TS. PHẠM QUỐC THÀNH
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ ĐÀO TẠO
VÀ SỬ DỤNG CÁN BỘ
NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
CÁC CỘNG TÁC VIÊN
Nguyễn Phương An
Lưu Xuân Công
Nguyễn Anh Cường
Nguyễn Ngọc Hân
Trần Bách Hiếu
Nguyễn Thị Kim Hoa
Trần Thị Quang Hoa
Đinh Ngọc Quý
Đào Thành Trường
Đỗ Xuân Tuất
Nguyễn Thanh Tùng
2
MỤC LỤC
Chương 1 ......................................................................................................................... 9
VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA CÁN BỘ VÀ TẦM QUAN TRỌNG
CỦA VIỆC ĐÀO TẠO, SỬ DỤNG CÁN BỘ ..................................................................... 9
1.1. Cán bộ - quan niệm, vị trí, vai trò............................................................ 9
1.2. Đào tạo, sử dụng cán bộ - quan niệm, tầm quan trọng....................... 21
Chương 2 ....................................................................................................................... 41
HỆ THỐNG QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH
VỀ ĐÀO TẠO VÀ SỬ DỤNG CÁN BỘ .......................................................................... 41
2.1. Về ₫ào tạo cán bộ .................................................................................. 41
2.1.1. Xây dựng tiêu chuẩn người cán bộ, ₫ảng viên........................................... 42
2.1.2. Đào tạo - huấn luyện cán bộ ...................................................................... 49
2.2. Về sử dụng cán bộ ................................................................................. 74
2.2.1. Nhận thức ₫úng tầm quan trọng của việc sử dụng cán bộ ........................ 75
2.2.2. Sử dụng ₫úng cán bộ ................................................................................. 79
2.2.3. Phải khéo dùng cán bộ .............................................................................. 83
2.2.4. Điều kiện ₫ể sử dụng cán bộ tốt ................................................................ 98
Chương 3 ..................................................................................................................... 122
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐÀO TẠO VÀ SỬ DỤNG CÁN BỘ
TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI HIỆN NAY .................................................................. 122
3.1. Sự nghiệp ₫ổi mới và công tác ₫ào tạo, sử dụng cán bộ ................. 122
3.1.1. Nhân tố tác ₫ộng ...................................................................................... 122
3
3.1.2. Thực trạng ₫ội ngũ cán bộ, ₫ảng viên...................................................... 127
3.1.3. Nguyên nhân của thành tựu và hạn chế
trong ₫ào tạo và sử dụng cán bộ............................................................. 144
3.2. Học tập, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về ₫ào tạo và sử dụng
cán bộ trong sự nghiệp ₫ổi mới hiện nay .......................................... 151
3.2.1. Hồ Chí Minh với sự nghiệp ₫ào tạo và sử dụng cán bộ ........................... 151
3.2.2. Quan ₫iểm, nội dung vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
về ₫ào tạo và sử dụng cán bộ trong giai ₫oạn hiện nay ......................... 167
KẾT LUẬN ................................................................................................................... 175
4
MỞ ĐẦU
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến cán bộ. Từ
khi chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Người đã trực
tiếp mở lớp huấn luyện cán bộ. Đến khi giành được chính quyền,
việc huấn luyện cán bộ càng được chú trọng, quy mô huấn luyện
ngày càng được mở rộng. Trước lúc đi xa, Người còn căn dặn: bồi
dưỡng cán bộ cách mạng cho đời sau là một công việc quan trọng
và cần thiết. Nhận thức được tầm quan trọng và giá trị của tư
tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ nói chung và việc huấn
luyện cán bộ nói riêng, trong những năm qua, các nhà khoa học
Việt Nam đã có khá nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến
vấn đề này. Trong đó có các công trình tiêu biểu như: Hồ Chí Minh
với vấn đề đào tạo cán bộ (Đức Vượng, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 1995); Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề cán bộ và công
tác cán bộ trong sự nghiệp đổi mới hiện nay (Nxb. Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 1997); Luận cứ khoa học cho việc nâng cao đội ngũ cán bộ
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
(Nguyễn Phú Trọng, Trần Xuân Sầm, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 2001); Tư tưởng Hồ Chí Minh về rèn luyện đạo đức cho cán bộ,
đảng viên (Phạm Quốc Thành, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2004); Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ (Bùi Đình
Phong, Nxb. Lao động, Hà Nội, 2006);...
Nhìn chung, qua các công trình nghiên cứu trên, các tác giả
đã đề cập đến nhiều vấn đề liên quan đến tư tưởng Hồ Chí Minh
về cán bộ và công tác cán bộ như vai trò của cán bộ; quá trình hình
thành tư tưởng của Người về cán bộ và công tác cán bộ; sự vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; những
5
chuẩn mực của cán bộ;... Tuy nhiên, do hạn chế về chủ quan và
khách quan mà nhiều vấn đề về cán bộ, đặc biệt là vấn đề đào tạo
và sử dụng cán bộ trong tư tưởng Hồ Chí Minh chưa được nghiên
cứu thấu đáo.
Nội dung của cuốn sách phân tích vai trò của cán bộ và tầm
quan trọng của việc đào tạo và sử dụng cán bộ theo tư tưởng Hồ
Chí Minh; phân tích hệ thống các quan điểm Hồ Chí Minh về đào
tạo và sử dụng cán bộ; phân tích làm sáng rõ giá trị tư tưởng Hồ
Chí Minh về đào tạo và sử dụng cán bộ.
Thực tiễn lịch sử Việt Nam và thế giới đã chứng minh rằng
sự thành công hay thất bại, tồn vong, thịnh suy của mọi quốc gia,
chế độ đều phụ thuộc rất lớn vào đội ngũ những người lãnh đạo,
quản lý, điều hành và hiền tài của quốc gia.
