I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT
PHNG NGC THUN
QUYềN ĐƯợC BảO Vệ KHỏI Sự PHÂN BIệT ĐốI Xử
CủA NGƯờI KHUYếT TậT ở VIệT NAM HIệN NAY
LUN VN THC S LUT HC
H NI - 2019
I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT
PHNG NGC THUN
QUYềN ĐƯợC BảO Vệ KHỏI Sự PHÂN BIệT ĐốI Xử
CủA NGƯờI KHUYếT TậT ở VIệT NAM HIệN NAY
Chuyờn ngnh: Phỏp lut v Quyn con ngi
Mó s: Chuyờn ngnh o to thớ im
LUN VN THC S LUT HC
Cỏn b hng dn khoa hc: PGS.TS CHU HNG THANH
H NI - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Phùng Ngọc Thuần
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục chữ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUYỀN
ĐƢỢC BẢO VỆ KHỎI SỰ PHÂN BIỆT ĐỐI XỬ CỦA NGƢỜI
KHUYẾT TẬT ....................................................................................... 7
1.1.
Khái niệm người khuyết tật, kỳ thị, phân biệt đối xử ............................. 7
1.2.
Cơ sơ pháp lý về quyền được bảo vệ khỏi sự phân biệt đối xử của
người khuyết tật .................................................................................... 14
1.3.
Tham chiếu điều luật quốc tế Việt Nam đã áp dụng khi bảo vệ
quyền không bị phân biệt đối xử của người khuyết tật ........................ 22
1.4.
Nguyên tắc trong đảm bảo quyền không bị phân biệt đối xử của
người khuyết tật .................................................................................... 25
1.5.
Hình thức thực hiện cơ chế bảo vệ quyền không bị phân biệt đối
xử của người khuyết tật ........................................................................ 27
1.6.
Vai trò của nhà nước trong quá trình thực hiện quyền được bảo vệ
khỏi sự phân biệt đối xử của người khuyết tật ..................................... 34
1.7.
Vai trò của xã hội trong đảm bảo thực hiện quyền được bảo vệ
khỏi sự phân biệt đối xử của người khuyết tật ..................................... 38
Tiểu kết chƣơng 1 .......................................................................................... 41
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN ĐƢỢC BẢO VỆ
KHỎI SỰ PHÂN BIỆT ĐỐI XỬ CỦA NGƢỜI KHUYẾT TẬT Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY ....................................................................... 42
2.1.
Phân loại người khuyết tật ở Việt Nam ................................................ 42
2.2.
Cơ cấu người khuyết tật và nhận thức cộng đồng về người khuyết tật...... 43
2.3.
Thực trạng bảo đảm quyền bảo vệ khỏi sự phân biệt đối xử của
người khuyết tật .................................................................................... 45
Tiểu kết chƣơng 2 .......................................................................................... 66
CHƢƠNG 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM
THỰC HIỆN QUYỀN ĐƢỢC BẢO VỆ KHỎI SỰ PHÂN
BIỆT ĐỐI XỬ CỦA NGƢỜI KHUYẾT TẬT Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY ........................................................................................... 67
3.1.
Phương hướng bảo đảm thực hiện quyền được bảo vệ khỏi sự
phân biệt đối xử của người khuyết tật .................................................. 67
3.2.
Giải pháp đảm bảo thực hiện quyền được bảo vệ khỏi sự phân biệt
đối xử của người khuyết tật .................................................................. 68
Tiểu kết chƣơng 3 .......................................................................................... 79
KẾT LUẬN .................................................................................................... 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 82
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Luật NKT:
Luật người khuyết tật
NKT:
Người khuyết tật
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bảo vệ NKT không chỉ là mối quan tâm của một đất nước, một quốc gia
mà là mối quan tâm của cả cộng đồng quốc tế. Bảo đảm quyền của NKT là vấn
đề mang ý nghĩa quan trọng, là vấn đề quyền con người và mang ý nghĩa pháp
lý, kinh tế, xã hội rộng lớn. Cũng như tất cả công dân khác, NKT cần phải được
đảm bảo quyền tự do, bình đẳng, được tôn trọng, được cống hiến, được khẳng
định giá trị bản thân. Tuy nhiên, trên thực tế rất nhiều NKT chưa được hưởng
đầy đủ những quyền cơ bản của con người trong đời sống xã hội.
Hiện nay, thực trạng bảo vệ quyền của NKT còn nhiều khó khăn, vướng
mắc và gặp nhiều bất cập như: Vấn đề việc làm, vấn đề tiếp xúc, tham gia vào
các hoạt động xã hội...
Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng NKT sống nghèo
khổ, bị kỳ thị, xem thường, thậm chí bị hành hạ... là do họ gặp rất nhiều khó
khăn trong việc tiếp cận việc làm và không có nguồn thu nhập cần thiết để
trang trải cho cuộc sống tối thiểu hàng ngày của bản thân. Việc hòa nhập vào
cộng đồng, xã hội của NKT cũng không dễ dàng do một bộ phận người vẫn
có tâm lý e ngại khi tiếp xúc với NKT thậm chí có thái độ xa lánh, phân biệt
đối xử đối với NKT. Cơ hội việc làm cho NKT cũng gặp nhiều khó khăn, số
doanh nghiệp tuyển dụng NKT vào làm việc không nhiều mặc dù Luật NKT
2010 đã quy định khuyến khích các doanh nghiệp nhận NKT vào làm việc,
tạo cơ hội việc làm cho NKT...
