .............................................................................................................. 61
2.2.6. Hoàn thiện quy định của pháp luật thi hành án về bảo bảo vệ người thứ ba
ngay tình .............................................................................................................. 62
KẾT LUẬN CHUNG .................................................................................................... 65


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................. 1

v


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLDS

: Bộ Luật Dân sự

GDDS

: Giao dịch dân sự

QSDĐ

: Quyền sử dụng đất

TANDTC

: Tòa án nhân dân tối cao

TPP

: Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương

UBND

: Uỷ ban nhân dân


WTO

: Tổ chức thương mại thế giới

vi


TÓM TẮT
Đề tài “Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô
hiệu” được thực hiện gồm ba phần: Phần mở đầu, Phần nội dung và Phần kết luận. Ở
phần nội dung, luận văn cấu trúc gồm hai chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về người thứ ba ngay tình và bảo vệ quyền lợi của
người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu
Chương 2: Thực trạng pháp luật hiện hành và một số kiến nghị hoàn thiện pháp
luật về bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu
Nội dung chương 1: Trong chương này, tác giả tập trung phân tích cơ sở lý
luận, làm rõ khái niệm người thứ ba ngay tình, bảo vệ quyền lợi người thứ ba ngay
tình khi GDDS vô hiệu. Qua đó, khái niệm sơ lược các quy định của pháp luật Việt
Nam về bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi GDDS vô hiệu trong các
BLDS năm 1995, BLDS năm 2005 và BLDS năm 2015.
Nội dung chương 2: Trong chương này, tác giả nêu những thực trạng pháp luật
hiện hành về bảo vệ quyền lợi người thứ ba ngay tình khi GDDS vô hiệu. Qua đó tìm
hiểu thực tiễn giải quyết tranh chấp liên quan đến người thứ ba ngay tình khi GDDS
vô hiệu, một số trường hợp bảo vệ quyền lợi của người thứ ba tham gia giao dịch
nhưng không được coi là ngay tình, từ đó tìm ra những vướng mắc, bất cập, đồng thời
kiến nghị những giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề này là điều hết
sức cần thiết. Đồng thời đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền
lợi người thứ ba ngay tình khi GDDS vô hiệu.


vii


PHẦN MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Ngày nay cùng với sự phát triển kinh tế thế giới với xu hướng hòa bình, hợp tác
và phát triển, toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế. Việt Nam sau khi gia nhập các Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO) đã có những sự khởi sắc đáng kể, song vẫn còn tồn tại
những yếu kém cần phải đổi mới cho phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa. Tương ứng với nền kinh tế thị trường hiện nay là sự xuất hiện của
các GDDS, kinh tế, thương mại,… dần được xác lập để đáp ứng các nhu cầu giao lưu
hàng hóa - tiền tệ, chuyển giao công nghệ…Chính vì những lẽ đó mà đòi hỏi phải có
một hành lang pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích của các bên khi tham gia giao dịch.
Đứng trước nhu cầu đó BLDS đã ra đời chứa đựng chế định GDDS với những
quy định cụ thể, chi tiết các vấn đề liên quan đến việc xác lập, thực hiện các GDDS
nhằm đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của các bên tham gia giao dịch. Bởi khi xác lập
GDDS thì chủ thể đều muốn hợp đồng đảm bảo được tính pháp lý của hợp đồng để dễ
dàng thực hiện, để đảm bảo mang lại lợi nhuận cũng như tăng cường hợp tác, phát
triển các mối quan hệ đối tác. Tuy nhiên, vì nhiều lí do khách quan cũng như chủ quan
mà GDDS giao kết có thể bị tuyên là vô hiệu.
GDDS là một trong những căn cứ quan trọng và phổ biến nhất làm phát sinh
quan hệ pháp luật dân sự. GDDS cũng là cơ sở để các bên tự do thỏa thuận, giao kết và
xác lập quyền và nghĩa vụ dân sự với nhau. Khi xã hội càng phát triển, vai trò của
GDDS càng được khẳng định. Không phải GDDS nào cũng đương nhiên có hiệu lực,
pháp luật quy định những điều kiện mà một GDDS phải tuân thủ thì mới không bị vô
hiệu. Khi không đáp ứng đủ các điều kiện có hiệu lực theo quy định của pháp luật,
GDDS sẽ vô hiệu và hệ quả tất yếu là các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn
trả cho nhau những gì đã nhận. Tuy nhiên có những trường hợp tài sản đã được đem ra
thực hiện một giao dịch khác với người thứ ba. Vấn đề đặt ra là quyền lợi của người
thứ ba ngay tình khi tham gia giao dịch sẽ được bảo vệ như thế nào, giao dịch ban đầu

vô hiệu thì giao dịch tiếp theo có vô hiệu hay không, người thứ ba ngay tình có được
giữ lại tài hay phải trả lại cho chủ sở hữu ban đầu, khi quyền lợi của người thứ ba được
ưu tiên bảo vệ thì quyền lợi của chủ sở hữu ban đầu được đảm bảo như thế nào?
Trong thực tiễn, với nhu cầu xác lập các GDDS trong cuộc sống hàng ngày tăng
cao thì vấn đề GDDS vô hiệu vẫn còn phát sinh, bởi GDDS mang tính ý chí của các
1