Theo Hồ Chí Minh, cán bộ là những người đem chính sách của
Đảng và Chính phủ giải thích cho dân hiểu và đem nguyện vọng của
dân chúng báo cáo Chính phủ để đặt chính sách cho đúng. Người
chỉ rõ, cán bộ là cái gốc của mọi công việc, muôn việc thành công hay
thất bại là do cán bộ tốt hay kém. Chính vì vậy, đào tạo cán bộ theo
nhu cầu của thực tiễn cách mạng và đòi hỏi của nhân dân luôn được
đặt ra như một trong những vấn đề cốt yếu. Hồ Chí Minh luôn coi
việc huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng.
Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác
cán bộ, Đảng ta đã xây dựng được một đội ngũ cán bộ đông đảo
làm nòng cốt trong việc giải phóng dân tộc thành công và xây
dựng chế độ mới đạt nhiều thành tựu. Nước ta hiện nay đang
đứng trước một thời kỳ mới, thời cơ nhiều và thách thức cũng
không ít. Do vậy, hơn lúc nào hết, chúng ta ngày càng nhận thức
đầy đủ hơn về ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác cán bộ nói
chung và việc đào tạo và sử dụng cán bộ nói riêng. Mặt khác, thực
tiễn sinh động nảy sinh nhiều vấn đề mới đòi hỏi chúng ta phải
xây dựng đội ngũ cán bộ thật sự “hồng” ‐ “chuyên” thì mới đáp
6
ứng được đòi hỏi trước mắt cấp bách cũng như yêu cầu lâu dài
của sự nghiệp cách mạng.
Chính vì vậy, cùng với việc đẩy mạnh nghiên cứu tư tưởng
Hồ Chí Minh trên nhiều lĩnh vực thì việc nghiên cứu chuyên sâu
tư tưởng của Người về đào tạo và sử dụng cán bộ là một nhiệm
vụ quan trọng đặc biệt bởi vì tư tưởng của Người về vấn đề này
đã soi đường cho công tác đào tạo cán bộ của Đảng ta, là tài sản to
lớn của dân tộc ta. Hơn nữa, việc nghiên cứu này vừa mang tính
khoa học, vừa là yêu cầu của cuộc sống, vừa cấp bách, vừa có tính
cơ bản lâu dài đòi hỏi sự đầu tư của nhiều thế hệ.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi quyết định xuất
bản cuốn sách Tư tưởng Hồ Chí Minh về đào tạo và sử dụng cán
bộ. Cuốn sách sẽ góp phần làm sáng rõ vai trò của cán bộ và
công tác đào tạo và sử dụng cán bộ theo tư tưởng Hồ Chí Minh;
hệ thống hóa các quan điểm của Người về đào tạo và sử dụng
cán bộ; đồng thời phân tích để nêu bật những giá trị lý luận và
thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về đào tạo và sử dụng cán
bộ trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam, bồi dưỡng cán bộ của
nước ta trong giai đoạn hiện nay. Kết quả của cuốn sách này sẽ
giúp cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức sâu sắc hơn tư
tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng của Người về đào tạo
và sử dụng cán bộ nói riêng và vận dụng tư tưởng đó vào thực
tiễn cách mạng nước ta.
Từ yêu cầu công tác chuyên môn và tình hình nghiên cứu
thực tế, tác giả đặt ra mục tiêu nghiên cứu cụ thể như sau: làm rõ
vai trò của cán bộ và tầm quan trọng của việc đào tạo và sử dụng
cán bộ theo tư tưởng Hồ Chí Minh; xây dựng được hệ thống các
quan điểm Hồ Chí Minh về đào tạo và sử dụng cán bộ; nêu được
giá trị lý luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về đào tạo
và sử dụng cán bộ.
Các tác giả
7
8
Chương 1
VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA CÁN BỘ VÀ TẦM QUAN TRỌNG
CỦA VIỆC ĐÀO TẠO, SỬ DỤNG CÁN BỘ
1.1. Cán bộ - quan niệm, vị trí, vai trò
Cán bộ là một thuật ngữ được cho là du nhập vào nước ta từ
Trung Quốc với hai nghĩa cơ bản là: Nghĩa thứ nhất là cái khung,
cái khuôn (khung ảnh), nghĩa thứ hai là người nòng cốt, những
người chỉ huy quân đội, trong một cơ quan tổ chức làm nòng cốt.
Khi du nhập vào nước ta, thuật ngữ cán bộ đã biến đổi không còn
nguyên nghĩa gốc, song hàm nghĩa bộ khung, người làm nòng cốt,
người làm chỉ huy luôn được lưu giữ và nhận thức.
Thuật ngữ cán bộ được sử dụng phổ biến ở Việt Nam từ sau
Cách mạng tháng Tám năm 1945, khi Đảng lãnh đạo nhân dân
Tổng khởi nghĩa thắng lợi, giành chính quyền nhà nước, lập nên
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Kể từ đây, Đảng trở thành
Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội thực hiện những
bước đầu tiên trong xây dựng chế độ mới, cuộc sống mới. Trong
điều kiện đó, cán bộ là vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt trước
yêu cầu vừa cấp bách, vừa có tính cơ bản lâu dài của sự nghiệp
cách mạng.
Cách hiểu được cho là rộng nhất về cán bộ, xem cán bộ gồm
tất cả những người thoát ly, hưởng lương, phụ cấp từ ngân sách
9
Nhà nước, làm việc trong bộ máy chính quyền, trong hệ thống
chính trị. Đây là quan niệm thông dụng ở nước ta, đặt cơ sở đầu
tiên phân biệt cán bộ với các thành phần khác trong xã hội, với
những công dân là người lao động không hưởng lương, phụ cấp
từ ngân sách Nhà nước.
Theo Từ điển tiếng Việt, xuất bản năm 2003 “cán bộ” có hai nghĩa:
1. Người làm công tác có nghiệp vụ chuyên môn trong cơ
quan nhà nước.
