TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
---------------
PHẠM THỊ HẢI
HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT NỮ
TRONG KIM BÌNH MAI CỦA
TIẾU TIẾU SINH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học nước ngoài
HÀ NỘI - 2016
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện khóa luận tốt nghiệp của mình, tôi đã nhận
được sự giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo trong ban chủ nhiệm khoa Ngữ
Văn – Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, tổ bộ môn Văn học nước ngoài.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc của mình tới các thầy, cô
trong khoa, tổ, đặc biệt là cô Nguyễn Thị Bích Dung – người đã trực tiếp
hướng dẫn tôi hoàn thành khóa luận này.
Khóa luận của tôi chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, kính
mong nhận được những ý kiến đóng góp của quý thầy cô và các bạn.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
Hà Nội, ngày 24 tháng 4 năm 2016
Sinh viên
Phạm Thị Hải
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài.................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề...................................................................................... 3
3. Mục đích nghiên cứu ............................................................................ 6
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi khảo sát............................................ 7
5. Phương pháp nghiên cứu...................................................................... 7
6. Đóng góp của khóa luận....................................................................... 7
7. Bố cục khóa luận.................................................................................. 7
NỘI DUNG.................................................................................................... 8
CHƯƠNG 1. ĐẶC ĐIỂM CỦA HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT NỮ
TRONG KIM BÌNH MAI................................................................................ 8
1.1. Vài nét về Tiếu Tiếu Sinh và Kim Bình Mai ........................................ 8
1.2. Khái niệm nhân vật và hình tượng nhân vật
1.2.1. Khái niệm nhân vật văn học.......................................................... 11
1.2.2. Khái niệm hình tượng nhân vật
1.3. Cơ sở hình thành nhân vật nữ trong Kim Bình Mai
1.4. Đặc điểm nhân vật nữ trong Kim Bình Mai ...................................... 18
1.4.1. Nhân vật nữ và những khát vọng “nổi loạn” ................................. 19
1.4.2. Nhân vật nữ với số phận bất hạnh ................................................. 26
CHƯƠNG 2. MỘT SỐ BIỆN PHÁP NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG
HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT NỮ TRONG KIM BÌNH MAI ........................ 32
2.1. Miêu tả ngoại hình nhân vật nữ trong Kim Bình Mai với thủ pháp
ước lệ tượng trưng ................................................................................. 32
2.2. Nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật nữ trong Kim Bình Mai ...... 39
2.2.1. Nghệ thuật thể hiện tính cách nhân vật thông qua ngôn ngữ .......... 39
2.2.2. Nghệ thuật thể hiện tính cách nhân vật thông qua hành động......... 46
2.2.3. Nghệ thuật thể hiện tính cách thông qua việc khắc họa tâm lý
nhân vật................................................................................................. 53
KẾT LUẬN.................................................................................................. 61
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1 Lý do khoa học
1
Nhắc đến thành tựu nổi bật của văn học cổ điển Trung Quốc người ta
thường nhắc đến: Tản văn trước Tần, thơ Đường, từ Tống, kịch Nguyên, Tiểu
thuyết Minh Thanh. Minh Thanh là thời đại hoàng kim của tiểu thuyết. Với
các bộ: Tam Quốc diễn nghĩa, Thủy hử, Tây du ký, Liêu Trai chí dị, Kim
Bình Mai, Hồng lâu mộng… tiểu thuyết chương hồi Trung Hoa đã đạt đến
trình độ mẫu mực, bởi vậy được gọi là tiểu thuyết cổ điển.
Tiến trình phát triển của tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, Kim Bình Mai
có một vị trí khá quan trọng. Ra đời cuối đời Minh Kim Bình Mai đánh dấu
bước chuyển biến của tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc từ tiểu thuyết lấy đề tài
lịch sử sang tiểu thuyết lấy đề tài từ cuộc sống thường ngày làm đề tài phản
ánh, từ tiểu thuyết là công sức chắp nối của nhiều người, có căn cứ trong sử
sách, truyền thuyết và truyện kể dân gian sang tiểu thuyết do cá nhân sáng
tác. Trước Hồng lâu mộng hơn 100 năm, Kim Bình Mai được coi là tiểu thuyết
mở đường cho tiểu thuyết xã hội Trung Quốc và được công nhận là “Con chim
én báo hiệu mùa xuân của thể loại truyện dài do cá nhân sáng tác”.
Việt Nam – Trung Quốc là hai nước có truyền thống gần gũi và gắn bó
lâu dài, trải qua quá trình lịch sử và giao lưu văn hóa, các tác phẩm văn học
Trung Hoa đã đi vào đời sống tinh thần của nhiều thế hệ người Việt Nam.
Song do nhiều nguyên nhân khác nhau có những tác phẩm còn khá xa lạ như
tiểu thuyết Kim Bình Mai của Tiếu Tiếu Sinh. Ngay sau khi ra đời, tiểu thuyết
này đã mở ra cuộc tranh luận xã hội hết sức rộng lớn, quyết liệt. Cuối những
năm 80, đầu những năm 90 của thế XX ở Trung Quốc đã tổ chức nhiều cuộc
hội thảo quốc tế về Kim Bình Mai; các nhà nghiên cứu đã nhất trí đánh giá
“Đây là tác phẩm hiện thực chủ nghĩa vĩ đại”.
2
Trong Kim Bình Mai tác giả đã xây dựng khá nhiều hình tượng nhân
vật, nhưng nổi bật nhất là hình tượng nhân vật nữ. Đọc Kim Bình Mai, nhân
vật nữ để lại cho độc giả nhiều ấn tượng sâu sắc. Tác giả Kim Bình Mai đã
vượt ra ngoài lễ giáo đề cao cuộc sống chăn gối của người phụ nữ xem đó là
quyền chính đáng mà họ được hưởng, đồng thời trực tiếp phản ánh xã hội,
vạch trần những mảng cuộc sống hiện thực. Vì vậy người viết chọn đề tài
“Hình tượng nhân vật nữ trong Kim Bình Mai của Tiếu Tiếu Sinh” để qua đó
đem đến cái nhìn chân thực, sâu sắc và sinh động hơn về một giai đoạn đầy
biến động trong lịch sử Trung Quốc – giai đoạn Minh Thanh.
