Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Khái niệm khoản đầu tư trong xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế của trọng tài ICSID

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 97 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

NGUYN TH MINH NGUYT

KHáI NIệM "KHOảN ĐầU TƯ" TRONG XáC ĐịNH THẩM QUYềN
GIảI QUYếT TRANH CHấP ĐầU TƯ QUốC Tế CủA TRọNG TàI ICSID

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2019


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

NGUYN TH MINH NGUYT

KHáI NIệM "KHOảN ĐầU TƯ" TRONG XáC ĐịNH THẩM QUYềN
GIảI QUYếT TRANH CHấP ĐầU TƯ QUốC Tế CủA TRọNG TàI ICSID
Chuyờn ngnh: Lut Quc t
Mó s: 8380101.06

LUN VN THC S LUT HC

Cỏn b hng dn khoa hc: PGS.TS ON NNG

H NI - 2019


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan mọi kết quả của đề tài: “Khái niệm “khoản
đầu tư” trong xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp đầu tư
quốc tế của trọng tài ICSID ” là công trình nghiên cứu của cá nhân
tôi và chưa từng được công bố trong bất cứ công trình khoa học nào
khác cho tới thời điểm này.
Hà Nội, ngày 20 tháng 03 năm 2019
Người cam đoan

Nguyễn Thị Minh Nguyệt


LỜI CẢM ƠN
Trong suốt thời gian thực hiện đề tài, tôi đã nhận được sự giúp đỡ của
quý phòng ban của Đại học Quốc gia Hà Nội; Khoa Luật, bộ môn Luật Quốc
Tế đã tạo điều kiện tốt nhất cho tôi được hoàn thành đề tài. Đặc biệt tôi xin
trân trọng gửi lời cảm ơn sâu sắc tới Thầy – PGS.TS Đoàn Năng đã tận tình
hướng dẫn trong suốt thời gian tôi thực hiện đề tài này. Và tôi xin được gửi
lời cảm ơn chân thành nhất tới toàn thể quý thầy cô đang giảng dạy tại bộ
môn Luật Quốc Tế và Khoa Luật đã tận tâm dìu dắt tôi trong chương trình
cao học Luật Quốc Tế.
Cuối cùng tôi xin gửi cảm ơn yêu thương chân thành đến gia đình
và tất cả bạn bè đã giúp đỡ, động viên tôi trong suốt quá trình học tập và
thực hiện đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 20 tháng 03 năm 2019
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Minh Nguyệt



MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ĐẦU TƢ
QUỐC TẾ VÀ KHOẢN ĐẦU TƢ QUỐC TẾ ................................. 6
1.1.

Khái niệm, đặc điểm đầu tƣ quốc tế .................................................. 6

1.1.1. Khái niệm .............................................................................................. 6
1.1.2. Đặc điểm của đầu tư quốc tế ................................................................. 9
1.2.

Khái niệm và vai trò của việc xác định “khoản đầu tƣ quốc
tế” trong việc xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp đầu
tƣ quốc tế ............................................................................................ 21

1.2.1. Khái niệm “khoản đầu tư quốc tế” ...................................................... 21
1.2.2. Vai trò của việc xác định “khoản đầu tư quốc tế” trong việc xác
định thẩm quyền giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế ........................ 23
1.3.

Vai trò của việc điều chỉnh pháp lý việc xác định “khoản đầu
tƣ quốc tế” để xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp đầu
tƣ quốc tế ............................................................................................ 25


1.4.

Mối quan hệ giữa pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia
trong việc điều chỉnh pháp lý việc xác định “khoản đầu tƣ” để
xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp đầu tƣ quốc tế ......... 26

Tiểu kết chƣơng 1 .......................................................................................... 30


Chƣơng 2: “KHOẢN ĐẦU TƢ QUỐC TẾ” THEO QUY ĐỊNH CỦA
MỘT SỐ ĐIỀU ƢỚC QUỐC TẾ VÀ TRONG THỰC TIỄN
HOẠT ĐỘNG CỦA TRỌNG TÀI ICSID ...................................... 31
2.1.

“Khoản đầu tƣ quốc tế” theo quy định của một số điều ƣớc
quốc tế ................................................................................................ 31

2.1.1. Khái niệm “khoản đầu tư quốc tế” theo quy định của các điều ước
quốc tế đa phương ............................................................................... 31
2.1.2. Khái niệm “khoản đầu tư quốc tế” theo quy định của các điều ước
quốc tế song phương ........................................................................... 35
2.2.

“Khoản đầu tƣ quốc tế” trong thực tiễn hoạt động của Trọng
tài ICSID ............................................................................................ 43

2.2.1. Khái quát về ICSID ............................................................................. 43
2.2.2. Vấn đề “Khoản đầu tư quốc tế” trong việc xác định thẩm quyền
giải quyết các vụ tranh chấp đầu tư quốc tế tại ICSID ........................ 46

Tiểu kết chƣơng 2 .......................................................................................... 56
Chƣơng 3: KHÁI NIỆM “KHOẢN ĐẦU TƢ QUỐC TẾ” TRONG
PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆT NAM VỀ ĐẦU
TƢ QUỐC TẾ.................................................................................... 57
3.1.

Các quy định của pháp luật Việt Nam về khái niệm “khoản
đầu tƣ quốc tế” .................................................................................. 57

3.2.

Khái niệm “khoản đầu tƣ quốc tế” trong thực tiễn xác định
thẩm quyền giải quyết tranh chấp đầu tƣ quốc tế tại Việt Nam ..... 62

3.2.1. Tình hình đầu tư nước ngoài vào Việt Nam ....................................... 62
3.2.2. Khái niệm tranh chấp đầu tư quốc tế .................................................. 64
3.2.3. Tình hình giải giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế liên quan đến
“khoản đầu tư quốc tế” cuả Việt Nam ................................................ 65
3.3.