2. Người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan nhà nước,
một tổ chức, phân biệt với người thường, không có chức vụ1.
Trong Từ điển tiếng Việt xuất bản năm 1999, “cán bộ” có nghĩa:
1. Người làm việc trong cơ quan nhà nước, cán bộ nhà nước.
Bố mẹ đều là cán bộ.
2. Người giữ chức vụ, phân biệt với người bỡnh thường,
không giữ chức vụ trong các cơ quan, tổ chức nhà nước: cán bộ tổ
chức, cán bộ đại hội2.
Luật Cán bộ, công chức được Quốc hội nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 13
tháng 11 năm 2008, tại Điều 4 nêu: “Cán bộ là công dân Việt Nam,
được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo
nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước,
tổ chức chính trị ‐ xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận,
thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện),
trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách Nhà nước”.
Viện Ngôn ngữ học, Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng ‐ Trung tâm Từ điển học
‐ Hà Nội ‐ Đà Nẵng, 2003, tr. 109.
2 Nguyễn Như Ý, Đại từ điển tiếng Việt, Nxb. Văn hoá thông tin, H, 1999, tr. 249.
1
10
Trên thực tế xem xét cán bộ dưới góc độ hưởng lương, phụ
cấp phân theo ngạch, bậc; phụ cấp trách nhiệm; phụ cấp nghiệp
vụ thì quan niệm “cán bộ” chưa bao quát hết. Để phát huy hết vai
trò, chức năng nghiệp vụ của cán bộ và luật pháp hóa công tác
quản lý cán bộ, khái niệm “cán bộ” đã được bổ sung và cụ thể hơn
bằng những khái niệm gần nghĩa như khái niệm công chức, viên
chức... Cũng tại Điều 4, Luật Cán bộ, công chức nêu:
‐ “Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ
nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng
Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị ‐ xã hội ở trung
ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội
nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp,
công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân
dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong
bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng
Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị ‐ xã hội (sau đây
gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng
lương từ ngân sách Nhà nước; đối với công chức trong bộ máy
lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được
bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy
định của pháp luật”.
‐ “Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã)
là công dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ
trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư,
Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị ‐ xã hội;
công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một
chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã,
trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách Nhà nước”.
Trong thực tế, một số người đã hiểu lệch lạc cho rằng những
khái niệm trên độc lập với khái niệm cán bộ, thậm chí một số
11
người còn cho rằng viên chức không phải là cán bộ hoặc cán bộ
chỉ là những người được tuyển dụng, bầu làm lãnh đạo còn lại
những người gọi theo chuyên môn, chức vụ không phải là cán bộ.
Hiểu như vậy gây ra nhiều trở ngại trong tư duy thông thường
của đại bộ phận quần chúng và quan niệm về cán bộ. Để đảm bảo
nhận thức thống nhất, không phức tạp hóa vấn đề, không mâu
thuẫn giữa cán bộ, công chức, viên chức với cán bộ cần có sự
thống nhất khái niệm coi “cán bộ” là khái niệm gốc, chung nhất.
Các khái niệm “công chức”, “viên chức”, “chuyên gia”, “cán sự”,
“cán bộ chuyên trách” “cán bộ kiêm nhiệm”... đều là những khái
niệm gần nghĩa, chứa đựng những yếu tố của khái niệm gốc “cán
bộ”. Do xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ, cương vị nghề nghiệp
cụ thể, do phương thức hoạt động khác nhau của mỗi hệ thống,
chất lượng và chuẩn mực công tác đào tạo mà những khái niệm
gần nghĩa này xuất hiện.
Tiếp cận khái niệm cán bộ từ nhiều phương diện, có thể rút ra
kết luận cần hiểu khái niệm cán bộ theo hai nghĩa:
Theo nghĩa rộng, cán bộ là tất cả những người đảm đương
một công việc nào đó hay giữ một chức trách, một cương vị trong
Đảng, Nhà nước, cơ quan, ban ngành, tổ chức chính trị xã hội,
đoàn thể, đơn vị sự nghiệp... hưởng lương và phụ cấp từ ngân
sách Nhà nước hoặc một phần từ ngân sách Nhà nước theo quy
định của Hiến pháp, pháp luật và những chính sách hiện hành
của Nhà nước. Họ là những người công bộc của dân, phục vụ
nhân dân.
Theo nghĩa hẹp, cán bộ theo nghĩa hẹp vừa là cán bộ theo
nghĩa rộng, vừa có nét đặc thù do bầu cử, đề bạt, cân nhắc, bổ
nhiệm theo quy trình của công tác tổ chức cán bộ và các cấp quản
lý ra quyết định, giao nhiệm vụ giữ cương vị trong bộ máy lãnh
đạo của cơ quan Trung ương hoặc địa phương, hưởng phụ cấp
12
của họ được hưởng từ ngân sách hoặc một phần từ ngân sách Nhà
nước theo quy định của Nhà nước.
Tựu trung lại, “Cán bộ” là từ chỉ tất cả những người được
đảm đương thực hiện, gánh vác một công việc, nhiệm vụ nào đó
do Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội, đoàn thể thông
qua công tác tổ chức cán bộ và các cấp quản lý quyết định tuyển
dụng, tiến cử, bổ nhiệm, đề bạt, cân nhắc giao cho, phân công cho
nhiệm vụ nào đó để phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc. Lương
và phụ cấp của cán bộ được hưởng từ ngân sách hoặc một phần từ
ngân sách Nhà nước theo quy định của Hiến pháp, pháp luật,
pháp lệnh của Nhà nước cùng với những chính sách cụ thể do
Nhà nước ban hành.
Theo quan niệm trên, cán bộ có thể được phân loại theo
nhiều tiêu chí khác nhau tùy vào vị trí, vai trò, chức năng của từng
loại cán bộ quy định.