1.2 Lý do sư phạm
Văn học Trung Quốc là một bộ phận quan trọng và chiếm thời lượng
giảng dạy chủ yếu trong phần Văn học nước ngoài của chương trình Ngữ văn
ở trường phổ thông. Trong đó, tiểu thuyết chương hồi là một trong những thể
loại tiêu biểu của Văn học Trung Quốc. Việc tìm hiểu tiểu thuyết Kim Bình
Mai giúp giáo viên có một có một cái nhìn phong phú toàn diện hơn về tiểu
thuyết chương hồi – thể loại được đưa vào chương trình phổ thông. Tìm hiểu
Kim Bình Mai cũng giúp giáo viên hình thành rõ nét hơn những hiểu biết về
xã hội phong kiến Trung Quốc cuối thế kỷ XVIII đang trên đà xuống dốc, suy
tàn. Kim Bình Mai có hai đặc điểm mà các tiểu thuyết trước đây chưa hề có:
một là, tác phẩm do cá nhân một văn nhân sáng tác. Hai là, nó miêu tả tỉ mỉ
nhiều cảnh tượng trong cuộc sống thường ngày. Bởi vậy, Kim Bình Mai đánh
dấu bước chuyển, bước phát triển trong lịch sử phát triển của tiểu thuyết dài
Trung Quốc. Bên cạnh đó, rèn luyện cho học sinh một thế giới quan, nhân
sinh quan tốt đẹp, lành mạnh, biết có thái độ lên án, phê phán những hành
động sai trái trong xã hội, có cái nhìn đa diện để đánh giá đúng bản chất của
một hiện tượng, biết trân trọng những giá trị tốt đẹp của con người, nhất là khi
Việt Nam đag trên đà hội nhập và phát triển.
3
2. Lịch sử vấn đề
Kim Bình Mai ngay sau khi ra đời đã làm náo động văn đàn, đã có biết
bao cuộc tranh luận về chủ đề, tư tưởng của cuốn truyện. Nó nhận được nhiều
luồng ý kiến khen chê từ nhiều góc độ khác nhau. Vậy nên, tiểu thuyết này đã
thu hút khá nhiều nhà nghiên cứu không chỉ Trung Quốc mà nhiều nước khác
trong đó có Việt Nam.
Nhiều năm qua ở Trung Quốc các công trình nghiên cứu về Kim Bình
Mai đã đạt được những thành tựu đáng kể. Hầu hết các nhà nghiên cứu đều
nhất trí cho rằng: Kim Bình Mai có nội dung mang tính hiện thực sâu sắc, diện
mạo của nó miêu tả rất đa dạng mang đặc trưng của thời đại cuối Minh nên
tác phẩm có giá trị cao và có vị trí xứng đáng trong lịch sử phát triển tiểu
thuyết. Tác giả mượn câu chuyện thịnh suy trong một gia đình thị dân, tả một
xã hội dục vọng tràn lan, đạo đức suy đồi để vạch trần sự hủ bại và đen tối
của xã hội lúc bấy giờ.
Trong cuốn Văn học Trung Quốc tập 3, các tác giả Dư Quan Anh,
Phạm Ninh (1995) và cũng trong cuốn Văn học Trung Quốc tập 3 (2000) của
các tác giả Chương Bồi Hoàn, Lạc Ngọc Minh đều cho rằng:
Mô tả nhiều chi tiết về đời sống là thành tích nổi bật của bộ tiểu thuyết.
So với tiểu thuyết trước kia là đã rời trung tâm miêu tả từ tình tiết của câu
chuyện sang hình tượng nhân vật, đó là một dấu ấn quan trọng, một bước tiến
bộ rất lớn. Đồng thời nhân vật là những con người bình thường, cá tính không
phải thiên phú mà hoàn toàn gắn với hoàn cảnh sinh hoạt và mọi hoàn cảnh
sinh hoạt trong cuộc sống. Kể cả khi nói đến tình tiết câu chyện thì cũng diễn
ra bình thường, không có những biến động lớn và không hề thêu dệt. Tác giả
đã triệt để sử dụng bút pháp ấy để xây dựng nên những nét tính cách đa dạng,
nổi bật và có tính chất điển hình của các nhân vật. Đến đây, các nhân vật đời
thường được chú ý hơn ở tiểu thuyết, nó không bị các anh hùng che lấp như
4
trước nữa. Các tác giả còn cho rằng nhà văn có tài trong việc sử dụng ngôn
ngữ: “Phong cách ngôn ngữ của tác giả trong sáng, dí dỏm, đời thường
chứng tỏ tác giả hết sức thành thạo ngôn ngữ sinh hoạt trong nhân dân
đương thời, hơn nữa lại có tài chau chuốt gọt đẽo” [1.239]
Nhà văn, nhà phê bình, học giả Lỗ Tấn vào những năm đầu thế kỷ XX
trong cuốn Sơ lược lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc đã nghiên cứu tác phẩm ở
nhiều góc độ. Trước tiên, ông xếp Kim Bình Mai vào loại truyện thế thái nhân
tình xuất hiện ngay trong lúc thịnh hành của tiểu thuyết thần ma. Loại tiểu
thuyết này thuật những chuyện phong lưu và xen với cảnh buồn vui, tan hợp,
tả thói đời nóng lạnh thông thường. và khẳng định: “Trong các sách thế tình,
có truyện Kim Bình Mai là có tiếng nhất”. Nó là “sách về tình đời”, nói cho
hết tình giả hay thật, ý nghĩa xã hội chân chính của tác phẩm từ đó nổi bật lên.
Trong cuốn Văn học Trung Quốc của tác giả Trịnh Ân Ba, Trịnh Thu
Lôi cho rằng: “Tác phẩm có bố cục cầu kì, các tình tiết phức tạp đan xen
nhau một cách chặt chẽ có thứ tự”
Ở Việt Nam cũng có khá nhiều bài viếtnghiên cứu về tiểu thuyết Kim
Bình Mai. Phương Lựu (1996), Kim Bình Mai – đôi điều mới lạ, Văn hóa văn
học Trung Quốc cùng một số liên hệ ở Việt Nam, Nxb Hà Nội. Trong bài viết
này, tác giả đã chỉ ra những điểm “lạ” của Kim Bình Mai (nhan đề là do tên ba
người phụ nữ ghép lại, tên tác giả Tiếu Tiếu Sinh là một danh ngữ chung có
nghĩa là “thầy cười” hay “ông bông đùa”…). Bên cạnh đó, Phương Lựu đề
cập đến những đóng góp mới mẻ của Kim Bình Mai trong lịch sử phát triển
tiểu thuyết Trung Quốc – Đây là tác phẩm đầu tiên do văn nhân sáng tác viết
về những con người bình thường nhỏ bé thuộc tầng lớp thành thị trong xã hội
Minh.
