Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật truyện phan trần (2016)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (579.27 KB, 67 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA: NGỮ VĂN
--------  -------

LÊ THỊ TÂY

TÌM HIỂU GIÁ TRỊ NỘI DUNG VÀ
NGHỆ THUẬT TRUYỆN PHAN TRẦN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

HÀ NỘI – 2016


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA: NGỮ VĂN
--------  -------

LÊ THỊ TÂY

TÌM HIỂU GIÁ TRỊ NỘI DUNG VÀ
NGHỆ THUẬT TRUYỆN PHAN TRẦN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Người hướng dẫn khoa học
TS. NGUYỄN THỊ VIỆT HẰNG

HÀ NỘI – 2016




LỜI CẢM ƠN
Khóa luận được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Thị
Việt Hằng, em xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô cùng các thầy
cô giáo trong khoa Ngữ văn đã tận tình giúp đỡ hướng dẫn em trong suốt
quá trình triển khai đề tài.
Hà Nội, ngày 05 tháng 05 năm 2016
Sinh viên

Lê Thị Tây


LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan luận văn là kết quả nghiên cứu của bản thân dưới
sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Thị Việt Hằng. Kết quả luận văn không
trùng khớp với các công trình nghiên cứu khác, nếu sai sót, em xin hoàn
toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 05 tháng 05 năm 2016
Sinh viên

Lê Thị Tây


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề............................................................................................... 1
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu.......................................... 3
3.1. Mục đích của khóa luận:............................................................................ 3

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: ................................................................................ 3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................... 3
4.1. Đối tượng nghiên cứu: ............................................................................... 3
4.2. Phạm vi nghiên cứu.................................................................................... 3
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 4
6. Đóng góp của khóa luận.............................................................................. 4
7. Bố cục của khóa luận................................................................................... 4
NỘI DUNG....................................................................................................... 5
CHƯƠNG 1...................................................................................................... 5
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ........................................................................... 5
1.1. Tình hình văn hóa, tư tưởng thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX............. 5
1.2. Truyện Nôm và Truyện Phan Trần ............................................................ 8
CHƯƠNG 2.................................................................................................... 17
TRUYỆN PHAN TRẦN CA NGỢI TÌNH YÊU ĐÔI LỨA ..................... 17
2.1. Tình yêu và sự sắp đặt của khuôn khổ lễ giáo phong kiến ...................... 17
2.2. Tình yêu và sự phá vỡ rào cản của lễ giáo phong kiến ........................... 28
CHƯƠNG 3.................................................................................................... 38
TRUYỆN PHAN TRẦN VÀ MỘT SỐ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT
......................................................................................................................... 38
3.1. Kết cấu...................................................................................................... 38
3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật ................................................................. 41
3.3. Không gian, thời gian .............................................................................. 48
3.4. Ngôn ngữ .................................................................................................. 50
KẾT LUẬN .................................................................................................... 59
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Có thể nói trong văn học Việt Nam trung đại, truyện Nôm giữ vị trí khá

quan trọng không chỉ bởi số lượng tác phẩm còn được giữ gìn cho đến ngày
nay mà còn bởi chất lượng và sức hấp dẫn của nó đối với nhiều thế hệ độc
giả. Với kho tàng khá đồ sộ ấy, việc nghiên cứu tường tận từng tác phẩm đã
lần lượt được giới khoa học lưu tâm, song vẫn còn những sáng tác chưa được
đào sâu khai thác. Truyện Phan Trần là một ví dụ.
Dân gian vẫn lưu truyền câu: “Làm trai chớ kể Phan Trần / Làm gái chớ
kể Thúy Vân,Thúy Kiều”. Sở dĩ là như vậy, có lẽ là bởi sức hấp dẫn của câu
chuyện tình yêu táo bạo và nồng cháy ngay chốn Thiền môn của đôi lứa.
Trong khi Truyện Kiều được mổ xẻ đến từng chi tiết nhỏ thì Truyện Phan
Trần dường như vẫn còn ở phía xa xăm đối với người đọc hiện đại. Điều này
đòi hỏi cần có những công trình nghiên cứu riêng về tác phẩm, đưa nó về gần
với những người quan tâm tới văn học truyền thống.
Là một sinh viên khoa Ngữ văn học theo chương trình tín chỉ, thời gian
trên lớp ngắn ngủi không đủ để có thể đi đến tận cùng mọi giá trị của mọi tác
phẩm văn học Việt Nam trung đại. Việc nghiên cứu giá trị nội dung và nghệ
thuật của Truyện Phan Trần là công việc vô cùng quan trọng góp phần bổ
sung kiến thức của cá nhân.
Những tiền đề khoa học và thực tiễn đã thôi thúc người viết lựa chọn đề
tài: Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật Truyện Phan Trần cho khóa luận
của mình.
2. Lịch sử vấn đề
Truyện Phan Trần là truyện Nôm khuyết danh được lưu truyền khá
rộng rãi trong dân gian. Có nhiều công trình của các nhà nghiên cứu liên
quan đến Truyện Phan Trần như vấn đề biên khảo, khía cạnh nội dung,

1


nghệ thuật, vấn đề tôn giáo, tác giả, tác phẩm. Có thể kể đến một số công
trình nghiên cứu như sau:

Năm 1957, Hoài Thanh qua bài giảng ở đại học Hà Nội đã đưa ra những
nhận xét, đánh giá sâu sắc về nội dung Truyện Phan Trần, trong đó xoáy sâu
vào cốt truyện và tâm lý nhân vật.
Góc độ ghi chép và khảo cứu, có thể kể tới công trình của Hội nghiên
cứu văn học thành phố Hồ Chí Minh với Phan Trần truyện Nôm khuyết danh
xuất bản năm 1998. Công trình nghiên cứu này đã cung cấp cho người đọc
những thông tin bổ ích về phiên âm chữ Nôm và bản dịch chữ Quốc ngữ
thông qua bảng so sánh sự khác nhau giữa bản tiếng Việt và bản chữ Nôm, để
chúng ta có thể đối chiếu khi cần thiết.
Giáo sư Trần Nghĩa với Truyện Phan Trần, xuất bản năm 2009 có thể
xem là công trình nghiên cứu hoàn chỉnh cả về mặt văn bản và nội dung tác
phẩm. Ông đã có những nghiên cứu sâu về nguồn gốc và những mặt sáng tạo
của Truyện Phan Trần so với Ngọc Trâm ký của Trung Quốc.
Bùi Giáng với công trình Một vài nhận xét về Truyện Kiều – Phan
Trần – Thúy Vân – Chinh Phụ Ngâm – Quan Âm Thị Kính – Bà Huyện
Thanh Quan đã đề cập tới một số khía cạnh của Truyện Phan Trần. Theo
ông: “Tác giả Phan Trần đã rất thành công trong việc tạo nên một cuốn
tiểu thuyết ý nghĩa. Nhân vật đưa ra không phải để ta thán phục mà để
cho ta nhận rõ hình ảnh con người. Con người phù phiếm mà thiết tha,
sâu xa mà vẫn cứ hời hợt. Con người trong khuôn phép còn giữ được sự
trong sáng của tình cảm, còn cho phép tình cảm trào lộng đôi lần, tràn ra
ngoài cương vực của lí trí, để thực hiện cái nguyện vọng hầu như thiêng
liêng của kiếp người phù chi! [3,tr89]


Nguyễn Cẩm Thúy và Nguyễn Phạm Hùng với Văn thơ Nôm thời Tây
Sơn có đề cập đến Truyện Phan Trần, tuy nhiên, chỉ dừng lại ở mức độ
nghiên cứu thể loại, chưa đề cập đến nội dung, nghệ thuật của tác phẩm.
Giáo sư Nguyễn Lộc với Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII đến
nửa đầu thế kỉ XIX đã bàn về khía cạnh tình yêu đôi lứa trong câu chuyện.

Nhưng chỉ dừng lại ở mức độ so sánh, đối chiếu với tác phẩm khác cùng thời
để thấy được khát vọng tìm đến một tình yêu tự do của đôi trai gái trong
truyện.
Có nhiều hướng khác nhau nghiên cứu về Truyện Phan Trần, tuy vậy
chưa có công trình nào khái quát về giá trị nội dung và nghệ thuật của tác
phẩm. Song, đây sẽ là những cơ sở quan trọng và cần thiết cho quá trình
nghiên cứu của chúng tôi trong việc đi sâu khai thác tác phẩm ở mặt nội dung
và nghệ thuật.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích của khóa luận:
Nghiên cứu khái quát về giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm
Truyện Phan Trần.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Làm rõ vấn đề tác giả và tác phẩm
Phân tích những khía cạnh cơ bản về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Tác phẩm Truyện Phan Trần - Ở đây chúng tôi sử dụng văn bản trong
cuốn
Kho tàng truyện Nôm khuyết danh Việt Nam tập 1 – NXB văn học năm 2000
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của đề tài, chúng tôi tiến hành nghiên cứu giá trị nội
dung và nghệ thuật của tác phẩm Truyện Phan Trần.


5. Phương pháp nghiên cứu
-

Phương pháp nghiên cứu văn học Sử


-

Phương pháp liên ngành

-

Phương pháp thống kê phân loại

-

Cùng các thao tác chứng minh, lập luận, phân tích tổng hợp.

6. Đóng góp của khóa luận
Bổ sung vào tư liệu nghiên cứu Truyện Phan Trần một đề tài về giá trị
nội dung và nghệ thuật của tác phẩm
7. Bố cục của khóa luận
Khóa luận được triển khai theo ba phần: Mở đầu, Nội dung và Kết luận.
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, phần Nội dung được chia theo bố cục ba
chương:
- Chương 1: Những vấn đề chung
- Chương 2: Truyện Phan Trần ca ngợi tình yêu đôi lứa
- Chương 3: Truyện Phan Trần và một số phương diện nghệ thuật.


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Tình hình văn hóa, tư tưởng thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX
Truyện Phan Trần ra đời trong giai đoạn văn học từ thế kỉ XVIII đến
nửa đầu thế kỉ XIX. Đây là giai đoạn tổng khủng hoảng một cách toàn diện và

sâu sắc. Các tập đoàn phong kiến liên tiếp thay thế nhau thống trị đất nước chỉ
trong một thời gian ngắn, vua Lê mất, chúa Trịnh diệt vong, Nguyễn Huệ lên
ngôi. Sự biến động này đã dẫn tới mâu thuẫn trong nội bộ triều chính, những
cuộc nội chiến kéo dài và nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân đã nổ ra chống
lại triều đình ở cả hai miền Nam, Bắc chống lại giai cấp thống trị cực đoan,
tàn ác. Đỉnh cao là phong trào Tây Sơn – cuộc khởi nghĩa của người anh
hùng áo vải Nguyễn Huệ đã giành được những thắng lợi vẻ vang: đánh đổ
ba tập đoàn phong kiến thống trị trong nước, đánh tan 20 vạn quân Thanh
xâm lược, lập nên một vương triều phong kiến mới với nhiều chính sách
tiến bộ, xây dựng nên một nước Việt độc lập, tự chủ, dân giàu, nước mạnh,
nhân dân được hưởng thái bình. Chính vì vậy, “thế kỷ XVIII được giới sử
học mệnh danh là thế kỷ của chiến tranh nông dân” [30,tr5]. Sự khủng
hoảng của chế độ phong kiến đã ảnh hưởng sâu sắc tới nhiều phương diện và
trong đó văn hóa - tư tưởng là vấn đề đầu tiên.
Thời kì này, Nho giáo mặc dù vẫn là hệ tư tưởng chính thống song cũng
bị đả kích, lung lay, các chính sách và đạo lí Nho giáo dưới một chế độ mục
ruỗng như thế không còn như trước. Tam cương, ngũ thường của người quân
tử bị đảo lộn, mọi kỷ cương bị phá vỡ, chúa hiếp đáp vua, con âm mưu lật đổ
cha, bề tôi nhiều người phản trắc, đồng tiền và quyền lực mới là mục đích tối
cao quan lại, nho sĩ biến chất. Điều này có thể thấy trong Hoàng Lê nhất
thống chí của Ngô Gia Văn Phái. Bọn vua chúa có lối sống ích kỷ, tiêu cực,
Lê Hiển Tông “40 năm ở ngôi chỉ biết khoanh tay rủ áo tìm trò mua vui”,