Theo chức vụ phân công trong cơ quan đơn vị tổ chức có thể
phân chia cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ chủ chốt.
Theo phân cấp hệ thống hành chính có thể phân chia thành
cán bộ Trung ương, cán bộ địa phương cơ sở.
Theo nhiệm vụ trong hệ thống chính trị có thể phân chia
thành cán bộ Đảng, cán bộ chính quyền, cán bộ đoàn thể. Theo
chuyên môn nghiệp vụ có thể chia thành cán bộ hành chính, cán
bộ nghiệp vụ...
Theo phân định công việc có thể chia thành cán bộ chuyên
trách, cán bộ kiêm nhiệm, chuyên gia,...
Chủ nghĩa Mác ‐ Lênin đặc biệt quan tâm đến vấn đề cán bộ,
xem là khâu đặc biệt quan trọng quyết định việc hiện thực hóa lý
luận khoa học và cách mạng. Những điều kiện hiện thực khiến
cho Mác và Ăngghen chưa có thực tế để đề cập nhiều về vấn đề
13
cán bộ và công tác cán bộ. Tuy nhiên, các ông rất quan tâm đến
xây dựng đội ngũ những nhà tuyên truyền, cổ động, truyền bá tư
tưởng cộng sản, gây dựng phong trào công nhân để lập ra những
đảng cách mạng chân chính. Các ông không chỉ đề cập đến sự
xuất hiện của những con người vĩ đại trong mỗi thời đại xã hội,
mà còn cho rằng “muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con
người sử dụng lực lượng thực tiễn”1. Những người sử dụng lực
lượng thực tiễn, những nhà tuyên truyền, cổ động, truyền bá, gây
dựng mà hai ông nói, thực chất, là những cán bộ chuyên nghiệp
của Đảng trong điều kiện hoạt động bí mật.
C.Mác và Ph.Ăng ghen còn khẳng định trong cán bộ, có bộ
phận những người cộng sản ưu tú là nhân tố tích cực để thúc đẩy
phong trào cách mạng phát triển theo con đường tự giác, các ông
khái quát: “Về mặt thực tiễn, những người cộng sản là bộ phận
kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ
phận luôn luôn thúc đẩy phong trào tiến lên; về mặt lý luận, họ
hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những
điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản”2.
V.I.Lênin đã bảo vệ và phát triển những quan điểm của
C.Mác và khẳng định: “Trong lịch sử, chưa hề có một giai cấp nào
dành được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo ra được hàng
ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên phong
có đủ khả năng tổ chức lãnh đạo phong trào”3.
Từ việc xác định đường lối, nhiệm vụ chính trị đúng, cho
đến khi biến đường lối nhiệm vụ chính trị đó thành hiện thực cách
mạng thì phải trải qua một quá trình, trong quá trình này, vấn đề
tổ chức cán bộ có ý nghĩa quyết định. Nếu không có đội ngũ cán
C.Mác và Ăngghen, Toàn tập, t.2, Nxb. Chính trị Quốc gia, H. 2000, tr. 181.
C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, t.4, sđd, tr. 614‐615.
3 V.I Lênin, Toàn tập, t.4, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1974, tr. 473.
1
2
14
bộ tốt thì đường lối nhiệm vụ đề ra dù đúng cũng chỉ dừng lại
trên giấy tờ. Lênin chỉ rõ: “Nghiên cứu con người, tìm những cán
bộ có bãn lĩnh, hiện nay là then chốt; nếu không thì tất cả mọi
mệnh lệnh và quyết định sẽ chỉ là mớ giấy lộn”1.
Vì vậy, Lênin luôn luôn gắn vấn đề kiện toàn tổ chức và hoạt
động của bộ máy với xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ chủ
chốt của Đảng và Nhà nước. Người nhấn mạnh “Tổ chức, tổ chức
và tổ chức”, “nếu cho tôi tổ chức những người cách mạng, tôi sẽ
làm đảo lộn được nước Nga”. Tổ chức mà Lênin nhắc đến bao
gồm “những nhà chính trị của giai cấp thực sự của mình, những
nhà chính trị vô sản và không thua kém các nhà chính trị của giai
cấp tư sản”. Lênin còn chỉ rõ cán bộ cách mạng: “Là những người
biết cách biến cái sắc lệnh từ trạng thái giấy lộn đầy bụi bặm
thành thực tiễn cuộc sống”. Lênin khẳng định đội ngũ cán bộ là
nhân tố đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản: “Người
cộng sản chỉ có một cách duy nhất để chứng minh quyền lãnh đạo
của mình đó là tìm cho được ngày càng nhiều những người phụ
tá, biết giúp đỡ họ làm việc, biết đề bạt họ, biết giới thiệu họ và
chú ý đến kinh nghiệm của họ”2.
Trong quá trình hoạt động cách mạng, từ lúc ra đi tìm đường
cứu nước đến khi sáng lập và lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta,
Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến vấn đề cán bộ và xây dựng
đội ngũ cán bộ cho sự nghiệp cách mạng. Trên cơ sở vận dụng
sáng tạo những quan điểm của chủ nghĩa Mác ‐ Lênin về cán bộ
và công tác cán bộ, kế thừa và phát triển những tư tưởng tiến bộ
trong lịch sử dân tộc, phù hợp với tiến trình cách mạng Việt Nam,
Hồ Chí Minh đã hình thành những quan niệm hết sức khúc chiết,
sáng tạo và toàn diện về cán bộ và đội ngũ cán bộ.
V.I Lênin, Toàn tập, t.44, sđd, tr. 449.
V.I Lênin, Toàn tập, t.4, sđd, tr. 473.
