Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

990 năm sdanh xưng thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.97 KB, 18 trang )

BÀI DỰ THI
“TÌM HIỂU 990 NĂM DANH XƯNG THANH HÓA VỚI TƯ CÁCH LÀ
ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG”
Phần I: 16 câu hỏi trắc nghiệm
Câu 1: Thanh Hóa là nơi đầu tiên phát hiện ra di vật (trống đồng) của nền văn hóa
Đông Sơn vào thời gian:
a. Năm 1922
b. Năm 1923
c. Năm 1924
d. Năm1925
Câu 2: Tỉnh lỵ Thanh Hóa thời nhà Lý được đặt ở địa phương:
a. Tư phố (hiện nay thuộc xã Thiệu Dương, thành phố Thanh Hóa).
b. Duy Tinh (hiên nay thuộc xã Văn Lộc, huyện Hậu Lộc).
c. Vạn Lai (hiện nay thuộc xã Xuân Châu, huyện Thọ Xuân).
d. Hạc Thành (hiện nay thuộc thành phố Thanh Hóa).
Câu 3: Vị tướng là người Thanh Hóa có công dẹp loạn "Tam vương” thời Lý:
a. Đào Cam Mộc
b. Lê Phụng Hiểu
c. Lý Thường Kiệt
d. Tô Hiến Thành
Câu 4: Đền Đồng Cổ (thờ thần Trống Đồng) hiện nay thuộc địa phương của tỉnh
Thanh Hóa:
a. Làng Trịnh Lộc, xã Yên Phú, huyện Yên Định.
b. Làng Quan Yên, xã Định Tiến, huyện Yên Định.
c. Làng Đan Nê, xã Yên Thọ, huyện Yên Định.
d. Làng Đồng Phang, xã Định Hòa, huyện Yên Định.
Câu 5: Bộ sử ghi chép về việc đổi tên “Trại Ái Châu” thành “Phủ Thanh Hóa”:
a. Đại Việt Sử ký.
b. Đại Việt sử ký toàn thư.



c. Đại Việt sử ký tiền biên.
d. Khâm định Việt sử thông giám cương mục.
Câu 6: Năm 1029, Danh xưng Thanh Hóa với tư cách là đơn vị hành chính trực
thuộc Trung ương được đặt tên dưới triều vua:
a. Lý Thái Tổ
b. Lý Thái Tông
c. Lý Thánh Tông
d. Lý Nhân Tông
Câu 7: Trong triều đại nhà Lý, Thái úy Lý Thường Kiệt được cử làm Tổng trấn
Thanh Hóa vào thời gian:
a. Từ năm 1082 đến năm 1101
b. Từ năm 1069 đến năm 1072
c. Từ năm 1072 đến năm 1082
d. Từ năm 1102 đến năm 1109
Câu 8: Bộ luật Hồng Đức (Quốc triều hình luật) là bộ luật chính thức của Nhà nước
Đại Việt thời Hậu Lê được ban hành dưới triều vua:
a. Lê Lợi (Lê Thái Tổ).
b. Lê Thái Tông
c. Lê Nhân Tông.
d. Lê Thánh Tông.
Câu 9: Trong lịch sử Việt Nam, những vị vua, chúa, danh nhân, công thần là người
Thanh Hóa:
a. Triệu Thị Trinh, Dương Đình Nghệ, Ngô Quyền, Lê Hoàn, Lê Lợi.
b. Mai Thúc Loan, Lê Hoàn, Hồ Quý Ly, Đào Cam Mộc, Nguyễn Kim.
c. Lê Hoàn, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Trịnh Kiểm, Nguyễn Hoàng.
d. Triệu Thị Trinh, Đào Duy Từ, Lê Hoàn, Hồ Quý Ly, Lê Lợi.
Câu 10: Năm 1841, tên gọi tỉnh Thanh Hóa được đặt dưới triều vua:
a. Gia Long
b. Minh Mệnh
c. Thiệu Trị



d. Tự Đức
Câu 11: Thanh Hóa là nơi phát tích của các vương triều và dòng chúa Việt Nam:
a. Tiền Lê, Lý, Hồ, Hậu Lê, Mạc; chúa Trịnh, chúa Nguyễn.
b. Hồ, Hậu Lê, Mạc, Nguyễn; chúa Nguyễn.
c. Tiền Lê, Lý, Mạc, Nguyễn; chúa Trịnh, chúa Nguyễn.
d. Tiền Lê, Hồ, Hậu Lê, Nguyễn; chúa Trịnh, chúa Nguyễn.
Câu 12: Trong phong trào Cần Vương chống Pháp, những lãnh tụ là người Thanh
Hóa:
a. Trần Xuân Soạn, Phạm Bành, Tống Duy Tân, Hà Văn Mao, Cầm Bá Thước.
b. Trần Xuân Soạn, Cao Thắng, Đinh Công Tráng, Tống Duy Tân.
c. Đinh Công Tráng, Tống Duy Tân, Hà Văn Mao, Cầm Bá Thước.
d. Phạm Bành, Tống Duy Tân, Hà Văn Mao, Cầm Bá Thước, Cao Thắng.
Câu 13: Ngày 29/7/1930, Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa được thành lập tại địa điểm:
a. Làng Hàm Hạ, xã Đông Tiến, huyện Đông Sơn.
b. Làng Phúc Lộc, xã Thiệu Tiến, huyện Thiệu Hóa.
c. Làng Yên Trường, xã Thọ Lập, huyện Thọ Xuân.
d. Làng Cự Đà, xã Hoằng Minh, huyện Hoằng Hóa
Câu 14: Trong lần về thăm Thanh Hóa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khen ngợi: “…
Bây giờ tiếng Việt Nam đến đâu, tiếng Điện Biên Phủ đến đó. Tiếng Điện Biên Phủ
đến đâu, đồng bào Thanh Hóa cũng có một phần vinh dự đến đó…”, câu nói trên
được Chủ tịch Hồ Chí Minh nói trong thời gian và địa điểm:
a. Năm 1947 tại Rừng Thông, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa
b. Năm 1957 tại trụ sở Tỉnh ủy, Thanh Hóa.
c. Năm 1960 tại Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
d. Năm 1961 tại sân vận động tỉnh Thanh Hóa.
Câu 15: Thành Nhà Hồ được tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp
quốc (UNESCO) công nhận là di sản văn hóa thế giới vào ngày tháng năm nào?
a. Ngày 27/6/2010.