không bận tâm đến cảnh đất nước bị chia cắt “Trời xui nhà chúa phò ta. Chúa
gánh cái lo, ta hưởng cái vui. Mất chúa tức là cái lo lại về ta, ta còn vui gì?”.
Hay như việc Trịnh Sâm say đắm, mải mê sắc đẹp của Đặng Thị Huệ mà gây
ra sai lầm nghiêm trọng trong việc lựa chọn Trịnh Cán quanh năm ốm yếu
làm thế tử; Trịnh Tông vì tham vọng làm chúa mà trái mệnh cha, mưu đồ
phản loạn. Ngay cả đạo quần thần cũng bị chà đạp, Tuần huyện Nguyễn

Trang đã nộp chúa Trịnh Tông cho Tây Sơn, không chỉ vậy, hắn còn bộc lộ
trắng trợn quan điểm của mình trước thầy học Lí Trần Quán “Sợ thầy chưa
bằng sợ giặc, yêu chúa chưa bằng yêu thân mình, tôi không để quan lớn để
cho lầm lỡ đâu”.
Trong bối cảnh này, tầng lớp trí thức Nho học bị rơi vào sự khủng
hoảng, hầu hết đều rơi vào tâm trạng chán trường do mất niềm tin vào chính
quyền, Nguyễn Du viết trong Tạp thi:
Tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên
Hùng tâm sinh kế lưỡng mang nhiên
Cao Bá Quát với Bệnh trung:
Trắc thân thiên địa bi cô chưởng
Hồi thủ yên tiêu khuất tráng đồ
Tình hình xã hội ngày càng đi vào khủng hoảng, bế tắc, đời sống chính
trị ngày càng rối ren thì “con người không có cách nào khác là đi tìm tín
ngưỡng tôn giáo để cứu cánh” [4,tr83]. Nếu như Phật giáo và Đạo giáo trước
đây suy thoái (thế kỷ XVI) thì đến giai đoạn này lại có điều kiện phục hồi, tuy
nhiên không bằng giai đoạn trước đó.
Đạo Phật lúc này được coi trọng trở lại, nó phát triển trong lúc các tín
ngưỡng dân gian ngày càng được mở rộng, nhiều chùa, quán được xây
dựng, một số chùa được trùng tu lại. Phật giáo tồn tại, gắn bó, ăn sâu vào
tiềm thức tâm linh của con người và có ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng,
tâm lí, nếp sống của nhân dân và. Đạo giáo cũng có những ảnh hưởng nhất


định đến đời sống tâm hồn của người dân, nó được coi là “thứ thuốc chỉ
thống cho các vết thương tâm hồn” [13,tr51]. Đạo giáo “thấm nhuần tư
tưởng lãng mạn, chủ trương trở về với tự nhiên, thoát li đời sống xã hội,
phản kháng những lễ nghi, bổn phận Đạo khổng tạo ra…” [13,tr50].
Dựa trên nền tảng của luận lý xã hội lúc bấy giờ, cụ thể là trên tinh thần
Nho – Phật – Đạo, là quy phạm cương thường của người quân tử, lòng từ bi

bác ái của con người, là triết lý sống hòa hợp với tự nhiên để được dân gian
hóa, trở nên quen thuộc với người dân Việt Nam.
Ba tôn giáo Nho – Phật – Đạo có sự dung hòa với nhau, còn gọi là triết
lý tam giáo đồng nguyên, “nhà chùa là nơi đào tạo ra những sư tăng đồng
thời là những trí thức thời đại. Những trí thức Phật giáo này đã nối liền Phật
giáo với Nho giáo và Đạo giáo. Chính họ là người đặt nền cho chính sách
tam giáo đồng nguyên.” [33,tr177]. Triết lý này đã ảnh hưởng sâu sắc tới
nhiều tác giả và các sáng tác văn chương của họ. Tiêu biểu là Ngô Thì Nhậm,
ông từng bày tỏ trong Đáp Lại thị Hải Phái Đoàn hầu, thuật tiền ý:
Cửu ai Trúc Lâm thiền thú lạc
Từ bào vị hứa tạo sam đan
Dịch:
Từ lâu ưa cái thú thiền nơi Trúc Lâm
Nhưng áo bào tía chưa cho mặc áo đen nơi giường thiền
Ngô Thì Nhậm dường như bỏ cả tâm huyết cho chính trị nhưng lòng Thiền
vẫn luôn đau đáu, việc đi theo Phật là ý niệm đã được ông nung nấu, ấp ủ đã
từ lâu.
Hay Toàn Nhật Thiền Sư (1750? – 1832?) cũng là nhà nho theo đòi
nghiên bút, theo đạo Thiền. Ông là tác giả chú ý phát biểu nhiều vấn đề “dung
hòa tam giáo” với: Hứa Sứ truyện vãn, Xuất gia tối lạc tỉnh thế tu hành vãn,
Tam giáo nguyên lưu ký, Bát nhã ngộ đạo vãn,… Ngay cả Nguyễn Công Trứ


cũng không ngoại lệ, ông đề cao sự xuất hiện tất yếu của đạo Phật bên cạnh
đạo Nho:
Bạng y thiên lý hành tương khứ,
Đô tự nhân tâm tố xuất lai.
Bát khang trang chẳng chút chông gai,
Cùng nghiêng ngả một dòng Hà lạc,
Trong nhật dụng sao rằng đạo khác.