Kiến nghị một số giải pháp ............................................................... 75


3.3.1. Hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế và
“khoản đầu tư” .................................................................................... 75
3.3.2. Đào tạo chuyên gia và chuẩn bị các nguồn lực cần thiết để đối
phó với các tranh chấp với nhà đầu tư nước ngoài ............................. 78
3.3.3. Hạn chế tối đa tranh chấp trong việc đàm phán ký kết các Hiệp
định đầu tư........................................................................................... 79
Tiểu kết chƣơng 3 .......................................................................................... 81

KẾT LUẬN .................................................................................................... 82
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 83


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Từ viết tắt

Viết đầy đủ

BIT

Hiệp định đầu tư song phương

FDI

Đầu tư trực tiếp

ICSID

Trung tâm giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế

ODA

Nguồn viện trợ phát triển chính thức

USD

Đô la Mỹ



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự phát triển mạnh mẽ của xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới
không chỉ đánh dấu bằng sự gia tăng mối quan hệ cũng như sự phụ thuộc
nhiều mặt giữa các quốc gia, mà đằng sau bức tranh toàn cảnh đó là sự tham
gia của quá trình di chuyển vốn đầu tư từ nơi này sang nơi khác ở phạm vi
quốc gia và quốc tế. Song đi cùng với sự gia tăng về đầu tư là những mâu
thuẫn, bất đồng về lợi ích làm phát sinh tranh chấp trong lĩnh vực đầu tư nước
ngoài giữa các chủ thể kinh doanh.
Do đó, một câu hỏi luôn được đặt ra cùng với bài toán phát triển đất
nước, là làm thế nào để giải quyết một cách tốt nhất các mâu thuẫn, bất đồng
này bởi đây luôn là một vấn đề phức tạp, nhạy cảm. Điều này không chỉ ảnh
hưởng trực tiếp đến quyền lợi của các bên tham gia tranh chấp mà còn ảnh
hưởng rất lớn đến sự phát triển, sức thu hút của nền kinh tế quốc gia nói
chung trong nền kinh tế toàn cầu. Nếu ta tạo ra được một hệ thống giải quyết
tranh chấp hiệu quả chính là tạo sự bảo đảm cho môi trường đầu tư ổn định và
cơ sở pháp lý vững chắc để bảo vệ quyền lợi cho các nhà đầu tư. Điều này đối
với các nhà đầu tư nước ngoài có ý nghĩa hơn cả việc tăng cường các biện
pháp ưu đãi, khuyến khích đầu tư.
Để giải quyết tranh chấp về đầu tư quốc tế có các hình thức như:
thương lượng, hòa giải, trung gian hoặc các cơ quan tài phán quốc gia và
quốc tế, trong đó có trọng tài quốc tế. Trung tâm Giải quyết Tranh chấp Đầu
tư Quốc tế (ICSID) được thành lập theo Công ước năm 1965 về Giải quyết
Tranh chấp Đầu tư giữa các quốc gia và công dân của các quốc gia khác.
Mục đích chủ yếu thành lập trung tâm là nhằm thiết lập ICSID – một cơ chế
hòa giải và trọng tài thường trực bên cạnh ngân hàng thế giới – có chức năng
giải quyết tranh chấp đầu tư giữa cơ quan nhà nước của một bên ký kết và

1



nhà đầu tư của bên ký kết khác. Thực tế trung tâm này đã giải quyết có hiệu
quả nhiều tranh chấp về đầu tư quốc tế. Theo thống kê của Trung tâm quốc
tế giải quyết các tranh chấp đầu tư, ICSID năm 2017, 22% các phán quyết về
thẩm quyền của tòa trọng tài ICSID là về giải thích khái niệm “đầu tư quốc
tế” và các vấn đề khác liên quan đến thẩm quyền. Trong đó, theo Điều 25
của Công ước ICSID, để xem xét thẩm quyền của tòa thì trước hết phải xác
định tranh chấp đó có phát sinh từ một khoản đầu tư hay không theo quy
định tại khoản 1 của Điều này.
Ngoài ra, khái niệm “khoản đầu tư quốc tế” trong giải quyết tranh chấp
đầu tư quốc tế chưa được giải thích thống nhất trong bất kỳ văn bản pháp lý
quốc tế nào. Điều đó dẫn tới việc giải thích khái niệm “đầu tư” trong quá trình
xác định thẩm quyền giải quyền tranh chấp của tòa ICSID là chủ đề được tranh
luận sôi nổi trong các diễn đàn luật học quốc tế. Do đó, học viên đã lựa chọn đề
tài “Khái niệm “khoản đầu tư” trong xác định thẩm quyền giải quyết tranh
chấp đầu tư quốc tế của trọng tài ICSID” làm luận văn của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Hiện nay, tình hình đầu tư quốc tế có xu hướng phát triển bùng nổ do
kết quả của chính sách toàn cầu hóa và hợp tác quốc tế cũng như khu vực của
các quốc gia được đẩy mạnh vì vậy dẫn tới nguy cơ gia tăng các vụ tranh chấp
trong lĩnh vực đầu tư quốc tế. Xuất phát từ ý nghĩa và tính thời sự của vấn đề
có nhiều công trình nghiên cứu và có những báo cáo, tài liệu nghiên cứu dưới
những góc độ nghiên cứu khác nhau có nhắc đến khái niệm “khoản đầu tư
quốc tế”, nhưng hầu như không có công trình nào tập trung nghiên cứu sâu
sắc để làm rõ khái niệm “khoản đầu tư quốc tế”. Duy nhất có luận văn Thạc
sỹ của Nguyễn Trung Nam – công ty Luật Elegal là công trình có đề cập một
cách rất khái quát đến khái niệm này. Riêng vấn đề nghiên cứu khái niệm
khoản đầu tư trong xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế


2


của trọng tài ICSID thì hiện nay chưa có luận văn hay công trình nghiên cứu
khoa học nào đi sâu nghiên cứu cả về vấn đề pháp luật và thực tiễn. Do vậy,
việc nghiên cứu đề tài: “khái niệm “khoản đầu tư” trong xác định thẩm quyền
giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế của trọng tài ICSID” không bị trùng lặp
với các công trình đã công bố
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục tiêu chung
Tìm hiểu để làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về đầu tư quốc tế và về
“Khoản đầu tư quốc tế”; Khoản đầu tư quốc tế theo quy định của các điều ước
quốc tế và trong thực tiễn hoạt động của trọng tài ICSID; Từ đó, đánh giá liệu
rằng cách xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp của tòa trọng tài ICSID
đem lại lợi ích cũng như mối đe dọa nào cho Việt Nam.
Mục tiêu cụ thể
Tập trung phân tích để làm rõ những vấn đề sau đây:
- Những vấn đề lý luận cơ bản về đầu tư quốc tế và về “Khoản đầu tư
quốc tế”
- Khoản đầu tư quốc tế theo quy định của các điều ước quốc tế và trong
thực tiễn hoạt động của trọng tài ICSID
- Khái niệm “khoản đầu tư quốc tế” trong pháp luật và thực hiện của
Việt Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là các quy định của pháp luật quốc tế và pháp
luật Việt Nam về đầu tư quốc tế; thực tiễn xác định khái niệm “khoản đầu
tư”theo quy định tại Khoản 1 Điều 25 của công ước ICSID. Trong phạm vi
nghiên cứu của luận văn thuộc chuyên ngành Luật quốc tế, tác giả sử dụng 2
thuật ngữ “khoản đầu tư quốc tế” và “khoản đầu tư” cùng nhau được hiểu với ý
nghĩa tương đồng và có thể thay thế cho nhau trong mọi hoàn cảnh của đề tài.


3


- Phạm vi nghiên cứu của luận văn: luận văn đi tìm hiểu những vấn đề
lý luận về khoản đầu tư quốc tế, khái niệm khoản đầu tư trong một số điều
ước quốc tế song phương và đa phương, khái niệm khoản đầu tư quốc tế
trong pháp luật và thực tiễn thực hiện ở Việt Nam chúng ta hiện nay. Các
vấn đề khác liên quan đến đầu tư quốc tế, tranh chấp đầu tư quốc tế, thầm
quyền giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế sẽ không được nghiên cứu trong
phạm vi của luận văn.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình tiếp cận và giải quyết những vấn đề mà luận văn đặt ra,
tác giả sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ
nghĩa Mác- Lênin. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong
quá trình nghiên cứu đề tài là phân tích, chứng minh, tổng hợp, so sánh…
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể gồm:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp:
Phương pháp phân tích được sử dụng để phân tích tài liệu thông tin đã
thu thập được, phân tích các quy định của công ước ICSID về khái niệm
“khoản đầu tư quốc tế”
Phương pháp tổng hợp được sử dụng để tổng hợp các số liệu tri thức có
từ hoạt động phân tích tài liệu. Việc tổng hợp nhằm mục đích đưa ra những
luận giải, đề xuất của chính tác giả.
- Phương pháp so sánh: Phương pháp này dùng cho việc so sánh đối
chiếu các số liệu, thông tin thu thập được giữa các đơn vị cùng cấp về hiệu
quả của việc triển khai công tác cùng một kế hoạch, so sánh giữa các năm để
từ đó rút ra những mặt đã đạt được và chưa đạt được để có biện pháp kịp thời
bổ sung, đồng thời xem xét những vướng mắc để tìm hướng giải quyết.
- Phương pháp hệ thống hóa: Phương pháp hệ này được sử dụng xuyên


4


suốt toàn bộ trong các phần của luận văn nhằm trình bày các vấn đề, nội dung
nghiên cứu theo một trình tự, bố cục hợp lý chặt chẽ, logic và gắn kết được
những vấn đề cần nghiên cứu.
6. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Trong nước tình hình nghiên cứu chuyên sâu về việc xác định thẩm
quyền của tòa trọng tài ICSID nói chung và khía cạnh xác định thế nào là một
khoản đầu tư quốc tế nói riêng còn rất ít.
Về mặt khoa học: góp phần giải thích rõ khái niệm “khoản đầu tư
quốc tế” theo khoa học pháp lý và thực tiễn giải thích của tòa trọng tài ICSID.
Mặt thực tiễn: góp phần làm rõ thực tiễn giải thích của tòa trọng tài
ICSID về “khoản đầu tư quốc tế” để từ đó có những đánh giá liệu rằng cơ chế
giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế của tòa trọng tài ICSID có phù hợp để
Việt Nam tham gia hay không? Ngoài ra, đề tài đóng góp một góc tri thức để
cơ quan liên quan, các chuyên gia xem xét vụ việc tranh chấp cụ thể của Việt
Nam có thuộc thẩm quyền giải quyết tranh chấp của tòa trọng tài ICSID trong
khía cạnh xác định một khoản đầu tư quốc tế.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung luận văn được kết cấu làm ba chương như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về đầu tư quốc tế và “Khoản
đầu tư quốc tế”
Chương 2: “Khoản đầu tư quốc tế” theo quy định của một số điều ước
quốc tế và trong thực tiễn hoạt động của trọng tài ICSID.
Chương 3: Khái niệm “khoản đầu tư quốc tế” trong pháp luật và thực
tiễn của Việt Nam về đầu tư quốc tế.