b. Ngày 27/6/2011.
c. Ngày 16/6/2012.


d. Ngày 16/6/2013.
Câu 16: Từ khi thành lập đến nay, Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa đã tiến hành số kỳ Đại
hội là:
a. 16 kỳ đại hội.
b. 17 kỳ đại hội.
c. 18 kỳ đại hội.
d. 19 kỳ đại hội.
Phần II. Câu hỏi tự luận (bài viết không quá 7.000 từ)
Bạn hãy trình bày những hiểu biết của mình về sự ra đời Danh xưng Thanh Hóa
với tư cách là đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương vào năm 1029. Theo bạn trong
thời gian tới tỉnh Thanh Hóa cần làm gì để giữ gìn và phát huy truyền thống lịch sử hào
hùng trong việc xây dựng Thanh Hóa trở thành "Tỉnh kiểu mẫu" như Bác Hồ hằng mong
muốn.
Trả lời:
Thanh Hóa là vùng đất “địa linh nhân kiệt”, ít chia tách, có bề dày lịch sử, giàu
truyền thống yêu nước và cách mạng, là nơi chứa đựng nhiều gia trị văn hóa vật chất và
tinh thần rất độc đáo.
Trong diễn trình phát triển của lịch sử Việt Nam, Thanh Hóa có vị trí rất đặc thù. Đây là
nơi giao thoa, hội tụ giữa các trung tâm văn hóa lớn của dân tộc Việt, song vẫn mang sắc
thái văn hóa riêng. Xứ Thanh – quê hương của nhiều bậc anh hùng, hào kiệt, chí sĩ, văn
nhân nổi tiếng: Bà Triệu, Lê Hoàn, Lê Lợi, Lê Văn Hưu, Đào Duy Từ… làm rạng rỡ cho
quê hương, xứ sở. Xứ thanh là vùng đất khởi nghiệp của nhiều triều đại quân chủ: Triều
Tiền Lê, triều Hồ, triều Lê Sơ, Lê Trung Hưng, triều Nguyễn. Thanh Hóa cũng là đất
“thang mộc”, nơi phát tích, sản sinh ra nhiều bậc vua chúa nổi bật, làm rạng danh sơn hà
xã tắc. Trên địa bàn Thanh Hóa từng diễn ra và ghi dấu nhiều sự kiện trọng đại của đất
nước. Trải qua quá trình lịch sử, các thế hệ người dân Thanh Hóa luôn dũng cảm, kiên

cường trong chiến đấu chống giặc ngoại xâm, cần cù, sáng tạo trong lao động, sản xuất,
lập nên nhiều chiến công hiển hách, tô thắm thêm truyền thống dựng nước và giữ nước
vẻ vang của dân tộc.


Là mảnh đất có bề dầy truyền thống, lịch sử, Thanh Hóa được ghi chép lại trong
nhiều bộ chính sử, địa sử, địa chí, văn bia, thư tịch và các công trình nghiên cứu từ thời
cổ, trung đại đến thời cận hiện đại. Nhiều vấn đề về lịch sử Thanh Hóa trong tiến trình
lịch sử dân tộc và được nghiên cứu đầy đủ, toàn diện và sáng tỏ. Tuy nhiên, thời điểm ra
đời của địa danh Thanh Hóa với tư cách đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương có rất
ít tài liệu ghi chép và sự nhất quán chưa cao, Vì vậy, việc xác định thời điểm ra đời của
danh xưng Thanh Hóa, gắn với sự phát triển của mảnh đất này trong suốt chiều dài lịch
sử là việc làm cần thiết.
Thanh hóa trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam vốn có
nhiều tên gọi khác nhau qua từng thời kỳ, như Cửu chân bộ thời Hùng Vương; Tượng
quận thời Tần; Cửu chân quận thời Hán; thời Ngô được chia làm hai quận Cửu Chân và
Cửu Đức; đến đời Lương Vũ Đế (502-549), vùng phía bắc quận Cửu Chân được tách ra,
lập làm Ái Châu. Thời Tùy (589 -617), Ái châu lại lệ vào quân Cửu Châu và quận Cửu
Chân. Năm Thuận Thiên thứ nhất (1010), Lý Thái Tổ đổi 10 đạo trong cả nước làm 24
lộ, châu Hoan (Nghệ An nay) và Châu Ái (Thanh Hóa nay) làm trại….
Việc nghiên cứu xác định dấu mốc quan trong xuất hiện thời điểm ra đời danh
xưng Thanh Hóa với tư cách đơn vị hành chính trực thuộc trung ương được đặt ra từ lâu
nhưng gặp nhiều khó khăn do nguồn tư liệu quá ít, song với sự chỉ đạo quyết liệt của
lãnh đạo tỉnh, tích cực tham mưu của các cơ quan chức năng, với trách nhiệm cao và tấm
lòng yêu mến vùng đất, con người Thanh Hóa, nhiều năm qua, các nhà khoa học trong
và ngoài tỉnh đã dành nhiều thời gian, công sức và tâm huyết để nghiên cứu, luận giải
nhiều dấu mốc về tên gọi “Danh xưng Thanh Hóa” và “Danh xưng Thanh Hóa xuất hiện
từ khi nào. Qua quá trình nghiên cứu, tìm hiểu Danh xưng – tên gọi Thanh Hóa bước đầu
đã thu được những tư liệu lịch sử và công trình khoa học đề cập; một số cuộc Hội thảo
khoa học “Thanh Hóa đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương” được tổ chức song

chưa có kết quả khả quan, tin cậy.
Ngày 12/7/2017, tại kỳ họp thứ ba, HĐND tỉnh khóa XVII đã quyết nghị lấy năm
1029 là năm ra đời Danh xưng Thanh Hóa với tư cách đơn vị hành chính trực thuộc
Trung ương. Sự kiện lịch sử này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, tạo sự phấn khởi, lan tỏa
trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân các dân tộc trong tỉnh.