Giai đoạn này, mọi giá trị, mọi ràng buộc con người của lễ giáo phong
kiến đều bị phá vỡ và điều này tất yếu có ảnh hưởng tới sáng tác văn chương.
Văn chương sáng tác theo khuynh hướng văn học mới – khuynh hướng nhân
văn, nhân đạo chủ nghĩa, hướng tới việc tố cáo bản chất tàn bạo của xã hội
phong kiến; bày tỏ sự cảm thông với những thân phận nhỏ bé, bất hạnh; đề
cao con người, khát vọng sống tự do, hạnh phúc. Truyện Phan Trần ca ngợi
tình yêu tự do của đôi lứa, trở thành một minh chứng cho việc phá vỡ những
ràng buộc của xã hội lúc bấy giờ.
1.2. Truyện Nôm và Truyện Phan Trần
1.2.1. Quá trình hình thành và phát triển của Truyện Nôm
Trong văn học trung đại, truyện Nôm là một thể loại khá độc đáo, thể
loại văn học này đã được giới nghiên cứu định danh theo những cách khác
nhau, đó là: truyện thơ Nôm, truyện thơ, truyện dài,…Trong đó, tên gọi truyện
Nôm hoặc truyện thơ Nôm là phổ biến hơn cả. Dương Quảng Hàm định nghĩa:
“Truyện Nôm là tiểu thuyết bằng văn vần” [6,tr137], Đặng Thanh Lê xếp
chúng vào hệ thống tự sự - tiểu thyết, Đinh Thị Khang định nghĩa: “truyện
Nôm là loại hình tác phẩm tự sự phản ánh cuộc sống xã hội thông qua sự
trình bày, miêu tả có tính chất hoàn chỉnh vận mệnh, tính cách nhân vật bằng
một cốt truyện với hệ thống biến cố, sự kiện” [21,tr112]. Trong Từ điển thuật
ngữ văn học, truyện Nôm là “thể loại tự sự bằng thơ dài rất tiêu biểu cho văn


học cổ điển Việt Nam, nở rộ vào cuối thể kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, do viết
bằng tiếng Việt, ghi bằng chữ Nôm nên được gọi là truyện Nôm” [20,tr372].
Truyện Nôm có tác phẩm được viết bằng thể thơ Đường luật như
Vương Tường, Lâm tuyền kì ngộ,… nhưng phổ biến nhất là tác phẩm viết
bằng thể lục bát như Phạm Tải Ngọc Hoa, Lí Công, Phan Trần, Đoạn trường
tân thanh,… Nó là một thể loại truyền thống của dân tộc nên người viết có thể
vận dụng và thiết lập các dạng tiểu đối trong câu thơ chẵn để tạo nên nhạc
điệu, âm hưởng trữ tình cho câu thơ, đặc biệt, thơ lục bát dễ đọc, dễ thuộc.

Truyện Nôm có một khối lượng tác phẩm tương đối lớn và có tầm ảnh
hưởng sâu sắc đến tinh thần của quần chúng nhân dân lao động. Giá trị của nó
đã được khẳng định qua thời gian mà nó tồn tại trong lòng độc giả qua nhiều
thế hệ.
Hình thức đầu tiên của các truyện Nôm là những bài hát tự sự của các
nghệ nhân hát rong (hiện tượng hát rong xuất hiện ở nước ta từ thế kỷ nào thì
chưa xác định được, chỉ biết rằng khi có các đô thị thì đã có nhiều người sống
bằng nghề này, nhất là sau thế kỷ XV). Những bài hát tự sự này phần lớn
được các nghệ nhân sáng tác hoặc dựa trên cơ sở của truyện cổ dân gian, hoặc
rút ra từ một truyện Nôm đã có trước. Càng về sau, những bài hát này càng
được bồi bổ thêm về mặt nội dung cũng như nghệ thuật và đến một lúc nào đố
bài hát đã được ghi vào trong sách, từ đó chính thức trở thành một truyện
Nôm (lọai này có thể kể đến truyện: Trương Chi, Tấm Cám).
Ngoài ra, truyện Nôm còn được biết đến thông qua những bài thuyết
giáo của các nhà sư về đạo Phật. Ðể tuyên truyền đạo Phật cho các tín đồ mà
phần đông là không biết chữ, một số nhà sư có học đã nghĩ ra cách diễn Nôm
một số sự tích trong kinh phật, hình thức này ngày càng phát triển và nhiều
truyện Nôm đã xuất hiện theo con đường này.
Cho đến nay vẫn chưa xác định được truyện Nôm viết xuất hiện vào
thời gian nào và sự phát triển của nó trong lịch sử văn học. Bởi vì cho đến nay


hầu hết các truyện Nôm còn lại đều không có tên tác giả và thời điểm sáng
tác.
Các nhà nghiên cứu đã căn cứ vào mối quan hệ giữa nội dung tác phẩm
và hiện thực đời sống xã hội, căn cứ vào tài liệu cấm đoán của giai cấp thống
trị, căn cứ vào hình thức ngôn từ và thể loại mà đi đến một nhận định sơ bộ về
sự phát triển của bộ phận văn học này như sau: Chính giai đoạn lịch sử từ thế
kỷ XV đến thế kỷ XIX là giai đoạn bộ phận văn học này ra đời và phát triển,
thời kỳ cực thịnh của nó là thế kỷ XVIII đến thế kỷ XIX. Phần lớn các truyện

Nôm lưu hành hiện nay cũng ra đời trong hai thế kỷ này. Sang đầu thế kỷ XX
việc sáng tác truyện Nôm dần dần chấm dứt vì thể loại văn xuôi mới ra đời đã
đủ sức thay thế nó trên thi đàn văn học.
Truyện Nôm thường được cấu trúc theo kết cấu: Hội ngộ – tai biến –
đoàn tụ, mở đầu câu chuyện là sự gặp gỡ của đôi trai tài gái sắc được miêu tả
hấp dẫn theo nhiều cách khác nhau. Các câu chuyện thường được xây dựng
trên cơ sở của tình yêu và khát vọng hạnh phúc lứa đôi. Tình yêu và hạnh
phúc thường được thử thách bởi sự khắc nghiệt của lễ giáo phong kiến. Đây là
vấn đề trọng tâm đặt ra trong hầu hết các tác phẩm. Ngoài nội dung phản ánh
tình yêu, hạnh phúc gia đình và bảo vệ nhân phẩm, truyện Nôm còn tập trung
xoáy sâu vào tố cáo bộ mặt thối nát, tàn bạo của giai cấp thống trị trong xã hội
phong kiến, đề cao những phẩm chất tốt đẹp của quần chúng lao động và đưa
ra những cách giải quyết tích cực các vấn đề xã hội.
Bên cạnh những đặc điểm về nội dung, truyện Nôm cũng có những đặc
điểm riêng về nghệ thuật về kết cấu cốt truyện, nhân vật và phương pháp sáng
tác. Cốt truyện thể loại này thường được triển khai theo trình tự: Hội ngộ - tai
biến – đoàn tụ. Phần lớn các truyện Nôm đều mượn kết cấu, cốt truyện của
truyện cổ dân gian và bảo lưu khuôn dạng của truyện cổ. Cơ sở cốt truyện là
xung đột xã hội, xung đột giữa thiện, ác nhưng chỉ biểu hiện ở góc độ bảo vệ
tình yêu, hạnh phúc; chống lại sự thống trị của giai cấp phong kiến; kết cấu


