Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

Tìm hiểu thực trạng giáo dục thẩm mỹ cho trẻ mẫu giáo lớn trường mầm non hương sơn huyện bình xuyên tỉnh vĩnh phúc thông qua hoạt động tạo hình từ vật liệu có sẵn trong tự nhiên (2014)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.71 MB, 62 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC

HOÀNG THỊ NGỌC YẾN

TÌM HIỂU THỰC TRẠNG GIÁO DỤC THẨM MỸ
CHO TRẺ MẪU GIÁO LỚN TRƯỜNG MẦM NON
HƯƠNG SƠN – HUYỆN BÌNH XUYÊN – TỈNH
VĨNH PHÚC THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG TẠO
HÌNH TỪ VẬT LIỆU CÓ SẴN TRONG TỰ NHIÊN
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Chuyên ngành: Phương pháp tổ chức hoạt động tạo hình
Người hướng dẫn khoa học
Thạc Sỹ: VŨ LONG GIANG

HÀ NỘI – 2014


LỜI CAM ĐOAN
Khoá luận là kết quả cố gắng của bản thân tôi trong quá trình học tập vầ
nghiên cứu tại trường Đại học. Tôi xin cam đoan đề tài nghiên cứu “ Tìm hiểu thực
trạng giáo dục thẩm mỹ cho trẻ mẫu giáo lớn trường mầm non Hương Sơn – huyện
Bình Xuyên – tỉnh Vĩnh Phúc thông qua hoạt động tạo hình từ vật liệu có sẵn trong
tự nhiên” không trùng lặp với bất kỳ một đề tài nào khác và chưa được công bố
trên bất kỳ công trình nghiên cứu nào.

Hà Nội, tháng 5 năm 2014
Sinh Viên
Hoàng Thị Ngọc Yến



DANH MỤC KÝ HIỆU VIẾT TẮT
GDTM:

Giáo dục thẩm mỹ

NXB:

Nhà xuất bản

GD – ĐT:

Giáo dục – Đào tạo


MỤC LỤC
PHẦN 1: MỞ ĐẦU……………………………………………………….1
1. Lý do chọn đề tài…………………………………......................................1
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài…………………………….................................3
3. Mục đích nghiên cứu……………………………………………………....4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu…………………………………………4
5. Nhiệm vụ nghiên cứu………………………………………………………4
6. Giả thuyết khoa học………………………………………………………..5
7. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………………..5
8. Cấu trúc khoá luận…………………………………....................................5

PHẦN 2: NỘI DUNG..................................................................................7
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN…………………………………….......7
1.1. ĐẶC ĐIỂM TÂM SINH LÝ CỦA TRẺ MẪU GIÁO LỚN....................................7


1.1.1. Đặc điểm tâm lý……………………………………………………..7
1.1.2. Đặc điểm sinh lý…………………………………………………….7
1.2.MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ GIÁO DỤC THẨM MỸ - GIÁO DỤC THẨM MỸ CHO TRẺ MẪU
GIÁO LỚN............................................................................................................10

1.2.1. Khái niệm thẩm mỹ…………………………………………………..10
1.2.2. Giáo dục thẩm mỹ cho trẻ mẫu giáo lớn……………………………..11
1.2.2.1. Giáo dục thẩm mỹ………………………………………………12
1.2.2.2. Nội dung giáo dục thẩm mỹ cho trẻ mẫu giáo lớn……………...14
1.2.2.3. Ý nghĩa của việc giáo dục thẩm mỹ cho trẻ mẫu giáo lớn……...16
1.3. GIÁO DỤC THẨM MỸ CHO TRẺ MẪU GIÁO LỚN THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG TẠO
HÌNH TỪ VẬT LIỆU CÓ SẴN TRONG TỰ NHIÊN...................................................16


1.3.1. Khái quát về hoạt động tạo hình ở trường mầm non…………………16
1.3.2. Hoạt động tạo hình từ vật liệu cón sẵn trong tự nhiên và vai trò của hoạt
động này đối với sự phát triển thẩm mỹ của trẻ………………………………..18
1.3.2.1. Nguyên vật liệu………………………………………………….18
1.3.2.2. Yêu cầu khi sử dụng nguyên vật liệu............................................18
1.3.2.3. Vai trò của hoạt động tạo hình từ vật liệu có sẵn trong tự nhiên đối
với sự phát triển thẩm mỹ của trẻ………………………………………………19

CHƯƠNG 2:THỰC TRẠNG GIÁO DỤC THẨM MỸ CHO TRẺ MẪU
GIÁO LỚN Ở TRƯỜNG MẦM NON HƯƠNG SƠN – HUYỆN BÌNH
XUYÊN – TỈNH VĨNH PHÚC THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG TẠO
HÌNH TỪ VẬT LIỆU CÓ SẴN TRONG TỰ NHIÊN...........................21
2.1. KHÁI QUÁT VỀ TRƯỜNG MẦM NON HƯƠNG SƠN – HUYỆN BÌNH XUYÊN – TỈ1H
VĨNH PHÚC……………………………………………………………………..21
2.2. KHẢO SÁT THỰC TRẠNG GIÁO DỤC THẨM MỸ CHO TRẺ MẪU GIÁO LỚN
TRƯỜNG MẦM NON THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG TẠO HÌNH TỪ VẬT LIỆU CÓ SẴN

TRONG TỰ NHIÊN................................................................................................23

2.2.1. Khái quát về tổ chức nghiên cứu thực trạng………………………..23
2.2.1.1. Mục đích nghiên cứu………………………………………….23
2.2.1.2. Khách thể nghiên cứu…………………………………………..23
2.2.1.3 Nhiệm vụ và nội dung nghiên cứu……………………………….24
2.2.1.4. Phương pháp nghiên cứu.............................................................24
2.2.2.Quy trình thường dùng để tổ chức hoạt động tạo hình từ vật liệu có sẵn
trong tự nhiên của giáo viên trường mầm non Hương Sơn ……………………27
2.3. KẾT QUẢ KHẢO SÁT THỰC TRẠNG..............................................................29
2.4. NHẬN THỨC CỦA GIÁO VIÊN TRƯỜNG MẦM NON HƯƠNG SƠN – HUYỆN BÌNH
XUYÊN – TỈNH VĨNH PHÚC VỀ GIÁO DỤC THẨM MỸ THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG TẠO
HÌNH TỪ VẬT LIỆU CÓ SẴN TRONG TỰ NHIÊN……………………………….31