Danh xưng là tên gọi của một quốc gia dân tộc hay của một con người cụ thể. Tên
của một người đã là điều đương nhiên phải có, tên của một dân tộc một quốc gia càng
không thể thiếu. Việc xác định danh xưng chính là việc làm để định danh mốc thời gian
ra đời, góp phần khẳng định bề dày truyền thống, sự tồn tại phát triển của quốc gia hay
con người đó trong tiến trình thời gian.
Hai tiếng Thanh Hóa đã vang lên tự hào, kiêu hãnh trong sử sách, trong các văn
bản của các triều đại và các phương tiện truyền thông xưa và nay. Có một câu hỏi luôn
đặt ra day dứt chiếm trọn suy nghĩ của nhiều thế hệ - Tên gọi Thanh Hóa có tự bao giờ?
Vấn đề này đã được đặt ra và tập trung kiếm tìm cả đến chục năm. Mới đây nhất, sau 3
cuộc hội thảo lớn thu hút nhiều tâm sức, nhiệt huyết của các nhà lãnh đạo, các nhà
nghiên cứu lịch sử trong và ngoài tỉnh, câu hỏi đã có lời giải đáp.
Trên cứ liệu khoa học của Hội thảo, tại Kỳ họp thứ Ba, HĐND tỉnh khóa XVII đã
biểu quyết thông qua Nghị quyết lấy năm 1029 là năm ra đời Danh xưng Thanh Hóa với
tư cách là đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương. Như vậy Danh xưng Thanh Hóa có
từ triều đại nhà Lý, thời Lý Thái Tông niên hiệu Thiên Thành năm thứ Hai - một triều
đại an bình thịnh trị in dấu ấn đặc biệt trên đất Thanh Hóa, một triều đại có sự đóng góp
to lớn với công lao hiển hách của các người con ưu tú xứ Thanh đó là: Đào Cam Mộc,
Lê Phụng Hiểu, Nguyễn Tuyên...
Cứ liệu lịch sử để định danh đó được dựa vào “Khâm định Việt sử thông giám
cương mục” của các sử thần triều Nguyễn; sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi và công
trình nghiên cứu Việt Nam qua các đời của GS Đào Duy Anh. Từ sự phát hiện và tìm
hiểu nghiên cứu chúng tôi muốn góp thêm tư liệu Danh xưng Thanh Hóa có từ thời Lý
và được duy trì kéo dài ở triều đại này. Căn cứ này có sức thuyết phục cao nhất vì sử liệu

được nêu ra tồn tại bằng văn bản trên tấm bia nhà Lý hiện đang được lưu giữ tại Khu văn
hóa thôn Thọ Văn xã Hoằng Phúc, huyện Hoằng Hóa. Tấm bia vốn có thể được đặt tại
chùa Ngố (Ngố Tự) ngôi chùa có cự ly gần nhất khi tấm bia được phát hiện, sau đó được
di lên Nghè ba xã, rồi được di về trụ sở Ủy ban xã Hoằng Phúc, tiếp đến được đưa về
đền Cao Sơn, trước khi yên vị tại Khu văn hóa thôn Thọ Văn như bây giờ.


Đây là một trong những tấm bia quý hiếm tính trên đầu ngón tay của nước ta.
Cao Sơn nơi một thời bia Minh Tịnh tọa lạc.
Theo công trình nghiên cứu “Văn khắc Hán Nôm Việt Nam tập 1. Sách do Viện
nghiên cứu Hán Nôm và Viễn Đông Bác cổ xuất bản năm 1996 số bia từ thời Bắc thuộc
đến thời nhà Lý cả nước có tổng số 27 bia và chuông riêng Thanh Hoá có 6 bia:
1- Đại Tuỳ Cửu Chân quận Bảo An Đạo tràng chi bi văn, dựng năm 618 ở thôn
Trường Xuân xã Đông Minh Đông sơn (hiện để tại Bảo tàng Lịch sử).
2- An Hoài Sơn Báo ân tự bi ký dựng năm 1100 tại Núi Nhồi chùa Báo Ân Đông
Sơn Thanh Hoá.
3- Sùng Nghiêm Diên Thánh tự bi minh dựng năm 1118 tại thôn Duy Tinh xã Văn
Lộc huyện Hậu Lộc.
4- Càn Ni Sơn Hương Nghiêm tự bi minh dựng năm 1125 đặt tại chùa Hương
Nghiêm xã Thiệu Trung Thiệu Hoá Thanh Hoá.
5- Ngưỡng Sơn Linh xứng tự bi minh dựng năm 1126 xã Ngọ Xá, phủ Hà Trung
Thanh Hoá (hiện để tại Bảo tàng Lịch sử).
6- Bảo Chưởng Thái Bà mộ chí năm 1207 tại xã Hoà Chúng huyện Quảng Xương
(hiện để tại Bảo tàng Lịch sử).
Trong số 6 bia nói trên thì 3 tấm bia đã được đưa vào Bảo tàng Lịch sử và có chế
độ bảo vệ đặc biệt, 3 tấm còn ở lại Thanh Hoá thì đã bị biến dạng hư hỏng nhiều.
Niên đại 1029, Quốc sử quán triều Nguyễn không cho biết căn cứ vào tài liệu nào.
Tại sao từ sau 1029 quốc sử vẫn còn nhắc đến tên Ái Châu mỗi khi xảy ra sự việc
quan trọng ? Dường như đã tính trước được sự phản biện này, trong tham luận của Nhà
nghiên cứu Hoàng Tuấn Phổ đã lần lượt giải thích thoả đáng: 1/Cách làm việc của Quốc

sử quán triều Nguyễn rất công phu nghiêm túc, rất đáng tin cậy, theo cách khảo cứu, chú
thích thời xưa, có nhiều trường hợp không phải cần dẫn chứng tư liệu. Ngay như GS Hà