5


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ĐẦU
TƢ QUỐC TẾ VÀ KHOẢN ĐẦU TƢ QUỐC TẾ
1.1. Khái niệm, đặc điểm đầu tƣ quốc tế
1.1.1. Khái niệm
Trước khi tìm hiểu thế nào là “đầu tư quốc tế”, chúng ta cần phải làm
rõ được khái niệm “đầu tư”. Theo cách hiểu thông thường thì đầu tư chính là
việc “bỏ nhân lực, vật lực, tài lực vào công việc gì, trên cơ sở tính toán hiệu
quả kinh tế, xã hội” [21, tr.301]. Dưới góc độ kinh tế học thì người ta hiểu
đầu tư như là một hoạt động đưa vào sử dụng những cái đã có để đạt được
những kết quả lớn hơn những cái đã có. Những ích lợi thu được từ đầu tư có
thể là sự lớn mạnh, tăng thêm về tài sản vật chất, trí tuệ hay nguồn nhân lực
cho xã hội [15, tr.12]. Dưới góc độ pháp lý, đầu tư được hiểu là việc nhà đầu
tư bỏ vốn dưới hình thức nào đó nhằm mục đích sinh lời [17]. “Lời” ở đây có
thể hiểu là lợi nhuận cũng có thể là những lợi ích kinh tế xã hội khác. Ở Việt
Nam, Luật khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) ngày 20/05/1998, Luật
đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (1996, 2000) đều không đưa ra một định
nghĩa về đầu tư nói chung mà chỉ đề cập đến khái niệm “đầu tư trong nước”
và “đầu tư trực tiếp nước ngoài”. Cho đến năm 2005, khi Luật Đầu tư ra đời
điều chỉnh chung hoạt động đầu tư mới đưa ra một định nghĩa về đầu tư:
“Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình
để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư” [17]. Tuy nhiên, định
nghĩa về đầu tư tại Luật Đầu tư năm 2005 vẫn chưa thực sự rõ ràng. Chính vì
vậy, Luật Đầu tư năm 2014 đã sửa lại một chút khái niệm về đầu tư, đó là đưa
ra khái niệm “đầu tư kinh doanh”. Tại Khoản 5, Điều 3, Luật Đầu tư năm 2014
“đầu tư kinh doanh” được hiểu như sau: “Đầu tư kinh doanh là việc nhà đầu tư


6


bỏ vốn đầu tư để thực hiện hoạt động kinh doanh thông qua việc thành lập tổ
chức kinh tế; đầu tư góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của tổ chức kinh tế;
đầu tư theo hình thức hợp đồng hoặc thực hiện dự án đầu tư” [18, Điều 3]. Có
lẽ khi xây dựng định nghĩa này các nhà làm luật có dụng ý làm rõ hơn khái
niệm về đầu tư trong Luật Đầu tư 2014, có khuynh hướng giống với các hiệp
định đầu tư (thường có xu hướng đưa ra định nghĩa về đầu tư bắt đầu ở một
phạm vi rộng sau đó liệt kê một loạt những danh mục không đầy đủ các ví dụ
về đầu tư. Như tại Điều 1, chương 4 Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa
Kỳ chẳng hạn: “đầu tư” là mọi hình thức đầu tư trên lãnh thổ của một bên do
các công dân hoặc công ty của Bên kia sở hữu hoặc kiểm soát trực tiếp hay
gián tiếp, bao gồm các hình thức: Một công ty hoặc một doanh nghiệp; cổ
phần, cổ phiếu và các hình thức góp vốn khác, trái phiếu, giấy ghi nợ và các
quyền lợi đối với khoản nợ dưới các hình thức khác trong một công ty; các
quyền theo hợp đồng, như quyền theo các hợp đồng chìa khóa trao tay, hợp
đồng xây dựng hoặc hợp đồng quản lý, các hợp đồng sản xuất hoặc hợp
đồng phân chia doanh thu, tô nhượng hoặc các hợp đồng tương tự khác; tài
sản hữu hình, gồm có bất động sản và tài sản vô hình, gồm có các quyền như
giao dịch thuê, thế chấp, cầm cố và quyền lưu giữ tài sản; quyền sở hữu trí
tuệ, gồm quyền tác giả và các quyền có liên quan, nhãn hiệu hàng hóa, sáng
chế, thiết kế bố trí mạch tích hợp, tín hiệu vệ tinh mang chương trình đã
được mã hóa, thông tin bí mật (bí mật thương mại), kiểu dáng công nghiệp
và quyền đối với giống cây trồng; và các quyền theo quy định của pháp luật
như các giấy phép và sự cho phép.
Mặc dù, những định nghĩa kể trên về đầu tư có thể được đưa ra ở khía
cạnh rộng, hẹp khác nhau, nhưng chúng vẫn có những đặc trưng cơ bản của
đầu tư như sau:


7


Thứ nhất, lợi ích chính là mục đích mà nhà đầu tư hướng tới. Tuy nhiên
tùy từng trường hợp và tùy chủ thể đầu tư mà các lợi ích đó không hoàn toàn
giống nhau. Đối với nhà nước, lợi ích ở đây được hiểu là cung cấp các sản
phẩm, dịch vụ công, bảo đảm tài nguyên môi trường và duy trì phát triển bền
vững, tạo việc làm cho người lao động...Trong khi đó, lợi ích đối với doanh
nghiệp chính là tạo lợi nhuận, thu hồi được vốn và có lãi.
Thứ hai, vốn đầu tư có thể tồn tại dưới nhiều dạng, có thể là những tài
sản hữu hình như đất đai, nhà xưởng, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu...và
tài sản vô hình như bí quyết kinh doanh, bằng sáng chế, nhãn hiệu hàng hóa...
hay cả các quyền về tài sản khác.
Thứ ba, đã đầu tư là mạo hiểm bởi hoạt động đầu tư thường gồm nhiều
giai đoạn và diễn ra trong khoảng thời gian dài. Mặc dù mục đích của đầu tư
là đem lại lợi ích nhưng có thể kết quả của hoạt động đầu tư mang lại thì hoàn
toàn trái bởi nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau. Đặc biệt,
ở thời điểm hiện tại, hoạt động đầu tư không chỉ còn nằm trong phạm vi một
quốc gia mà nó đã và có xu hướng vượt ra ngoài phạm vi lãnh thổ quốc gia.
Bởi vậy, mức độ rủi ro lại càng cao.
Tựu chung lại, có thể hiểu “đầu tư” là việc nhà đầu tư bỏ các nguồn lực
như vốn, tài sản... theo các hình thức khác nhau phù hợp với các quy định của
pháp luật để thực hiện hoạt động kinh doanh thông qua việc thành lập các tổ
chức kinh tế; đầu tư góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của các tổ chức
kinh tế; hoặc tiến hành các hoạt động đầu tư theo hình thức hợp đồng hoặc
thực hiện các dự án đầu tư nhằm mục đích sinh lời.
Đầu tư có thể được phân chia thành các loại hình khác nhau khi dựa
trên những tiêu chí khác nhau như: Nếu căn cứ theo khu vực kinh tế tiếp nhận
vốn đầu tư, thì đầu tư có thể được chia thành đầu tư vào khu vực tư nhân và
đầu tư vào khu vực nhà nước; nếu căn cứ theo mục đích đầu tư có thể chia