theo đường thẳng; kết thúc có hậu; tình tiết phát triển theo sự phát triển của
nhân vật chính.
Tuy nhiên so với văn học dân gian, truyện Nôm cũng có một số nét
khác biệt thể hiện của một thể loại có khả năng phản ánh hơn truyện cổ như
tác giả đã chú ý mô tả một số cảnh sinh hoạt xã hội và con người, yếu tố trữ
tình ít nhiều đã có vị trí đáng kể, thỉnh thoảng có tác giả đã chú ý miêu tả tâm
trạng và khai thác đời sống nội tâm của nhân vật. Ngoài ra truyện Nôm cũng
không còn những lời bình luận, triết lý về cuộc đời của tác giả ở đầu hay cuối

truyện như ở truyện cổ.
Nhân vật trong truyện Nôm thường là những bậc giai nhân – tài tử. Nhà
văn quan tâm đến việc dựng câu chuyện, đến hành động chứ không chú ý đến
hoặc rất ít chú ý đến tâm lý nhân vật. Xây dựng nhân vật phản diện thường
thành công hơn nhân vật chính, nhiều nhân vật còn rất đơn giản mặc dù đã
đúng về bản chất.
Truyện Nôm thường sử dụng nhiều các điển tích, điển cố, các hình ảnh
tượng trưng, ước lệ và hệ thống dày đặc từ Hán Việt, không chỉ vậy mà còn
đưa thơ ca bác học nguồn thi liệu quý giá của tục ngữ, ca dao góp phần tạo
nên tính uyên bác, tao nhã, tinh tế cho tác phẩm.
Truyện Nôm có sự kết hợp chặt chẽ giữa yếu tố hiện thực và lãng mạn
để phản ánh một cách chân thực quá trình phát triển biện chứng của nhân vật
và tinh tiết, diễn biến cốt truyện.
Truyện Nôm là một bộ phận văn học có giá trị, là vốn quý trong gia tài
văn hóa chung của dân tộc. Bộ phận văn học này đã đóng góp tiếng nói vào
loại hình tự sự của nền văn học nước nhà.
1.2.2. Vấn đề tác giả và tác phẩm Truyện Phan Trần
Trong văn học thời trung đại, truyện Nôm là một bộ phận văn học khá
độc đáo và có giá trị của nền văn học phong kiến Việt Nam. Bộ phận văn học
này có một số lượng khá lớn và có vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần


của quần chúng lao động. Giá trị của truyện Nôm đã được khẳng định qua
thời gian tồn tại của nó và lòng hâm mộ của quần chúng ở nhiều thế hệ.
Theo thời gian truyện Nôm (truyện thơ Nôm) đã bị mất mát khá nhiều
do những nguyên nhân khách quan và chủ quan.
Thứ nhất, bởi tâm lý coi thường các sáng tác bằng chữ Nôm của các nhà
Nho. Tâm lý này đã ảnh hưởng đến nhiều tầng lớp khác nhau trong xã hội kể
cả những người sáng tác. Do bị coi thường (bị coi là loại văn học nhảm nhí,
nôm na, mánh qué) cho nên khi các sáng tác bằng chữ Nôm ra đời tác giả của

chúng không được chú ý và dần dần bị quên lãng.
Thứ hai là do sự cấm đoán, thái độ thù địch của giai cấp thống trị. Để
tránh búa rìu của bọn chúng, nhiều tác giả đã không dám lưu danh trong
sáng tác. Đây là một nguyên nhân quan trọng khiến truyện Nôm khuyết
danh.
Nguyên nhân văn học trước khi được ghi chép bằng chữ quốc ngữ,
truyện Nôm được lưu hành trong nhân dân chủ yếu bằng miệng từ người này
sang người khác, từ vùng này sang vùng khác, nhiều truyện Nôm dần dần mất
tên tác giả ban đầu và trở thành tác phẩm khuyết danh, có truyện đã trở nên
gần gũi với các truyện cổ dân gian.
Bởi những nguyên nhân trên nên truyện Nôm chỉ còn lại một số lượng
đáng kể và hơn nữa lại do nhiều tầng lớp khác nhau sáng tác nên nội dung
cũng như nghệ thuật của nó đều không đồng nhất. Để tiện cho việc nghiên
cứu người ta đã tiến hành phân loại bộ phận văn học này. Dựa theo những căn
cứ khác nhau mà có những cách phân loại khác nhau. Có thể phân loại theo ba
cách sau:
Thứ nhất, dựa vào nguồn gốc đề tài có ba loại: Loại lấy đề tài từ các
truyện cổ dân gian (Trương Chi, Tấm Cám, Thạch Sanh…); Loại lấy đề tài,
cốt truyện từ văn học Trung Quốc (Truyện Hoa Tiên, Nhị độ mai, Phan