chủ thể tham gia với những mục đích là tìm kiếm và trao đổi lợi ích với nhau. Đôi khi
các chủ thể xác lập GDDS, họ vẫn thực hiện đầy đủ tất cả các nghĩa vụ theo quy định
của pháp luật nhưng bản thân họ lại không giao dịch mà mình thiết lập là vô hiệu. Do
đó, việc nắm rõ vấn đề về GDDS vô hiệu có ý nghĩa rất quan trọng trong các GDDS,
bên cạnh đó việc bảo vệ quyền và lợi ích của người thứ ba ngay tình khi GDDS vô
hiệu cũng là vấn đề cần sự quan tâm của các nhà làm luật. Song việc bảo vệ quyền lợi
người thứ ba ngay tình khi GDDS vô hiệu đã gặp không ít khó khăn, phức tạp. Chính
vì thế, việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền lợi người thứ ba ngay tình khi GDDS
vô hiệu là cần thiết.
Xuất phát từ những lý do trên mà tác giả mạnh dạn chọn đề tài: “Bảo vệ quyền
lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu” để làm luận văn Thạc
sĩ cho mình.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu chung của luận văn
Xuất phát từ thực tế hiện nay có quá nhiều GDDS vô hiệu nhưng không phải
do lỗi của người ba mà hậu quả của nó để lại cho xã hội là quá lớn. Nên mục đích mà
tôi nghiên cứu đề tài này là nhằm chỉ rõ những quy định hiện hành, cũng như
những quy định từ BLDS năm 2015 đến nay liên quan đến bảo vệ quyền lợi của
người thứ ba ngay tình khi GDDS vô hiệu...Từ đó tìm ra những bất cập, hạn chế
trong công tác xét xử, cũng như một số bất cập từ thực tiễn xác lập hoặc thực hiện
những giao dịch liên quan đến bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi
GDDS vô hiệu. Thông qua việc tìm hiểu thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật,

tác giả đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về bảo vệ
quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi GDDS vô hiệu.
2.2. Mục tiêu cụ thể của luận văn
Để đạt được mục tiêu chung đã nêu trên, các mục tiêu cụ thể của luận văn được
xác định cụ thể như sau:
- Phân tích, bình luận các quy định của pháp luật hiện hành về bảo vệ quyền lợi
của người thứ ba ngay tình khi GDDS vô hiệu.
- Làm rõ khái niệm người thứ ba ngay tình và việc bảo vệ quyền lợi của người
thứ ba ngay tình khi GDDS vô hiệu.

2


- Đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về bảo vệ
quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi GDDS vô hiệu.
3. TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Liên quan đến vấn đề bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi GDDS
vô hiệu tính đến thời điểm hiện nay có một số bài viết, công trình nghiên cứu khoa học
về vấn đề này ở các cấp độ khác nhau, những công trình đó có thể kể ra:
- Huỳnh Thanh Tình (2013), Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi
giao dịch dân sự vô hiệu trong pháp luật Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học,
Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh. Trong luận văn tác giả đề cập đến
những vấn đề cơ bản và những vướng mắc, bất cập trong quá trình áp dụng pháp luật
về bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi GDDS vô hiệu.
- Nguyễn Vũ Hường (2016), Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi
giao dịch dân sự vô hiệu, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
Trong Luận văn tác giả Nguyễn Vũ Hường tập trung nghiên cứu những quy định pháp
luật, thực tiễn giải quyết tranh chấp liên quan đến người thứ ba ngay tình, đồng thời
đưa ra hướng hoàn thiện quy định của pháp luật để bảo vệ quyền lợi người thứ ba ngay
tình khí GDDS vô hiệu.

Ngoài những luận văn chuyên ngành thì nội dung bảo vệ quyền lợi của người
thứ ba ngay tình khi GDDS vô hiệu còn được nhiều tác giả đề cập đến trong những bài
viết công bố trên các tạp chí khoa học. Có thể kể đến một số bài viết như:
- Huỳnh Xuân Tình (2012), “Trao đổi về bài “Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của người thứ ba ngay tình theo Điều 258 Bộ luật Dân sự - hiểu thế nào cho đúng”,
Tạp chí Toà án nhân dân, số 23.
- Lưu Thị Thu Hiền (2012), “Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ
ba ngay tình theo Điều 258 Bộ luật Dân sự - hiểu thế nào cho đúng”, Tạp chí Toà án
nhân dân, số 12.
- Nguyễn Thị Minh Phượng (2013), “Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay
tình khi hợp đồng mua bán nhà ở vô hiệu theo quy định tại Điều 138 BLDS năm
2005”, Tạp chí Toà án nhân dân, số 21.
- Võ Hải Phương (2014), “Cơ chế bảo vệ quyền sở hữu đối với người thứ ba
ngay tình trong mua bán đấu giá tài sản”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 12.

3


- Ngô Thị Mỹ Dung (2017), “Điều kiện để bảo vệ người thứ ba ngay tình”, Tạp
chí Kiểm sát.
- Nguyễn Thị Quỳnh Yến - Ngô Quốc Chiến (2017), “Người thứ ba trong Bộ
luật Dân sự 2015”, Tạp chí Kinh tế Đối ngoại, số 86.
Ngoài ra còn có một số bài viết liên quan bảo vệ quyền lợi người thứ ba ngay
tình trong Hội thảo Khoa học như:
Bài viết: “Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi chủ sở hữu kiện đòi
lại tài sản” của tác giả Vũ Thị Hồng Yến trong Hội thảo khoa học “Các biện pháp
bảo vệ quyền sở hữu trong pháp luật dân sự Việt Nam”, Khoa Luật Dân sự, Trường
Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội ngày 11/12/2007.
Các công trình khoa học trên đã có một số kết quả đáng lưu ý về những vấn đề
lý luận và thực tiễn về bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi GDDS vô hiệu,