8


thành đầu tư phi lợi nhuận và đầu tư có lợi nhuận; nếu căn cứ vào tính chất
quản lý hay theo quyền kiểm soát đối với hoạt động đầu tư có thể chia thành
đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp; căn cứ vào lĩnh vực đầu tư thì đầu tư có
thể phân chia thành nhiều loại như đầu tư vào sản xuất, đầu tư vào thương
mại, dịch vụ; còn nếu như căn cứ vào nguồn gốc vốn đầu tư thì đầu tư có thể
được chia thành đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài.
Như vậy, nếu căn cứ theo cách phân loại như trên thì đầu tư nước ngoài
chính là một hình thức của hoạt động đầu tư. Trong Luật đầu tư năm 2014
không đưa ra một định nghĩa rõ ràng thế nào là đầu tư nước ngoài nhưng
trong Luật đầu tư 2005 các nhà làm luật đã xây dựng một định nghĩa về đầu
tư nước ngoài tại Điều 3 Khoản 12 như sau: “đầu tư nước ngoài là việc nhà
đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp
khác để tiến hành hoạt động đầu tư” [17, Điều 3], trong đó “nhà đầu tư nước
ngoài” theo Khoản 4, Điều 3 Luật Đầu tư năm 2014 được hiểu là những cá
nhân có quốc tịch nước ngoài, tổ chức thành lập theo pháp luật nước ngoài
thực hiện các hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam.
Vậy, có thể hiểu một cách chung nhất về đầu tư nước ngoài đó chính là
hoạt động chuyển vốn, tài sản hoặc bất kỳ hình thức giá trị nào khác từ nước
này sang nước khác để tiến hành hoạt động đầu tư nhằm mục đích lợi nhuận.
1.1.2. Đặc điểm của đầu tư quốc tế
Đầu tư quốc tế là một hình thức của hoạt động đầu tư. Chính vì vậy,
đầu tư nước ngoài mang đầy đủ những đặc điểm của đầu tư nói chung. Tuy
nhiên, nó cũng có những đặc thù riêng của mình.
1.1.2.1. Về chủ thể đầu tư quốc tế
Trong bất kỳ một hoạt động nào thì chủ thể của hoạt động đó luôn được
coi là vấn đề cần xem xét đầu tiên. Do vậy, hoạt động đầu tư nước ngoài cũng

không nằm trong ngoại lệ. Rõ ràng rằng, đầu tư quốc tế là một hoạt động tạo

9


ra mối quan hệ giữa nước nhận đầu tư và nhà đầu tư nước ngoài. Như vậy,
hiển nhiên sẽ tồn tại một bên tạm gọi là “nhà đầu tư” và bên kia là “nước
nhận đầu tư”. Vậy, vấn đề đầu tiên cần làm rõ chính là chủ thể của hoạt động
đầu tư quốc tế được gọi là “nhà đầu tư”.
Đối tượng điều chỉnh của luật đầu tư quốc tế thực chất bao gồm mối
quan hệ giữa các tổ chức, cá nhân của các quốc gia khác nhau và cả mối quan
hệ giữa các quốc gia. Tuy nhiên, các chủ thể trực tiếp thực hiện hoạt động đầu
tư có thể là cơ quan nhà nước, tổ chức của nhà nước và cả cá nhân, pháp nhân
của nhà nước ngoài. Nếu xem xét loại nguồn chủ yếu hiện nay của Luật đầu
tư quốc tế là các hiệp định đầu tư thì có thể thấy tên gọi chỉ quan hệ giữa các
quốc gia, nội dung tập trung điều chỉnh cách đối xử của nước ký kết nhận đầu
tư với nhà đầu tư của nước ký kết còn lại. Đây thực chất là cam kết của hai
nhà nước trong việc bảo vệ các quyền và lợi ích của các nhà đầu tư mang
quốc tịch nước ngoài. Ví dụ: Khoản 1 Điều 4 hiệp định đầu tư song phương
(hiệp định đầu tư song phương) giữa Anh và Việt Nam năm 2002 trực tiếp đặt
ra quyền và nghĩa vụ của các nhà đầu tư mang quốc tịch của hai bên ký kết,
nhưng đó chính là cam kết của hai bên ký kết. Nội dung hiệp định đầu tư song
phương trực tiếp quy định các nghĩa vụ của bên nhận đầu tư đối với khoản
đầu tư và nhà đầu tư của bên kia, theo đó:
Khoản đầu tư của công dân hoặc công ty thuộc Bên ký kết
này trên lãnh thổ Bên ký kết kia bị thiệt hại do chiến tranh hoặc
xung đột vũ trang, cách mạng, tình trạng khẩn cấp quốc gia, nổi
loạn khởi nghĩa hoặc bạo loạn trên lãnh thổ của Bên ký kết kia sẽ
được Bên ký kết kia áp dụng sự đối xử có liên quan đến việc hoàn
trả, đền bù, bồi thường hoặc giải pháp không kém thuận lợi hơn sự

đối xử mà Bên ký kết kia dành cho các công dân hay công ty của
bất kỳ quốc gia thứ bà nào [5]…