2.5. MỘT SỐ VẤN ĐỀ HẠN CHẾ TRONG TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG TẠO HÌNH TỪ VẬT
LIỆU CÓ SẴN TRONG TỰ NHIÊN CHO TRẺ Ở TRƯỜNG MẦM NON HƯƠNG SƠN..32

CHƯƠNG 3:ĐỀ XUẤT MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC THẨM MỸ CHO TRẺ MẪU GIÁO LỚN
TRƯỜNG MẦM NON HƯƠNG SƠN – THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG
TẠO HÌNH TỪ VẬT LIỆU CÓ SẴN TRONG TỰ NHIÊN
1.3. ĐỀ XUẤT VỚI NHÀ TRƯỜNG VÀ CÁC CẤP QUẢN LÝ………………………35
3.2. VỚI GIÁO VIÊN MẦM NON…………………………………………………35

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ SƯ PHẠM…………………………...43
1. KẾT LUẬN……………………………………………………………………43
2. KIẾN NGHỊ SƯ PHẠM…………………………………………………………45

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………...47

PHỤ LỤC


1

PHẦN 1:MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Trẻ em chính là tương lai của đất nước, vì vậy việc giáo dục, bồi dưỡng
những thế hệ măng non trở thành những công dân tốt với đầy đủ nhân lực, trí lực
để góp phần xây dựng đất nước là nhiệm vụ hàng đầu của ngành giáo dục và toàn
xã hội.
Trong đó, giáo dục mầm non là những viên gạch đầu tiên của hệ thống giáo
dục. Nhân cách của trẻ cũng được hình thành mạnh mẽ trong giai đoạn lứa tuổi
này. Việc thiếu quan tâm đến giáo dục mầm non chính là sự bỏ lỡ cơ hội cải thiện
triển vọng cho trẻ. Vì vậy giáo dục trẻ trong độ tuổi này vô cùng quan trọng và cần
được sự quan tâm của cả cộng đồng.
Nhà giáo dục Xô Viết A. S. Makarenkô khẳng định: “ Những cơ sở căn bản
của việc giáo dục trẻ được hình thành từ trước tuổi lên 5. Những điều dạy cho trẻ
ở thời kỳ đó chiếm tới 90% tiến trình giáo dục trẻ. Về sau việc giáo dục con người
vẫn tiếp tục nhưng lúc đó là lúc bắt đầu nếm quả, cùng những nụ hoa thơm đó
được vun trồng trong 5 năm đầu”
Trong điều 21, 22, Luật giáo dục (2005) đã xác định nhiệm vụ và mục tiêu
giáo dục mầm non “ Giáo dục mầm non thực hiện nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo
dục trẻ từ 3 tháng tuổi đến 6 tuổi”, “Mục tiêu của giáo dục mầm non là giúp trẻ
phát triển về thể chất, tinh thần, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên
của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1”
Như vậy, giáo dục Mầm non là bậc học đầu tiên của hệ thống giáo dục quốc
dân, có vai trò quan trọng trong việc đặt nền móng cho sự hình thành và phát triển
nhân cách con người.
Trẻ ở lứa tuổi mẫu giáo nhân cách bắt đầu được hình thành tuy chưa hoàn

toàn định hình nhưng nó có cơ sở tương đối ổn định trong việc tiếp tục


phát triển và hình thành nhân cách. Lúc này trẻ đặc biệt dễ dàng tiếp nhận những
ấn tượng từ phía bên ngoài mang tính hình tượng và giàu màu sắc cảm xúc. Đó là
những cái đẹp trong thiên nhiên, trong đời sống và trong nghệ thuật. Một bông hoa
tươi thắm, một cánh bướm sặc sỡ đều dễ gợi lên những rung động trong lòng đứa
trẻ. Đó chính là những cảm xúc thẩm mỹ - xúc cảm về cái đẹp. Hơn nữa, tuổi mẫu
giáo là thời kỳ nhạy cảm với cái đẹp xung quanh, có thể coi đây là thời kỳ phát
cảm của những cảm xúc thẩm mỹ - những xúc cảm tích cực, dễ chịu được nảy sinh
khi trẻ tiếp xúc trực tiếp với cái đẹp, tạo nên tinh thần sảng khoái, khiến trẻ cảm
thấy thiết tha với con người và cảnh vật xung quanh, làm nảy nở ở trẻ lòng mong
muốn làm những điều tốt lành để đem niềm vui đến cho mọi người. Do những đặc
điểm tâm lý ở lứa tuổi này, đặc biệt là trẻ ở tuổi mẫu giáo lớn là thời kỳ “ Hoàng
kim” cho giáo dục thẩm mỹ và chính việc giáo dục thẩm mỹ có khả năng kỳ diệu
tạo ra hiệu quả to lớn đối với sự phát triển toàn diện nhân cách trẻ, đặc biệt là giáo
dục đạo đức, giáo dục lòng nhân ái.
Ở trẻ mẫu giáo lớn, mặt thẩm mỹ phát triển nhanh nhất. Bởi đặc trưng tâm lý
của giai đoạn này được biểu hiện ở tính hình tượng, tính dễ xúc cảm và tính đồng
cảm. Bên cạnh đó, bản thân sự phát triển thẩm mỹ dễ kéo theo sự phát triển của các
mặt khác như đạo đức, trí tuệ và cả thể chất. Vì vậy, giáo dục thẩm mỹ cho trẻ mẫu
giáo lớn là một việc làm hết sức cần thiết và cần được tiến hành một cánh nghiêm
túc để ươm trồng những tài năng cho tương lai.
Giáo dục thẩm mỹ cho trẻ mẫu giáo lớn có thể thực hiện theo nhiều con
đường, nhiều hoạt động và nhiều hình thức khác nhau. Song con đường giáo dục
thẩm mỹ cho trẻ mẫu giáo lớn thông qua hoạt động tạo hình từ vật liệu có sẵn trong
tự nhiên là một hoạt động trong hoạt động tạo hình nói chung. Đó là con đường
mới lạ nhưng lại đạt hiệu quả cao bởi nó là một trong những hoạt