Thực tiễn cho thấy vấn đề không phân biệt đối xử đối với NKT chủ yếu
được xem xét dưới giác độ chính sách pháp luật và quản lý nhà nước, quản lý
xã hội hoặc dưới giác độ quyền con người nói chung, chưa thực sự được xem
xét thấu đáo vấn đề dưới giác độ quyền của NKT, quyền này phải được nhà
1
nước và xã hội bảo vệ. NKT trước hết cần phải được giúp đỡ để có thể thích
nghi với những khuyết tật của họ, để họ có thể tự tin hơn vào bản thân và hòa
nhập với cộng đồng, xã hội. Ngoài quyền được sống, NKT còn cần cộng
đồng, xã hội giúp đỡ để học tập, phục hồi chức năng và phát huy những khả
năng của bản thân, được đào tạo nghề nghiệp và những kỹ năng sống độc lập.
Để NKT có thể tự tin hòa nhập cộng đồng, vấn đề cốt lõi cần phải giải quyết
đó là không phân biệt đối xử đối với NKT. Gia đình, xã hội phải là chỗ dựa
vững chắc để NKT tự tin phát huy năng lực, trí tuệ của bản thân.
Với mong muốn góp phần làm rõ quy định của pháp luật, tìm ra các
giải pháp hoàn thiện quy định của Luật NKT về chống phân biệt đối xử đối
với NKT, học viên đã lựa chọn đề tài: “Quyền được bảo vệ khỏi sự phân
biệt, đối xử của người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận văn
thạc sỹ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu về quyền của NKT, bảo vệ quyền của NKT đã có khá
nhiều công trình nghiên cứu (bao gồm: Luận án tiến sỹ, luận căn thạc sỹ,
sách, báo, tạp chí, bài viết...) của các học giả, các nhà khoa học như:
Về sách chuyên khảo, công trình nghiên cứu có các tác phẩm của các
tác giả: Trường đại học Luật Hà Nội (2011) Giáo trình Luật người khuyết tật
Việt Nam, Nhà xuất bản Công an nhân dân; Khoa luật - Đại học Quốc gia Hà
Nội (2011), Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người, NXB Đại
học Quốc gia Hà Nội; Khoa luật – Đại học Quốc gia Hà Nội (2011), Luật
quốc tế về quyền của các nhóm người dễ bị tổn thương, Hà Nội; Khoa Luật –
Đại học Quốc gia Hà Nội (2011), Luật nhân quyền quốc tế những vấn đề cơ
bản, NXB Lao động - Xã hội, Hà Nội.
Về bài viết, tạp chí: Trường đại học Luật Hà Nội (2013), “Đặc san pháp
2
luật NKT” Tạp chí luật học, Hà Nội; TS. Hoàng Thị Minh (2013), “Các
nguyên tắc cơ bản về quyền của NKT”, Tạp chí Luật Học, Hà Nội; ThS.
Nguyễn Thị Báo (2010), “Quyền của NKT trong các văn kiện quốc tế về
quyền con người”, Tạp chí Luật học, Hà Nội; PGS.TS. Nguyễn Hữu Chí
(2013), “Quyền của NKT ở Việt Nam dưới góc độ lịch sử pháp luật”, Tạp chí
Luật học, Hà Nội; PGS.TS. Thái Vĩnh Thắng (2008), “Sự cần thiết đưa quyền
của NKT ở Việt Nam vào giảng dạy trong các chương trình chuyên đề tự
chọn thuộc môn Luật hiến pháp”, Tạp chí Luật học.
Về luận án tiến sỹ, Luận văn thạc sỹ: Hà Thị Lan (năm 2014), “Bảo vệ
quyền của người khuyết tật trong pháp luật lao động Việt Nam – thực trạng
và giải pháp” Luận văn thạc sỹ luật học, Khoa luật – Đại học Quốc gia Hà
Nội; Nguyễn Thị Quế (năm 2015), “Quyền làm việc của người khuyết tật tại
Việt Nam” Luận văn thạc sỹ luật học, Khoa luật – Đại học Quốc gia Hà Nội;
Nguyễn Bích Ngọc (năm 2016), “Việc làm cho người khuyết tật theo pháp
luật Việt Nam hiện hành”, Luận văn thạc sỹ luật học, Viện hàn lâm khoa học
xã hội Việt Nam.
Những công trình nghiên cứu trên tiếp cận ở nhiều khía cạnh khác nhau
về bảo vệ quyền của NKT, tuy nhiên chưa làm rõ quyền được bảo vệ khỏi sự
phân biệt, đối xử của NKT. Hầu hết các công trình nghiên cứu đó chủ yếu tiếp
cận từ góc độ pháp lý tổng thể, liệt kê trên tất cả các khía cạnh về quyền của
NKT, chưa có công trình nào nghiên cứu vấn đề này dưới giác độ NKT là chủ
thể quyền, đồng thời trách nhiệm bảo vệ quyền là thuộc về nhà nước và xã
hội. Do vậy, có thể nói đề tài “Quyền được bảo vệ khỏi sự phân biệt, đối xử
của người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay” là công trình nghiên cứu đưa ra
một cái nhìn mới, một cách tiếp cận tương đối chi tiết, cụ thể về quyền được
bảo vệ khỏi sự phân biệt, đối xử của NKT.
3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Mục đích nghiên cứu của đề tài là tìm hiểu những cơ sở pháp lý, thực
trạng về quyền được bảo vệ khỏi sự phân biệt đối xử của NKT ở Việt Nam.