Trong cuốn Tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, năm 1996, Nxb Giáo dục,
tác giả Trần Xuân Đề đã khẳng định sự ra đời của Kim Bình Mai đánh dấu
5
bước phát triển mới của tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, Nó đặt nền móng
cho sự ra đời của những bộ tiểu thuyết dài về sau như Nho lâm ngoại sử,
Hồng lâu mộng…
Lương Duy Thứ (2000), Để hiểu tám bộ tiểu thuyết cổ điển Trung
Quốc, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. Ở đây, Lương Duy Thứ đề cập đến
những nguyên nhân dẫn đến sự phát triển rực rỡ của tiểu thuyết nói chung;
khẳng định Kim Bình Mai là tác phẩm tả chân hiện thực cuối Minh. Từ đó tác
giả đi đến kết luận Kim Bình Mai là tác phẩm mở đầu một khuynh hướng văn
học mới – khuynh hướng đời thường, trân trọng cái “nhân dục”, chống lại đạo
đức phong kiến cũ của xã hội.
Lương Duy Thứ (1989), Kim Bình Mai – một tác phẩm hiện thực phê
phán có giá trị, Tạp chí văn học số 3. Trong bài viết này, Lương Duy Thứ đưa
ra quan niệm xoay quanh câu hỏi tác giả Kim Bình Mai là ai? Thêm vào đó,
tác giả dẫn dắt những ý kiến để chứng minh Kim Bình Mai là một tác phẩm
mang tính hiện thực rõ nét, xây dựng được những nhân vật có tính cách phức
tạp, gần với con người đời thường.
Tác giả Nguyễn Huy Khánh trong cuốn Khảo luận tiểu thuyết cổ điển
Trung Hoa cho rằng: “về phương diện phản ánh mặt trái của xã hội phong
kiến, tác giả đã thành công một phần về nghệ thuật tả chân khá cao. Những
nhân vật trong truyện đều được tác giả vẽ lên như sống, người nào ra người
đó, không gượng ép, không giả tạo. Những chi tiết được tác giả nghiên cứu kĩ
và dựng lên khá éo le, gay cấn, khúc chiết…” [9.180]
Gần đây khi viết “Lời giới thiệu” cho cuốn Kim Bình Mai, Nxb Văn
hóa – Thông tin, tái bản năm 2002, Giáo sư Lê Đức Niệm bổ sung một số ý
kiến để hoàn thiện và hệ thống hơn cho bài viết trong lần xuất bản trước (năm
1989). Tác giả cùng thống nhất ý kiến với một số nhà nghiên cứu Trung Quốc
nêu trên và đi sâu phân tích một số nhân vật chính để chứng minh tài năng
6
của nhà văn dùng nhiều tình tiết của cuộc sống thực, sáng tạo ra những nhân
vật điển hình. Và “trong Kim Bình Mai các nhân vật đều thông qua hành
động để biểu hiện tính cách, thông qua ngôn ngữ bộc lộ tâm lý và cá tính”.
Điểm mới mà ông nhận thấy đó là kết cấu Kim Bình Mai gồm 100 hồi, mỗi
hồi vẫn có một chuyện nổi bật, song nó đã thoát khỏi kết cấu chương hồi của
thoại bản và các thể loại truyện kể khác. Cảnh vật mô tả chỉ là phác thảo, nó
được lựa chọn phù hợp với miêu tả sự việc, lấy cảnh gợi tình. Ông cũng chỉ ra
điểm hạn chế của Kim Bình Mai đó là: tuy là tác phẩm có khuynh hướng vạch
trần tội ác xã hội, nhưng tác giả lại quá say sưa với thú vui tầm thường như
bệnh hoạn, khiến cho người đọc có cảm giác như tác giả đưa vào sách từng
mảng cuộc sống trụy lạc của giai cấp thống trị không chút đắn đo lựa chọn.
Nhưng nhìn chung Kim Bình Mai làmột tác phẩm tả về quan hệ nam nữ một
cách tế nhị, kín đáo cho nên không thể xếp Kim Bình Mai vào loại dâm thư
được. Và tác giả đi đến kết luận: nếu chúng ta muốn biết cái mặt sau của xã
hội cũ cũng cần lật dở xem những quan hệ trong đời sống thường ngày của
bọn họ ra sao, thông qua đó nhận thức hiện thực sâu hơn. Kim Bình Mai là câu
chuyện tình ái, nhưng cũng là câu chuyện nhân tình thế thái của một xã hội.
Qua thu thập và khảo sát các bài viết về tác phẩm Kim Bình Mai,
chúng tôi nhận thấy chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập tới hình tượng
nhân vật nữ trong Kim Bình Mai của Tiếu Tiếu Sinh với tư cách một đối
tượng nghiên cứu riêng biệt. Bởi vậy với khóa luận này, người viết xin được
đề cập, đi sâu tìm hiểu hình tượng nhân vật nữ, qua đó làm nổi bật nét đặc
sắc, tài năng và quan niệm của tác giả trong việc xây dựng các nhân vật.
3. Mục đích nghiên cứu
Với đề tài Hình tượng nhân vật nữ trong Kim Bình Mai của Tiếu Tiếu
Sinh người viết nhằm làm nổi bật những nét độc đáo trong quan niệm thẩm
mĩ của tác giả khi xây dựng nhân vật. Có sự cảm thụ và cắt nghĩa thấu đáo
hơn về tư tưởng, thế giới quan của nhà văn biểu hiện trong tác phẩm, phát
7
hiện cái hay cái đẹp của Kim Bình Mai. Góp tiếng nói khẳng định giá trị nhân
văn cao đẹp của cuốn tiểu thuyết này.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi khảo sát
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Hình tượng nhân vật nữ trong Kim Bình Mai của Tiếu Tiếu Sinh,
4.2. Phạm vi khảo sát
Kim Bình Mai do Hải Đăng – Ngọc Quang – Minh Linh dịch, giáo sư
Lê Đức Niệm hiệu đính và giới thiệu (2008), Nxb Văn học.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp khảo sát.
Phương pháp phân tích, so sánh, đối chiếu.
Phương pháp tổng hợp và nâng cao vấn đề.
6. Đóng góp của khóa luận
Qua bài viết thấy được những đóng góp mới mẻ của Tiếu Tiếu Sinh cho
tiểu thuyết và văn học Trung Quốc qua việc xây dựng hình tượng nhân vật nữ
trong Kim Bình Mai.
7. Bố cục khóa luận
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, nội dung khóa luận gồm hai
chương:
Chương 1: Đặc điểm hình tượng nhân vật nữ trong Kim Bình Mai.
Chương 2: Một số biện pháp nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật
nữ trong Kim Bình Mai.
8
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
ĐẶC ĐIỂM CỦA HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT NỮ
TRONG KIM BÌNH MAI
1.1. Vài nét về Tiếu Tiếu Sinh và Kim Bình Mai
Kim Bình Mai là bộ tiểu thuyết chương hồi dài xuất hiện ở Trung Quốc
vào thời Vạn Lịch (1537 – 1620) triều Minh. Tác phẩm ra đời đánh dấu một
bước ngoặt mới trong lịch sử tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc. Nó đặt nền
móng cho sự ra đời của những bộ tiểu thuyết dài về sau. Đây là tác phẩm đầu
tiên “lấy cái chuyện một gia đình làm trung tâm, đề cập đến một môi trường
xã hội rộng lớn, mặt đối mặt với đời sống, thấm đượm mùi vị cuộc đời chứ
không phải siêu phàm xa lạ như trước kia” [59].