động thu hút được sự chú ý của trẻ mẫu giáo lớn. Khi tham gia vào tiết học tạo hình
từ vật liệu có sẵn trong tự nhiên, trẻ được tiếp xúc với các vật liệu khác nhau, khám
phá chúng và tạo ra được những sản phẩm mà mình mong muốn, làm cho trẻ cảm
thấy thích thú, say mê. Từ đó gợi ở trẻ nhu cầu muốn tạo ra cái đẹp, cái hay và có ý
thức tôn trọng, bảo vệ cái đẹp, làm cho quá trình giáo dục đạt hiệu quả.
Thực tế trong công tác giáo dục thẩm mỹ cho trẻ mẫu giáo lớn ở trường mầm
non Hương Sơn – Huyện Bình Xuyên – tỉnh Vĩnh Phúc những năm gần đây cũng
được chú trọng hơn. Giáo dục thẩm mỹ cho trẻ được lồng ghép thông qua các hoạt
động vui chơi, học tập của trẻ. Việc lồng ghép tích hợp giáo dục thẩm mỹ thông
qua hoạt động tạo hình từ vật liệu có sẵn trong tự nhiên giúp trẻ thoả sức khám
phá, trải nghiệm và sáng tạo. Bên cạnh những mặt thuận lợi thì cũng có không ít
những khó khăn cần phải giải quyết để có thể nâng cao mặt thẩm mỹ của
trẻ.
Vì vậy, để nâng cao chất lượng giáo dục nói chung và giáo dục thẩm mỹ nói
riêng cho trẻ mẫu giáo thì việc tìm ra phương thức giáo dục thẩm mỹ hiệu quả là
vấn đề cần thiết, là vấn đề hết sức quan trọng và luôn được quan tâm chú ý đặc biệt
trong trường mầm non hiện nay.
Hiểu được tầm quan trọng của vấn đề, là một giáo viên mầm non tương lai
chúng tôi thấy cần phải nhận thức đúng vai trò của việc giáo dục thẩm mỹ trong
trường mầm non nói chung và đối với trẻ mẫu giáo lớn nói riêng. Chính vì vậy mà
chúng tôi đã chọn đề tài nghiên cứu: “ Tìm hiểu thực trạng giáo dục thẩm mỹ
cho trẻ mẫu giáo lớn trường mầm non Hương Sơn – huyện Bình Xuyên – tỉnh
Vĩnh Phúc thông qua hoạt động tạo hình từ vật liệu có sẵn trong tự nhiên.”.


2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Giáo dục thẩm mỹ cho trẻ mầm non là một vấn đề quan trọng, luôn được
quan tâm và chú ý, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này như:
Tái giả Nguyễn Ánh Tuyết, (1989), với cuốn “ Giáo dục cái đẹp cho trẻ
thơ”, NXB Giáo Dục Hà Nội.

Tác giả Phan Việt Hoa, Nguyễn Thị Hoàng Yến, (2006), với cuốn: “ Mỹ học
và giáo dục thẩm mỹ”, NXB Đại học Sư phạm.
Đỗ Huy, (1987) “ Giáo dục thẩm mỹ - một số vấn đề lý luận và thực tiễn”,
NXB Thông tin lý luận.
Và nhiều công trình nghiên cứu khác.
Tuy nhiên chưa có tác giả nào nghiên cứu vấn đề khảo sát thực trạng giáo
dục thẩm mỹ cho trẻ mẫu giáo lớn thông qua hoạt động tạo hình từ vật liệu có sẵn
trong tự nhiên. Với đề tài này, tôi hy vọng sẽ tìm ra những biện pháp giúp nâng cao
chất lượng giáo dục thẩm mỹ cho trẻ mẫu giáo lớn trường mầm non Hương Sơn –
huyện Bình Xuyên – tỉnh Vĩnh Phúc.
3. Mục đích nghiên cứu
Sử dụng vật liệu có sẵn trong tự nhiên để hướng dẫn trẻ vui chơi, tham gia
vào hoạt động tạo hình, từ đó nâng cao nhận thức thẩm mỹ cho trẻ mẫu giáo lớn
trường mầm non Hương Sơn – huyện Bình Xuyên – tỉnh Vĩnh Phúc.
Phát triển các chức năng tâm lý như khả năng tri giác sự vật, hiện tượng
xung quanh, từ đó phát triển óc tưởng tượng, sáng tạo, ham muốn tạo ra cái đẹp.
Qua tìm hiểu đề tài này giúp giáo viên trau dồi những kiến thức chuyên môn
nghiệp vụ, phục vụ cho công tác giảng dạy sau này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu


Đối tượng nghiên cứu: Thực trạng giáo dục thẩm mỹ cho trẻ mẫu giáo lớn
trường Mầm non Hương Sơn – huyện Bình Xuyên – tỉnh Vĩnh Phúc thông qua
hoạt động tạo hình từ vật liệu có sẵn trong tự nhiên.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Tìm hiểu và nghiên cứu thực trạng giáo dục thẩm mỹ cho trẻ mẫu giáo lớn
trường mầm non Hương Sơn – huyện Bình Xuyên – tỉnh Vĩnh Phúc thông qua hoạt
động tạo hình từ vật liệu có sẵn trong tự nhiên.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu

Tìm hiểu các vấn đề lý luận về giáo dục thẩm mỹ và hoạt động tạo hình từ
vật liệu có sẵn trong tự nhiên của trẻ mẫu giáo lớn.
Tìm hiểu thực trạng về giáo dục thẩm mỹ cho trẻ mẫu giáo lớn trường Mầm
non Hương Sơn – huyện Bình Xuyên – tỉnh Vĩnh Phúc thông qua hoạt động tạo
hình từ vật liệu có sẵn trong tự nhiên.
Bước đầu đề xuất một số biện pháp tác động nhằm nâng cao việc giáo dục
thẩm mỹ trong hoạt động tạo hình từ vật liệu có sẵn trong tự nhiên.
6. Giả thuyết khoa học
Với việc giáo dục thẩm mỹ thông qua hoạt động tạo hình tại lớp trẻ mẫu giáo
lớn ( 5- 6 tuổi) trường mầm non Hương Sơn – huyện Bình Xuyên – tỉnh Vĩnh Phúc
mà có sự đa dạng về vật liệu, đặc biệt là những vật liệu có sẵn trong tự nhiên và
quen thuộc với trẻ sẽ góp phần nâng cao nhận thức thẩm mỹ cho trẻ, tăng hiệu quả
giáo dục toàn diện nói chung, hiệu quả giáo dục thẩm mỹ nói riêng.
7. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý luận: Đọc, nghiên cứu tài liệu về tâm lý học,
giáo dục học, mỹ thuật học, phương pháp tổ chức hoạt động tạo hình,……….
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:


+ Phương pháp quan sát
+ Phương pháp điều tra
+ Phương pháp thống kê toán học
8. Cấu trúc khoá luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, nội dung chính của khoá luận bao
gồm:
Chương 1: Cơ sở lý luận.
Chương 2: Thực trạng giáo dục thẩm mỹ cho trẻ mẫu giáo lớn trường Mầm
non Hương Sơn – huyện Bình Xuyên – tỉnh Vĩnh Phúc thông qua hoạt động tạo
hình từ vật liệu có sẵn trong tự nhiên.
Chương 3: Một số đề xuất nhằm nâng cao chất lượng giáo dục thẩm mỹ cho

trẻ mẫu giáo lớn trường mầm non Hương Sơn – huyện Bình Xuyên – tỉnh Vĩnh
Phúc thông qua hoạt động tạo hình từ vật liệu có sẵn trong tự nhiên..


PHẦN 2: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ
SỞ LÝ LUẬN
1.1. ĐẶC ĐIỂM TÂM SINH LÝ CỦA TRẺ MẪU GIÁO LỚN

1.1.1. Đặc điểm sinh lý
Ở trẻ mẫu giáo lớn, sự phát triển của cơ thể diễn ra chậm hơn so với giai
đoạn trước về số lượng: chiều cao trung bình tăng từ 5cm - 8 cm; đạt từ 105,5 cm 125,2 cm. Cân nặng trung bình tăng khoảng 1- 2,5 kg; đạt khoảng 25,7kg.
Có sự thay đổi rõ rệt về chất lượng phát triển:
Hệ tiêu hoá ngày càng hoàn thiện, quá trình hình thành men tiêu hoá được
tăng cường, sự hấp thụ thức ăn ngày càng tốt hơn.
Hệ thần kinh ngày càng phát triển, khả năng hoạt động của các tế bào thần
kinh tăng lên, quá trình cảm ứng ở vỏ não phát triển, trẻ có thể tiến hành hoạt động
trong thời gian lâu hơn.
Hệ cơ xương của trẻ đang dần hoàn thiện, các mô cơ ngày càng phát triển, cơ
quan điều khiển vận động được tăng cường… Do vậy, trẻ có thể tiến hành hoạt
động đòi hỏi sự khéo léo của đôi tay, chân và toàn thân ( chạy, nhảy, vẽ, nặn, cắt,
dán…).
Cơ quan phát âm cũng phát triển và hoàn thiện dần. Ở giai đoạn này, ngôn
ngữ của trẻ đóng vai trò quan trọng trong việc điều khiển hành vi của trẻ.
1.1.2. Đặc điểm tâm lý
Độ tuổi mẫu giáo lớn là giai đoạn cuối cùng của trẻ em ở lứa tuổi mầm non tức là lứa tuổi trước khi đến trường phổ thông. Ở giai đoạn này, những cấu tạo tâm
lý đặc trưng của con người đã được hình thành trước đây, đặc biệt là trong độ tuổi
mẫu giáo nhỡ vẫn tiếp tục phát triển mạnh. Với sự giáo dục



của người lớn, những chức năng tâm lý đó sẽ được hoàn thiện về mọi phương diện
của hoạt động tâm lý ( nhận thức, tình cảm và ý chí) để hoàn thành việc xây dựng
những cơ sở ban đầu về nhân cách của con người.
Sử dụng thành thạo tiếng mẹ đẻ trong sinh hoạt hàng ngày.Một trong những
thành tựu lớn lao nhất của giáo dục mầm non là làm cho trẻ sử dụng được một cách
thành thạo tiếng mẹ đẻ trong đời sống hàng ngày. Tiếng mẹ đẻ là phương tiện quan
trọng nhất để lĩnh hội nền văn hoá dân tộc, để giao lưu với những người xung
quanh, để tư duy, để tiếp thu khoa học…
Lứa tuổi mẫu giáo là thời kỳ bộc lộ tính nhạy cảm cao nhất đối với các hiện
tượng ngôn ngữ, điều đó khiến cho sự phát triển ngôn ngữ của trẻ đạt tốc độ khá
nhanh, và đến cuối tuổi mẫu giáo thì hầu hết trẻ em đều biết sử dụng tiếng mẹ đẻ
một cách thành thục trong sinh hoạt hàng ngày. Sự hoàn thiện tiếng mẹ đẻ ở trẻ
mẫu giáo lớn theo các hướng sau:
- Nắm vững ngữ âm và ngư điệu khi sử dụng tiếng mẹ đẻ.
- Phát triển vốn từ và cơ cấu ngữ pháp.
- Sự phát triển ngôn ngữ mạch lạc.
Nhìn chung đứa trẻ trước khi bước vào lứa tuổi học sinh đã có khả năng nắm
được ý nghĩa của từ vựng thông dụng, phát âm đúng với sự phát âm của người lớn,
biết dùng ngữ điệu phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp, và đặc biệt là nói đúng hệ
thống ngữ pháp phức tạp bao gồm những quy luật ngôn ngữ tinh vi nhất về phương
diện cú pháp và phương diện tu từ, nói năng mạch lạc, thoải mái. Tóm lại, trẻ đã
thực sự nắm vững tiếng mẹ đẻ.
Sự xác định ý thức bản ngã và tính chủ định trong hoạt động tâm lý. Ý thức
bản ngã hay sự tự ý thức được thể hiện rõ nhất trong sự tự đánh giá về bản thân. Để
đánh giá bản thân một cách đúng đắn, đầu tiên đứa trẻ phải học cách đánh giá
người khác và nghe người xung quanh đánh giá mình như thế nào. Ban đầu, sự
đánh giá của trẻ về người khác còn phụ thuộc vào tình cảm