tuy nhiên ở mức độ tổng thể chưa được toàn diện. Do đó, tác giả tiếp tục nghiên cứu
đề tài “Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu”
để đi sâu làm rõ những quy định của pháp luật hiện hành trên cơ sở so sánh với pháp
luật Dân sự từ năm 1995 đến nay, pháp luật một số nước trên thế giới, qua đó đánh giá
thực trạng pháp luật hiện hành và đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật
về bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi GDDS vô hiệu.
4. PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Vận dụng phương pháp luận khoa học duy vật lịch sử và duy vật biện chứng
của chủ nghĩa Mác - Lênin, phép biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lê nin, quan điểm
tư tưởng Hồ Chí Minh để làm rõ những vẫn đề đã được giải quyết, những bất cập tồn
tại và đưa ra giải pháp hoàn thiện.
Việc phân tích các khía cạnh pháp lý liên quan đến bảo vệ quyền lợi người thứ
ba ngay tình khi GDDS vô hiệu là một nghiên cứu mới, khá phức tạp, vừa mang tính
pháp lý, vừa mang tính kinh tế, hơn nữa, việc thu thập thông tin gặp nhiều khó khăn,
do vậy việc phân tích số liệu thực tế chủ yếu dựa trên các tài liệu cụ thể được thu thập
ở trong về lĩnh vực này. Chính vì vậy luận văn sử dụng phương pháp tiếp cận hệ
thống, đa ngành và liên ngành khoa học xã hội nhân văn như lịch sử, kinh tế, luật học
nhằm làm rõ bản chất kinh tế, xã hội và pháp lý về pháp luật của bảo vệ quyền lợi
người thứ ba ngay tình khi GDDS vô hiệu, đánh giá mức độ phù hợp, nhất là tính khả
thi của các quy định này.
4


Trong quá trình nghiên cứu tác giả sử dụng các phương pháp cụ thể như sau:
- Phương pháp nghiên cứu tổng hợp, hệ thống hóa, phân tích nhằm làm rõ cơ sở
lý luận cũng như cơ sở thực tiễn của pháp luật về bảo vệ quyền lợi người thứ ba ngay
tình khi GDDS vô hiệu, đánh giá các công trình nghiên cứu khoa học về những vấn đề
liên quan đến luận văn, các số liệu tổng hợp và sự kiện thực tế, phương pháp này được
sử dụng trong luận văn nhưng trọng tâm là chương 1, chương 2.
- Phương pháp so sánh luật học, khảo sát thực tiễn được sử dụng xuyên suốt luận

văn nhằm đối chiếu quy định pháp luật qua các thời kỳ, với pháp luật các quốc gia để
tìm ra những điểm hợp lý trong các quy định pháp luật về bảo vệ quyền lợi người thứ ba
ngay tình khi GDDS vô hiệu để thấy được những điểm phù hợp, hạn chế trong các quy
định pháp luật, từ đó đưa ra một số kiến nghị góp phần hoàn thiện quy định pháp luật về
bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi GDDS vô hiệu.
- Phương pháp phân tích – dự báo, phương pháp phân tích, tổng hợp, thống
kê… được sử dụng trong chương 2 để dự báo xu hướng phát triển của kinh tế xã hội,
từ đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền lợi người thứ ba ngay
tình khi GDDS vô hiệu.
5. PHẠM VI GIỚI HẠN ĐỀ TÀI
5.1. Phạm vi nội dung
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề sau:
- Khái niệm người thứ ba ngay tình và việc bảo vệ quyền lợi của người thứ ba
ngay tình khi GDDS vô hiệu.
- Quy định của pháp luật hiện hành về bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay
tình khi GDDS vô hiệu.
- Thực tiễn giải quyết tranh chấp liên quan đến người thứ ba ngay tình và hướng
hoàn thiện quy định của pháp luật về bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi
GDDS vô hiệu.
5.2. Phạm vi thời gian
Nghiên cứu trong đề tài từ năm 2016 đến năm nay. Tập trung nghiên cứu các
văn bản pháp luật từ khi Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực về bảo vệ quyền lợi của
người thứ ba ngay tình khi GDDS vô hiệu, qua đó so sánh với các văn bản quy phạm
pháp luật trước đó để tìm ra điểm mới.

5


5.3. Phạm vi không gian
Thực trạng bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi GDDS vô hiệu ở

Việt Nam theo pháp luật dân sự Việt Nam và thực tiễn giải quyết các tranh chấp về
bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi GDDS vô hiệu ở Việt Nam. Đồng
thời, đánh giá thực trạng hệ thống pháp luật, cũng như hiệu quả áp dụng trên thực tế
thông qua việc phân tích các số liệu và một số vụ việc tranh chấp xảy ra tại Việt Nam.
6. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ ĐỐI TƯỢNG KHẢO SÁT
6.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Luận văn tập trung lãm rõ các quy định của pháp luật dân sự về bảo vệ quyền
lợi của người thứ ba ngay tình khi GDDS vô hiệu. Thực tiễn thực hiện pháp luật về
bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi GDDS vô hiệu hiện nay. Từ đó đánh
giá thực trạng pháp luật và đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật hiện
hành.
6.2. Đối tượng khảo sát đề tài
Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi GDDS vô hiệu trong phạm vi
cả nước.
7. KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung
luận văn gồm hai chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về người thứ ba ngay tình và bảo vệ quyền lợi của
người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu
Chương 2: Thực trạng pháp luật hiện hành và một số kiến nghị hoàn thiện pháp
luật về bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu

6


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI THỨ BA NGAY TÌNH
VÀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI THỨ BA NGAY TÌNH
KHI GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU
1.1. NGƯỜI THỨ BA NGAY TÌNH TRONG PHÁP LUẬT DÂN SỰ
GDDS là một phương tiện giao lưu dân sự trên cơ sở pháp luật về việc chuyển

giao tài sản, dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu cuộc sống. Tuy nhiên trên thực tế cho thấy
có không ít trường hợp GDDS bị tuyên là vô hiệu vì nhiều lý do như: một bên giao kết
hợp đồng trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ của mình hoặc trường hợp một bên vi
phạm những thỏa thuận trong hợp đồng đã giao kết,… Sau đó chủ thể trong giao dịch
vô hiệu này lại giao dịch tài sản này với người thứ ba.
Khái niệm người thứ ba trong GDDS theo thuật ngữ pháp lý thì: “Trong quan
hệ dân sự, ngoài các chủ thể hoặc người đại diện, người được uỷ quyền tham gia giao
dịch, một số trường hợp có người khác có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Đó là
người thứ ba trong quan hệ dân sự”1.
Trong BLDS năm 2015 thuật ngữ “người thứ ba” được khái niệm một cách khái
quát chung chung, trong những điều luật quy định khác nhau. Có thể tìm thấy những
quy định liên quan đến “người thứ ba” trong các quy định như: người thứ ba có quyền
bị người có nghĩa vụ trốn tránh thực hiện nghĩa vụ đối với mình (Điều 124 BLDS năm
2015), người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu (Điều 133 BLDS năm
2015), người thứ ba trong các giao dịch bảo đảm (Điều 292 BLDS năm 2015) và
người thứ ba là những người không ký kết hợp đồng nhưng lại được hưởng lợi từ hợp
đồng ( từ Điều 415 đến Điều 417 BLDS năm 2015).
Trong quá trình thực hiện GDDS thì các chủ thể tham gia giao dịch đều mong
muốn đạt được các mục đích khi xác lập giao dịch. Tuy nhiên, trong quá trình thực
hiện GDDS đúng quy định của pháp luật nhưng “người thứ ba” không biết được rằng
mình tham gia giao dịch với người không có quyền định đoạt tài sản đó, người đó là
“người thứ ba ngay tình”.
Về khái niệm “người thứ ba ngay tình” được làm rõ như sau:
Theo từ điển Luật học thì khái niệm ngay tình là “sòng phẳng, thật thà, tình
thế rõ ràng”2. Theo pháp luật dân sự lại không có một khái niệm cụ thể nào về “người

1
2

Nguyễn Mạnh Hùng (2011), Thuật ngữ pháp lý, NXB Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội, tr.313.

Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, NXB Từ điển Bách khoa - Tư pháp, Hà Nội, tr.550.

7


thứ ba ngay tình”, để hiểu rõ khái niệm “người thứ ba ngay tình” có thể tham khảo
một số quan điểm của các nhà nghiên cứu như sau:
Theo tác giả Huỳnh Thanh Tình, cho rằng:
Bản chất của pháp luật khi ban hành ra quy định này là nhằm bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của bên ngay tình khi tham gia giao dịch dân sự. Chính vì thế, chúng
ta nên hiểu thuật ngữ “người” trong khái niệm “người thứ ba ngay tình” theo nghĩa
rộng, tức là nó bao hàm cả cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác3.
Theo tác giả Nguyễn Thị Quỳnh Yến - Ngô Quốc Chiến hiểu một cách chung
nhất:
Người thứ ba ngay tình là người chiếm hữu tài sản nhưng không biết hoặc
không thể biết rằng việc chiếm hữu tài sản của mình là không có căn cứ pháp luật. Họ
không biết rằng họ đang thực hiện giao dịch với một người không có quyền định đoạt
đối với tài sản đang được giao dịch4.
Theo Từ điển Luật học thì người thứ ba ngay tình là: người chuyển giao tài sản
thông qua giao dịch dân sự mà họ không biết, không buộc phải biết là tài sản đó do
người chuyển giao cho họ thu được từ một giao dịch vô hiệu.
Từ những quan điểm nêu trên, có thể định nghĩa: người thứ ba ngay tình trong
GDDS được hiểu là người chiếm hữu không có căn cứ pháp lý đối với tài sản nhưng
không biết và không thể biết việc chiếm hữu tài sản đó là không có căn cứ pháp luật.
Việc xây dựng hành lang pháp lý về bảo vệ quyền lợi người thứ ba ngay tình
khi tham gia các GDDS vô hiệu là thật sự cần thiết, bởi khi xảy ra tranh chấp “người
thứ ba ngay tình” là người dễ bị thiệt thòi. Do vậy, pháp luật dân sự đã đưa ra biện
pháp để bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi GDDS vô hiệu thì điều kiện
cần thiết là GDDS vô hiệu nhưng không phải do lỗi của người thứ ba.
Theo Từ điển giải thích thuật ngữ luật học thì người thứ ba ngay tình khi tham

gia giao dịch vô hiệu được hiểu là “người được chuyển giao tài sản thông qua GDDS
mà họ không biết, không buộc phải biết là tài sản đó do người chuyển giao cho họ thu
được từ một giao dịch vô hiệu”.
Xét về mặt khách quan về ý chí chung của giao dịch thì người thứ ba ngay tình
tham gia GDDS không có sự cưỡng ép, hoàn toàn tự nguyện và tuân theo các quy định
3

Huỳnh Thanh Tình (2013), Bảo vệ quyền lợi người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu trong pháp
luật Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr.11.
4
Nguyễn Thị Quỳnh Yến - Ngô Quốc Chiến (2017), “Người thứ ba trong Bộ luật Dân sự 2015”, Tạp chí Kinh tế
Đối ngoại, số 86, tr.43.