Từ đó đưa ra những phân tích về vai trò của Nhà nước trong việc bảo vệ
khỏi sự phân biệt đối xử của NKT và đưa ra những giải pháp nhằm bảo vệ
tốt hơn cho NKT và thúc đẩy sự phát triển trong việc thực hiện bảo vệ
quyền của NKT.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Việc nghiên cứu đề tài có nhiệm vụ giải quyết những vấn đề sau:
- Đưa ra những cơ sở pháp lý về quyền được bảo vệ khỏi sự phân biệt
đối xử của NKT.
- Dẫn chiếu những điều luật quốc tế về quyền được bảo vệ khỏi sự phân
biệt đối xử mà Việt Nam đã áp dụng.
- Thực trạng bảo vệ quyền không bị phân biệt đối xử của NKT.
- Đưa ra những giải pháp nhằm bảo vệ quyền của NKT.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tác giả đi sâu nghiên cứu về khía cạnh pháp lý và thực trạng bảo quyền
được bảo vệ khỏi sự phân biệt đối xử của NKT, từ đó đưa ra các giải pháp
nhằm thúc đẩy, bảo vệ quyền này.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Quyền của NKT bao gồm rất nhiều quyền, do đó trong phạm vi luận
văn thạc sĩ, tác giả tập trung nghiên cứu về “Quyền được bảo vệ khỏi sự phân
biệt đối xử của người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay”.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu luận văn sử dụng những phương pháp
4
nghiên cứu chung của khoa học xã hội và các phương pháp nghiên cứu đặc
thù của luật học để nghiên cứu đề tài. Các phương pháp chủ yếu là: Phương
pháp mô tả; phương pháp phân tích; phương pháp quy nạp, diễn dịch….
- Phương pháp phân tích, phương pháp diễn giải: Những phương pháp
này được sử dụng phổ biến trong việc làm rõ các quy định của pháp luật về
quyền bảo vệ khỏi sự phân biệt đối xử của NKT.
- Phương pháp đánh giá, phương pháp so sánh: Những phương pháp
này được tác giả vận dụng để đưa ra ý kiến nhận xét quy định của pháp luật
hiện hành có hợp lý hay không, đồng thời nhìn nhận trong mối tương quan so
với quy định liên quan hoặc pháp luật của các nước khác…
- Phương pháp quy nạp, phương pháp diễn dịch: Được vận dụng để
triển khai có hiệu quả các vấn đề liên quan đến nội dung các quy định của
pháp luật quyền bảo vệ khỏi sự phân biệt đối xử của NKT.
6. Tính mới và những đóng góp của đề tài
6.1. Tính mới của đề tài
Luận văn khái quát được những nội dung về cơ sở pháp lý của quyền
được bảo vệ khỏi sự phân biệt đối xử của NKT.
Luận văn phân tích rõ hơn về thực trạng quyền được bảo vệ khỏi sự
phân biệt đối xử của NKT Việt Nam hiện nay, chỉ ra được những tồn tại chưa
được thực hiện trong việc bảo vệ quyền của NKT.
Các quan điểm và giải pháp nhằm thực hiện quyền được bảo vệ khỏi sự
phân biệt đối xử của NKT.
6.2. Đóng góp của đề tài
Luận văn lý giải rõ hơn về nội dung quyền được bảo vệ khỏi sự phân
biệt đối xử của NKT ở Việt Nam hiện nay. Kết quả nghiên cứu của luận văn
có thể sử dụng làm tư liệu tham khảo trong công tác xây dựng pháp luật, kiểm
tra giám sát, tuyên truyền bảo vệ quyền của NKT trong thực tiễn.
5
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về quyền được bảo vệ khỏi sự
phân biệt đối xử của người khuyết tật.
Chương 2: Thực trạng bảo đảm quyền được bảo vệ khỏi sự phân biệt
đối xử của người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp thực hiện quyền được bảo vệ
khỏi sự phân biệt đối xử của người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay.
6
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUYỀN ĐƢỢC BẢO VỆ
KHỎI SỰ PHÂN BIỆT ĐỐI XỬ CỦA NGƢỜI KHUYẾT TẬT
1.1. Khái niệm ngƣời khuyết tật, kỳ thị, phân biệt đối xử
1.1.1. Định nghĩa về khuyết tật
1.1.1.1. Định nghĩa về khuyết tật theo quan điểm của các diễn đàn quốc tế
Hiện nay, nhiều tổ chức, quốc gia trên thế giới đã xây dựng và đưa ra
những định nghĩa khác nhau về khuyết tật, những định nghĩa này có liên quan
đến lịch sử và nhận thức, yếu tố văn hóa của mỗi xã hội khác nhau. Quá trình
nghiên cứu các định nghĩa về khuyết tật của các tổ chức và quốc gia trên thế
giới, có thể khái quát bốn mô hình chính mà các diễn đàn quốc tế đã đưa ra để
phản ánh quan điểm, định nghĩa về khuyết tật như sau:
- Mô hình từ thiện;
- Mô hình y tế;
- Mô hình xã hội;
- Mô hình dựa vào quyền.
Mô hình Từ thiện:
Trong mô hình từ thiện, NKT chính là nạn nhân bởi những khiếm
khuyết của họ: Họ không thể đi lại, nghe, nhìn, học tập, làm việc, họ không
thể tự sống một cuộc sống độc lập. NKT sẽ rất khó hoặc không bao giờ được
hưởng sự hạnh phúc, không một ai có thể suy nghĩ rằng sẽ có thể vào một
ngày nào đó NKT có “khả năng bình thường”.