của nó đối với người này. Đến tuổi mẫu giáo lớn, trẻ nắm được kỹ năng so sánh

mình với người khác, điều này là cơ sở để tự đánh giá một cách đúng đắn hơn và
cũng là cơ sở để trẻ noi gương tốt.
Trẻ mẫu giáo lớn, sự tự ý thức được biểu hiện rõ trong sự phát triển giới
tính của trẻ.Ở tuổi này, trẻ không những nhận ra mình là trai hay gái mà còn biết
thực hiện hành vi sao cho phù hợp với giới tính của mình. Lúc này, tấm gương của
người lớn tác động mạnh mẽ đến trẻ.
Ý thức bản ngã được xách định rõ ràng giúp trẻ điều khiển, điều chỉnh hành
vi của mình phù hợp với chuẩn mực, quy tắc xã hội, từ đó hành vi của trẻ mang
đậm tính xã hội, tính nhân cách. Bên cạch đó, còn cho phép trẻ thực hiện hành
động một cách chủ tâm hơn, làm cho các quá trình tâm lý mang tính chủ định rõ
rệt.
Ở tuổi mẫu giáo bé, trẻ chỉ tập trung chú ý vào một đối tượng trong thời gian
ngắn và dễ thay đổi sang đối tượng khác hấp đẫn hơn. Nhưng đến tuổi mẫu giáo
lớn, sự chú ý đã tập trung và bền vững hơn. Cũng tương tự như vậy, ghi nhớ của
trẻ mẫu giáo lớn càng ngày càng có tính chủ định nhiều hơn.
Do sự xác định ý thức bản ngã được rõ ràng hơn và các quá trình tâm lý
không chủ định chuyển dần sang quá trình tâm lý mang tính chủ định, làm cho các
hành động ý chí của trẻ ngày càng được bộc lộ rõ nét trong hoạt động vui chơi và
trong cuộc sống.
Xuất hiện kiểu tư duy trực quan hình tượng mới – tư duy trực quan sơ đồ và
những yếu tố của tư duy lôgic. Để đáp ứng với khả năng và nhu cầu phát triển của
trẻ ở cuối tuổi mẫu giáo cần phát triển thêm một kiểu tư duy trực quan – hình
tượng mới, đó là kiểu tư duy trực quan sơ đồ. Kiểu tư duy này tạo cho trẻ một khả
năng phản ánh những mối liên hệ tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào hành
động hay ý muốn của bản thân trẻ. Trẻ mẫu giáo lớn có khả năng hiểu một cách dễ
dàng và nhanh chóng về cách biểu diễn sơ


đồ và sử dụng có kết quả những sơ đồ đó để tìm hiểu sự vật. Trong thời gian này,
trẻ bắt đầu hiểu rằng, có thể biểu thị một sự vật hay một hình tượng nào đó bằng

những từ ngữ hay các ký kiệu khác nhau khi phải giải những bài toán tư duy độc
lập.
Tư duy trược quan sơ đồ phát triển cao sẽ dẫn đứa trẻ đến ngưỡng cửa của
tư duy trừu tượng. Trẻ em ở cuối tuổi mẫu giáo có thể lĩnh hội được những khái
niệm khoa học đơn giản. Điều đó giúp trẻ thay đổi khá nhiều trong hoạt động tư
duy của chúng, biểu hiện ở sự nảy sinh các yếu tố tư duy lôgic cùng với sự dạy dỗ
đặc biệt.
1.2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ GIÁO DỤC THẨM MỸ - GIÁO DỤC THẨM MỸ CHO TRẺ
MẪU GIÁO

1.2.1.. Khái niệm thẩm mỹ
Nói đến thẩm mỹ là nói đến cái đẹp. Cái đẹp là cái hài hoà, vừa có tính bản
thể, vừa có tính định hướng. Có tính bản thể là vì “ cái đẹp” có thể là một hiện
tượng, sự vật hay một ý nghĩa, một hành vi, là tinh thần hay vật chất… nó tồn tại
như những chỉnh thể độc lập. Có tính định hướng vì “ cái đẹp” là một trong những
chuẩn mực mà con người luôn mong mỏi đạt tới. Có rất nhiều quan điểm của các
nhà Mỹ học về cái đẹp:
Palaton coi cái đẹp là ý niệm chung được thâm nhập vào các hiện tượng cụ
thể mà tạo thành vẻ đẹp, ông cho rằng cái đẹp có tính chất vĩnh cửu trong mọi thời
gian, mọi địa điểm, mọi ý nghĩa.
Giáo sư người Đức- Baumgacten cho rằng: cái hoàn mỹ là một cơ sở của cái
đẹp, sự hoàn mỹ là nhận thức thuần tuý bao gồm có lí tính và ý chí, do đó sự hoàn
mỹ là sự thống nhất của Chân- Thiện- Mỹ.
Theo C.Mác: “ cái đẹp không chỉ là thước đo hoạt động của con người mà
còn là cái chuẩn để chỉ phẩm chất con người”. Ông viết: “ Súc vật chỉ nhào nặn vật
chất theo thước đo giống loài nó, còn con người thì có thể áp


dụng thước đo cho mọi đối tượng, do đó con người cũng nhào nặn vật chất theo
quy luật của cái đẹp” ( C.Mác. Awnghen. Tuyển tập, T1, NXB Sự thật, Hà Nội