Văn Tấn, một nhà khoa học nổi tiếng chú thích Dư địa chí của Nguyễn Trãi, mục Thanh
Hoá, ghi rõ là“Năm Thiên thành thứ 2 (1029) đổi làm phủ Thanh Hoá” mà có nói theo
tài liệu nào đâu ! Nghĩa là nhà khảo cứu xét thấy trong “chú thích” lại phải làm thêm
“khảo cứu”, “chú thích” nữa thì không cần thiết. Cách chú thích khoa học nhất là ngắn
gọn, rõ ràng, chính xác. Lẽ nào một nhà khoa học đầu ngành lịch sử Việt Nam rất giỏi về
thư tịch học, Thạch học, văn bản học như GS Hà Văn Tấn không biết đến cả mấy tấm
bia thời Lý ở Thanh Hoá và cuốn sách biên khảo của Hoàng Xuân Hãn về mấy tấm bia
này?
Từ sau 1029, Ái Châu đổi làm Thanh Hoá, một số sự kiện như đánh giặc Đãn Nãi,
vẫn dùng địa danh Ái Châu, tên một đơn vị hành chính tương đương quận, huyện vẫn
còn dùng cùng với quận Cửu Chân, thuộc phủ Thanh Hóa từ 1029.
Có thể nhận thấy rõ, những cứ liệu làm luận điểm của Nhóm 1082 chỉ được Nhóm
1029 nhắc đến trong tham luận của mình như một loại sự kiện xảy ra được nhắc đến tên
Thanh Hoá, không phải làsự kiện đặt tên Thanh Hoá bắt đầu từ đó. Ví dụ:
Bia chùa Báo Ân núi An Hoạch, tác giả Chu Văn Thường viết về Lý Thường Kiệt:
“Chí Nhâm Tuất chi tuế, hoàng đế đặc gia Thanh Hoá nhất quân, tứ công phong ấp…”
Dịch nghĩa: “Đến năm Nhâm Tuất (1082) nhà vua đặc biệt ban thêm cho một quân
Thanh Hoá, cho ông làm phong ấp…” (Thơ văn Lý - Trần). Đối chiếu Đại Việt sử ký
toàn thư và Khâm định Việt sử thông giám cương mục, năm Nhâm Tuất, kỷ Lý Nhân
tông, chỉ ghi chép mỗi một sự kiện: “Nhâm Tuất, năm thứ 7 (1082) mùa xuân, đem công
chúa Khâm Thánh gả cho châu mục châu Vị Long là Hà Di Khánh”. Ngoài ra không còn
sự kiện nào khác. Sự kiện Lý Thường Kiệt được vua nhà Lý đặc biệtcho giữ thêm việc
trông coi Thanh Hoá và cuối đời Lý Nhân tông. Đối chiếu văn bia chùa Linh Xứng núi
Ngưỡng Sơn chép: “Anh Vũ Chiêu Thắng sơ, bao thiên tử nghĩa đệ, tri Ái Châu Cửu
Chân quận ( 九 九 九 ) Thanh Hoá trấn chư quân sự, phong thực Việt Thường vạn
hộ”Dịch: “Đầu năm Anh Vũ Chiêu Thắng, (1076-1084), Thái uý được phong làm em

nuôi vua, trông nom mọi việc quân ở các châu thuộc trấn Thanh Hoá, quận Cửu Chân,
châu Ái và phong cho thái ấp một vạn hộ ở Việt Thường” (Thơ văn Lý - Trần). Như vậy,


đầu năm Anh Vũ Chiêu Thắng phải là năm 1076, không thể là năm 1082 vì năm 1082 đã
sang khoảng cuối niên hiệu Anh Vũ Chiêu Thắng, chỉ còn hai năm (1082-1084) là hết
niên hiệu. Có lẽ các nhà khoa học đã lầm lẫn chữ “sơ” và chữ “bao”. Theo đúng mặt chữ
Hán, chữ“sơ”(九) này là bắt đầu, đầu tiên (niên hiệu Anh Vũ Chiêu Thắng) tức là năm
1076, còn chữ “bao”(九) này là “bao phong”, khen ngợi mà phong cho là “Thiên tử nghĩa
đệ”(em nuôi vua), bị nhầm là chữ“bao”( 九) là bao bọc, bao gồm, rồi ghép hai chữ “sơ,
bao” trong câu“Anh Vũ Chiêu Thắng sơ, bao thiên tử nghĩa đệ” lại thành “Anh Vũ
Chiêu Thắng sơ bao”và hiểu sai lệch thành khoảng những năm đầuAnh Vũ Chiêu
Thắng. Tuy nhiên cho dù cách hiểu này là đúng thì“những năm đầu” cũng chỉ vào
khoảng 1076 – 1078, từ 1079 đến 1081đã là khoảng giữa niên hiệu. Các tác giả không
thể suy diễn theo ý muốn chủ quan của mình.
Chúng ta cũng cần xem lại con số “19 năm” Lý Thường Kiệtlàm quan ở Thanh
Hoá. Chức “Tri Ái Châu quận Thanh Hoá trấn chư quân châu sự” không phải là
chức trọng nhậm mà là chức kiêm nhiệm. Chức quan chính của ông là ở Kinh đô. Đặc
biệt từ sau Lý Thái tông mất, Lý Nhân tông nối ngôi còn nhỏ, mới 7 tuổi, Thái sư Lý
Đạo Thành đang giúp đỡ chính sự, “lấy chức Tả giám nghị đại phu ra coi châu Nghệ
An”. Sử thần Ngô Sĩ Liên bàn rằng: “Có lẽ vì Nhân tông nghe lời mẹ đẻ (Ỷ Lan) giết
thái hậu Thượng Dương, Đạo Thành vì can ngăn phải “ra trấn bên ngoài” (Đại Việt sử ký
toàn thư). Năm Giáp Dần (1074), Đạo Thành được làm Thái phó Bình chương, tức là
tạm quyền Tể tướng (Thái uý bình chương). Năm Ất Sửu (1085), Lê Văn Thịnh làm
Thái sư tể tướng, Lý Thường Kiệt vẫn giúp nhà vua trông coi chính sự, quân đội và đánh
giặc. Cho nên, các bia Báo Ân, Linh Xứng đã chép những chữ như “đặc gia” (đặc biệt
ban thêm), “gia kính” (kính trọng mà ban thêm) chức trông coi việc quân ở Thanh Hoá.
Nếu so sánh về số đông, các nhà khoa học thuộc về nhóm 1082 đông hơn nhóm
1029 nhiều lần. Tuy nhiên, khoa học không thuộc về số đông ! Thực tế cho thấy, vấn
đề Danh xưng Thanh Hoá, mốc năm 1082, tư liệu trích dẫn thiếu chính xác, lập luận