Mô hình này hình thành sự nhìn nhận vấn đề khuyết tật trong một
khoảng thời gian khá dài, ở các quốc gia trên thế giới. Cách mà mọi người
trong xã hội nhìn NKT là “.. Thật tội nghiệp, thật đáng thương...”, trước
mắt của mỗi người chỉ là những bi kịch, những khó khăn trong cuộc sống
7
của NKT, những đau khổ của NKT phải gánh chịu, chịu đựng và không nhìn
thấy một giá trị nào của họ. NKT không phải, không còn là một phần của xã
hội, còn nếu có, họ chỉ liên quan đến một góc nhỏ của xã hội, liên quan đến
một tổ chức đặc biệt nào đó.
Mô hình y tế hay mô hình cá nhân
Trong mô hình y tế hay mô hình cá nhân, coi NKT là bệnh nhân cần
được chữa trị phục hồi, chăm sóc y tế. Do đó, vai trò của NKT là thụ động.
Trong xã hội chỉ có một phần nhỏ tham gia vào việc quản lý, chăm sóc NKT:
các bác sĩ, y tá và các chuyên gia y tế. Trách nhiệm để trở lại tình trạng bình
thường thuộc về NKT và một phần thuộc về hệ thống y tế. Khi nhu cầu thực
tế của NKT là cấp thiết, thì cần phải thành lập những nơi đặc biệt danh cho
NKT. Như vậy, NKT sẽ được đưa đến một khu vực đặc biệt. Khi NKT muốn
hoà nhập vào xã hội, họ có thể phải đối mặt với nhiều thách thức, nhiều hình
thức phân biệt đối xử như:
- Phân biệt đối xử trong thái độ, hành vi ứng xử: Khi cố gắng muốn hòa
nhập vào cộng đồng, xã hội NKT hay bị coi thường, khinh rẻ. Những người
bình thường họ hay sợ, không thích NKT, họ cố gắng lảng tránh NKT, đôi khi
quay mặt đi thậm chí họ còn công khai yêu cầu NKT phải rời khỏi nơi họ
đang hoạt động;
- Về cơ sở vật chất, hạ tầng: Nếu xã hội là dành cho người bình thường,
thì sẽ có rất ít cơ sở hạ tầng phù hợp dành cho NKT như công trình công
cộng, giao thông vận tải;
- Thể chế, pháp luật: Không có quyền cho người khác biệt, ví dụ như
NKT có thể không có quyền được kết hôn bởi những lý do về khiếm
khuyết, khuyết tật …
Mô hình xã hội:
Trong mô hình xã hội, đã có sự thay đổi cách nhìn nhận về NKT: Từ
8
việc tách biệt người bình thường khỏi NKT, đến quan niệm rằng khuyết tật
không chỉ phụ thuộc vào từng cá nhân mà còn phụ thuộc vào môi trường. Nếu
có một loại hình môi trường nào ngăn cản NKT tận hưởng cuộc sống hoà nhập,
thì sẽ có một loại môi trường khác thực sự có thể cho phép họ làm như vậy.
Từ quan điểm trên, có thể suy luận rằng tại một thời điểm nào đó trong
cuộc đời của mỗi con người chúng ta hoặc trong một khoảnh khắc bất kỳ nào
đó, chúng ta trở nên bất lực, không làm được một việc gì đó, ví dụ như: khi
chúng ta không thể tiếp cận một vấn đề nào đó nguyên nhân do chúng ta thiếu
kiến thức hoặc công nghệ để tiếp cận.
Mô hình dựa vào quyền:
Trong mô hình dựa vào quyền, quyền con người là của tất cả mọi
người. Nếu mỗi người đều có quyền như nhau thì xã hội sẽ không có sự tách
biệt như trong mô hình từ thiện và mô hình y tế. NKT vẫn cần đến sự chăm
sóc, trị liệu và các cơ sở vì NKT. Tuy nhiên, cần phải đảm bảo NKT có thể
tiếp cận với tất cả các lĩnh vực như: y tế, văn hóa, giáo dục, việc làm, giải trí...
Xã hội phải thay đổi để thích nghi, để phá vỡ tất cả các rào cản đã có sẵn về
NKT, cả về cơ hội cũng như khả năng tiếp cận. Văn bản pháp, chủ chương,
chính sách mới cần được đưa ra và thực hiện.
Như vậy, đối với mỗi mô hình nêu trên, các học giả đưa ra cách nhìn
nhận khác nhau về khuyết tật, NKT, mỗi mô hình có những đặc thù riêng.
Tuy nhiên, qua quá trình nghiên cứu quyền của NKT nói chung và quyền
bảo vệ khỏi sự phân biệt đối xử của NKT nói riêng, tác giả nhận thấy mô
hình dựa vào quyền là mô hình mang lại cái nhìn khái quát nhất về NKT,
việc lựa chọn mô hình này trong quá trình nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật
NKT là rất cần thiết.
1.1.1.2. Định nghĩa về khuyết tật bởi các tổ chức y tế thế giới
Cuốn “Phân loại Quốc tế về Khiếm khuyết, khuyết tật và Tàn tật (ICIDH)”,
9
xuất bản lần đầu tiên vào năm 1980 bởi Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), đã có
một sự phân biệt quan trọng giữa khiếm khuyết và hai hình thức khác của tình
trạng khuyết tật, được gọi là khuyết tật và tàn tật, theo đó:
- “Khuyết tật” là bất kỳ giới hạn hoặc mất chức năng bắt nguồn từ sự
khiếm khuyết làm ngăn cản việc thực hiện một hoạt động trong khoảng thời
gian được coi là bình thường đối với một con người.