1
2
15
Hồ Chí Minh thường quan niệm về cán bộ với nghĩa bao quát
nhất, phổ thông nhất. Theo Người, nói ngắn gọn, cán bộ là công bộc
của nhân dân, “làm cán bộ tức là suốt đời làm đầy tớ trung thành
của nhân dân”. Điều này hoàn toàn khác với “phụ mẫu chi dân”,
chăn dắt người dân trong các triều đại phong kiến và bọn quan lại
thực dân “đè đầu cưỡi cổ nhân dân” thời kỳ trước đây.
Thông qua các mối quan hệ, Hồ Chí Minh quan niệm về
người cán bộ rất cụ thể, dễ hiểu, nhưng thể hiện chiều sâu lý luận.
Trước hết và xuyên suốt, không chỉ đối với vấn đề cán bộ, mà toàn
bộ cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh thường xét trong mối quan
hệ với nhân dân. Từ nhận thức đúng đắn về vai trò và sức mạnh
của nhân dân, Người khẳng định “cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng”. Muốn có cách mạng và để cách mạng thắng lợi,
Hồ Chí Minh đặt lên đầu tiên vấn đề giác ngộ nhân dân. “Cách
mạng trước phải làm cho dân giác ngộ”. Công việc ấy cần có
những người cách mạng “đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức
họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do
độc lập”. Người cách mạng đó ‐ tức là đội ngũ những người “giác
ngộ dân chúng”, tập hợp và phát huy sức mạnh to lớn của quần
chúng nhân dân – trước hết là cán bộ.
Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, với tinh thần như trên,
Hồ Chí Minh khẳng định: “Cán bộ là những người đem chính
sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và
thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho
Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng”1. Cán
bộ không những chỉ là người có vai trò giác ngộ và hướng dẫn,
lãnh đạo quần chúng mà còn là “chiếc cầu nối” giữa Đảng, Nhà
nước với nhân dân, là “công bộc” của nhân dân.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.5, Sđd, tr. 269.
1
16
Hồ Chí Minh là con người của công việc – việc cách mạng. Cả
cuộc đời người chỉ có một ham muốn là làm việc cách mạng để ích
nước, lợi dân. “Cách mệnh là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu
đổi ra cái tốt”. Mục tiêu của sửa cũ đổi ra mới là để giải phóng triệt
để con người. Cũng chính từ chiều sâu triệt để ấy của cách mệnh,
Nguyễn Ái Quốc xác định “Sửa cái xã hội cũ đã mấy ngàn năm làm
xã hội mới, ấy là rất khó”, bởi nó liên quan trực tiếp đến con người,
khó nhận biết, khó giải quyết. Vì lẽ đó, việc cách mạng phải có sự
đồng tâm, hiệp lực của nhiều người, phải tiến hành lâu dài, đời này
làm chưa xong thì đời sau nối theo làm thì phải xong. Trong lực
lượng đông đảo thực hiện việc cách mạng ấy, Hồ Chí Minh
khẳng định “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”; cây phải có gốc,
không có gốc thì cây chết; việc cách mạng cũng như cây, cán bộ
cách mạng là gốc cây, quyết định mọi sự thành bại; “Muôn việc
thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”1. Quan
niệm này thể hiện chiều sâu tư duy chính trị của Hồ Chí Minh.
Xét trong mối quan hệ với bộ máy (cơ quan, tổ chức, lãnh
đạo, quản lý), Hồ Chí Minh quan niệm: “Cán bộ là cái dây chuyền
của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ
dù tốt, toàn bộ máy cũng tê liệt. Cán bộ là người đem chính sách
của Chính phủ, của Đoàn thể thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ
dở thì chính sách hay cũng không thể thực hiện được”2. Đời sống
kinh tế ‐ xã hội và toàn bộ sự nghiệp cách mạng là một cỗ máy
khổng lồ. Trong cỗ máy đó, cán bộ là dây chuyền. Hồ Chí Minh
quan niệm “dây chuyền” với ý nghĩa cán bộ và đội ngũ cán bộ là
mắt xích liên kết các bộ phận của bộ máy, là hệ thống chuyển tải
năng lượng đến từng bộ phận của bộ máy.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.5, sđd, tr. 240.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.5, sđd, tr.54.
1
2
17
Trong bộ máy tổ chức cách mạng, Đảng đóng vai trò quyết
định. Hồ Chí Minh khẳng định cách mệnh “trước hết phải có
Đảng cách mệnh”; “Đảng có vững cách mệnh mới thành công
cũng như người cầm lái có vững, thuyền mới chạy”. Để lãnh đạo
cách mạng, thì Đảng:
“1. Phải quyết định mọi vấn đề cho đúng…
2. Phải tổ chức sự thi hành cho đúng…
3. Phải tổ chức kiểm soát…”1.
Muốn vậy, phải có “sự cố gắng”, phải đào tạo lấy “những
nhà chính trị giai cấp”. Cán bộ, đội ngũ cán bộ và vai trò lãnh đạo
của Đảng có mối quan hệ biện chứng. Trong đó, Hồ Chí Minh xem
cán bộ là lực lượng có tính quyết định đến vai trò lãnh đạo của
Đảng. Đặc biệt, “khi có chính sách đúng, thì sự thành công và thất
bại của chính sách đó là do tổ chức công việc, do nơi lựa chọn cán
bộ, do nơi kiểm tra. Nếu ba điểm ấy sơ sài, thì chính sách đúng
mấy cũng vô ích”2. Với cách đặt vấn đề như vậy, Hồ Chí Minh
quan niệm “cán bộ là tiền vốn của Đoàn thể”. Có vốn mới làm ra
lãi. Bất cứ chính sách, công tác gì nếu có cán bộ tốt thì thành công,
tức là có lãi. Không có cán bộ tốt thì hỏng việc, tức lỗ vốn”3. Cũng
với quan niệm ấy, Hồ Chí Minh nói “Cán bộ là tướng của đoàn
thể”, người tướng ấy quyết định hoạt động của đoàn thể.