1980, trang 19).
Cái đẹp luôn đem lại cho con người một cảm giác khoái lạc về mặt thẩm mỹ,
được biểu hiện dưới nhiều hình thức, có giá trị thẩm mỹ cao nhất, vì vậy cần giáo
dục thẩm mỹ cho trẻ ngay từ khi còn nhỏ.
1.2.2. Giáo dục thẩm mỹ cho trẻ mẫu giáo lớn
1.2.2.1. Giáo dục thẩm mỹ
Giáo dục thẩm mỹ là một trong những bộ phận quan trọng của giáo dục
toàn diện đối với trẻ và cần bắt đầu ngay từ lứa tuổi mầm non.
Giáo dục thẩm mỹ cho trẻ là một môn khoa học vì nó có hệ thống giáo
dục tốt nhất, có nguyên lý xuất phát, có đối tượng thẩm mỹ, có phương pháp
nghiên cứu, có hệ thống khái niệm và phạm trù riêng biệt, có lịch sử phát sinh và
phát triển.Theo quan điểm của Mỹ học Mác – Lê Nin, giáo dục thẩm mỹ được hiểu
theo 2 nghĩa:
Nghĩa hẹp: Giáo dục thẩm mỹ là quá trình giáo dục có tính trường quy về
cái đẹp, giáo dục con người biết cảm thụ, đánh giá và sáng tạo cái đẹp.
Nghĩa rộng: Giáo dục thẩm mỹ là quá trình giáo dục và tự giáo dục nhằm
phát huy mọi năng lực của con người theo quy luật cái đẹp, trong đó có việc bồi
dưỡng nhận thức thị hiếu thẩm mỹ, lý tưởng thẩm mỹ của con người. Xây dựng
những tình cảm mạnh mẽ để con người có thể phân biệt rạch ròi giữa cái đẹp và cái
xấu, cái cao cả và cái thấp hèn.
Giáo dục thẩm mỹ là một quá trình tác động có hệ thống và có mục đích
vào nhân cách của cá nhân nhằm phát triển năng lực cảm thụ và nhận biết cái đẹp
trong nghệ thuật, trong tự nhiên và trong đời sống xã hội, giáo dục lòng yêu cái đẹp
và đưa cái đẹp vào trong đời sống xã hội một cách sáng tạo. Nhiệm vụ của giáo
dục thẩm mỹ là hình thành ở trẻ các quan hệ thẩm mỹ


đối với hiện thực, thúc đẩy trẻ hoạt động sáng tạo theo quy luật của cái đẹp. Một
cách đơn giản cũng có thể hiểu được cái đẹp trong hiện thực, trong tự nhiên, trong
lao động sinh hoạt, trong các mối quan hệ và hành vi của con người cũng như

trong nghệ thuật, phát triển các quan điểm thị hiếu, tình cảm, nhu cầu và năng lực
xây dựng cái đẹp một cách tích cực và sáng tạo.
Như vậy, bản chất của giáo dục thẩm mỹ là nguyên tắc hoạt động sáng
tạo của con người theo quy luật của cái đẹp. Nghĩa là con người luôn hướng tới
những cái mới, cái tốt đẹp hơn.
1.2.2.2. Nội dung giáo dục thẩm mỹ cho trẻ mẫu giáo lớn
Sự phát triển tri giác, tình cảm và khái niệm thẩm mỹ cho trẻ mẫu giáo
lớn. Giáo dục thẩm mỹ bắt đầu từ sự phát triển năng lực tri giác cái đẹp, cảm thụ
cái đẹp, hiểu cái đẹp theo cách người ta thường nói về nghệ thuật.
Theo quan điểm của mỹ học Mác – Lê Nin: “Sự tri giác cái đẹp được hiểu
là quá trình cảm thụ cái đẹp mà kết quả của nó là những rung cảm thẩm mỹ, những
tình cảm thẩm mỹ”.
Cơ sở của sự tri giác cái đẹp là sự nhận thức cảm tính cụ thể về mặt thẩm
mỹ. Nhìn và nghe là cơ sở hoàn toàn đầy đủ về phương diện tâm sinh lý để tri giác
cái đẹp. Từ “ đẹp” sớm đi vào cuộc sống của trẻ. Trẻ say sưa lắng nghe bài hát,
xenh tranh ảnh, bị lôi cuốn vào những sự vật sống động, sặc sỡ. Tuy nhiên, đó
chưa phải là tình cảm thẩm mỹ mà chỉ là sự biểu hiện của hứng thú nhận thức. Giáo
viên cần làm cho trẻ chú ý đến những sự vật và hiện tượng tự nhiên, đến những
hành vi của con người, dạy cho các em biết nhìn ra và phát triển được cái đẹp trong
đời sống, trong thiên nhiên lao động, trong hành vi và hành động của con
người, dạy cho các em biết nhìn nhận về phương diện thẩm mỹ đối với thế giới
xung quanh.
Tri giác thẩm mỹ có liên quan chặt chẽ với cảm xúc và tình cảm thẩm
mỹ. Với trẻ em, đặc điểm của tình cảm thẩm mỹ là niềm vui vô tư, là


cảm xúc tâm hồn trong sáng xuất hiện khi thấy cái đẹp. Tình cảm thẩm mỹ giữ vai
trò rất to lớn trong việc đánh giá các sự vật và hiện tượng khác nhau. Trong việc
rèn luyện thị hiếu thẩm mỹ sau này cho trẻ. Giáo viên có nhiệm vụ dẫn dắt trẻ đi từ
sự tri giác cái đẹp, cảm xúc đối với nó đến chỗ hiểu và hình thành khái niệm, các