8


của pháp luật. Nếu giao dịch mà đối tượng giao dịch là tài sản bất minh, không rõ
nguồn gốc do chủ sở hữu xác lập trước đó bởi một giao dịch vô hiệu thì có thể xác
định người thứ ba tham gia giao dịch là hoàn toàn ngay tình. Chính bởi sự không biết,
không buộc phải biết ở đây có thể do nhiều nguyên nhân khách quan do người thứ ba
tham gia giao dịch không có đủ cơ sở để nhận biết đây là tài sản giao dịch có nguồn
gốc từ một giao dịch vô hiệu.
Ví dụ: A và B thỏa thuận ký hợp đồng về việc mua, bán căn nhà có diện tích
280 m2 nhưng do A chuẩn bị đi nước ngoài nên không có làm hợp đồng công chứng
tại cơ quan có thẩm quyền mà chỉ nhờ C làm chứng cho việc mua bán. Sau một thời
gian sử dụng do B gặp khó khăn trong việc kinh doanh nên đã căn nhà lại cho D, hai
bên cùng tiến hành các thủ tục mua bán. Hiện tại D là chủ sở hữu hợp pháp của căn
nhà. Tuy nhiên, giao dịch giữa A và B khi xác lập đã bị vô hiệu do vi phạm điều kiện
về hình thức. Có thể thấy rằng D tham gia mua bán căn nhà là đối tượng của một giao
dịch bị vô hiệu giữa A và B. Bên cạnh đó, D có được căn nhà thông qua một giao dịch

dân sự tuân theo đúng quy định của pháp luật nhưng lại không đạt được lợi ích mà D
mong muốn. Như vậy, theo pháp luật dân sự gọi D là người thứ ba ngay tình.
Trong BLDS hiện hành không đưa ra định nghĩa về “người thứ ba ngay tình”
mà chỉ có định nghĩa “chiếm hữu ngay tình”, theo đó tại Điều 180 BLDS năm 2015
định nghĩa: chiếm hữu ngay tình là “việc chiếm hữu mà người chiếm hữu có căn cứ để
tin rằng mình có quyền đối với tài sản đang chiếm hữu”. Theo quy định thì chiếm hữu
ngay tình là những trường hợp chiếm hữu là có cơ sở để tin vào người chuyển giao tài
sản cho mình là chủ sở hữu do những hành vi giả tạo như: làm giả giấy ủy quyền, giấy
chứng nhận để lừa dối người mua.
Từ những phân tích trên, có thể định nghĩa: người thứ ba ngay tình là người
người chiếm hữu tài sản nhưng không biết hoặc không thể biết rằng việc chiếm hữu tài
sản của mình là không có căn cứ pháp luật. Họ không biết rằng họ đang thực hiện
giao dịch với một người không có quyền định đoạt đối với tài sản đang được giao
dịch.
1.2. KHÁI NIỆM BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI THỨ BA NGAY
TÌNH KHI GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU

9


Theo cách hiểu thông thường, “Bảo vệ là chống lại mọi sự xâm phạm để giữ
cho luôn luôn được nguyên vẹn”5. Bảo vệ quyền lợi là nhằm tạo hành lang pháp lý để
chống lại những tác động đến đối tượng cần bảo vệ làm ảnh hưởng đến quyền và lợi
ích hợp pháp của họ. Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình là không phải bảo
vệ tất cả những lợi ích của người thứ ba mà pháp luật chỉ bảo vệ những quyền và lợi
ích chính đáng của người thứ ba ngay tình trong giao dịch với người xác lập giao dịch
và chủ sở sở hữu (ban đầu) của tài sản khi có một GDDS vô hiệu.
Khi một giao dịch tuyên là vô hiệu thì các chủ thể tham gia giao dịch sẽ thực
hiện nghĩa vụ hoàn trả những gì đã nhận về cho nhau, giao dịch sẽ quay về tình trạng
ban đầu. Tuy nhiên, đối với những trường hợp GDDS vô hiệu cho người thứ ba ngay

tình thì để đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho người thứ ba ngay tình khi tham gia
GDDS vô hiệu, pháp luật Dân sự đã quy định cụ thể:
Điều 133 BLDS năm 2015, quy định:
1. Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng đối tượng của giao dịch là tài
sản không phải đăng ký đã được chuyển giao cho người thứ ba ngay tình thì giao dịch
được xác lập, thực hiện với người thứ ba vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp quy định tại
Điều 167 của Bộ luật này.
2. Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ
quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch dân sự
khác cho người thứ ba ngay tình và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập,
thực hiện giao dịch thì giao dịch đó không bị vô hiệu.
Trường hợp tài sản phải đăng ký mà chưa được đăng ký tại cơ quan nhà nước
có thẩm quyền thì GDDS với người thứ ba bị vô hiệu, trừ trường hợp người thứ ba
ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán tạo nguồn thu nhập
cho gia đình, có chịu sự chi phối của điều luật trên? Luật Hôn nhân và gia đình năm
2014 không có điều khoản nào trả lời cho câu hỏi trên. Tác giả cho rằng: Giao dịch
nhằm đáp ứng “trực tiếp” và “gián tiếp” nhu cầu thiết yếu của gia đình, đều phát sinh
trách nhiệm liên đới giữa vợ và chồng. Bởi lẽ, để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia

25
26

Điều 27, Điều 30 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
Khoản 20 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

50


đình, có nhiều cách khác nhau và thực tế trong nhiều trường hợp cần phải có nhiều
cách thức khác nhau mới có thể đáp ứng được, chứ không thể chỉ bằng cách thức “trực