Trong quan niệm về cán bộ, Hồ Chí Minh cũng đồng thời chỉ
ra vị trí, vai trò của người cán bộ cách mạng. Luận điểm khái quát
nhất của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của cán bộ là: cán bộ vừa là
người lãnh đạo, vừa là người đày tớ thật trung thành của nhân
dân. Như vậy, vị trí, vai trò của cán bộ cũng được Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.5, sđd, tr.285.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.5, sđd, tr.154.
3 Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.6, sđd, tr.46.
1
2
18
xem xét chủ yếu trong mối quan hệ với nhân dân. Ở đây, dễ nhận
thấy Hồ Chí Minh đồng thời nhắc đến yếu tố “lãnh đạo” và “đầy
tớ” trong cùng một con người. Hai trong một đều thể hiện quan
điểm nhất quán của Hồ Chí Minh khi nói đến vị trí, vai trò của cán
bộ. Nói đến lãnh đạo là nói đến quyền lãnh đạo của người cán bộ.
Quyền ấy, xét cho cùng, do nhân dân ủy thác. Làm lãnh đạo, cũng
có nghĩa người cán bộ phải đứng ở vị trí tiên phong, đứng mũi
chịu sào, đóng vai trò dẫn đường, tổ chức nhân dân. Nhưng lãnh
đạo không phải để “vinh thân phì gia”, cốt sao mình béo mặc
thiên hạ gầy, mà là để phục vụ nhân dân, tức muốn nói đến nghĩa
vụ, bổn phận của người cán bộ. Làm đầy tớ, cũng có nghĩa người
cán bộ phải đứng ở vị trí lo trước cái lo của dân, hưởng sau cái
hưởng của dân.
Trong những mối quan hệ cụ thể với đường lối chính sách,
tổ chức (bao gồm cả bộ máy lãnh đạo, quản lý), công việc, Hồ Chí
Minh chỉ ra vị trí, vai trò của cán bộ với những thuật ngữ minh
họa dễ hiểu nhưng sâu sắc: gốc, dây chuyền, người đem (chính
sách, tình hình), tướng, tiền vốn,... Điều khẳng định đầu tiên, cán
bộ là thành phần của tổ chức, nhưng khác với thành phần khác
trong tổ chức, hơn nữa là khác với nhân dân ở chỗ họ là thành
phần ưu tú nhất, có vị trí là dây chuyền của bộ máy Đảng, Nhà
nước, đoàn thể nhân dân, “là những người đem chính sách của
Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi
hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng,
cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng”. Cán bộ có vị
trí chủ thể của sự nghiệp cách mạng nước ta do Đảng lãnh đạo. Vị
trí lãnh đạo, vị trí chủ thể của cán bộ là do Đảng, Nhà nước, đoàn
thể phân công, và quyền lực của cán bộ cũng như nhiệm vụ của
người cán bộ là do nhân dân giao cho. Cán bộ luôn đứng đầu
trong tổ chức cách mạng, khi thực hiện việc cách mạng. Hồ Chí
Minh xem ʺCán bộ là tướng của đoàn thể”, quyết định hiệu quả
19
hoạt động của đoàn thể. Hồ Chí Minh viết: “Cán bộ làm đúng kế
hoạch của đoàn thể, có mưu trí, được quần chúng tin yêu, kiên
quyết, gan góc, giữ đúng kỷ luật, biết làm cho dân chúng cùng
đoàn thể sống chết mà không sợ nguy hiểm mới là tướng giỏi của
đoàn thể. Như thế thì cách mạng nhất định chóng thành công”1.
Về vai trò của cán bộ, Hồ Chí Minh khẳng định rằng: cán bộ
là cái gốc của mọi công việc; muôn việc thành công hay thất bại
đều là do cán bộ tốt hay kém. Với ý nghĩa như vậy, chúng ta có
thể hiểu rằng, cán bộ là lực lượng tinh tuý nhất của xã hội, có vị trí
vừa tiên phong vừa là trung tâm của xã hội và có vai trò cực kỳ
quan trọng của hệ thống chính trị nước ta.
Tóm lại, cán bộ theo quan niệm của Hồ Chí Minh là một khái
niệm “mở”. Tư tưởng Hồ Chí Minh đề cập cán bộ ở nhiều góc độ,
nhiều mối quan hệ và được thể hiện ở nhiều cách khác nhau, phù
hợp các vị trí vai trò của họ trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng
của Đảng. Nhưng về cơ bản, Người xem: “cán bộ là những người
đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân
chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân
chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách
cho đúng”2. Đó là những người hội đủ phẩm chất đạo đức và
năng lực nhất định để đảm đương được yêu cầu và nhiệm vụ của
sự nghiệp cách mạng, vừa là người lãnh đạo vừa là đầy tớ thật
trung thành của nhân dân. “Cán bộ” là một danh từ chỉ lớp người
là những chiến sĩ cách mạng, lớp người mới sẵn sàng chịu đựng
gian khổ, hy sinh, gắn bó với nhân dân, phục vụ cho sự nghiệp
cao cả giành độc lập, tự do và phát triển dân tộc. “Cán bộ” trở
thành danh xưng mang ý nghĩa tôn vinh, để dấu ấn đẹp trong lịch
Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.3, sđd, tr.515.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.5, sđd, tr.269.
1
2
20
sử cách mạng nước ta từ khi có Đảng lãnh đạo đến nay và cho tận
mai sau.
1.2. Đào tạo, sử dụng cán bộ - quan niệm, tầm quan trọng
Đào tạo và sử dụng cán bộ là một bộ phận trong công tác cán
bộ của Đảng. Cũng giống như vấn đề cán bộ, Hồ Chí Minh quan
tâm nhiều đến công tác cán bộ của Đảng, trong đó có khâu đào tạo
và sử dụng.
Xét dưới góc độ ngôn ngữ, đào là trui rèn, tạo là hình thành.