Trần,…); Loại lấy đề tài, cốt truyện từ những sáng tác chữ Hán hoặc những
sự tích có thật ở Việt Nam (Tống Trân - Cúc Hoa, Bích Câu kỳ ngộ,...)
Thứ hai, dựa vào nội dung và hình thức, có hai loại: truyện Nôm bình
dân (do các nho sĩ bình dân sáng tác) và truyện Nôm bác học (do các nhà nho
thuộc tầng lớp trên sáng tác).
Thứ ba, dựa vào mối quan hệ với tác giả, có hai loại: truyện Nôm hữu
danh (còn tên tác giả) và truyện Nôm khuyết danh (không còn tên tác giả).
Tuy nhiên, cả ba hình thức phân loại trên chỉ có tính chất tương đối.
Tương truyền Truyện Phan Trần do tài nữ Đoàn Thị Điểm dịch, kỳ thực

do ông Đỗ Hữu Khác (tên khác là Cận), tiến sĩ triều Lê là người “chấp bút đầu
tiên”. Nhưng hiện nay, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng Truyện Phan Trần nên
xếp vào loại tác giả khuyết danh, niên đại để ngỏ, như thực trạng trong các
bản Nôm cho thấy.
Theo Nguyễn Đăng Na Truyện Phan Trần thuộc truyện Nôm bác
học, vậy thì tác giả Truyện Phan Trần là những nhà nho thuộc tầng lớp
trên sáng tác, còn cụ thể là ai, tên họ gì, tuổi tác thì cho đến nay vẫn chưa
thể xác định được.
Như đã nói ở trên, Truyện Phan Trần là truyện Nôm, hơn nữa là truyện
Nôm khuyết danh, ra đời trong giai đoạn thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX,
khi chế độ phong kiến Việt Nam rơi vào khủng hoảng trầm trọng, phong trào
đấu tranh giai cấp, đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra sôi nổi và quyết liệt.
Trước sự biến động ấy của xã hội, văn học nói chung và bộ phận truyện Nôm
nói riêng vẫn không ngừng phát triển.
Tuy nhiên, giai cấp phong kiến lại không đề cao truyện Nôm, họ quan
niệm truyện Nôm chỉ là thứ dâm thư, yêu ngôn. Chúa Trịnh từng ban bố một
quan niệm về truyện Nôm:
Cùng là truyện cũ nôm na,
Hết tập thơ ấy, lại ca khúc này


Tiếng dâm dễ khiến người say
Chớ cho in bán hại nay thói thuần.
Triều Nguyễn cũng không thua kém:
Làm trai chớ kể Phan Trần
Làm gái chớ kể Thúy Vân Thúy Kiều.
Do quá trình giao lưu văn hóa, văn học khu vực nên văn học Việt thời
trung đại thường có đặc điểm là hiện tượng “vay mượn” đề tài, cốt truyện.
Nguồn gốc đề tài cốt truyện truyện Nôm rất đa dạng, có thể khái quát và chia
thành ba nhóm chính: Sử dụng cốt truyện dân gian (truyện cổ tích, thần tích,

…) lưu hành từ lâu trong đời sống dân gian và sáng tác dân gian; Mượn cốt
truyện trong kho tàng tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc – chủ yếu là Minh
Thanh; Những tác phẩm có cốt truyện bắt nguồn từ đời sống thực tại xã hội.
Truyện Phan Trần là một truyện Nôm khuyết danh bắt nguồn từ vở kịch Ngọc
Trâm Ký của Trung Quốc do tác giả Cao Lâm viết dưới thời Vạn Lịch – nhà
Minh (đầu thế kỉ XVII). Một tác giả Việt Nam (chưa rõ là ai) chuyển thành
truyện Nôm và phổ biến dân gian. Truyện được viết bằng chữ Nôm theo thể
loại thơ lục bát, gồm 930 câu thơ lục bát.
Mauria Durand có phiên dịch, chú giải bằng Pháp văn Truyện Phan
Trần, Paris 1962. Bài văn gồm: chữ Nôm, quốc ngữ, chú thích bằng Pháp văn
và bản dịch ra Pháp văn.
Truyện Phan Trần là câu chuyện lấy từ sự tích của hai gia đình họ Phan
và họ Trần thời Tống Tĩnh Khang và Thiệu Hưng nhà Tống (1126 – 1147).
Hai nhân vật chính là Phan Tất Chính và Trần Kiều Liên được cha mẹ đính
ước nhân duyên từ lúc còn tượng hình trong bào thai. Khi chưa kịp khôn lớn,
gặp thời buổi loạn ly, tưởng phải dở dang nhưng tơ duyên trùng phùng, vu
quy cùng với vinh quy một ngày, kết thúc có hậu, câu chuyện rất mỹ mãn.


Truyện Phan Trần được xây dựng trên cơ sở của tình yêu và khát vọng
hạnh phúc lứa đôi, tình yêu và hạnh phúc lứa đôi được thử thách bởi sự khắc
nghiệt của lễ giáo.
Truyện có thể tóm tắt như sau:
Phan công và Trần công là đôi bạn thâm giao, cùng học một thầy, đỗ đạt
một khoa, làm quan một triều và hai phu nhân cùng hoài thai một lúc. Họ
bèn kết thông gia cùng nhau nếu bên này sinh con trai và bên kia sinh con gái.
Họ Trần trao trâm ngọc, họ Phan trao quạt ngà làm kỷ vật đính ước. Đúng như
ước vọng họ Phan Sinh con trai với: “Hai vai chính chện, ba đình nở nang”,
đặt tên là Tất Chính (tức Phan Sinh). Họ Trần sinh con gái đặt tên là Kiều
Liên. Khi hai người con này một lớn không thì hai người cha đã già yếu và xin