nhiều suy diễn, trong khi năm 1029 có căn cứ khoa học hơn ./.


Nếu theo phép đối chiếu này thì tấm bia chùa Minh Tịnh có niên đại cổ thứ 2, đặc
biệt là tính chất đặc sắc và nguyên vẹn của nó. Thực sự là một hiện vật gốc sống động
tin cậy quý hiếm và có giá trị về nhiều mặt.
Tấm bia được tạo tác ghi khắc vào ngày 15 tháng 2 năm Canh Ngọ niên đại
Quảng Hựu 6 tức năm 1090 Thời nhà Lý. Tấm bia 2 mặt cao 1,57 cm, chiều rộng phía
trán bia là 96cm, chiều rộng phía đế bia là 16cm. Diềm bia rộng 7cm bao quanh mặt bia
được trang trí hoa văn dây hoa cúc (một loại hoa văn quen thuộc Thời Lý) cùng nhiều
loại cầm thú sinh động.
Trán bia mặt trước sau diềm bia là ô tên bia. Tên bia gồm có 5 chữ triện khắc chìm
trong ô hình chữ nhật. Chiều dài 5cm rộng 10cm đọc là “Minh Tịnh tự bi văn” (Văn bia
chùa Minh Tịnh).
Trán bia mặt sau khắc nổi hình 2 con rồng chầu vào nhau. Mỗi con rồng có chiều
dài khoảng 40cm. Bài văn khắc ở 2 mặt trước sau gồm 37 hàng, mỗi hàng có từ 13 đến
31 chữ Hán chân phương, khắc chìm. Chất đá làm bia là loại đá xanh một loại đá quý
duy nhất có của xứ Thanh. Cả hai mặt bia đều được chạm khắc kỹ lưỡng công phu đánh
dấu một trình độ mỹ thuật điêu luyện và hoàn hảo.
Đây là tấm bia có giá trị văn hiến về nhiều mặt
Về lịch sử: Đây là tấm bia có niên đại rất sớm (1090) từ thời nhà Lý, thời kỳ mở
đầu xây dựng nền độc lập của nước Đại Việt. Bia góp phần lý giải lịch sử tên gọi và tồn
tại của tỉnh và chứng minh tỉnh Thanh Hoá là một vùng đất cổ, có bề dày truyền thống
lịch sử.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, sau khi Lý Công Uẩn lên ngôi Vua, một trong
những việc làm đầu tiên của ông là “đổi 10 đạo làm 24 lộ, châu Hoan châu Ái làm trại
(Đại Việt Sử ký toàn thư T.1 NXBKHXH tr 242). Văn bia chùa Minh Tịnh dựng trên đất
Hoằng Hoá có chữ trại, cho thấy vùng Thanh Hoá thời Lý Nhân Tông gọi là trại. Theo
nội dung văn bia sau phần ca tụng sự hưng thịnh của nhà Lý tác giả trình bày ông Sùng
Nghi sứ Hoàng Khánh Văn, được triều đình ban cho chức Quyền Tri Thanh Hoá trại đã



dâng tờ khãi xin xây dựng chùa. Ngôi chùa được xây dựng trên một vùng đất hoang, cỏ
cây rậm rạp. Chùa được dựng lên là để thần dân đến tu tâm niệm Phật và cũng là để ca
ngợi sự phồn vinh của vương triều Lý Nhân Tông, một thời đại mà người hiền tài, không
bị bỏ rơi, kẻ trung thần lương tướng được trọng dụng. Mọi công việc trong ngoài của
triều đình đều có bề tôi hết lòng phụ giúp. Tình hình nơi biên châu ổn định, nước ở xa
đến chầu. Chùa xây xong có quy mô khang trang lộng lẫy. Tấm bia cho ta hiểu một điều
lý thú góp phần minh định thêm Danh xưng Thanh Hóa có từ thời nhà Lý 1029 - năm
Thiên Thành thứ hai thời Lý Thái Tông và còn kéo dài cho tới thời Lý Nhân Tông và
mãi sau này. Để định danh quốc gia có hai yếu tố cơ bản đó là cương vực lãnh thổ và
ngôi đế, để định danh một tỉnh cũng trên hai yếu tố địa phận và người đứng đầu đại diện.
Tấm bia còn hiện nguyên, tồn tại bằng vật chất có thể đọc được, sờ thấy được nên càng
thi vị. Điều căn cốt ta tìm và tấm bia đã giúp trả lời được đó là:Thanh Hóa một thời gọi
là trại do ông Sùng Nghi sứ Hoàng Khánh Văn tước Sùng Ban Hoàng Thừa Nhĩ đảm
nhận Quyền tri trại. Điều đó thêm phần khẳng định, xác tin Danh xưng Thanh Hóa có từ
thời nhà Lý là chính xác, thuyết phục.
Bia còn cho biết Quyền chủ chùa Thích Pháp Lương, trụ trì chủ chùa Thích Huệ
Lăng là những người trông nom công việc xây chùa và dựng bia. Nó còn đưa ra một câu
hỏi các nhà sư trụ trì chùa Thanh Hoá đều lấy họ Thích trong khi đó các vị thiền sư đời
Lý trong Thiền Uyển tập anh ít khi lấy họ Thích.
Nội dung tấm bia còn giúp ta nguồn sử liệu về tình hình Phật giáo ở tỉnh Thanh
Hoá thời Lý nói riêng và Phật giáo Việt Nam nói chung. Góp phần bổ sung một áng văn
hay về Phật giáo. Theo Bạch Liên sa ri Thiện Giác soạn bia thì một vũ trụ dù bao la cũng
không thể vượt qua bản tính huyền diệu của Phật, sự sinh tử của muôn loài đều có căn
nguyên sâu sa. Sự hưng thịnh của Phật giáo thời Lý đã khiến các bậc thánh hiền lưu tâm
tới chùa chiền.
Về văn bản: Đây là tấm bia có văn bản hoàn chỉnh đầy đủ chương mục giúp các
nhà văn bản học nghiên cứu toàn diện.