10


Chủ thể trong hệ thống pháp luật quốc tế chủ yếu là quốc gia và các
chủ thể mang tính nhà nước như các tổ chức liên chính phủ, các dân tộc đang
đấu tranh giành độc lập. Các nhà đầu tư là cá nhân, pháp nhân không có
quyền hay tư cách tham gia đàm phán, ký kết điều ước quốc tế hay hưởng
miễn trừ, ưu đãi như các chủ thể là nhà nước, nhưng các quốc gia tự nguyện
gánh vác nghĩa vụ quốc tế trong việc bảo vệ nhà đầu tư nước ngoài. Từ đó,
nhà đầu tư là là cá nhân, pháp nhân nước ngoài mới được hưởng các quyền và
có các nghĩa vụ pháp lý quốc tế ở góc độ luật tư. Một trong các quyền quan
trọng họ được trao trong các điều ước quốc tế là quyền được khởi kiện các
quốc gia ở cơ chế tài phán quốc tế khi cho rằng các quốc gia vi phạm hiệp
định đầu tư mà nước họ tham gia. Với quyền này của nhà đầu tư, thực tế và
về mặt pháp lý, nước nhận đầu tư đã cam kết từ bỏ quyền miễn trừ tư pháp
của mình trong tiến trình tố tụng dân sự quốc tế giải quyết các tranh chấp về
đầu tư quốc tế.
Ngoài các quy định của điều ước quốc tế về đầu tư, các quy định của
luật quốc gia cũng là nguồn pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư nước
ngoài. Pháp luật quốc gia quy định cụ thể các biện pháp thực hiện các quy
định của điều ước quốc tế về đầu tư nước ngoài, thậm chí nội luật hóa các quy
định của điều ước quốc tế bằng cách sửa đổi, bổ sung pháp luật quốc gia, ban
hành các văn bản pháp luật mới cho phù hợp với các cam kết quốc tế về đầu
tư nước ngoài. Đây chính là bằng chứng về biện pháp nước nhận đầu tư tiến
hành hay thực hiện các cam kết cụ thể mà nước đó dành cho nhà đầu tư nước
ngoài. Trong một số trường hợp, hiệp định đầu tư có thể tham chiếu, sử dụng
pháp luật trong nước làm cơ sở giải quyết một số vấn đề pháp lý liên quan đến

chủ thể của hoạt động đầu tư quốc tế như xác định quốc tịch của nhà đầu tư.
Ví dụ, Điều 1 (1) của Hiệp định đầu tư song phương giữa Việt Nam và Nhật
Bản năm 2003 quy định: “nhà đầu tư” bao gồm:

11


a. Thể nhân có quốc tịch của Bên ký kết đó phù hợp với pháp
luật và các quy định hiện hành của mình; hoặc
b. Pháp nhân hoặc bất kỳ một chủ thể khác được thành lập
hoặc tổ chức theo các quy định và luật pháp hiện hành của Bên ký
kết đó [4, Điều 1]…
Như vậy, khi áp dụng hiệp định đầu tư song phương để xác định xem
một cá nhân hay công ty có thuộc phạm vi áp dụng của hiệp định hay không
thì phải dựa trên cơ sở các quy định về quốc tịch và thành lập, tổ chức doanh
nghiệp của nước nhận đầu tư.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, cụ thể theo Luật đầu tư 2014 và
các văn bản pháp luật về đầu tư có liên quan hiện nay thì chủ thể của quan
hệ đầu tư quốc tế tại Việt Nam là “cá nhân có quốc tịch nước ngoài, tổ chức
thành lập theo pháp luật nước ngoài thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh
tại Việt Nam”[18]. Như vậy, tùy theo quy định nội luật của mỗi quốc gia mà
xác cách xác định quốc tịch của nhà đầu tư khác nhau.
Xem xét từ các quy định quốc tế cũng như các quy phạm pháp luật
quốc gia, nhà đầu tư nước ngoài được chia làm hai loại: nhà đầu tư cá nhân
hay còn gọi thể nhân và nhà đầu tư là thực thể pháp lý hay còn gọi là pháp
nhân. Các hiệp định đầu tư xác định quốc tịch của nhà đầu tư theo một số mối
liên hệ của nhà đầu tư với bên ký kết như quốc tịch, nơi cư trú đối với các
nhân và nơi thành lập, nơi có trụ sở chính hay nơi hoạt động kinh doanh chủ
yếu đối với pháp nhân. Các hiệp định đầu tư đều nêu cách thức xác định nhà
đầu tư được bảo hộ và nhiều hội đồng trọng tài đã áp dụng, làm rõ khái niệm

này trong thực tiễn.
Theo xu hướng phát triển của xã hội hiện đại thì hoạt động đầu tư nói
chung và hoạt động đầu tư nước ngoài nói riêng cũng ngày càng phát triển và
qua đó mức độ phức tạp cũng không ngừng gia tăng. Bởi vậy, hành lang pháp

12


lý điều chỉnh hoạt động này là vấn đề quan trọng và có tính quyết định hàng
đầu. Trong thực tiễn hoạt động đầu tư nước ngoài cũng như hoạt động giải
quyết tranh chấp đầu tư nước ngoài, các nguồn luật cơ bản được áp dụng đó là
các Điều ước quốc tế về đầu tư, pháp luật quốc gia và các tập quán quốc tế.
Như vậy, pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia có mối quan hệ tương tác,bổ
trợ cho nhau trong việc điều chỉnh vấn đề đầu tư quốc tế.
a. Nhà đầu tư là cá nhân
Nhà đầu tư là cá nhân thường được quy định phải có quốc tịch theo
pháp luật của bên ký kết. Ví dụ, Điều 1 khoản 1 điểm (a) và (b) của hiệp định
đầu tư song phương giữa Việt Nam và Nhật Bản năm 2003 quy định: “nhà
đầu tư” có nghĩa liên quan đến một Bên Ký kết:
(a) Thể nhân có quốc tịch của một Bên Ký kết phù hợp với
pháp luật và các quy định hiện hành; hoặc
(b) Pháp nhân hoặc bất kỳ một chủ thể khác được thành lập
hoặc tổ chức theo các quy định và luật pháp hiện hành của một Bên
Ký kết, vì mục đích lợi nhuận hoặc phi lợi nhuận, thuộc sở hữu
hoặc quản lý của tư nhân hoặc Chính phủ, bao gồm công ty, tổng
công ty, tổ hợp công ty, công ty hợp danh, công ty một chủ, liên
doanh, hiệp hội và tổ chức [4, Điều 1].
Mối liên hệ khác có thể được các hiệp định đầu tư sử dụng để xác định
nhà đầu tư được bảo hộ là nơi cư trú thường xuyên. Ví dụ Điều 1(1)(d) Hiệp
định đầu tư song phương giữa Ôxtrâylia và Trung Quốc năm 1988 quy định