về hưu tiện bề chăm lo cho gia đình và dạy dỗ con cái.
Nhờ sự rèn cặp của cha, Phan Tất Chính dùi mài kinh sử và chuẩn bị thi
Hương. Sau khi đỗ Thủ khoa (giải Nguyên), Phan Sinh báo tin về gia đình và
chuẩn bị thi Hội. Nhưng “lòng trời còn dấm tài ba, Phan Sinh chẳng may bị
trượt tứ trường, một phần hổ thẹn, phần vì sĩ diện cá nhân chàng không về
nhà mà quyết tâm ở lại kinh lý “dùi mài khinh sử để chờ khoa sau”, đồng thời
cũng tự an ủi mình “Ba thu thấm thoát có là bao lâu”.
Trong khi ấy, Trần công mất, Đàm Châu có giặc, Kiều Liên cùng mẹ
chạy loạn, nhân đi chạy loạn hai mẹ con lạc nhau mỗi người mỗi ngả. Trong
lúc “con tìm mẹ, mẹ tìm con” Kiều Liên tình cờ gặp được người họ Trương.
Thương tình “thân gái hạt mưa” không nơi nương tựa, người họ Trương đưa
nàng đến tu tại chùa Nữ Trinh ở Kim Lăng lấy pháp danh là Diệu Thường.
Khi ở chùa nàng tưởng nhớ đến mẹ và vị hôn phu nên thường tỏ ra ủ rũ, buồn
rầu, nhờ có sự khuyên giải của sư thầy mà nàng cũng nguôi dần.
Trong khi học ở Thành đô, Phan Sinh chợt nhớ có người cô tu ở Kim
Lăng, bèn đến thăm. Tại đây Phan Sinh tình cờ gặp được Diệu Thường, thấy
ni cô là người “tầm thước trẻ trung” nên đem lòng mến mộ. Chàng mượn bà


vãi Hương công làm mối nhưng bị nàng cự tuyệt, chàng thất vọng thành ra
ốm tương tư, chẳng có phương nào chữa trị được.
Phan Sinh đang ốm tương tư được Diệu Thường vì nể sư cô tới thăm thi
“mười phần phiền não, chín phần đổ sông”. Tối hôm đó, Phan Sinh đánh bạo
đến gõ cửa phòng Diệu Thường để ngỏ lời cảm ơn. Lúc đầu nàng từ chối
nhưng về sau sợ Phan Sinh làm liều nên đành phải mở cửa cho chàng vào.
Qua mấy lời trao đổi, hàn huyên, họ đem trâm, quạt ra so và nhận ra nhau.
Nhưng vẫn giữ kín, trong chùa không ai biết. Từ đó mái tam quan trở thành
nơi bí mật hẹn hò của đôi trai gái: “Ngày người đất Bụt, đêm người động
tiên”.
Đông qua rồi xuân lại về, Phan Sinh xin phép sư cô và tạm biệt Diệu

Thường lên đường trở lại Thành đô dự kỳ thi Hội. Khoa thi này Phan Sinh đỗ
Thám hoa. Trên đường về vinh qui, chàng trở lại chùa và đem thực tình bạch
với sư cô. Sư cô bàn làm hôn lễ tại nhà họ Trương rồi cùng nhau vinh qui bái
tổ. Trần phu nhân sau khi chạy loạn “lỡ bước long đong” tìm đến nhà Phan
công làm nơi nương náu. Bấy giờ gặp nhau đủ mặt hai họ, hạnh phúc không
sao tả xiết. Rồi Phan Sinh được triệu về kinh nhận chức, lại được cử đi dẹp
giặc. Sau khi thắng trận trở về, chiến công rực rỡ, cả hai vợ chồng đều được
phong thưởng, vinh quang.
Tiểu kết chương 1
Truyện Phan Trần là truyện Nôm khuyết danh, nội dung tác phẩm phản
ánh sự biến động về văn hóa, tư tưởng của thời đại bấy giờ. Đây là một tác
phẩm có đề tài hấp dẫn, mới lạ đối với độc giả và có giá trị đối với nền văn
học dân tộc.


CHƯƠNG 2
TRUYỆN PHAN TRẦN CA NGỢI TÌNH YÊU ĐÔI LỨA
2.1. Tình yêu và sự sắp đặt của khuôn khổ lễ giáo phong kiến
Như đã nói ở trên, vào thể kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX, chế độ
phong kiến rơi vào khủng hoảng trầm trọng, Nho giáo đã lung lay từ cội rễ,
mọi giá trị cương thường bị đảo lộn song không vì thế mà nó biến mất hoàn
toàn. Nó vẫn tồn tại và vẫn là khuôn khổ trói buộc tư tưởng con người một
cách mạnh mẽ. Xã hội phong kiến tỏa chiết tình cảm con người trong những
mối quan hệ nam nữ, yêu đương, không chấp nhận con người có quyền tự do
cả trong tình yêu và hôn nhân. Những quan niệm “trọng nam khinh nữ”, “cha
mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, “áo mặc sao qua nổi đầu”,… đã chi phối tư tưởng
của con người, đưa họ vào những khuôn phép khắc nghiệt. Điều này thể hiện
rõ trong Truyện Phan Trần.
Trong tác phẩm, lễ giáo phong kiến đã trói buộc tình yêu, hôn nhân của
hai nhân vật: Phan Tất Chính và Trần Kiều Liên. Ngay từ phần đầu tác phầm

đã mở ra trước mắt người đọc cảnh hai gia đình sắp xếp việc hôn nhân định
sẵn từ khi đôi lứa ấy mới là bào thai chưa thành hình. Đó là một biểu hiện của
lễ giáo phong kiến quan niệm về việc hôn nhân là do “cha mẹ đặt đâu con
ngồi đấy”, “áo mặc sao qua khỏi đầu”, là quan niệm hà khắc về hôn nhân của
lễ giáo phong kiến. Quan niệm này thường xuất hiện ở các sáng tác truyện
Nôm bác học, hầu hết các nhân vật đều thuộc tầng lớp phong kiến, nhiều nhân
vật xuất thân từ tầng lớp cấp cao. Sở dĩ vậy là bởi trong truyện Nôm bình dân,
con người ở tầng lớp bình dân tự do trong chuyện tình yêu, hôn nhân. Trong
ca dao có rất nhiều câu nói đến việc trai gái tự do bày tỏ tình cảm của mình,
chẳng hạn:
Hôm qua tát nước đầu đình,
Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen.
Em lượm thì cho anh xin, Hay là
em để làm tin trong nhà?