- “Tàn tật” là tình thế bất lợi xuất phát từ sự khiếm khuyết hoặc khuyết
tật hạn chế thực hiện một vai trò được coi là bình thường đối với tuổi tác, giới
tính và các yếu tố xã hội và văn hóa.
Dựa vào văn kiện đầu tiên này, bảng phân loại sau đây được đưa ra, để
hiểu rõ hơn các thuật ngữ về khiếm khuyết, khuyết tật và tàn tật:
KHIẾM KHUYẾT
KHUYẾT TẬT
TÀN TẬT
Suy giảm khả năng trí tuệ
Suy giảm tâm lý khác
Khuyết tật về hành vi,
Tàn tật về giao tiếp
Suy giảm về ngôn ngữ và khuyết tật về giao tiếp
từ ngữ
Khiếm thính
Khuyết tật trong chăm sóc Tàn tật đối với sự độc lập
bản thân
về thể chất
Khiếm thị
Khuyết tật về vận động
Khiếm khuyết bộ phận cơ thể
Khuyết tật về cơ thể,
khuyết tật về sự khéo léo
Tàn tật về di chuyển
Tàn tật nghề nghiệp
Suy giảm về cấu trúc xương Khuyết tật trong hoàn cảnh Tàn tật trong hoà nhập xã hội
Sẹo và suy giảm về thẩm mỹ
NKT trong các hoạt động
Tàn tật trong tự chủ kinh tế
cụ thể
Khiếm khuyết nói chung Các hạn chế khác với khả
Các loại tàn tật khác
cảm giác và các loại khác năng
10
Tài liệu đầu tiên này của WHO đã đặt nền tảng cho sự hiểu biết tốt hơn
về khuyết tật, đưa đến một cách nhìn hoàn toàn khác cho những hành động vì
NKT. Sự khác biệt giữa tình trạng thể chất và điều kiện xã hội đã được Tổ
chức Y tế Thế giới công nhận.
Trong tài liệu thứ hai của WHO, năm 2001, ngay ở tiêu đề của tài liệu,
người ta có thể thấy một bước tiến rõ ràng trong sự hiểu biết về khái niệm
khuyết tật. Cuốn “Phân loại Quốc tế về Chức năng, khuyết tật và Sức khỏe”
(ICF): không còn đề cập đến vấn đề về chức năng hoặc vấn đề cấu trúc, tình
trạng được coi là “khỏe mạnh” nếu không có vấn đề này. ICF đưa ra một
cách nhìn mới về khái niệm về “sức khỏe” và “khuyết tật” có liên kết chặt
chẽ với nhau. Cuốn tài liệu này thừa nhận rằng mỗi con người đều có thể
từng có sự suy giảm về sức khỏe và do đó đối mặt với tình trạng khuyết tật ở
một mức độ nào đó.
Từ những phân tích trên có thể hiểu khái niệm khuyết tật như sau:
Khuyết tật là tình trạng mất chức năng bắt nguồn từ sự khiếm khuyết cơ thể,
hành vi, nhận thức làm ngăn cản việc thực hiện một hoạt động trong khoảng
thời gian được coi là bình thường đối với một con người.
1.1.2. Khái niệm người khuyết tật, kỳ thị, phân biệt đối xử
1.1.2.1. Khái niệm người khuyết tật
Theo Điều 1 Công ước về quyền của NKT (Đại hội đồng Liên hợp
quốc thông qua ngày 13/3/2007) đã đưa ra khái niệm NKT như sau:
Người khuyết tật bao gồm những người có khiếm khuyết lâu
dài về thể chất, tâm thần, trí tuệ hoặc giác quan mà khi tương tác
với những rào cản khác nhau có thể phương hại đến sự tham gia
hữu hiệu và trọn vẹn của họ vào xã hội trên cơ sở bình đẳng với
những người khác.
Khác với quan niệm của Công ước về Quyền của NKT, khi đưa ra khái
11
niệm về NKT, Chính phủ Việt Nam chú trọng đến các điều kiện y tế trong
định nghĩa và cách tiếp cận với NKT, theo đó: Điều 2 Luật NKT 2010 quy
định: “Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ
thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao
động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn” [20, Điều 2].
Từ những định nghĩa, khái niệm về NKT qua nghiên cứu Công ước
về quyền của NKT, Luật NKT Việt Nam 2010 có thể khái quát: NKT là
người có một hay nhiều khiếm khuyết trên cơ thể hoặc tinh thần, những
khiếm khuyết ấy ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng vận động hay trí tuệ
người mắc bệnh. Những khiếm khuyết đó gây ra những suy giảm đáng kể
và ảnh hưởng lâu dài đến đời sống của NKT. Sự suy yếu về thể trạng hay
trí tuệ của NKT sẽ làm giảm khả năng vận động, giảm khả năng tư duy về
nhận thức.
1.1.2.2. Khái niệm kỳ thị
Khi tiếp cận vấn đề NKT cũng cần phải hiểu khái niệm “kỳ thị”, thế
nào là sự kỳ thị? Hiện nay, NKT đang phải gặp những rào cản, kỳ thị nào khi
hòa nhập cộng đồng, xã hội?
“Kỳ thị” là một khái niệm khá phức tạp bao gồm nhiều yếu tố tổng hợp
từ cách nhìn nhận đến hành vi của con người. Có nhiều định nghĩa và những
mức độ kỳ thị khác nhau. Trong các nghiên cứu về kỳ thị đối với NKT,
thường nghiên cứu ở hai khía cạnh: Kỳ thị xã hội và tự kỳ thị.