Vấn đề tác giả Kim Bình Mai là ai cho đến nay giới nghiên cứu vẫn
chưa xác định được chính xác. Theo tài liệu hiện có tập trung ở một số ý kiến
như sau:
Căn cứ vào bản Kim Bình Mai từ thoạicó bài tựa của Hân Hân Tử nói
tác giả là Lan Lăng Tiếu Tiếu Sinh. Cũng có người cho rằng Hân Hân Tử là
một tên khác của Tiếu Tiếu Sinh. Tiếu Tiếu Sinh có nghĩa là “thầy cười” hay
“ông bông đùa”. Sở dĩ tác giả lấy tên là Tiếu Tiếu Sinh vì ngày xưa người ta
coi trọng thơ, từ, phú hơn là truyện. Tiểu thuyết bị khinh rẻ như một loại
“ngụy thư”, “nôm na mách qué”, “loại tạp nham”, không đáng để ý, không
được coi trọng. Kim Bình Mai từng bị người đời ghép vào loại “dâm thư” cho
nên người sáng tác nó cũng phải lánh mặt dấu tên.
Có người còn đưa ra một số tác giả khác như Triệu Nam Trinh(1551 –
1627) hoặc Tiết Ứng Kỳ (trước sau 1550) nhưng chưa ra được chứng cứ xác
đáng.
9
Lỗ Tấn cho rằng tác giả của Kim Bình Mai là Vương Thế Trinh (1526 –
1590). Đây cũng là ý kiến của Giáo sư Chu Tinh sau nhiều năm nghiên cứu ở
khoa Trung văn trường Đại học sư phạm Thiên Tân, trong cuốn khảo cứu của
mình xuất bản tháng 10 – 1980 Giáo sư cho rằng tác giả Kim Bình Mai là
Vương Thế Trinh, đỗ tiến sĩ dưới triều Gia Tĩnh, làm quan đến Hình bộ
Thượng thư, tác giả của Gia Tĩnh dĩ lai thủ phụ truyện, Yêm Châu sơn nhân
tứ bộ cảo, Độc thư hậu, Vương thị thư uyển, Hoa uyển… Người ta cho rằng
cha Vương Thế Trinh bị cha con tể tướng Nghiêm Cao, Nghiêm Tung hãm
hại nên ông làm sách để chửi ngầm. Nghiêm Tung hồi nhỏ tên là Khánh
(cùng tên với Tây Môn Khánh - nhân vật chính). Có người còn viết hẳn cuốn
sách (Ngô Hàm: Độc sử hảo ký) khảo cứu tường tận các nhân vật để đi
đến cái thuyết gọi là “Khổ hiếu” (Gian khổ báo hiếu) nói rằng cha Vương
Thế Trinh bị tên nịnh thần Đường Thuận Chi dèm pha với Nghiêm Tung mà
bị hại. Để báo thù cho cha, Thế Trinh đóng cửa ba năm, soạn ra truyện Kim
Bình Mai đem dâng Thuận Chi. Tên này có thói quen thấm nước miếng vào
đầu ngón tay để giở sách. Thế Trinh ngầm tẩm thuốc độc vào từng trang
sách, Thuận Chi trúng độc mà chết.
Năm 1984, Giáo sư Từ Sóc Phương, trường Đại học Hàng Châu đăng
bài cho rằng tác giả Kim Bình Mai là Lý Khai Thiên (1501 – 1568).
Đầu năm 1984, tân chứng của Trương Viễn Phần được Tề Lỗ thư xã
xuất bản trong đó tác giả khẳng định rằng Lan Lăng Tiếu Tiếu Sinh chính là
Giả Tam Cận, nhà văn huyện Dịch đời Minh.
Tháng 7 - 1984, Phúc Đán học báo công bố liền hai bài: Tác giả Đồ
Long khảo và Tác giả Đồ Long khảo tục của Hoàng Lâm. Sau thời gian
nghiên cứu, tìm hiểu, Hoàng Lâm phát hiện được Đồ Long – một người
nguyên quán huyện Ngân tỉnh Triết Giang, từng làm quan ở Bắc Kinh, từng
kí tên ở hai cuốn sách đời Minh là Sơn trung nhất tịch thoại. Một buổi trò
10
chuyện trong núi) và Biến địa kim (Vàng khắp nơi). Đồ Long (1542 - 1605),
tự là Trường Khanh, còn một tự khác là Vĩ Chân, hiệu là Xích Thủy, đỗ tiến
sĩ dưới triều Vạn Lịch, từng làm tri huyện Thanh Phổ, tri huyện Dĩnh Thượng
và Chủ sự bộ Lễ.
Năm 1985, Nguyên mạo thám sách (Tìm kiếm diện mạo ban đầu) của
Ngụy Tử Vân được Học sinh thư cục Đài Loan xuất bản, ông Đồng Văn đề
tựa có nhắc lại bài viết Kim Bình Mai dữ Vương Thế Trinh của Ngô Hàm
cũng từng đề cập tới một Đồ Xích Thủy nổi tiếng về tạp kịch và văn chương
mà Xích Thủy là hiệu của Đồ Long. Ông dựa vào đó mà khẳng định Đồ Long
là tác giả của Kim Bình Mai.
Mặc dù xác định chưa chắc chắn tác giả là ai song từ lâu nay người ta
vẫn cho Tiếu Tiếu Sinh là một cái tên có thật và đồng tình với ý kiến của Hân
Hân Tử đó là tác giả Kim Bình Mai là Lan Lăng Tiếu Tiếu Sinh. Vì vậy trong
khóa luận này, người viết xin theo quan điểm của đa phần các nhà nghiên cứu
là coi Tiếu Tiếu Sinh là tác giả của Kim Bình Mai.
Tiếu Tiếu Sinh (? - ?) người huyện Dịch tỉnh Sơn Đông. Lan Lăng
chính là tên cũ của huyện Dịch. Căn cứ vào lời lẽ trong tác phầm có thể thấy
tác giả dùng tiếng Sơn Đông hết sức thành thạo. Chắc ông đã sống ở Bắc
Kinh, quen thuộc đời sống phong cảnh Bắc Kinh. Từ cảnh vật, bầu trời cho
đến vườn tược, ao hồ, sự trang trí nội thất hầu hết đều lấy Bắc Kinh làm bối
cảnh. Tác giả không những có trình độ văn hóa khá mà lại có tài năng sáng
tác, nhờ thâm nhập cuộc sống xã hội, sành sỏi các hình thức văn nghệ dân
gian, chịu khó tìm tòi học hỏi các tác phẩm lưu hành nơi thành thị hồi đó như
hý kịch, tiểu thuyết, ca khúc… cho nên ông đã có nhiều vốn để viết nên bộ
tiểu thuyết dài 100 hồi, nói về nhân tình thế thái.