Đó là lời ngỏ của chàng trai đối với cô gái, nhưng không chỉ có các
chàng trai chủ động chuyện ngỏ lời mà các cô gái cũng rất táo bạo:
Vào vườn hái quả cau xanh, Bổ
ra làm sáu mời anh xơi trầu.
Trầu này têm những vôi tàu,
Giữa đệm cát cánh, hai đầu quế cay.
Trầu này ăn thiệt là say,
Dù mặn, dù nhạt, dù cay, dù nồng.
Dùng chăng nên đạo vợ chồng,
Xoi dăm ba miếng kẻo lòng nhớ thương!
Trong truyện Nôm bình dân, tác giả còn xây dựng những câu chuyện
tình yêu, hôn nhân của những người không cùng đẳng cấp, hầu hết các cô gái
trong loại truyện này được giới thiệu là con vua, con quan, nghĩa là những
người thuộc đẳng cấp quý tộc lại yêu những anh học trò nghèo, có nguồn gốc

từng cao quý nhưng sa cơ lỡ vận phải thất thế, nuôi chí công danh và tương
lai làm quan to.
Ở truyện Nôm bác học lại không xây dựng chuyện tình yêu như vậy như
vậy, dưới sự sắp đặt của lễ giáo phong kiến, con người không được tự quyết
định hôn nhân của mình, sự quyết định ấy là của cha mẹ, nếu trái lời thì đó
được coi là sự bất hiếu. Hơn thế nữa “việc hôn nhân tuy là của hai người
nhưng kéo theo việc xác lập quan hệ giữa hai gia tộc” [28,tr143] mà “lựa
chọn một dòng họ, một gia đình phải xem cửa nhà hai bên có tương xứng
không, có môn đăng hộ đối không” [28,tr143].
Có thể nói rằng gia đình họ Phan và họ Trần là hai gia đình “môn đăng
hộ đối”, đều có truyền thống nho học, Phan công và Trần công hơn nữa lại
vừa là chỗ thân tình, đồng niên, đồng môn và cùng “làm phủ doãn một tòa
hiển vinh”. Và rồi hai phu nhân cùng hoài thai một lúc “Hai nhà chính thất
một kỳ thụ thai”. Họ bèn kết thông gia cùng nhau nếu bên này sinh con trai và
bên kia sinh con gái:


Trỏ thề trên thẳm dưới khơi,
Cùng nhau chỉ dạ định nhời thông gia.
Hai ta đồng học, đồng khoa,
Đồng niên, đồng cán, một nhà đồng thân.
Đổi trao ngọc Tấn tơ Tần,
Họ Phan thì quạt, họ Trần thì trâm.
Mai ngày dành để đeo cầm.
Kẻo quên ước cũ kẻo nhầm duyên xưa.
(25-32)
Họ Trần trao trâm ngọc, họ Phan trao quạt ngà làm kỷ vật đính ước.
Đúng như ước vọng họ Phan sinh con trai với: “Hai vai chính chện, ba đình
nở nang”, đặt tên là Tất Chính (tức Phan sinh). Họ Trần sinh con gái đặt tên là
Kiều Liên. Khi hai người con này một lớn không thì hai người cha đã già yếu

và xin về hưu tiện bề chăm lo cho gia đình và dạy dỗ con cái. Phan Sinh và
Kiều Liên được cha mẹ hai bên đính ước từ khi còn trong hình hài là thai nhi
chưa được sinh ra đời, chưa biết khi lớn tính cách ra sao, không cần biết hai
đứa trẻ ấy khi trưởng thành tình cảm ra sao, có đồng ý không. Hai bên gia
đình liền trao kỷ vật đính ước là trâm - quạt. Trâm là vật tượng trưng cho
người con gái, quạt tượng trưng cho người con trai, khi nhìn thấy vật là nhận
ra nhau bởi họ chưa một lần gặp mặt.
Phan công và Trần công khi có tuổi, họ xin về quê để nuôi dạy con cái
cho tốt, cũng từ đây hai gia đình “Chia tay Nam Bắc băng ngàn”. Với gia
đình Phan công:
Phan thời về dọn lầu thơ,
Khuyên con gióng giả sớm trưa học tràng.
Ôn đặt gối, Đóng vây màn,
Sớm ôn kinh sử tối bàn văn chương.
(67-70)


Phan công dạy con từ nhỏ cần chăm chỉ học hành không chỉ để nối
nghiệp nhà “Nhà ta nghiệp học hành xưa nay” mà ông còn nói với
Phan Sinh rằng:
Bây giờ cha tuổi đã già,
Mong con gặp hội rồng mây kịp người.
Chớ tham tửu sắc chơi bời,
Lụy mình và lại thế cười người chê.
Rày nghe thu tuyến đến kỳ,
Bút nghiên gióng giả vào thi họa là.
Gặp thời thu nguyệt xuân hoa,
Lám sao trọn một quyết khoa thời làm.
Bõ công luyện tập mới am,
Đừng nghe anh yến chớ nhàm nước mây.

(79-88)
Không chỉ Phan Sinh mà tất cả những bậc nam nhi thời bấy giờ đều chịu
sự chi phối lễ giáo phong kiến về tư tưởng. Trong quan niệm chính thống thời
đại phong kiến, đã làm trai thì “đầu đội trời, chân đạp đất”, phải có “chí”,
“công danh”, có khát vọng để theo đuổi ước mơ, hoài bão. Bậc nam nhi phải
luôn đặt mình trong những mối quan hệ với quốc gia, dân tộc, đi liền với đó là
những mục tiêu và hành động tương xứng: “Nam nhi khoa cử đỗ đạt thành
danh chấp chính là mẫu người lý tưởng của thời trung đại” [24, tr42]. Chí
làm trai vừa mang tính tích cực, vừa mang tính tiêu cực của Nho giáo: lập
đức, lập công (có công danh sự nghiệp), lập danh (có danh tiếng tốt đẹp), nam
nhi phải vẫy vùng tứ bể, phải cống hiến sức trai phục vụ non sông, đất nước
và như một tất yếu, công danh được coi là món nợ phải trả của kẻ làm trai.
Hình tượng nam nhi đã trở thành đề tài hấp dẫn đối với các nhà thơ, sức hấp
dẫn của hình tượng ấy còn kéo dài đến cả thể kỉ XVIII-XIX. Nói đến hình
tượng nam nhi trong văn học trung đại giai đoạn này, có thể nhắc tới Nguyễn
Công Trứ:


×