Kỳ thị xã hội là phản ứng không thiện trí, tiêu cực của xã hội đối với cá
nhân, chủ thể bị kỳ thị, kỳ thị xã hội dựa trên các quan điểm hay thái độ
đối với nhóm người bị kỳ thị. Phản ứng kỳ thị là kết quả của quá trình loại
trừ những người được cho là bình thường và những người không được cho
là bình thường. Phân biệt đối xử trên cơ sở khuyết tật là một hình thức kỳ
thị. Luật NKT 2010 quy định: “Kỳ thị người khuyết tật là thái độ khinh
12
thường hoặc thiếu tôn trọng người khuyết tật vì lý do khuyết tật của người
đó” [20, Điều 2, Khoản 2].
Kỳ thị do NKT cảm nhận thấy trong tương tác với xã hội là kết quả của
suy luận hay cách hiểu của NKT đối với một hành vi hay thái độ cụ thể của
người khác dành cho họ. NKT thể hiện các hiệu ứng của kỳ thị mà họ cảm
nhận được khác nhau. Các hiệu ứng này có thể bao gồm tức giận, phớt lờ, bỏ
qua, cảm giác xấu hổ, hay tự kỳ thị.
Tự kỳ thị trong phạm vi nghiên cứu về NKT là những định kiến mà
NKT tự nội hóa vào suy nghĩ của bản thân và chính các suy nghĩ này quay
lại chống lại bản thân NKT. Trong quá trình này, NKT luôn được nhìn nhận
và tin vào các khuôn mẫu mà xã hội dành cho cho họ. Việc này làm cho
NKT thiếu tự tin vào năng lực và giá trị của bản thân có thể làm được. Biểu
hiện tự kỳ thị của bản thân NKT có thể bao gồm: họ cố gắng dấu tình trạng
quan đến khuyết tật của mình, lảng tránh, không tham gia vào các hoạt động
xã hội, không muốn tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ khuyết tật hay giữ khoảng
cách với những người xung quanh.
1.1.2.3. Khái niệm phân biệt đối xử với người khuyết tật
Nếu như “kỳ thị” là thái độ hoặc niềm tin thì “phân biệt đối xử” là hành
vi thể hiện thái độ hoặc niềm tin đó. Phân biệt đối xử diễn ra khi các cá nhân
hoặc tổ chức tước đoạt quyền và các cơ hội cuộc sống của những người khác
một cách bất công do sự kỳ thị. Phân biệt đối xử có thể dẫn đến việc loại trừ
hoặc gạt con người ra ngoài lề và tước đoạt của họ các quyền công dân, như
quyền tiếp cận các lựa chọn gia cư công bằng, các cơ hội việc làm, giáo dục,
tham gia các hoạt động xã hội...
Theo Điều 2, Công ước về Quyền của NKT,
Phân biệt đối xử trên cơ sở sự khuyết tật” có nghĩa là mọi sự
13
phân biệt, loại trừ hoặc hạn chế trên cơ sở sự khuyết tật có mục đích
hoặc ảnh hưởng gây tổn hại hoặc vô hiệu hóa sự công nhận, thụ
hưởng hoặc thực hiện các quyền và tự do cơ bản của con người
trong lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, dân sự hoặc bất kỳ
lĩnh vực nào khác. Nó bao gồm mọi hình thức phân biệt đối xử,
trong đó có từ chối tạo điều kiện hợp lý;
Luật NKT 2010 cũng quy định:
Phân biệt đối xử người khuyết tật là hành vi xa lánh, từ chối,
ngược đãi, phỉ báng, có thành kiến hoặc hạn chế quyền của người
khuyết tật vì lý do khuyết tật của người đó [20, Điều 2, Khoản 3].
Như vậy, có thể hiểu khái niệm phân biệt đối xử như sau: Phân biệt đối
xử đối với NKT là hành vi xa lánh, từ chối, ngược đãi, phỉ báng, có thành
kiến hoặc hạn chế quyền của NKT trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội vì lý do khuyết tật của họ. Phân biệt đối xử đối với NKT là hành vi
bị cấm, được pháp luật ghi nhận. NKT được hưởng mọi quyền bình đẳng như
những công dân khác, không ai có quyền phân biệt đối xử đối với NKT.
1.2. Cơ sơ pháp lý về quyền đƣợc bảo vệ khỏi sự phân biệt đối xử
của ngƣời khuyết tật
Có thể nói, việc nghiên cứu nội dung Công ước về quyền của người
khuyết tật đã được thực hiện từ khi Việt Nam ký kết tham gia công ước (ngày
22/11/2007). Tuy việc ký tham gia chưa làm phát sinh trách nhiệm thành viên
công ước nhưng qua đó cũng thể hiện được tinh thần, ý thức trách nhiệm của
Nhà nước đối với quyền con người, quyền của NKT. Có thể nói, với tinh thần
là nước đã ký kết tham gia Công ước về quyền của NKT, về cơ bản Luật NKT
năm 2010 của Việt Nam được đánh giá là khá tương thích với Công ước về
quyền của người khuyết tật. Bên cạnh đó, nhằm khẳng định mạnh mẽ hơn nữa
cam kết của Việt Nam trong việc đảm bảo quyền của NKT nói chung và
14
quyền của NKT trong lĩnh vực lao động, việc làm nói riêng, Việt Nam đã gia
nhập Công ước 159 của ILO là công ước về phục hồi chức năng lao động và
việc làm của người khuyết tật được ILO thông qua ngày 20/6/1983.