Tác giả Tiếu Tiếu Sinh đã dựa vào câu chuyện từ hồi 23 đến hồi 26 của
Thủy hử truyện rồi mở rộng và sáng tạo thêm. Từ một số chi tiết tác giả đã
11
sáng tạo thành cuốn tiểu thuyết dài 100 hồi. Đã có rất nhiều ý kiến bình phẩm
về cuốn tiểu thuyết này. Có những người đứng trên quan điểm phong kiến cổ
hủ coi đây là bộ “dâm thư”, “Tà thư”, không được xếp vào văn học sử. Những
người khác coi đây là bản cáo trạng phong kiến do bản thân nó tự phơi bày.
Song nó đã vượt qua sự sàng lọc của thời gian và dư luận, khẳng định được vị
trí của mình.
1.2. Khái niệm nhân vật và hình tượng nhân vật
1.2.1. Khái niệm nhân vật văn học
Trong tiếng Hi Lạp cổ “nhân vật” đọc là Perssonner lúc đầu mang
nghĩa chỉ cái mặt lạ của diễn viên trên sân khấu. Theo thời gian chúng ta đã
sử dụng thuật ngữ này với tần suất nhiều nhất, thường xuyên nhất để chỉ
những đối tượng mà văn học miêu tả, thể hiện.
Nhân vật là linh hồn của tác phẩm, là sản phẩm tinh thần của nhà văn.
Thông qua nhân vật nhà văn đã trình bày về con người như những kết tinh của
phẩm chất xã hội, lịch sử, tâm lí…
Nhân vật giữ vai trò đặc biệt trong tác phẩm văn học, đặc biệt là tiểu
thuyết. Nó là mắt xích cơ bản, xâu chuỗi, kết dính các biến cố, sự kiện và là
nơi chủ yếu để nhà văn thể hiện tư tưởng của mình. Việc xây dựng nhân vật
trở thành một công việc quan trọng đòi hỏi sự sáng tạo độc đáo.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán – Trần Đình Sử Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên): “Nhân vật văn học là đơn vị nghệ thuật
đầy tính ước lệ, không thể đồng nhất với con người có thật trong đời sống.
Chức năng cơ bản của nhân vật văn học là khái quát tính cách của con người
và thể hiện quan điểm nghệ thuật và lí tưởng thẩm mĩ của nhà văn về con
người, vì thế nhân vật luôn gắn liền với chủ đề của tác phẩm” [6.235].
Trong Từ điển văn học tập 2 của Đỗ Đức Hiếu, Nguyễn Huệ Chi,
Phùng Văn Tửu, các tác giả quan niệm “Nhân vật là yếu tố cơ bản nhất trong
12
các tác phẩm văn học, tiêu điểm để bộc lộ chủ đề và đến lượt mình nó lại
được các yếu tố có tính hình thức của tác phẩm tập trung khắc họa. Nhân vật
đó là nơi tập trung giá trị tư tưởng nghệ thuật của tác phẩm văn học” [7.277].
Trong cuốn Lí luận văn học do Phương Lựu chủ biên định nghĩa: “Nói
đến nhân vật văn học là nói đến con người được miêu tả, thể hiện trong tác
phẩm bằng phương tiện văn học. Nhân vật văn học là một hình tượng ước lệ,
có những dấu hiệu để ta nhận ra. Văn học không thể thiếu nhân vật, vì đó là
phương tiện cơ bản để nhà văn khái quát hiện thực”.
Như vậy có nhiều định nghĩa khác nhau về nhân vật văn học. Tựu trung
lại, nhân vật văn học chính là con người tồn tại ở nhiều dạng thức khác nhau
được miêu tả thể hiện trong tác phẩm văn học, nhằm thể hiện tư tưởng chủ đề
tác phẩm, dụng ý nghệ thuật của nhà văn.
Tìm hiểu nghệ thuật xây dựng nhân vật là việc xem xét cách nhà văn
thể hiện làm cho nhân vật hiện lên sinh động, chân thực trước sự hình dung
của bạn đọc về ngoại hình cũng như tính cách. Tùy vào thể loại, sở trường của
nghệ sỹ mà nhân vật được thể hiện bằng cách riêng, độc đáo.
1.2.2. Khái niệm hình tượng nhân vật
Theo định nghĩa của từ điển Tiếng Việt 2006 do Hoàng Phê (chủ biên):
“Hình tượng là sự phản ánh một cách khách quan bằng nghệ thuật dưới hình
thức những hiện tượng cụ thể, sinh động, điển hình, nhận thức trực tiếp bằng
“cảm tính”.
Theo cách giải thích của Từ điển thuật ngữ Văn học do Lê Bá Hán –
Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên): “Hình tượng nghệ thuật là
sản phẩm của phương thức chiếm lĩnh, thể hiện và tái tạo hiện thực theo quy
luật của tưởng tượng, hư cấu nghệ thuật” [6.146].
“Hình tượng nghệ thuật chính là các khách thể đời sống được nghệ sĩ
tái hiện bằng tưởng tượng sáng tạo trong những tạo trong những tác phẩm
13
nghệ thuật. Giátrị trực quan độc lập là đặc điểm quan trọng của hình tượng
nghệ thuật. Bằng chất liệu cụ thể, nó làm cho người ta có thể ngắm nghía,
thưởng ngoạn, tưởng tượng. Đó có thể là một đồ vật, một phong cảnh thiên
nhiên hay một sự kiện xã hội được cảm nhận. Hình tượng nghệ thuật có thể
tồn tại qua chất liệu vật chất nhưng giá trị của nó là ở phương diện tinh thần.
Nhưng nói tới hình tượng nghệ thuật người ta thường nói tới hình tượng con
người bao gồm cả hình tượng một tập thể người với những chi tiết biểu hiện
cảm tính phong phú”.
“Hình tượng nghệ thuật tái hiện đời sống, nhưng không phải sao chép y
nguyên những hiện tượng có thật, mà là tái hiện có chọn lọc, sáng tạo thông
qua trí tưởng tượng và tài năng của nghệ sĩ, sao cho các hình tượng truyền lại
được ấn tượng sâu sắc, từng làm cho nghệ sĩ day dứt, trăn trở cho người khác”.