Đào tạo, hiểu theo nghĩa thông dụng, là quá trình rèn luyện để hình
thành sản phẩm. Đối tượng của đào tạo là con người. Hiểu theo
nghĩa hẹp, đào tạo là một lĩnh vực của tổng thể các hoạt động giáo
dục – đào tạo. Dấu hiệu để phân biệt hoạt động đào tạo với hoạt
động giáo dục chủ yếu thể hiện ở tính thực hành nghề nghiệp. Đào
tạo thường là để có thể đảm đương một công việc cụ thể, liên quan
trực tiếp đến nghề nghiệp của người được đào tạo. Tuy nhiên, sự
tương đồng giữa đào tạo và giáo dục là rất lớn nên khoảng cách
trong nhận thức của xã hội về sự khác nhau giữa giáo dục và đào
tạo thường là rất nhỏ, nếu không muốn nói là không có.
Hồ Chí Minh thường dùng nhiều thuật ngữ khác nhau để nói
về hoạt động đào tạo cán bộ của Đảng như: đào tạo, giáo dục, huấn
luyện, nuôi dạy, rèn luyện,… Trong đó, Người sử dụng phổ biến
thuật ngữ huấn luyện. Theo Hồ Chí Minh, huấn là dạy dỗ, luyện là
rèn giũa cho sạch những vết xấu xa trong đầu óc. Huấn luyện, hiểu
rộng, là quá trình vừa giảng dạy, vừa hướng dẫn luyện tập.
Những luận chứng về vị trí, vai trò của đào tạo và sử dụng
cán bộ thường gắn liền với công tác cán bộ ‐ cái mà đào tạo và sử
dụng là khâu hợp thành.
Công tác cán bộ là một lĩnh vực hoạt động của Đảng, bao
gồm: tuyển chọn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng,
21
quản lý, cất nhắc, đề bạt cán bộ. Công tác cán bộ có quan hệ chặt
chẽ với chính sách cán bộ, cùng nhằm mục tiêu xây dựng đội ngũ
cán bộ của Đảng có đủ số lượng, chất lượng cao, cơ cấu đồng bộ
đáp ứng với yêu cầu cách mạng ở từng thời điểm cụ thể.
Lịch sử thế giới cũng như lịch sử Việt Nam đã để lại nhiều
bài học, kinh nghiệm về việc đánh giá, lựa chọn, đào tạo, dùng
người, dùng nhân tài. Sự thành công, thất bại của công việc hoặc
sự tồn vong, thịnh suy của mọi quốc gia, chế độ đều phụ thuộc rất
lớn vào đội ngũ những người lãnh đạo, quản lý, điều hành, vào
hiền tài của quốc gia. Chính vua Lê Thánh Tông đã giao cho Thân
Nhân Trung soạn thảo một bài văn bia đầu tiên ở Văn Miếu –
Quốc Tử Giám (Hà Nội) để nói về ý nghĩa của khoa thi Hội năm
1442. Trong văn bia có đoạn: “Hiền tài là nguyên khí quốc gia,
nguyên khí thịnh thì đất nước mạnh và càng lớn lao, nguyên khí
suy thì thế nước yếu và càng xuống thấp. Bởi vậy, các bậc vua tài
giỏi đời xưa, chẳng có đời nào lại không chăm lo nuôi dưỡng và
đào tạo nhân tài bồi đắp thêm nguyên khí”. Trên văn bia khoa thi
1715 dựng tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám (Hà Nội) có ghi: Cây ở
đỉnh núi kia tươi tốt vì ở đó có ngọc, nước dòng suối kia êm đềm
vì ở dưới đó có châu, vận hội nước nhà được thịnh vượng, cơ đồ
được vững vàng vì có hiền tài đông đúc như cây trong rừng. Đội
ngũ những hiền tài, những người lãnh đạo, quản lý này không
phải tự nhiên mà có, tự nhiên phát huy được, mà phải thông qua
quá trình phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng,
đánh giá,…, ngày nay gọi là công tác cán bộ.
C. Mác và Ph. Ăngghen đã nêu những tư tưởng cơ bản làm
cơ sở nền tảng cho việc xây dựng đội ngũ cán bộ của giai cấp công
nhân, cho công tác cán bộ của các chính đảng cộng sản. Trong
điều kiện lịch sử cụ thể, cách mạng chưa nắm chính quyền, Mác
và Ăngghen đã quan tâm đến đội ngũ những nhà tuyên truyền cổ
động, truyền bá tư tưởng cộng sản, lãnh đạo tổ chức các phong
22
trào đấu tranh của giai cấp vô sản nhằm kết hợp với phong trào
công nhân để lập ra chính đảng của giai cấp công nhân. Đó là đội
ngũ cán bộ đầu tiên của giai cấp vô sản, chính họ là một trong
những nhân tố cơ bản quyết định sự thành công hay thất bại của
cách mạng, có vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển đất
nước. Trong tác phẩm Gia đình thần thánh, C.Mác khẳng định:
“Muốn thực hiện tốt những tư tưởng thì cần có những con người
vận dụng một lực lượng thực tiễn”. “Những con người” mà
C.Mác, Ph.Ăngghen nói trong tác phẩm chính là người cán bộ có
nhiệm vụ lãnh đạo quần chúng thực hiện những cuộc cải cách có ý
nghĩa cách mạng sâu sắc. C.Mác đã đi đến kết luận rằng bất cứ
một tư tưởng nào, dẫu cao siêu vĩ đại đến đâu thì vẫn mãi mãi là
tư tưởng nếu tư tưởng đó không có con người truyền bá, vận
dụng nó trong đời sống xã hội.