1.2.1. Các quyền cơ bản của người khuyết tật theo Công ước về
quyền của người khuyết tật
Trong xã hội cũng như những công dân khác, NKT có đầy đủ các
quyền cơ bản của con người, trong đó có các quyền về dân sự, chính trị, kinh
tế, văn hoá, xã hội. Từ Điều 5 đến Điều 30, Công ước quốc tế về quyền của
NKT, đã ghi nhận các quyền cơ bản của NKT như: Quyền được sống; quyền
được thừa nhận bình đẳng; quyền tự do và an toàn cá nhân; quyền sống độc
lập và hoà nhập cộng đồng; quyền được tôn trọng gia đình và tổ ấm; quyền tự
do đi lại, tự do cư trú, tự do quốc tịch; quyền tự do biểu đạt chính kiến và tiếp
cận thông tin; quyền được bảo vệ không bị tra tấn, bị đối xử, áp dụng các hình
phạt tàn nhẫn; quyền được bảo vệ không bị bóc lột, bạo hành và lạm dụng;
quyền được tham gia đời sống chính trị và cộng đồng; quyền tham gia các
hoạt động văn hoá, nghỉ ngơi, giải trí và thể thao; quyền hưởng các dịch vụ y
tế, quyền được hỗ trợ chức năng và phục hồi chức năng; quyền có mức sống
thích đáng và bảo trợ xã hội đầy đủ; quyền được tiếp cận giáo dục; quyền có
cơ hội công việc và việc làm.
Theo đó, NKT được hưởng đầy đủ các quyền của công dân trong xã hội
và được hưởng các quyền bình đẳng như nhau, không sự phân biệt đối xử nào
vì đặc điểm khuyết tật của họ. Các quốc gia thành viên Công ước phải thể chế
hoá, nội luật hoá các quy định của Công ước vào pháp luật quốc gia và thực
thi nghiêm chỉnh.
Bên cạnh đó, do NKT là nhóm người dễ bị tổn thương và gặp nhiều
khó khăn, trở ngại trong việc thực hiện các quyền cơ bản của con người, nên
quyền của NKT có những đặc thù như:
15
Trong lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, NKT là nhóm đối tượng được
có đặc quyền là được chăm sóc sức khoẻ và phục hồi chức năng. Những NKT
bị hạn chế bởi khả năng nghe, nhìn, vận động… cần phải được quan tâm, hỗ
trợ khi thực hiện quyền tham gia, họ phải được tạo điều kiện để có thể tham
gia vào các hoạt động kinh tế, văn hoá, xã hội.
Trong lĩnh vực dân sự, chính trị: NKT có các quyền dân sự, chính trị
tuy nhiên đối với NKT là những người không có đủ năng lực hành vi dân sự
đầy đủ, mất năng lực hành vi dân sự… họ phải thực hiện các quyền dân sự,
chính trị thông qua người giám hộ hoặc được sự đồng ý của người đại diện.
Ngoài ra, một số quyền của NKT được ưu tiên theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, theo Công ước quốc tế về quyền của NKT, bên cạnh những
quyền cơ bản nêu trên, Công ước còn quy định về các nguyên tắc đảm bảo
quyền của NKT mà các quốc gia tham gia Công ước phải tuân thủ. Các
nguyên tắc này sẽ là những tư tưởng xuyên suốt quá trình triển khai thực hiện
quyền của NKT bao gồm: nguyên tắc tôn trọng phẩm giá vốn có của con
người; nguyên tắc quyền tự chủ cá nhân; nguyên tắc không phân biệt đối xử;
nguyên tắc tham gia và hoà nhập; nguyên tắc tôn trọng sự khác biệt và coi
NKT như là một phần của nhân loại vốn đa dạng; nguyên tắc bình đẳng về cơ
hội; nguyên tắc tiếp cận.
1.2.2. Quyền được bảo vệ khỏi sự phân biệt đối xử của người khuyết tật
Để được bảo vệ khỏi sự phân biệt đối xử thì cần phải hiểu bản chất của
“sự phân biệt đối xử” là gì? Hoặc bản chất của “bình đẳng” là gì? Từ đó có
thể đưa ra một cách nhìn nhận tổng quan về quyền được bảo vệ khỏi sự phân
biệt đối xử.
Trước hết, tôi sẽ đưa ra quan điểm nhìn nhận từ góc độ “bình đẳng”.
Bản chất của “bình đẳng” trong xã hội là mọi người đều có cơ hội như
nhau để phát triển, để phát huy những phẩm chất, tài năng vốn có của bản
16
thân. Những ranh giới như: giai cấp, màu da, chủng tộc, giới tính, trình độ,
địa vị... không thể là lý do quyết định và thay đổi bản chất bình đẳng giữa mọi
người. Mỗi cá nhân trong xã hội đều bình đẳng như nhau về quyền, về cơ hội.
Mặt khác, bình đẳng cũng ảnh hưởng đến việc dành sự quan tâm đối
với những nhóm người có điều kiện khó khăn hơn, những nhóm người dễ bị
tổn thương, những cộng đồng kém phát triển, chẳng hạn: người nghèo, người
khuyết tật, dân tộc thiểu số,... giúp đỡ, giảm thiểu bớt những khó khăn của họ.