tiếp”. Vì vậy, với cách hiểu và suy luận như vậy, sẽ đảm bảo đáp ứng kịp thời và lâu
dài các nhu cầu thiết yếu của gia đình, đảm bảo quyền lợi cho các thành viên trong gia
đình, cho người vợ, chồng trực tiếp tham gia giao dịch và cho chủ thể thứ ba trong
giao dịch đó.
- Khi vợ hoặc chồng thực hiện giao dịch với tư cách là người đại diện
Vợ, chồng có thể đại diện cho chồng, vợ họ để xác lập, thực hiện giao dịch liên
quan đến tài sản chung, họ có thể thực hiện điều này với tư cách là người đại diện theo
ủy quyền hoặc đại diện theo pháp luật. Điều 24, 25, 27, 32, 36 Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2014 quy định khá rõ về vấn đề này:
+ Vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch do một bên thực hiện
quy định tại khoản 1 Điều 30 hoặc giao dịch khác phù hợp với quy định về đại diện tại
các điều 24, 25 và 26 của Luật này.
+ Vợ, chồng có thể ủy quyền cho nhau xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch
mà theo quy định của Luật này, Bộ luật Dân sự và các luật khác có liên quan phải có
sự đồng ý của cả hai vợ chồng.
+ Vợ, chồng đại diện cho nhau khi một bên mất năng lực hành vi dân sự mà bên
kia có đủ điều kiện làm người giám hộ hoặc khi một bên bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự mà bên kia được Tòa án chỉ định làm người đại diện theo pháp luật cho người
đó, trừ trường hợp theo quy định của pháp luật thì người đó phải tự mình thực hiện
quyền, nghĩa vụ có liên quan.
Trong trường hợp vợ, chồng kinh doanh chung thì vợ, chồng trực tiếp tham gia
quan hệ kinh doanh là người đại diện hợp pháp của nhau trong quan hệ kinh doanh đó,
trừ trường hợp trước khi tham gia quan hệ kinh doanh, vợ chồng có thỏa thuận khác
hoặc Luật này và các luật liên quan có quy định khác.
Trong giao dịch với người thứ ba ngay tình, thì vợ, chồng đang chiếm hữu động
sản mà theo quy định của pháp luật không phải đăng ký quyền sở hữu được coi là
người có quyền xác lập, thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản đó trong trường hợp
Bộ luật Dân sự có quy định về việc bảo vệ người thứ ba ngay tình. Trong giao dịch với
người thứ ba ngay tình liên quan đến tài khoản ngân hàng, tài khoản chứng khoán và


51


động sản khác mà theo quy định của pháp luật không phải đăng ký quyền sở hữu,
quyền sử dụng, cụ thể:
Thứ nhất, vợ, chồng là người đứng tên tài khoản ngân hàng, tài khoản chứng
khoán được coi là người có quyền xác lập, thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản
đó.
Thứ hai, vợ, chồng đang chiếm hữu động sản mà theo quy định của pháp luật
không phải đăng ký quyền sở hữu được coi là người có quyền xác lập, thực hiện giao
dịch liên quan đến tài sản đó trong trường hợp Bộ luật dân sự có quy định về việc bảo
vệ người thứ ba ngay tình.
Người thứ ba sẽ không được coi là ngay tình trong trường hợp: (i) Đã được vợ,
chồng cung cấp thông tin liên quan theo quy định về cung cấp thông tin về chế độ tài
sản của vợ chồng theo thỏa thuận trong giao dịch với người thứ ba; (ii) Vợ chồng đã
công khai thỏa thuận theo quy định của pháp luật có liên quan về việc chiếm hữu, sử
dụng, định đoạt tài sản và người thứ ba biết hoặc phải biết nhưng vẫn xác lập, thực
hiện giao dịch trái với thỏa thuận của vợ chồng.
Như vậy, theo các quy định nêu trên, các bên trong giao dịch sẽ không phải
“loay hoay” định lượng tài sản chung nào là “tài sản có giá trị lớn” để xác định tư cách
tham gia giao dịch của vợ chồng. Luật cũng đã minh bạch hóa một bước các giao dịch
liên quan đến việc định đoạt tài sản chung vợ chồng.
Theo đó, đối với các tài sản chung phải đăng ký quyền sở hữu ((i) Bất động sản;
(ii) Động sản mà theo quy định của pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu) hoặc tài sản
đang là nguồn tạo ra thu nhập chủ yếu của gia đình, việc định đoạt tài sản chung phải
có sựthỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng (nghĩa là trong giao dịch liên quan đến
việc định đoạt tài sản này như thế chấp bảo đảm nghĩa vụ vay tại tổ chức tín dụng phải
do cả hai vợ chồng xác lập, thực hiện, trừ trường hợp Luật có quy định khác). Đối với
tài sản là động sản không phải đăng ký quyền sở hữu, vợ, chồng đang chiếm hữu động
sản được coi là người có quyền xác lập, thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản đó

trong trường hợp Bộ luật dân sự có quy định về việc bảo vệ người thứ ba ngay tình.
Trong trường hợp vợ chồng có thỏa thuận về việc một bên đưa tài sản chung
vào kinh doanh, thì người này có quyền tự mình thực hiện giao dịch liên quan đến tài
sản chung đó. Thỏa thuận này phải lập thành văn bản.