rằng: “công dân của một Bên ký kết là một thể nhân, là công dân hoặc người
cư trú thường xuyên của một Bên ký kết theo luật của mình” [8, Điều 1] …
Trong thực tiễn áp dụng và giải thích quy định về quốc tịch của cá nhân
nhà đầu tư nước ngoài đã phát sinh một số vấn đề như cá nhân nhà đầu tư có
hai quốc tịch, nhà đầu tư có giấy tờ chứng minh mình có quốc tịch của một

13


bên ký kết nhưng trên thực tế người đó đã mất quốc tịch… Đối với vấn đề hai
quốc tịch của nhà đầu tư nước ngoài, nhiều hiệp định đầu tư đã bỏ sót quy
định về cách xử lý trong trường hợp này. Khi đó, các Hội đồng trọng tài
thường áp dụng cách tiếp cận đơn giản là chỉ dựa trên quốc tịch của bên ký
kết xuất khẩu vốn, không xét tới quốc tịch thứ hai. Điển hình như trong vụ
Saba Fakes kiện Thổ Nhĩ Kỳ, ông này có hai quốc tịch Hà Lan và Gioocđani,
nhà đầu tư này đã kiện Thổ Nhĩ Kỳ ra trọng tài ICSID theo quy định về giải
quyết tranh chấp của hiệp định đầu tư song phương năm 1986 giữa nước này
với Hà Lan. Hội đồng trọng tài không đồng ý với quan điểm của nước bị đơn
là phải dựa vào quốc tịch hữu hiệu để xác định Saba Fakes có được xem là
công dân của Hà Lan hay không. Bởi lẽ hiệp định đầu tư song phương và
Công ước ICSID đều không quy định rằng nếu nhà đầu tư có hai quốc tịch thì
xét theo quốc tịch hữu hiệu. Tránh tình trạng như vậy, một số hiệp định đầu tư
song phương đã quy định rõ về trường hợp nhà đầu tư có hai quốc tịch như
các hiệp định của Hòa Kỳ áp dụng công thức trong Hiệp định mẫu năm 2004
và 2012 của nước này yêu cầu xác định quốc tịch của người có hai quốc tịch
theo quốc tịch gắn bó hơn và hữu hiệu.
b. Nhà đầu tư là pháp nhân
Hiện nay, số lượng nhà đầu tư dưới dạng một pháp nhân phát triển
mạnh mẽ và chiếm một tỉ lệ không hề nhỏ trong tổng số “nhà đầu tư” nước
ngoài. Vì vậy, việc xác định quốc tịch của nhà đầu tư là pháp nhân đóng vai

trò hết sức quan trọng. Việc xác định này có thể dựa vào nhiều yếu tố khác
nhau như nơi thành lập, nơi có trụ sở chính hay nơi có hoạt động kinh doanh
chủ yếu. Căn cứ vào nơi thành lập là cách xác định đơn giản và phổ biến
nhất hiện nay. Ví dụ, Điều 1 (d) của hiệp định đầu tư song phương giữa Việt
Nam và Anh năm 2002 quy định công ty của Anh nghĩa là tập đoàn và hiệp
hội được tổ chức thành lập theo luật hiện hành tại bất kỳ nơi nào của Anh

14


hoặc tại bất kỳ khu vực, lãnh thổ nào mà Hiệp đình này được phép mở rộng
áp dụng… [5, Điều 1].
Tuy nhiên, khi xem xét quốc tịch của nhà đầu tư là pháp nhân căn cứ
nơi thành lập đã phát sinh một số vấn đề. Đã có trường hợp doanh nghiệp chỉ
có mối quan hệ hình thức với nơi thành lập. Có nghĩa là nhà đầu tư đăng ký tư
cách pháp nhân tại một nơi nhưng hoạt động kinh doanh chủ yếu ở lãnh thổ
nước khác hay thuộc quyền sở hữu hoặc kiểm soát của công dân nước khác,
có thể là của chính bên ký kết nhận đầu tư. Vì thế, một số hiệp định đầu tư đã
yêu cầu doanh nghiệp phải gắn bó với bên ký kết theo cách bổ sung khác thì
mới được coi là nhà đầu tư của bên ký kết đó. Ví dụ, cũng tại Điều 1 (d) của
hiệp định đầu tư song phương Việt Nam và Anh năm 2002, công ty của Việt
Nam có nghĩa là bất kỳ pháp nhân nào thành lập theo pháp luật Việt Nam và
có trụ sở ở Việt Nam [5, Điều 1].
Trong thực tiễn, đầu tư nước ngoài có thể thuộc sở hữu của nhà nước
hoặc của nhà đầu tư tư nhân. Các hiệp định đầu tư không loại trừ doanh
nghiệp sở hữu nhà nước hay thuộc sự kiểm soát của nhà nước. Về mặt lý luận,
cho dù thuộc sở hữu của nhà nước thì các công ty này cũng phải đối xử như
các công ty thuộc tư nhân. Các công ty do nhà nước sở hữu, kiểm soát khi tiến
hành hoạt động kinh doanh, thương mại (không là tổ chức thực hiện chức
năng quản lý nhà nước) cũng được coi là nhà đầu tư thuộc phạm vi khuyến

khích và bảo hộ của nhiều hiệp định đầu tư. Ví dụ, tại Điều 4(e) của Hiệp
định đầu tư toàn diện ASEAN năm 2009 đã quy định rõ rằng pháp nhân có
nghĩa là các thực thể pháp lý được thành lập theo luật của các quốc gia thành
viên, vì mục đích lợi nhuận hay phi lợi nhuận, thuộc sở hữu Nhà nước hay sở
hữu tư nhân…[3]. Đã có những án lệ mà trong đó nhà đầu tư là công ty nhà
nước kiện nước nhận đầu tư ra trọng tài quốc tế theo quy định của các hiệp
định đầu tư. Điển hình như vụ CSOB kiện Xlovakia, ngân hàng CSOB thành