Về văn học: Nội dung bia đề cập đến quan niệm về đạo hiếu, lòng hiếu để của hậu
thế với các bậc tiền nhân, quan niệm về đạo, làm con, làm dâu... Áng văn được tạo khắc
trong bia có thể điển hình cho lối văn biền ngẫu, mỗi câu chữ hàm súc cô đọng.
Về mỹ thuật: Tấm bia giúp ta hiểu về các hoạ tiết, cách trang trí bố cục, mô típ hoa
văn đời Lý sự đặc sắc và khác biệt với các triều đại khác như thế nào.
Xét trên mọi phương diện tấm bia thời Lý hiện để tại Khu văn hóa thôn Thọ Văn
xã Hoằng Phúc, huyện Hoằng Hoá tỉnh Thanh Hoá là một tấm bia quý hiếm có giá trị
văn hiến cần được nghiên cứu và có chính sách bảo vệ đặc biệt. Năm 2019 tỉnh Thanh
Hóa tổ chức kỷ niệm 990 năm danh xưng Thanh Hóa, tấm bia thực sự trở nên một bằng
chứng sinh động thuyết phục và là một địa chỉ văn hóa cần đến.
Trong chiều dài Lịch Sử của Đát Nước ta về quá trình đấu tranh, bảo vệ và xây
dựng kinh tế, chính trị, văn hóa cũng không ngừng lớn mạnh. Thanh Hóa cùng cả nước
thực hiện cuộc cải cách đổi mới để theo kịp cùng cả nước và thế giới. Thanh Hóa nói
riêng đã trải qua cùng chiều dài lịch sử và đóng góp đáng kể vào công cuộc xây dựng và
bảo về tổ quốc.
Danh xưng là tên gọi của một quốc gia dân tộc hay của một con người cụ thể.
Tên của một người đã là điều đương nhiên phải có, tên của một dân tộc một quốc gia
càng không thể thiếu. Việc xác định danh xưng chính là việc làm để định danh mốc thời
gian ra đời, góp phần khẳng định bề dày truyền thống, sự tồn tại phát triển của quốc gia
hay con người đó trong tiến trình thời gian.
Hai tiếng Thanh Hóa đã vang lên tự hào, kiêu hãnh trong sử sách, trong các văn
bản của các triều đại và các phương tiện truyền thông xưa và nay. Có một câu hỏi luôn
đặt ra day dứt chiếm trọn suy nghĩ của nhiều thế hệ - Tên gọi Thanh Hóa có tự bao giờ?
Vấn đề này đã được đặt ra và tập trung kiếm tìm cả đến chục năm. Mới đây nhất, sau 3
cuộc hội thảo lớn thu hút nhiều tâm sức, nhiệt huyết của các nhà lãnh đạo, các nhà
nghiên cứu lịch sử trong và ngoài tỉnh, câu hỏi đã có lời giải đáp.


Trên cứ liệu khoa học của Hội thảo, tại Kỳ họp thứ Ba, HĐND tỉnh khóa XVII đã

biểu quyết thông qua Nghị quyết lấy năm 1029 là năm ra đời Danh xưng Thanh Hóa với
tư cách là đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương. Như vậy Danh xưng Thanh Hóa có
từ triều đại nhà Lý, thời Lý Thái Tông niên hiệu Thiên Thành năm thứ Hai - một triều
đại an bình thịnh trị in dấu ấn đặc biệt trên đất Thanh Hóa, một triều đại có sự đóng góp
to lớn với công lao hiển hách của các người con ưu tú xứ Thanh đó là: Đào Cam Mộc,
Lê Phụng Hiểu, Nguyễn Tuyên...
Có nhiều giả thuyết khác nhau về sự ra đời của cái tên Thanh Hóa như tên Thanh
Hóa có sau năm 1029, nhưng cho đến nay giả thuyết thiết phục nhất về sự ra đời của
Danh xưng Thanh Hóa với tư cách là đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương là vào
năm 1029 bởi căn cứ này được ghi trong cuốn Khâm định Việt sử thông giám cương mục
thời Nguyễn . Thanh Hóa từ khi ra đời đến nay đã có rất nhiều đóng góp cho lịch sử dân
tộc nên sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến Thanh Hóa, dù việc nước rất
bận rộn nhưng người đà từng 4 lần vào thăm Thanh Hóa
Lần thứ nhất: Ngày 20/02/1947, Bác Hồ về thăm và khai hội với đồng bào Thanh Hoá
tại Rừng thông (Huyện Đông Sơn); buổi chiều Bác gặp và nói chuyện với các đại biểu thân
sĩ, trí thức, phú hào; buổi tối nói chuyện với nhân dân Thị xã Thanh Hoá ở trước Nhà thông
tin Thị xã.
Lần thứ 2: Ngày 13/6/1957, Bác Hồ về thăm, nói chuyện với cán bộ và các tầng
lớp nhân dân Thanh Hóa tại Hội trường giao tế của tỉnh.
Lần thứ 3: Ngày 19/7/1960, Bác Hồ về thăm và nói chuyện với Đại hội đại biểu
Công đoàn tỉnh lần thứ VI.
Lần thứ 4: Từ ngày 10 đến 12/12/1961, Bác Hồ về thăm Thanh Hoá, Bác đã đi thăm
Hợp tác xã Yên Trường (Huyện Yên Định), Nhà máy cơ khí Thanh Hoá, Hợp tác xã Thành
Công và thăm các cháu ở Trường Mầm non của tỉnh. Sáng ngày 12/12/1961, tại Sân vận
động tỉnh, Bác đã nói chuyện thân mật với cán bộ và nhân dân trong tỉnh.