Như vậy, cấu trúc của hình tượng nghệ thuật bao giờ cũng là sự thống
nhất cao độ giữa các mặt đối lập: chủ quan và khách quan, lí trí và tình cảm,
cá biệt và khái quát, hiện thực và lí tưởng, tạo hình và biểu hiện, hữu hình và
vô hình. Và cũng chính vì những lí lẽ trên, hình tượng còn là một quan hệ xã
hội – thẩm mĩ vô cùng phức tạp. Mỗi một loại hình tượng nghệ thuật sử dụng
một loại chất liệu riêng biệt để xây dựng hình tượng. Chất liệu của hội họa là
đường nét, màu sắc, của kiến trúc là mảng khối, của âm nhạc là giai điệu, âm
thanh. Văn học lấy ngôn từ làm chất liệu. Hình tượng nghệ thuật là hình
tượng ngôn từ.
1.3. Cơ sở hình thành nhân vật nữ trong Kim Bình
Mai
“Tất cả mọi sự bí ẩn của thế giới này đều không sánh nổi với sự bí ẩn
của người phụ nữ” (Vladimir Lobanok). Người phụ nữ - một nửa của nhân
loại, họ là nguồn cảm hứng nghệ thuật cho các nhà văn, nhà thơ, họ đi vào
văn học, đem đến những nét mới lạ, độc đáo cho các tác phẩm văn chương
nghệ thuật. Hình tượng nhân vật nữ đã đem đến nét mới cho văn học Trung
14
Quốc bấy giờ - đưa con người đời thường vào trong tác phẩm văn chương
nghệ thuật. Tiểu thuyết này không miêu tả xã hội từ đời sống cung đình (như
Tam Quốc), từ sự vật lộn của những kẻ sống ngoài lề xã hội, không được sự
che chở của pháp luật (như Thủy Hử), từ đời sống tinh thần đổ vỡ của một gia
đình quý tộc (như Hồng Lâu Mộng) mà nó tập trung sự chú ý vào cuộc sống
sinh hoạt đời thường của một con buôn hãnh tiến – sản phẩm của xã hội tiền
tư bản cuối Minh. Từ đầu đến cuối Kim Bình Mai đề cập đến đủ hạng người
trong xã hội. Đọc tác phẩm, nhân vật nữ để lại cho người đọc nhiều ấn tượng
sâu sắc, nhân vật nữ với những khát vọng yêu đương, hạnh phúc, số phận bất
hạnh… Trong Kim Bình Mai, hình tượng nhân vật nữ được tác giả lựa chọn
làm nhân vật trung tâm bắt nguồn từ những nguyên nhân sau:
Phụ nữ là nhân vật quen thuộc trong nền văn học các dân tộc trên thế
giới. Văn học Trung Quốc đề cập đến nhân vật nữ từ rất sớm. Trong thần
thoại cổ đại Trung Hoa tinh thần đấu tranh bất khuất; ý chí chiến đấu không
biết mệt mỏi trong hình tượng chim tinh vệ: công lao sáng tạo ra loài người,
vá trời của Nữ Oa đã khẳng định vai trò lớn lao của phụ nữ. Trong Sử kí nhân
vật nữ xuất hiện ít nhưng không vì thế mà vai trò của họ mờ nhạt (Lữ Hậu –
Lữ Hậu bản kỷ). Đời Tấn nhân vật nữ đã xuất hiện nhưng không nhiều đều
chịu áp bức bóc lột của chế độ phong kiến. Tiểu thuyết chí quái Lục Triều
miêu tả tình yêu giữa các thần linh, giữa người và ma quỷ, thế nhưng cũng có
một số ít truyện miêu tả truyện yêu đương của con người trần thế như truyện
“Cô gái bán phấn”, “Thạch Sùng trảm Mỹ Nhân”.
Đến truyền kỳ đời Đường, hình tượng phụ nữ, gần gũi với cuộc sống
của con người và phẩm chất đạo đức của họ rõ nét hơn. Truyền kỳ đời Đường
phát triển trên nền tảng của tiểu thuyết chí quái những chí quái săn tìm
chuyện lạ, đề cao sự linh thiêng còn truyền ký đời Đường tuy vẫn tồn tại
những màu sắc kỳ lạ nhưng không rơi vào tật hoang đường trái lẽ. Tác giả chí
15
quái đem chuyện kỳ lạ làm sự thực, không có ý thức sáng tạo văn nghệ.
Còncác tác giả đời Đường “cố ý viết tiểu thuyết, mặc tình hư cấu, sáng tác tận
tình”. Từ Đường trở về trước, tiểu thuyết Trung Quốc về cơ bản mới chỉ là
mầm mống, tuy ở thời Hán Ngụy, Lục Triều có chút ít tác phẩm nhưng nếu
nhìn từ góc độ khắc họa nhân vật hay tả tình tiết còn thô thiển, đơn giản chưa
đến mức thành thục. Phải đợi đến truyền kỳ đời Đường tiểu thuyết Trung
Quốc mới dần trưởng thành, mới có được hình tượng nghệ thuật tương đối
hoàn hảo cũng như nội dung đời sống xã hội tương đối rộng rãi và giành được
vị trí không thể xem thường trong lịch sử văn học Trung Quốc. Thời kỳ giữa
Đường là thời kỳ phát triển rực rỡ, phồn vinh của tiểu thuyết truyền kỳ đời
Đường, các tác phẩm thể hiện chủ đề tình yêu, số phận bi kịch của người phụ
nữ có thành tựu rực rỡ nhất. Một số truyện có những đặc sắc về nghệ thuật
như trí tưởng tượng đẹp đẽ, tràn đầy màu sắc lãng mạn, lại rất chú trọng đến
khắc họa hình tượng nhân vật như “Liễu Nghị truyện”, “Lý Oa truyện”.
Truyện truyền kỳ miêu tả hình tượng nhân vật tươi sáng, tình tiết lành mạnh li
kỳ, trữ tình đậm đà, lời văn trau chuốt. Chủ đề tư tưởng mà tiểu thuyết truyền
kỳ đề xuất như chống áp bức phong kiến, đòi hỏi tự do yêu đương… không
những thể hiện được yêu cầu của quần chúng đương thời mà còn tiêu biểu cho
yêu cầu của xã hội. Truyện truyền kỳ làm nên hình thức chủ yếu cho tiểu
thuyết đời Tống về sau. Đời Tốngtruyện kể mang màu sắc hiện thực hơn cả.
Thời Tống Nguyên tiểu thuyết cổ điển chia thành hai dòng lớn là tiểu thuyết
văn ngôn và tiểu thuyết bạch thoại, nhưng bạch thoại phát triển hơn…
Nhìn chung văn xuôi Trung Quốc từ thời Ngụy Tấn đến đời Đường
hình tượng nhân vật phụ nữ được thể hiện ngày càng sinh động, đa dạng làm
phong phú thêm mảng đề tài đời sống hiện thực cho nền văn học Trung Quốc
đương thời.