15


lập theo pháp luật của Cộng hòa Séc có 65% cổ phần thuộc sở hữu của Séc và
khoảng 24% thuộc sở hữu của Xlovakia. Trên cơ sở hiệp định đầu tư song
phương giữa Séc và và Xlovakia, Ngân hàng CSOB kiện Xlovakia ra trọng tài
quốc tế vì đã vi phạm “thỏa thuận về các nguyên tắc cơ bản trong hợp nhất
tài chính của CSOB” ký giữa Bộ Tài chính Xlovakia, Bộ Tài chính Séc và
CSOB năm 1993. Hội đồng trọng tài cho rằng khái niệm “pháp nhân” trong
Điều 24 Công ước ICSID bao gồm không chỉ các công ty tư nhân mà còn cả
công ty do nhà nước sở hữu toàn bộ hoặc một phần. Các doanh nghiệp nhà
nước sẽ được xem là nhà đầu tư của một Bên ký kết công ước ICSID nếu thực
hiện các hoạt động thương mại tư nhân. Chỉ các cơ quan, tổ chức hoạt động
như cơ quan nhà nước, thực hiện các chức năng của chính phủ mới không
phải là nhà đầu tư theo khái niệm trong Công ước ICSID [3].
Ngoài hai đối tượng đã trình bày ở trên, một loại hình pháp nhân được
xem là nhà đầu tư nước ngoài và được khuyến khích, bảo hộ theo một số hiệp
định đầu tư chính là doanh nghiệp trong nước nhưng do nhà đầu tư nước
ngoài sở hữu, kiểm soát, Đây là trường hợp ngoại lệ vì về mặt pháp lý, một
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tuy thuộc loại 100% vốn nước ngoài
hay phần lớn vốn của nhà đầu tư nước ngoài, nhưng thành lập và hoạt động
theo pháp luật nước sở tại, nên phải là pháp nhân nước sở tại. Nhưng để bảo

vệ quyền và lợi ích của nhà đầu tư nước ngoài, một số hiệp định đầu tư nêu rõ
trường hợp doanh nghiệp trong nước của một bên ký kết nhưng do nhà đầu tư
của bên ký kết kia kiểm soát, sở hữu cũng được coi là nhà đầu tư nước ngoài
được khuyến khích, bảo hộ theo hiệp định đầu tư song phương. Cụ thể, theo
Điều 14 (7) Hiệp định đầu tư song phương giữa Việt Nam và Nhật Bản năm
2003 có quy định cụ thể như sau:
Trong trường hợp một pháp nhân hoặc bất kỳ thực thể khác
của một Bên ký kết… mà thuộc quyền sở hữu hoặc kiểm soát của

16


nhà đầu tư của Bên ký kết kia, tại thời điểm pháp nhân hoặc thực thể
đó yêu cầu Bên ký kết đó giải quyết tranh chấp bằng hòa giải hoặc
trọng tài thì… pháp nhân hoặc thực thể của Bên ký kết kia sẽ được
coi như là pháp nhân hoặc thực thể của Bên ký kết kia…[4, Điều 15]
Điều 25 (2) (b) Công ước ICSID cũng đề cập trường hợp nhà đầu tư là
công ty trong nước của bên ký kết nhận đầu tư có sự kiểm soát của nước
ngoài và được các bên ký kết nhất trí xem là công ty của bên ký kết khác. Nội
dung này cũng có thể tìm thấy trong điều khoản về trọng tài ICSID trong hợp
đồng giữa công ty với nước nhận đầu tư [19, Điều 25]
Như vậy, nhà đầu tư nước ngoài có thể định danh dưới dạng một pháp
nhân và được khuyến khích bảo hộ theo các hiệp định đầu tư song phương
được ký kết giữa quốc gia mà pháp nhân đó mang quốc tịch với nước ký kết
kia dù pháp nhân đó là một doanh nghiệp sở hữu bởi tư nhân hay nhà nước.
Đặc biệt hơn nhà đầu tư là pháp nhân có thể là doanh nghiệp trong nước do
nhà đầu tư nước ngoài sở hữu, kiểm soát. Do tính chất đa dạng của nhà đầu tư
nước ngoài mà nhiều vấn đề đã phát sinh trong quá trình giải quyết tranh chấp
như xác định quốc tịch của pháp nhân theo nơi thành lập hay nơi mà pháp
nhân đó hoạt động hữu hiệu… thậm chí nhà đầu tư đã thay đổi quốc tịch của

pháp nhân để được hưởng những quyền lợi theo hiệp định đầu tư song
phương được xác lập...
1.1.2.2. Về hình thức đầu tư quốc tế
Đầu tư quốc tế là quá trình kinh tế trong đó các nhà đầu tư nước ngoài
(tổ chức hoặc cá nhân) đưa vốn hoặc bất kỳ hình thức giá trị nào vào nước
tiếp nhận đầu tư để thực hiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá và
dịch vụ nhằm thu lợi nhuận hoặc để đạt được mục tiêu kinh tế - xã hội nhất
định. Bản chất của đầu tư nước ngoài là xuất khẩu tư bản, hình thức cao hơn
của xuất khẩu hàng hoá. Đầu tư quốc tế có các hình thức sau:

17


×