Từ bản chất “bình đẳng”, những văn bản quy phạm pháp đều hướng
đến mục tiêu đảm bảo sự bình đẳng giữa mọi người trong xã hội. Xã hội càng
tiến bộ đòi hỏi yêu cầu về sự bình đẳng giữa mọi công dân càng cao. Đối với
NKT cũng vậy, họ có quyền được đối xử công bằng và không bị phân biệt
trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Công ước về quyền của NKT năm 2006 đã ghi nhận nguyên tắc bình
đẳng này tại Điều 5 và Điều 12 như sau:
Bình đẳng và không phân biệt đối xử:
1. Các quốc gia thành viên công nhận tất cả mọi người đều
bình đẳng trước pháp luật, tuân theo pháp luật và có quyền được
pháp luật bảo vệ, được hưởng lợi từ pháp luật một cách bình đẳng
mà không bị phân biệt đối xử.
2. Các quốc gia thành viên phải ngăn cấm mọi sự phân biệt
đối xử do bị khuyết tật và đảm bảo tất cả mọi người khuyết tật được
pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng và hiệu của chống lại mọi hình
thức phân biệt đối xử.
3. Để thúc đẩy sự bình đẳng và xóa bỏ phân biệt đối xử, các
quốc gia thành viên sẽ thực hiện tất cả các bước phù hợp nhằm đảm
bảo cung cấp sự điều chỉnh hợp lý.
4. Những biện pháp cụ thể cần thiết để nâng cao hay đạt được
17
sự bình đẳng của người khuyết tật sẽ không bị coi là sự phân biệt
đối xử theo các điều khoản của công ước này [17, Điều 5].
Công nhận bình đẳng trước pháp luật
1. Các quốc gia tham gia tái khẳng định rằng người khuyết tật
có quyền được cộng nhận ở tất cả mọi nơi là những con người trước
pháp luật;
2. Các quốc gia tham gia sẽ cộng nhận người khuyết tật có
năng lực pháp lý, trên cơ sở bình đẳng như công dân khác, trong tất
cả các mặt của đời sống;
3. Các quốc gia tham gia sẽ tiền hành các biện pháp thích hợp
để người người khuyết tật có thể tiếp cận tới những hỗ trợ mà họ
cần khi thực thi năng lực pháp lý của họ;
4. …….. [17, Điều 12]
Để xác định được một hành vi có phải là phân biệt đối xử với NKT hay
không, cần có các tiêu chí để xác định, các tiêu chí này phải mang tính pháp
lý, được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quy định.
Công ước về quyền của NKT 2006 quy định:
…Phân biệt đối xử do bị khuyết tật có nghĩa là bất cứ hình
thức phân biệt, loại trừ hay hạn chế nào do bị khuyết tật, có mục
đích hay ảnh hưởng làm giảm hay hủy bỏ sự công nhận, thụ
hưởng, thực hiện trên cơ sở bình đẳng với những người khác, tất
cả các quyền con người và tự do cơ bản về chính trị, kinh tế, xã
hội, văn hóa, dân sự hay bất cứ lĩnh vực nào khác. Nó bao gồm tất
cả các hình thức phân biệt đối xử, bao gồm cả việc từ chối không
tạo ra sự điểu chỉnh hợp lý [17, Điều 2]
Pháp luật của các quốc gia trên thế giới, ở những mức độ đánh giá khác
nhau cũng đã quy định vấn đề này trong các văn bản pháp luật.
18
Các quốc gia trên thế giới có luật pháp chung quy định về chống phân
biệt đối xử, áp dụng cho mọi công dân, trong đó có đề cập đến NKT, ví dụ:
Canada – Luật nhân quyền năm 1985; Airơlen – Luật bình đẳng việc làm năm
1998; Namibia – Luật về việc làm ưu đãi năm 1998…
Các quốc gia có luật pháp quy định về chống phân biệt đối xử chỉ áp
dụng với NKT, ví dụ: Hoa Kỳ - Luật NKT năm 1990, Costa Rica – Luật 7600
về cơ hội bình đẳng cho NKT năm 1996; Ghana – Luật về NKT năm 1993;
Việt Nam – Luật NKT 2010…
Tại Việt Nam, Luật NKT 2010 cũng đưa ra khái niệm về kỳ thị, phân
biệt đối xử với NKT thể hiện tại Điều 2 như sau:
2. Kỳ thị NKT là thái độ khinh thường hoặc thiếu tôn trọng
NKT vì lý do khuyết tật của người đó.
3. Phân biệt đối xử NKT là hành vi xa lánh, từ chối, ngược
đãi, phỉ báng, có thành kiến hoặc hạn chế quyền của người khuyết
tật vì lý do khuyết tật của người đó [20, Điều 2].
Như vậy, nhìn chung về phương diện pháp lý, nguyên tắc bình đẳng và
không phân biệt đối xử có thể tiếp cận, nhìn nhận ở nhiều khía cạnh khác
nhau, do đó dẫn đến các quan điểm không giống nhau. Hiện nay nguyên tắc
bình đẳng được tiếp cận trên ba phương diện: Bình đẳng trên danh nghĩa;
Bình đẳng về cơ hội; Bình đẳng về kết quả.
Bình đẳng trên danh nghĩa: Theo quan điểm chính thống về sự bình
đẳng, những người ở trong một hoàn cảnh như nhau cần được đối xử giống
nhau. Quan điểm này thường không tính đến sự khác biệt và bất lợi của từng
cá nhân trong từng hoàn cảnh. Do vậy, quan điểm này không phù hợp với đối
tượng là NKT.
Bình đẳng về cơ hội: Bình đẳng có thể định nghĩa theo một cách khác
là bình đẳng về cơ hội. Khái niệm này quy định về sự bình đẳng trong cơ hội,
19