16
Minh – Thanh (1368-1911) là thời kỳ phát triển của tiểu thuyết cổ điển
Trung Quốc. Vương triều Minh là vương triều phong kiến cuối cùng do giai
cấp địa chủ người Hán nắm chính quyền, nó được xây dựng trên thành quả
cuộc khởi nghĩa nông dân rộng lớn vào cuối đời Nguyên. Nhà Minh trở thành
chế độ độc tài chuyên chế, một chế độ phản động lỗi thời con người bị chà
đạp áp bức… Nhà Thanh là triều đại ngoại tộc thứ hai sau (sau Mông Cổ)
thống trị Trung Quốc. Khi người Mãn Thanh vào thống trị, chúng kế thừa tất
cả chế độ chuyên chế của triều cũ để lại. Trung Quốc dưới triều Thanh nhanh
chóng biến thành kỳ hình quái dạng: nửa phong kiến, nửa thuộc địa. Giai
đoạn Minh – Thanh là giai đoạn kinh tế Trung Hoa phát triển mạnh mẽ mà
chủ yếu là những mầm mống của kinh tết tư bản chủ nghĩa ra đời và ngày
càng lớn mạnh. Sự xâm nhập của phương Tây vào làm cho Trung hoa có điều
kiện phát triển. Những yếu tố kinh tế tư bản chủ nghĩa làm nảy sinh trong xã
hội một trào lưu tư tưởng mới có tính chất bình dân, khẳng định dục vọng tự
nhiên và hướng về vật chất của con người, yêu cầu được giải phóng cá nhân.
Đặc biệt ảnh hưởng của quan niêm giải phóng nữ tính lúc bấy giờ nên người
phụ nữ được quan tâm hơn. Trung Quốc cuối đời Minh với sự ra đời của Kim
Bình Mai nhân vật nữ có vị trí và vai trò nhất định trong văn học,được lựa
chọn là nhân vật trung tâm của tác phẩm. Họ được xây dựng thành những
hình tượng riêng biệt độc đáo, nhất là về mặt tư tưởng họ thể hiện khát vọng
mãnh liệt về tình yêu và hạnh phúc cá nhân. Cũng từ đây nhân vật nữ được
viết nhiều hơn trong những bộ tiểu thuyết dài về sau như: Hồng Lâu Mộng,
Nho lâm ngoại sử…
Thứnữa, Tiếu Tiếu Sinh có nghĩa là “thầy cười” hay “ông bông đùa”.
Sở dĩ tác giả lấy tên là Tiếu Tiếu Sinh vì ngày xưa người ta coi trọng thơ, từ,
phú hơn là truyện. Tiểu thuyết bị khinh rẻ như một loại “ngụy thư”, “nôm na
mách qué”, “loại tạp nham”, không đáng để ý, không được coi trọng.Kim
17
Bình Mai từng bị người đời ghép vào loại “dâm thư” cho nên người sáng tác
nó cũng phải lánh mặt dấu tên. Tác giả là người không những có trình độ văn
hóa khá mà lại có tài năng sáng tác, ông thâm nhập cuộc sống xã hội, am hiểu
về văn nghệ dân gian, cuộc sống từng trải tiếp xúc với đủ hạng người trong xã
hội bấy giờ nên ông có cái nhìn sâu sắc về con người, nhân tình thế thái…
Sau thời Gia Tĩnh, kinh tế phát triển xã hội phồn thịnh, các văn nhân có
dịp gần gũi khám phá đời sống xã hội, cùng với đó nhu cầu văn hóa mới cũng
phát triển. Thời Vạn Lịch, ngành xuất bản mở mang, nghề in phát đạt, nhiều
tiểu thuyết và hí khúc được in ra với những tập sách trình bày rất đẹp. Kim
Bình Mai ngay từ khi ra đời đã trải qua nhiều thử thách, chịu nhiều búa rìu
của dư luận.
Tiếu Tiếu Sinh với ngòi bút tràn đầy hơi thở hiện thực, tác giả đã đem
đến cho người đọc một cuốn tiểu thuyết đầy giá trị. 100 hồi của Kim Bình Mai
đã dựng lên được một bức tranh hiện thực rộng lớn với đủ mọi hạng người,
mọi quan hệ trong xã hội thành thị đương thời. Tuy thời gian mà tác giả nói
đến trong tác phẩm là đời Huy Tông triều Tống nhưng hiện thực được phản
ánh trong tác phẩm chính là xã hội Trung Quốc đời Minh. Đó là thời kì đồng
tiền đã tỏ rõ uy thế vạn năng của nó. Thế lực đồng tiền đã bẻ cong mọi cán
cân công lý. Điều này cũng đã được Nguyễn Du khái quát trong Truyện Kiều:
“Trong tay đã sẵn đồng tiền
Dẫu lòng đổi trắng thay đen khó gì”
Cái chân lý mà Nguyễn Du khái quát từ cái xã hội đã đẩy nàng Kiều
vào con đường lưu lạc ấy cũng chính là sự thực về thời đại cuối Minh – thời
đại của Kim Bình Mai.Tác giả đã dám nhìn thẳng vào chế độ phong kiến cuối
nhà Minh về mặt chính trị hết sức hỗn loạn, vô trật tự. Mặt khác, tác giả đã
mất niềm tin đối với đạo đức truyền thống mà giai cấp thống trị đã triệt để sử
dụng trong xã hội lúc bấy giờ. Trong xã hội đó, người phụ nữ chỉ được phép
18
cấm cung, bó chân, cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy. Người phụ nữ không được
phép thể hiện những rạo rực tâm hồn, tất nhiên đòi hỏi tình dục phải là điều
cấm kị. Nhưng tác giả đã vượt ra ngoài lễ giáo đề cao cuộc sống chăn gối của
phụ nữ xem đó là quyền chính đáng mà họ được hưởng qua các nhân vật Phan
Kim Liên, Lý Bình Nhi, Bàng Xuân Mai và những người thiếp của Tây Môn
Khánh. Tác giả đặc biệt chú trọng tới hình tượng nhân vật nữ trong tiểu thuyết
của mình, dành cho họ những trang viết sâu sắc, mang đến cho người đọc cái
nhìn chân thực nhất về người phụ nữ bấy giờ. Ngay ở nhan đề của cuốn tiểu
thuyết “Kim Bình Mai” tác giả đã đặc biệt ghép tên của ba nhân vật nữ là:
Phan Kim Liên, Lý Bình Nhi, Bàng Xuân Mai làm nhanđề của tác phẩm, gợi
sự tò mò cho người đọc.