Từ khi xuất hiện trên vũ đài lịch sử và trong phong trào cách
mạng của giai cấp công nhân, C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng cần
phải có một đội ngũ cán bộ vừa có lòng trung thành với lý tưởng
của giai cấp, vừa có tri thức lý luận và năng lực tổ chức thực tiễn
mới có thể đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đó. Muốn có được đội
ngũ như vậy, thì phải quan tâm đến việc phát hiện, lựa chọn, đào
tạo, rèn luyện nhà cách mạng (được hiểu là người cán bộ lãnh
đạo) thông qua phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng.
Thực tiễn lịch sử đã chứng minh, đội ngũ cán bộ có một vị trí
rất quan trọng cho sự ra đời của Đảng Cộng sản. Tuy nhiên, do
những điều kiện lịch sử lúc ấy, chưa có một Đảng Cộng sản nào
giành được quyền lãnh đạo, nên hai ông viết chưa nhiều về cán bộ
và công tác đào tạo cán bộ. Nhưng cuộc đời hoạt động cách mạng
của C.Mác và Ph.Ăngghen trong những năm giữa đến cuối thế kỷ
XIX đã để lại cho giai cấp vô sản, phong trào cộng sản quốc tế
những tư tưởng quý báu, đặt tiền đề giúp cho chúng ta nghiên cứu,
suy nghĩ về vấn đề cán bộ trong đó có công tác đào tạo cán bộ.
23
Nghiên cứu những tác phẩm và tư tưởng của V.I.Lênin từ
những ngày đầu thành lập Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân,
chúng ta thấy ông rất quan tâm đến công tác cán bộ, vì vậy
V.I. Lê‐nin quyết định mở các trường đào tạo và Người trực tiếp
giảng dạy ở các trường đó. Chính đội ngũ cán bộ được đào tạo đã
góp phần làm nên thắng lợi cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng
Mười Nga năm 1917 cũng như công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội trên đất nước Xô viết sau này.
Lênin kế thừa và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác, đã đặc
biệt coi trọng “đội ngũ những nhà chính trị của giai cấp “thực sự
của mình”, những nhà chính trị vô sản và không thua kém các nhà
chính trị của giai cấp tư sản”. V.I.Lênin chỉ rõ: “Trong lịch sử chưa
hề có giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó không đào
tạo được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những
đại biểu tiên phong có khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào”.
Người luận giải rằng: “...Chính trị là một khoa học và một nghệ
thuật không phải từ trên trời rơi xuống, mà đòi hỏi một sự cố
gắng, rằng giai cấp vô sản muốn thắng giai cấp tư sản thì phải đào
tạo lấy “những nhà chính trị giai cấp” thực sự của mình, những
nhà chính trị vô sản và không thua kém các nhà chính trị của giai
cấp tư sản”.
Khi có chính quyền lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội,
Lênin khẳng định: “Nghiên cứu con người, tìm những cán bộ có
bản lĩnh, hiện nay đó là then chốt; nếu không thế thì tất cả mọi
mệnh lệnh và quyết định sẽ chỉ là mớ giấy lộn”. Lênin còn chỉ rõ,
trong bất kỳ giai đoạn nào của cách mạng, “người cộng sản lãnh
đạo chỉ có một cách duy nhất để chứng minh quyền lãnh đạo của
mình, đó là tìm cho mình được nhiều, càng ngày càng nhiều
những người phụ tá… biết giúp đỡ họ làm việc, biết đề bạt họ,
biết giới thiệu và chú ý đến kinh nghiệm của họ”. Khi vào giai
đoạn công nghiệp hóa xây dựng đất nước, Lênin đặc biệt coi trọng
24
đội ngũ cán bộ khoa học – kỹ thuật và quan tâm tới đội ngũ trí
thức của giai cấp công nhân, coi đây là điều kiện xây dựng chủ
nghĩa xã hội: “Không có sự chỉ đạo của các chuyên gia am hiểu các
lĩnh vực khoa học, kỹ thuật và có kinh nghiệm, thì không thể nào
chuyển lên chủ nghĩa xã hội được, vì chủ nghĩa xã hội đòi hỏi một
bước tiến có ý thức và có tính chất quần chúng để đi tới một năng
suất lao động cao hơn năng suất của chủ nghĩa tư bản dựa trên cơ
sở những kết quả mà chủ nghĩa tư bản đã đạt được”.
Trong quá trình xây dựng Đảng, công tác cán bộ là một trong
những công tác chiếm vị trí quan trọng hàng đầu, có vai trò quyết
định thành công tới toàn bộ công tác xây dựng lực lượng cách
mạng của Đảng. Khi nào, nơi nào làm tốt công tác cán bộ thì khi
đó, nơi đó cách mạng sẽ có nhiều thuận lợi và giành được thắng
lợi, và ngược lại. Hồ Chí Minh khẳng định: “Khi đã có chính sách
đúng, thì sự thành công hoặc thất bại của chính sách đó là do nơi
cách tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ, và do nơi kiểm tra.
Nếu ba điều ấy sơ sài, thì chính sách đúng mấy cũng vô ích”1.
Công tác cán bộ phải xuất phát từ đường lối chính trị và
nhiệm vụ tổ chức của Đảng trong từng thời kỳ và phục vụ đường
lối, nhiệm vụ đó. Đường lối chính trị quyết định nhiệm vụ tổ
chức, trong đó có công tác cán bộ. Có đường lối chính trị và nhiệm
vụ tổ chức đúng thì mới có phương hướng và nội dung đúng để
xây dựng đội ngũ cán bộ vững mạnh. Ngược lại, đội ngũ cán bộ
có chất lượng cao, bảo đảm cho tổ chức đảng và Nhà nước phát
huy được hiệu lực và đường lối chính trị của Đảng được thực hiện
thắng lợi.
Khi Đảng đã có đường lối chính trị đúng đắn thì công tác cán
bộ là nhân tố quyết định sự thành công của nhiệm vụ cách mạng.
Phải từ đường lối chính trị mà suy nghĩ và giải quyết vấn đề cán
Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.5, sđd, tr.250.
1
25