Những lần Bác Hồ về thăm Thanh Hóa là thể hiện sự quan tâm và tình cảm đặc biệt
của Bác dành cho Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Thanh.
Bác Hồ khẳng định tiềm năng, thế mạnh và vị trí chiến lược cực kỳ quan trọng của

tỉnh ta đối với đất nước.
Người biểu dương, ghi nhận và đánh giá cao vai trò của tỉnh Thanh Hóa trong sự
nghiệp đấu tranh bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước.
Người chỉ ra những khó khăn, hạn chế, khuyết điểm của Thanh Hóa cần phải khắc
phục.
Trong những lần về thăm Thanh Hóa, Người căn dặn, chỉ ra những định hướng và
phương pháp mang Tư tưởng chỉ đạo chiến lược để xây dựng và phát triển tỉnh Thanh
Hóa.
Bác Hồ từng căn dặn: “Tỉnh Thanh Hóa phải trở nên một tỉnh kiểu mẫu, thì phải
làm sao cho mọi mặt chính trị, kinh tế, quân sự, phải là kiểu mẫu. Làm một người kiểu
mẫu, một làng kiểu mẫu, một huyện kiểu mẫu, một tỉnh kiểu mẫu. Quyết tâm làm thì sẽ
thành kiểu mẫu
Người khẳng định: “Tỉnh Thanh Hóa có tiếng là văn vật”, “là một tỉnh đất rộng,
người đông, nhân dân có truyền thống đấu tranh anh dũng và cần cù lao động; có miền
núi, trung du, đồng bằng và miền biển”; đồng thời đánh giá Thanh Hóa là một trong
những tỉnh có vị trí địa – chính trị, địa - chiến lược cực kỳ quan trọng của đất nước.
Những quan điểm của Bác Hồ về xây dựng “Thanh Hóa kiểu mẫu” mang tâm
nhìn chiến lược gắn với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
mà Đảng và Nhà nước ta đã và đang lãnh đạo nhân dân ta trong mấy thập kỷ qua tiến
hành xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Người chỉ ra mục đích, cách làm cho Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thanh
Hóa để trở thành tỉnh “Kiểu mẫu”.


“Thanh Hóa kiểu mẫu” đã trở thành mục tiêu, động lực, tài sản quý giá đối với
Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Thanh trong sự nghiệp đấu tranh, bảo vệ Tổ quốc,
xây dựng và phát triển quê hương Thanh Hóa.
Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, việc thực hiện lời dạy của Bác có ý nghĩa quan
trọng và quyết định đối với sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH quê hương, đất nước và hội
nhập quốc tế, đưa tỉnh Thanh Hóa sớm trở thành tỉnh tiên tiến như Nghị quyết Đại hội Đảng

bộ tỉnh lần thứ thứ XVII đã đề ra.
Trong thời gian qua, Đảng bộ và nhân dân Thanh Hóa đã đạt được những thành
tựu nổi bật trong công cuộc đổi mới, tiến hành công nghiệp hóa và hội nhập quốc tế.
Nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng;
kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được tăng cường.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế thời kỳ sau luôn cao hơn thời kỳ trước, một số chỉ
tiêu đạt và vượt kế hoạch.
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp – xây dựng dịch
vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp, phát huy lợi thế của các vùng, gắn với sản xuất hàng hóa
và mở rộng thị trường.
Tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế; mở rộng quan hệ hợp tác hữu nghị với các
địa phương, các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới.
Khai thác các nguồn lực cho đầu tư phát triển có nhiều cố gắng; kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội tiếp tục được tăng cường.
Văn hóa – xã hội có chuyển biến tiến bộ và từng bước được xã hội hóa, đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân tiếp tục được cải thiện.
Giáo dục phát triển, quy mô, mạng lưới trường lớp được mở rộng.
Các hoạt động văn hóa, thông tin, thể dục - thể thao được đẩy mạnh, từng bước
hiện đại hóa.


Làm tốt công tác y tế dự phòng; chất lượng chăm sóc sức khỏe cho nhân dân
ngày càng được nâng lên.
Khối đại đoàn kết toàn dân được củng cố, quyền làm chủ của nhân dân được
phát huy.
Chăm lo đời sống cho nhân dân, thực hiện tốt chính sách xã hội, công tác xóa đói
- giảm nghèo.
Công tác quốc phòng – An ninh được tăng cường, an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội được đảm bảo, các cơ quan nội chính được củng cố, kiện toàn, hoạt động
ngày càng có hiệu quả.

Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị thu được nhiều thành tích, kết quả.
Các phong trào thi đua học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
được tổ chức triển khai sâu rộng, đã xuất hiện nhiều tấm gương tiêu biểu trong học tập
và làm theo Bác, đóng góp thiết thực vào việc thúc đẩy hoàn thành nhiệm vụ chính trị
của địa phương, đơn vị.
Khắc sâu lời Bác Hồ dạy, người dân Thanh Hóa sẽ làm gì để giữ gìn và phát huy
ruyền thống hào hùng góp phần xây dựng quê hương Thanh Hoá trở thành tỉnh “kiểu
mẫu”
Là người con của quê hương Thanh Hoá, hẳn ai cũng tự hào về quê hương yêu
dấu của mình. Thanh Hoá là quê hương của nhiều anh hùng dân tộc, danh nhân như: Bà
Triệu, Lê Hoàn, Lê Lợi, Lê Văn Hưu, Lê Thánh Tông, Đào Duy Từ,... Cùng với những
trang lịch sử oai hùng, càng khẳng định xứ Thanh là một vùng “địa linh nhân kiệt”. Là
người đứng đầu nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có tầm nhìn chiến lược vào mảnh
đất và con người nơi đây. Người đã trực tiếp nhiều lần về thăm cũng như gửi thư động
viên, thăm hỏi biểu dương thành tích của Đảng bộ và nhân dân Thanh Hoá trong sản
xuất và chiến đấu.