52


Như vậy, có thể khẳng định, trong thời kỳ hôn nhân, vợ, chồng có quyền tự
định đoạt tài sản chung của vợ chồng. Chính vì vậy, khía cạnh pháp lý cần bàn ở đây
là giới hạn của việc định đoạt và hậu quả của việc định đoạt vượt quá giới hạn.
Ví dụ vụ án cụ thể: Do có mối quan hệ quen biết làm ăn với vợ chồng anh
Phạm Văn B và chị Nguyễn Thị L nên tháng 5/2016 chị Trần Thị H có cho vợ chồng
anh B chị L vay số tiền 3 tỷ đồng, lãi suất theo thỏa thuận, thời hạn vay 2 tháng, mục
đích vay tiền để kinh doanh và xây nhà. Trong giấy vay tiền ghi tên người vay là anh
B và chị L, tuy nhiên chỉ có chị L ký tên người vay. Đến thời hạn trả nợ không thấy vợ
chồng anh B chị L trả tiền nên chị H đã nhiều lần đến nhà và gọi điện cho vợ chồng
anh B và chị L để đòi tiền. Sau đó vợ chồng anh B chị L đã trả cho chị H nhiều lần với
tổng số tiền 900 triệu đồng. Trong đó anh B là người trực tiếp trả tiền cho chị H bằng
tiền mặt và qua chuyển khoản. Nay chị H khởi kiện buộc anh B và chị L phải trả cho
chị H số tiền 2,1 tỷ cộng với lãi suất theo quy định.
Anh B và chị L cho rằng việc vay tiền là do mình chị L đứng ra vay, anh hoàn
toàn không biết, số tiền vay chị L không sử dụng vào mục đích chung của gia đình mà
do chị L kinh doanh riêng. Việc anh B nhiều lần trả tiền cho chị H là do anh đứng ra
trả thay cho chị L vì là vợ chồng. Do đó anh B không nhất trí yêu cầu khởi kiện của
chị H buộc anh phải liên đới trả tiền cho chị H.
Quá trình thụ lý giải quyết vụ án, Tòa án đã xác định sau khi chị L vay tiền của
chị H thì anh B cũng biết và còn nhiều lần đứng ra trả nợ đồng thời còn nhắn tin khất
nợ với chị H, hơn nữa trong giấy vay tiền chi L ghi rõ mục đích vay để kinh doanh và
xây nhà. Thực tế số tiền chị L vay đã sử dụng để xây nhà, mua xe và chi tiêu vào sinh

hoạt chung nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình. Bản thân anh B là người trực
tiếp nhiều lần trả nợ cho chị H. Anh B cho rằng số tiền xây nhà, mua xe là do anh tích
góp nhưng anh B không chứng minh được. Chính vì vậy HĐXX đã tuyên buộc anh B
và chị L phải có nghĩa vụ liên đới trả cho chị H số tiền 2,1 tỷ cộng với lãi suất theo
quy định27.
Để có căn cứ xác định trách nhiệm liên đới của vợ chồng đối với giao dịch do
một bên thực hiện. Trong quá trình kiểm sát giải quyết vụ án, Kiểm sát viên phải
nghiên cứu kỹ và đánh giá đầy đủ các tài liệu chứng cứ, chứng minh số tiền vay được
sử dụng như thế nào? Thời gian vay tiền và thời gian sử dụng tiền vào mục đích chung
27

Hoàng Điệp (2015), Mua nhà xong, thi hành án ra quyết định ngăn chặn, (truy cập ngày 03/9/2019).

53


của gia đình? Trách nhiệm liên đới của vợ hoặc chồng đối với khoản tiền vay như thế
nào? Từ đó mới có căn cứ giải quyết vụ án một cách toàn diện đảm bảo đúng quy định
của pháp luật và bảo đảm được quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương

sự.Như vậy, quyền định đoạt của vợ, chồng đối với tài sản chung của vợ chồng bị
giới hạn bởi mục đích của giao dịch và giá trị, tầm quan trọng của khối tài sản chung.
Theo đó, (i) việc định đoạt phải nhằm đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của gia
28

đình ; (ii) định đoạt liên quan đến tài sản chung của vợ chồng là bất động sản; động
sản mà theo quy định của pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu và tài sản đang là
nguồn tạo ra thu nhập chủ yếu của gia đình phải có sự thoả thuận bằng văn bản của cả
hai vợ chồng29. Giao dịch liên quan đến những tài sản này thường ảnh hưởng lớn đến
khối tài sản chung của vợ chồng cũng như đời sống chung của gia đình, nên pháp luật

yêu cầu cần có sự bàn bạc, xem xét kỹ lưỡng từ cả hai vợ chồng. Sự bàn bạc, thỏa
thuận của vợ chồng trong trường hợp này phải được lập thành văn bản. Nếu một tài
sản chung khi tham gia giao dịch, pháp luật yêu cầu phải tuân theo hình thức nhất
định, chẳng hạn như phải công chứng, chứng thực, thì sự thoả thuận của vợ chồng
cũng phải tuân theo hình thức đó. Vì vậy, để xác định yêu cầu cụ thể về mặt hình thức
của một văn bản thoả thuận, cần dựa vào luật chung, là pháp luật dân sự để xác định.
2.2. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ
QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI THỨ BA NGAY TÌNH KHI GIAO DỊCH DÂN SỰ
VÔ HIỆU
2.2.1. Hoàn thiện quy định của pháp luật về thuật ngữ trong Khoản 2 Điều
133 Bộ luật dân sự năm 2015
Đối với quy định tại Khoản 2 Điều 133 có hai thuật ngữ cần được hiểu thống
nhất đó là thuật ngữ “đăng ký” trong cụm từ “tài sản đã được đăng ký tại…” và thuật
ngữ “chuyển giao” trong cụm từ “được chuyển giao bằng một GDDS…”.
Căn cứ vào nội dung quy định tại Khoản 2 Điều 133 BLDS năm 2015, tác giả
cho rằng, thuật ngữ “đăng ký” cần được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm những tài sản
theo quy định phải được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng (tức giấy
xác nhận người đứng tên trong giấy là chủ sở hữu). Ví dụ như giấy chứng quyền sở
hữu nhà, giấy chứng QSDĐ do UBND từ cấp huyện, cấp tỉnh là cơ quan có thẩm

28

Khoản 1, Điều 30 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
Khoản 2, Điều 35 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