1.4. Đặc điểm nhân vật nữ trong Kim Bình Mai
Thế giới nhân vật trong Kim Bình Mai rất đông đảo, gồm nhân vật nam
nữ và các nhân vật thuộc các thành phần trong xã hội. Trong đó xuất hiện
nhiều và chiếm số lượng lớn là nhân vật nữ, khoảng hơn 80 nhân vật như:
những người vợ của Tây Môn Khánh, những con hầu người ở, những ca nhi
kỹ nữ, bà mối, sư sãi, ni cô… họ xuất hiện hầu hết trong 100 hồi của cuốn
tiểu thuyết góp phần quan trọng trong việc thể hiện ý đồ nghệ thuật, tư tưởng
của tác giả. Nhân vật nữ được mô tả một cách chân thực về những khát vọng
yêu đương, đời sống phòng khuê, họ thể hiện mạnh mẽ những rạo rực của đời
sống tâm hồn… Họ sở hữu vẻ đẹp ngoại hình tuyệt mỹ, có sức cuốn hút mê
hồn. Mang trong mình tính cách đa diện: có khi bất chấp luân lí, đạo đức, chà
đạp lên người khác để thỏa mãn con người cá nhân của mình nhưng cũng có
khi họ lắng lại để quan tâm, yêu thương và sống có tình nghĩa… Mặc dù ở họ
vẫn có chút thanh âm của tình người nhưng đến cuối đời họ vẫn phải chịu cái
kết đau thương bất hạnh.
19
Trong Kim Bình Mai, Tiếu Tiếu Sinh thông qua việc xây dựng hình
tượng nhân vật nữ một cách tỉ mỉ, tường tận đã cho người đọc thấy được phần
nào bức tranh hiện thực rộng lớn và phản ánh chân thực bộ mặt Trung Quốc
cuối đời Minh.
1.4.1. Nhân vật nữ và những khát vọng “nổi loạn”
Thời Minh – Thanh, để củng cố tôn ti trật tự phong kiến, thủ tiêu tinh
thần phản kháng của nhân dân, giai cấp thống trị đã thi hành chính sách văn
hóa vô cùng tàn bạo: đề cao tam cương ngũ thường, khuyên răn con người
khép mình vào khuôn phép, đề cao chủ tính, tránh suy nghĩ bậy bạ, đề cao đạo
đức phong kiến… Nhưng ở Kim Bình Mai, ta bắt gặp một cái nhìn hoàn toàn
mới mẻ, vượt ra ngoài lễ giáo phong kiến cũ đề cao cuộc sống chăn gối và
xem đó là quyền chính đáng mà họ được hưởng. Thời kỳ này con người với
những khát khao, đòi hỏi cởi trói khỏi những ràng buộc phong kiến ngàn năm
để được sống cho bản thân mình.
Nhân vật nữ trong tác phẩm với mọi hạng người, ở mọi tầng lớp, trong
cuộc sống của họ ít bị ràng buộc bởi lễ giáo. Họ chẳng phải lo nghĩ nhiều đến
đạo đức, lễ nghĩa trước kia; họ sống và hưởng thụ vì con người cá nhân của
mình. Với khuynh hướng đời thường trân trọng cái “nhân dục”, Kim Bình
Mai đã khám phá đời sống của nhân vật nữ ở những gì thực nhất, đời nhất. Ở
đây, nhân vật nữ không hề che dấu những ham muốn, họ sẵng sàng bộc lộ
những khát khao, rung cảm sâu kín nhất của bản thân và tìm mọi cách để đạt
được mục đích. Những rào cản của đạo đức, lễ giáo phong kiến bị phá tan,
đạp bằng. Nhân vật nữ sống với những khát vọng “nổi loạn” mạnh mẽ.
Xã hội đó đặt ra biết bao luật lệ hà khắc trói buộc con người, nhất là
người phụ nữ. Người ta bắt người phụ nữ phải sống trong những khuôn phép,
luật lệ hà khắc: “không đi giữa đường, không đứng giữa cửa, không ngồi giữa
chiếu” (hành bất trungđạo, lập bất trung môn, tọa bất trung tịch), và thậm chí
20
“cười không được hở răng”. Với cách nhìn đó, người phụ nữ chỉ được phép
cấm cung, bó chân, cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy, nam nữ thụ thụ bất thân. Họ
không được phép sống cho riêng mình bởi “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng
phu, phu tử tòng tử”. Cuộc sống của họ hoàn toàn phụ thuộc vào người khác,
người đàn ông, người chủ của gia đình. Họ không được phép thể hiện những
rạo rực của tâm hồn, tất nhiên đòi hỏi tình dục phải là điều cấm kị. Nhưng con
người rút cục vẫn là con người và văn học là nhân học. Mọi sự trói buộc chỉ là
giả dối. Nhân vật nữ trong Kim Bình Mai đặt con người cá tính lên trên nhất,
sẵn sàng nổi loạn để sống vì mình.
Phan Kim Liên là người phụ nữ có nhan sắc hơn người: Mới 9 tuổi đã
bị mẹ bán vào phủ Vương Chiêu Tuyên. Nhờ có nhan sắc nên nàng được
Trương đại hộ nạp làm thiếp: “lúc đó khoảng mười tám tuổi, nhan sắc lồ lộ
muôn phần kiều diễm…”. Ở phủ này Phan Kim Liên được học hành đầy đủ
nên mới 13 tuổi đã có đầy đủ các món nghề để quyến rũ người khác. Năm 15
tuổi thì Vương Chiêu Tuyên mất Kim Liên lại được bán cho nhà họ Trương,
rồi sau đó được thu nạp làm thiếp. Rồi họ Trương ốm nặng, gả Phan Kim
Liên cho Võ Đại. Kim Liên cho rằng xinh đẹp như mình thì phải lấy chồng
giàu sang tài giỏi nên chẳng chịu giúp chồng, suốt ngày chỉ lo trang điểm rồi
than thân trách phận. Chính vì vậy khi gặp Võ Tòng - em trai Võ Đại – một
tráng sĩ hùng dũng, lẫm liệt, khôi ngô tuấn tú, Kim Liên đem lòng tơ tưởng.
Để có thể thỏa mãn dục vọng, ham muốn của mình Kim Liên không còn chú
ý tới rào cản của lễ giáo, đạo đức, lương tâm của con người; nàng ta đã gian
dâm với Tây Môn Khánh giết hại Võ Đại và trở thành thiếp thứ 5 (ngũ
nương) của Tây Môn Khánh. Tư tưởng hưởng lạc và chủ nghĩa cá nhân cực
đoan chi phối mọi hành động, cử chỉ của Phan Kim Liên. “Kim liên cho lập
bàn thờ chồng trên lầu, giữa có bài vị ghi “Vong phu Võ Đại lang chi linh”
… Nhưng cũng từ đó, Kim Liên và Tây Môn Khánh không cần phải gặp nhau
ở nhà mụ Vương nữa mà ngang nhiên vui thú với nhau trước bàn thờ Võ Đại.
21