Ngay trong lần đầu tiên về thăm Thanh Hoá ngày 20/02/1947. Bác căn dặn:
“Tỉnh Thanh Hoá phải trở nên một tỉnh kiểu mẫu, thì phải làm sao cho mọi mặt chính
trị, kinh tế , quân sự phải là kiểu mẫu. Làm một người kiểu mẫu, một nhà kiểu mẫu, một
làng kiểu mẫu, một huyện kiểu mẫu, một tỉnh kiểu mẫu. Quyết tâm làm thì sẽ trở thành
kiểu mẫu”.
Khắc sâu những lời dạy bảo ân cần và những tình cảm thân thương, gần gũi
của Bác, các thế hệ cán bộ và nhân dân Thanh Hoá đã tăng cường đoàn kết,, khắc phục
khó khăn, phấn đấu vươn lên để hoàn thành nhiệm vụ. Quyết tâm đưa quê hương Thanh
Hoá trở thành một tỉnh “kiểu mẫu” đúng với ý nguyện của Bác.
Tuy nhiên tỉnh nhà có trở thành tỉnh “kiểu mẫu” hay không lại tuỳ thuộc vào
từng cá nhân mỗi người con của tỉnh Thanh bởi ngôi nhà nào cũng được xây nên từ
những viên gạch hồng.

Bên cạnh trách nhiệm của mỗi cá nhân trong việc xây dựng tỉnh nhà thành một
tỉnh kiểu mẫu thì trách nhiệm của cả nhân dân các dân tộc tỉnh Thanh là quan trọng nhất
bởi như Bác Hồ đã từng căn dặn “ Đoàn kết đoàn kết đại đoàn kết, thành công thành
công đại thành công” . Chỉ có sự đoàn kết một lòng của nhân dân các dân tộc trong tỉnh
dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa công cuộc xây dựng
Thanh Hóa trở thành tỉnh “ kiểu mẫu” mới thành công.
Ngoài sự đoàn kết thanh Hóa phải làm sao phát huy được yếu tố “thiên thời, địa
lợi, nhân hòa”. Thanh Hóa là một tỉnh có rất nhiều lợi thế từ vị trí địa lý, tài nguyên thiên
nhiên, đặc biệt là yếu tố con người trong việc xây dựng phát triển kinh tế cũng như củng
cố an ninh quốc phòng ,nâng cao mức sống của người dân.
Theo tôi điểm mạnh nhất của Thanh Hóa là yếu tố con người, Thanh Hóa là một
trong những tỉnh có dân số đông nhất trong cả nước lại có trình độ cao đã được khẳng
định. Có những người con Thanh Hóa đang rất thành đạt ở trong và ngoài nước góp
phần vào sự phát triển chung của cả nước. Nếu như chúng ta phá huy tốt nguồn nhân lực
sẳn có ở Thanh Hóa thì chắc chắn Thanh Hóa sẽ trở thành tỉnh “Kiểu mẫu”.


Song song với việc phát huy nội lực Thanh Hóa cũng phải hết sức lưu ý đến yếu
tố ngoại lực đó là sự đầu tư phát triển của các nước trên thế giới. Năm 2017 khi Thanh
Hóa xúc tiến đầu tư nước ngoài dưới sụ chủ trì của đông chí thủ tướng chính phủ
Nguyễn Xuân Phúc ngay lập tức Thanh Hóa đã thun hút hơn 6 tỉ đô-la Mĩ đầu tư vào
tỉnh ta. Cho đến thời điểm hiện tai các dự án vẫn đang hoạt động rất tốt.
Một yếu tố quan trọng nữa trong công cuộc xây dựng Thanh Hóa thành tỉnh “kiểu
mẫu” là công tác tuyên truyền vận động các chủ chương chính sách của nhà nước của
tỉnh đến với mỗi cán bộ ,đảng viên,nhân dân các dân tộc trong tỉnh. Chỉ khi nào nhân
dân thấm nhuần các chủ trương chính sách của Đảng của nhà nước thì các chủ trương đó
mới thành động lực để họ phấn đấu,lao động sản xuất,xây dựng quê hương Thanh Hóa
thành tỉnh “ Kiểu mẫu”
Trong quá trình phát triển kinh tế Thanh Hóa phải Đặc biệt quan tâm đến công tác
an sinh xã hội, có chính sách ưu tiên đối với hộ nghèo các vùng đặc biệt khó khăn vùng

đồng bào dân tộc thiểu số vùng biên giới làm sao thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa
các vùng miền, giữa các dân tộc, giữa các hộ gia đình.
Thanh Hóa cần phải có những chính sách cụ thể trong việc thu hút người tài nguồn nhân
lực chất lượng cao phục vụ cho công cuộc xây dựng kinh tế của tỉnh nhà.Thanh Hóa cần
mạnh rạn xây dựng những trường đại học, những khu công nghệ chất lượng cao để đào
tạo nguồn nhân lực cho tỉnh nhà đáp ứng công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa tỉnh
nhà. Phải phát động mạnh mẽ phong trào thi đua yêu nước trong giai đoạn hiện tại là thi
đua lao động sản xuất phấn đấu đưa tỉnh nhà phát triển nhanh, mạnh về kinh tế, quốc
phòng.
Hải Thanh, ngày 26 tháng 02 năm 2019
Người viết bài

Trần Thị Thảo



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×