nhận xét và đánh giá thẩm mỹ.
Phát triển các năng lực nghệ thuật sáng tạo của trẻ. Nghệ thuật là hình
thái ý thức xã hội đặc biệt, dùng những hình tượng sinh động, cụ thể, gợi cảm để
phản ánh hiện thực và truyền đạt tư tưởng tình cảm. Bởi vậy, giáo dục nghệ thuật
cho trẻ là một quá trình khó khăn và phức tạp.
Đặc điểm sáng tạo của trẻ thể hiện ở chỗ: trong hoạt động trẻ thực hiện
một cách có chủ định, biết phối hợp các tri thức về ấn tượng của mình ở tính chân
thật cao khi thể hiện tình cảm và tư tưởng. Hơn nữa, đặc điểm tâm lý được thể hiện
rất rõ ở tuổi mẫu giáo là sự bắt chước. Đặc điểm này thể hiện rất rõ trong hoạt
động vui chơi của trẻ. Trong trò chơi trẻ bắt chước những hoạt động của người lớn,
trẻ biết mô phỏng bằng hình ảnh, những ấn tượng lấy trong thế giới xung quanh.
Óc tưởng tượng sáng tạo của trẻ cũng được thể hiện ở chỗ các em thường
kết hợp có ý thức các chủ đề khác nhau. Các em lấy tư tưởng từ truyện cổ tích,
trong phim ảnh, trong cuộc sống… các em phối hợp các tri thức, ấn tượng và thống
nhất chúng trong một cái hoàn chỉnh.
Tính sáng tạo của trẻ còn được thể hiện trong các hình thức nghệ thuật
khác như: vẽ, nặn, kể chuyện hay ca hát.
Ở tuổi mẫu giáo đã có mầm mống của tính sáng tạo, chúng thể hiện ở sự
phát triển năng lực xây dựng có chủ định và thực hiện nó; ở kỹ năng phối hợp các
tri thức, các khái niệm của mình. Vì vậy, để phát triển óc sáng tạo cho trẻ cần có
quá trình dạy học để giúp trẻ cách diễn đạt hình tượng và mô tả chủ định, khơi dậy
ở trẻ những biểu hiện có ý thức về nghệ thuật, gây ra cảm


xúc tích cực và phát triển năng lực cho trẻ. Mục đích của việc dạy kỹ năng, kỹ xảo
hoạt động nghệ thuật không chỉ giúp trẻ có tri thức và kỹ xảo về ca, hát, vẽ, mà còn
gây ở trẻ hứng thú, hoạt động độc lập, sáng tạo, đem lại niềm vui trong cuộc sống
của trẻ, trong tập thể và gia đình.
Hình thành những cơ sở của thị hiếu thẩm mỹ. Sự cảm thụ cái đẹp có liên
hệ mật thiết đến năng lực đánh giá cái đẹp một cách đúng đắn. Thị hiếu thẩm mỹ

của con người thể hiện lở sự phán đoán đánh giá. Cần dạy cho trẻ phân biệt cái đep
với cái không đẹp, cái thô kệch với cái xấu xí. Giáo dục cho các em năng lực trình
bày lý do tại sao lại thích bức tranh này, bài hát này, câu truyện này.
Có thể hình thành cơ sở của thị hiếu thẩm mỹ thông qua việc tìm hiểu các
tác phẩm cổ điển của thiếu nhi, tìm hiểu âm nhạc, hội hoạ. Từ đó, trẻ học cách
nhận biết, yêu mến các tác phẩm nghệ thuật chân chính, phù hợp với lứa tuổi trẻ.
Cũng cần dạy trẻ biết nhận ra và cảm thụ cái đẹp ở cuộc sống xung quanh và biết
bảo vệ nó.
1.2.2.3. Ý nghĩa của việc giáo dục thẩm mỹ cho trẻ mẫu giáo lớn
Giáo dục thẩm mỹ là một trong những nội dung quan trọng của giáo dục
toàn diện đối với thế hệ trẻ, và là việc cần phải tiến hành một cách nghiêm túc từ
tuổi mẫu giáo. Có thể coi trẻ mẫu giáo là thời kỳ “hoàng kim” của giáo dục thẩm
mỹ. Ở lứa tuổi này, tâm hồn trẻ rất nhạy cảm, dễ xúc động với con người và cảnh
vật xung quanh, trí tưởng của trẻ bay bổng và phong phú. Tính hình tượng đang
phát triển mạnh mẽ, hầu như chi phối mọi hoạt động tâm lý của trẻ. Với các đặc
điểm tâm lý như vậy mà năng khiếu nghệ thuật thường được nảy sinh ngay từ tuổi
thơ và tất nhiên việc giáo dục thẩm mỹ cần tiến hành ngay ở lứa tuổi mẫu giáo để
ươm trồng những tài năng cho tương lai.


Giáo dục thẩm mỹ là một khái niệm rộng, trong đó chủ yếu là giáo dục thái độ
thẩm mỹ đối với thiên nhiên, lao động, đời sống xã hội, sinh hoạt và nghệ thuật.
Bởi vậy, thẩm mỹ thuộc phạm trù quan hệ, đánh giá. Khi có quan hệ đến đối
tượng thẩm mỹ, cá nhân bộc lộ thái độ của mình qua sự đánh giá. Thái độ thẩm
mỹ của
trẻ đối với thế giới xung quanh là một hệ thống hoàn chỉnh của những mối liên hệ
cá nhân, có chọn lọc của trẻ với những phẩm chất mỹ học của xunh quanh. Thái
độ thẩm mỹ của trẻ bao gồm những phản ứng xúc cảm của trẻ đối với cái tuyệt
vời,
cái đẹp, những xúc cảm lành mạnh, hoạt động sáng tạo của trẻ, nguyện vọng biến