29

54



quyền cấp, (việc phân quyền của UBND dựa trên tiêu chí chủ thể yêu cầu cấp giấy như
UBND cấp huyện có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà ở và tài sản khác trên đất cho cá nhân, cộng đồng dân cư…., UBND cấp tỉnh
có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận cho tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định
cư ở nước ngoài…, được quy định tại Điều 105 Luật đất đai năm 2013).
Thuật ngữ “đăng ký quyền sở hữu” được hiểu là việc kê khai và ghi nhận tình
trạng pháp lý về quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất
và quyền quản lý đất đối với một thửa đất vào hồ sơ địa chính30. Đã ký quyền sở hữu
bao gồm những tài sản theo quy định của pháp luật được cơ quan có thẩm quyền cấp
giấy đăng ký, loại giấy này không phải là giấy chứng nhận quyền sở hữu, nhưng cũng
có giá trị chứng minh (xét dưới góc độ pháp lý) người đứng tên trong giấy là chủ tài
sản, ví dụ như giấy đăng ký xe máy, giấy đăng ký xe ô tô, giấy đăng ký tàu, thuyền.
Còn thuật ngữ “đăng ký bất động sản” được một số nhà nguyên cứu khái niệm: Đăng
ký bất động sản là sự ghi nhận của Nhà nước về quyền của chủ sở hữu bất động sản 31.
Thuật ngữ “chuyển giao” được gắn trong cụm từ “được chuyển giao bằng một
GDDS”, cho nên không nên hiểu chuyển giao theo nghĩa là chuyển giao thực tế (có
tính vật lý) mà cần được hiểu đây là chuyển giao pháp lý với một nghĩa rộng bao gồm
tất cả các GDDS mà có đối tượng là tài sản và tài sản này được chuyển giao ngay khi
các bên thực hiện quyền, nghĩa vụ trong hợp đồng, như hợp đồng mua bán, chuyển
nhượng. Nhưng “chuyển giao” cũng bao gồm trường hợp tài sản chỉ phải chuyển giao
thực sự khi có vi phạm nghiêm trọng trong thực hiện nghĩa vụ, ví dụ trong giao dịch
bảo đảm.
Có thể nhận thấy, mục đích của quy định mới (Khoản 2 Điều 133 BLDS năm
2015) này là nhằm bảo vệ người thứ ba ngay tình, mà trong quan hệ bảo đảm cũng
được tương tự như người thứ ba ngay tình trong giao dịch mua bán, chuyển nhượng
nên không có lý do gì không được pháp luật bảo vệ, nếu chưa muốn nói nó là một loại
quan hệ cần đặc biệt quan tâm để các quan hệ tín dụng giảm rủi ro, góp phần lành
mạnh quan hệ kinh tế. Do đó, không nên hiểu và giải thích thuật ngữ “chuyển giao”
quyền sở hữu trong quan hệ mua bán, chuyển nhượng. Điều quan trọng là cơ quan giải


30

Khoản 15, Điều 3 Luật Đất đai năm 2013.
Nguyễn Thị Yến (2018), Một số đặc điểm cơ bản của đăng ký quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn
liền với đất, (truy cập ngày 29/6/2019).
31

55


quyết tranh chấp cần nhận thức đúng quy định Khoản 2 Điều 133 BLDS năm 2015 khi
áp dụng.
Tuy nhiên, trong thực tiễn còn có ý kiến khác nhau thì cơ quan có thẩm quyền
cần sớm có văn bản hướng dẫn hoặc ban hành án lệ tạo nhận thức, áp dụng thống nhất.
2.2.2. Hoàn thiện quy định của pháp luật tại Khoản 3 Điều 133 Bộ luật dân
sự năm 2015
Trong phần quy định về bảo vệ quyền ở hữu, Bộ luật đã dành cho chủ sở hữu
được sử dụng nhiều biện pháp tương ứng với hành vi xâm phạm của các chủ thể
khác để bảo vệ quyền sở hữu của mình và được thể hiện rõ tại các điều 164, 166,
167, 168, 169, 170. Một trong các biện pháp đó là khởi kiện ra Tòa án (Điều 164),
quyền đòi lại tài sản (các điều 166, 167, 168), quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại
(Điều 170). Tại Khoản 3 Điều 133 BLDS năm 2015 thể hiện tinh thần, nội dung
của quy định trên. Trong phần này, tác giả nghiên cứu, tìm hiểu điểm mới trong
quy định tại Khoản 3 Điều 133 BLDS năm 2015 là chủ thể có lỗi dẫn đến việc giao
dịch được xác lập với người thứ ba “phải hoàn trả những chi phí hợp lý”.
Với quy định trên, chúng ta thấy có hai thông điệp chính:
Một là, chủ thể có trách nhiệm bồi thường cho chủ sở hữu là chủ thể “có lỗi dẫn
đến GDDS được xác lập với người thứ ba” chứ không phải là các chủ thể khác như
chủ thể yêu cầu bán đấu giá, tổ chức bán đấu giá, chủ thể ban hành bản án, quyết
định,...Cụm từ “có lỗi dẫn đến giao dịch...” đã loại trừ trách nhiệm của các chủ thể nói

trên trong trách nhiệm bồi thường và thực tế giải quyết, xét xử từ trước đến nay cũng
đã đi theo hướng này, nó hoàn toàn phù hợp với các quy định khác của pháp luật.
Hai là, chủ thể có lỗi dẫn đến gây thiệt cho chủ sở hữu ngoài việc phải bồi
thường thiệt hại như đã được quy định tại Điều 170 BLDS năm 2015, thì còn có trách
nhiệm “phải hoàn trả những chi phí hợp lý”. Đây là một quy định mới mà ngay trong
phần quy định bảo vệ quyền sở hữu cũng chưa đề cập.
Vậy, bên có lỗi “phải hoàn trả những chi phí hợp lý” là bao gồm những khoản
gì phải hoàn trả và thế nào là chi phí hợp lý? Trả lời được chính xác, đầy đủ nội hàm
của câu hỏi này là không dễ. Bởi lẽ, do nội dung rất chung chung, không có tiêu chí
để xác định, nó sẽ phụ thuộc rất nhiều vào ý chí của cơ quan hướng dẫn, giải thích
quy định này.

56


×