đổi xung quanh vừa sức mình, cũng như đánh giá những sự kết hợi đẹp đẽ, hài
hoà về màu sắc, âm thanh…
Giáo dục nghệ thuật là một bộ phận quan trọng của giáo dục thẩm mỹ.
Tuy nhiên, việc nhận thức nghệ thuật rất đa dạng và độc đáo đến mức nó được
tách ra trong hệ thống giáo dục thẩm mỹ như một bộ phận riêng biệt của nó. Giáo
dục trẻ bằng các phương tiện nghệ thuật là đối tượng của giáo dục nghệ thuật,
một bộ phận quan trọng của giáo dục thẩm mỹ.
Giáo dục thẩm mỹ có mối liên hệ mật thiết với giáo dục đạo đức và trí
tuệ. Cảm xúc thẩm mỹ không những được xây dựng trên cơ sở cảm thụ cái đẹp
mà còn trên cơ sở hiểu biết sâu sắc nội dụng tư tưởng của tác phẩm nghệ thuật.
Những cảm xúc thẩm mỹ có ảnh hưởng lớn đến bộ mặt đạo đức của con người và
làm cho tính cách của con người thêm cao thượng. Cảm xúc thẩm mỹ làm phong
phú thêm cuộc sống của trẻ, góp phần giáo dục tính lạc quan, yêu đời của các em,
khêu gợi ở các em tính tch cực sáng tạo và ảnh hưởng đến việc hình thành mối
quan hệ của các em với cuộc sống và những người xung quanh. Giáo dục thẩm mỹ
làm cho sự tự giác được sắc bén hơn, giúp cho việc hiểu cái đã tự giác được sâu
sắc hơn và


góp phần phát triển.


Giáo dục thẩm mỹ có liên hệ trực tiếp với giáo dục lao động và thể dục. Bản thân
lao động được tổ chức là một phương thiện giáo dục thẩm mỹ. Toàn bộ vẻ đẹp
của hoàn cảnh và sự tổ chức quá trình lao động có tác dụng nâng cao năng suất
lao đông. Sức khoẻ và phát triển thể lực tốt, tư thế đẹp bao giờ cũng gây ra cảm
giác đẹp và có tác dụng thẩm mỹ đến sự phát triển chung về mặt tinh thần của
con
người. Vẻ đẹp của các thao tác, các vận động, của nhịp điệu kích thích hứng
thú của trẻ đối với việc tập thể dục và thể thao.

Như vậy, giáo dục thẩm mỹ là một bộ phận của giáo dục toàn diện, góp
phần quan trọng vào việc hình thành nhân cách, phát triển toàn diện, Giáo dục
thẩm mỹ cần được tiến hành ngay ở lứa tuổi mẫu giáo. Các hình tượng nghệ
thuật
tác động vô cũng mạnh mẽ đến trẻ em. Bởi vì trẻ em cảm thụ nhờ tư duy trực
quan hình tượng, nhờ tính dễ xúc cảm và nhờ mối quan hệ tích cực của trẻ mẫu
giáo đối với hiện thực xung quanh.
1.3. GIÁO DỤC THẨM MỸ CHO TRẺ MẪU GIÁO LỚN THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG TẠO HÌNH TỪ
VẬT LIỆU CÓ SẴN TRONG TỰ NHIÊN

1.3.1. Khái quát về hoạt động tạo hình ở trường mầm non
Hoạt động tạo hình gắn liền với hoạt động của con người. Ngay từ khi con
người chưa có ngôn ngữ học đã sử dụng hoạt động tạo hình như một phương tiện
để giao tiếp và truyền đạt lại kinh nghiệm sản xuất. Điều đó chứng tỏ hoạt động
tạo hình là một trong những nhu cầu cần thiết của đời sống con người.
Hoạt động tạo hình là một trong những hoạt động của co người để tạo ra
các sản phẩm có hình thể và màu sắc đẹp, đem lại khoái cảm thẩm mỹ cho người
xem
– nhận ra cái đẹp và cảm xúc trước cái đẹp.


Hoạt động tạo hình ở trường mầm non là hoạt động cho trẻ làm quen và
tiếp xúc với nghệ thuật tạo hình, từ đó trẻ có thể cảm nhận được ngôn ngữ,
đường nét, màu sắc,… qua đó nâng cao được nhận thức cho trẻ. Hoạt động


này được tổ chức thông qua các bài học như: vẽ, nặn, chắp ghép, làm quen với
tác phẩm tạo hình…
Trẻ thường tạo hình một cách tự nhiên nhất, trẻ có thể vạch lên bàn, lên
giấy để tạo thành những nét thẳng, nét cong…chẳng ra hình thù gì như những sợi

chỉ rối mù. Song hoạt động này là cần thiết vì nó phát triển thị giác, nâng cao nhận
thức về sự vật, hiên tượng trong cuộc sống hằng ngày mà chúng ta chưa được tiếp
xúc,
giúp trẻ tạo ra sản phẩm đẹp, đó là nét và hình, mà trước đó là ở mặt đất,
mặt giấy…
Đối với việc giáo dục và phát triển toàn diện nhân cách cho trẻ, hoạt
động tạo hình có vị trí rất quan trọng.
Hoạt động tạo hình là một trong những hoạt động hấp dẫn nhất đối với trẻ
mẫu giáo, nó giúp trẻ tm hiểu, khám phá và thể hiện một cách sinh động những
gì mà chúng nhìn thấy trong thế giới xung quanh, những gì làm chúng rung động
mạnh mẽ và gây cho chúng những cảm xúc, tnh cảm tích cực.
Hoạt động tạo hình là hoạt động có đầy đủ điều kiện để đảm bảo sự tác
động đồng bộ lên mọi mặt phát triển của trẻ em, về đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ,
thể chất và hình thành các phẩm chất, kỹ năng ban đầu của con người như một
thành viên
trong xã hội biết lao động tích cực sáng tạo.
Hoạt động tạo hình là một trong những hoạt động khó, đòi hỏi bàn tay
khéo léo, óc quan sát, tư duy tưởng tượng….góp phần phát triển trí tuệ, trẻ tm tòi
khám phá để tạo ra sản phẩm đẹp giúp cho trẻ hiểu biết thêm những kiến thức cơ
bản của hoạt động tạo hình và sử dụng hiệu quả trong tác phẩm nghệ thuật của
mình.
Trong tác phẩm nghệ thuật tạo hình của trẻ, người ta có thể hiểu được trẻ
muốn nói gì ( ngôn ngữ tạo hình ), thể hiện tình cảm gì ( phương tiện truyền cảm).


×