1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vai trị của người cán bộ nói chung, cán bộ cơ sở nói riêng trong thời kỳ
mới đặc biệt quan trọng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “cán bộ là
cái gốc của mọi công việc” [45, tr.269] và “công việc thành công hoặc thất bại
đều do cán bộ tốt hay kém” [45, tr.273]. Một trong những bài học kinh nghiệm
của cách mạng Việt Nam được Đảng ta tổng kết tại Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ XI là: “Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định
thắng lợi của cách mạng Việt Nam” [23, tr.66]. Trong các văn kiện của đảng, từ
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Đảng ta xác định “trong giai đoạn hiện
nay lãnh đạo phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm
vụ then chốt” [16, tr.75]. Trong công tác xây dựng Đảng, công tác cán bộ lại là
khâu “then chốt”. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ chín khố
X khẳng định: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, là
khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng” [21,tr.66]. Như vậy, có thể nói
cơng tác cán bộ là “khâu then chốt” của “nhiệm vụ then chốt” xây dựng Đảng.
Hiện nay, cán bộ và công tác cán bộ của Đảng ta được đặt ra trong bối cảnh phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân dưới sự
lãnh đạo của Đảng; nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng mở rộng; trình độ
dân trí ngày càng được nâng cao; sự hội nhập quốc tế ngày càng sâu và toàn
diện hơn; cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đang diễn ra với những
bước tiến như vũ bão trên thế giới; bên cạnh những thời cơ lớn, chúng ta cũng
đang đứng trước nhiều thách thức. Nhiệm vụ chính trị trọng đại lúc này là phải
tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức
mạnh đại đoàn kết tồn dân tộc, đẩy mạnh tồn diện cơng cuộc đổi mới, tạo nền
tảng để đến năm 2020, “phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại” [24, tr.55]. Muốn vậy, Đảng phải tích cực, chủ
động nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Sự phát triển cao về chất
lượng đội ngũ cán bộ tạo nên tinh thần tích cực, ý thức tự giác và khả năng sáng
tạo của người cán bộ trong hoạt động thực tiễn trên cơ sở tôn trọng và hành
2
động theo quy luật khách quan. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp nếu chất lượng
thấp thì năng lực lãnh đạo và hiệu quả hoạt động thấp, khó có thể hồn thành
chức trách, nhiệm vụ của mình trong thời kỳ mới. Do đó, nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ, trong đó có đội ngũ cán bộ cấp xã (cấp cơ sở) là việc làm cần
thiết.
Yên Bái là tỉnh miền núi, nằm giữa vùng Tây Bắc - Đông Bắc và Trung
du Bắc bộ, có địa hình phức tạp, kinh tế, xã hội phát triển chậm. Yên Bái có 09
đơn vị hành chính (01 thành phố, 01 thị xã và 07 huyện) trong đó có 02 huyện
vùng cao là huyện Trạm Tấu và huyện Mù Cang Chải (đồng bào dân tộc
H’Mông chiếm trên 80%) nằm trong 61 huyện nghèo, đặc biệt khó khăn của cả
nước. Về đơn vị hành chính cấp xã, hiện nay Yên Bái có tổng số 180 xã,
phường, thị trấn (gồm có 157 xã, 23 phường và thị trấn). Cấp xã là cấp trực tiếp
tổ chức thực hiện mọi chủ trương đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà
nước. Do đó, đội ngũ cán bộ cấp xã là một bộ phận không thể thiếu được trong
đội ngũ cán bộ, cơng chức nói chung. Thực tiễn cho thấy rằng, nơi nào có được
đội ngũ cán bộ xã vững mạnh, đảm bảo chất lượng thì nơi ấy tình hình chính trị xã hội ổn định, kinh tế, văn hóa phát triển, quốc phịng anh ninh được giữ vững,
cán bộ được Nhân dân tin tưởng, mọi chủ trương, đường lối của Đảng và chính
sách, pháp luật của Nhà nước được triển khai có kết quả. Đội ngũ cán bộ các xã
của tỉnh Yên Bái phần lớn là người dân tộc, bản tính ngay thẳng, thật thà, tư duy
giản dị trong sáng, gắn bó với bà con thơn, bản, ln tin tưởng vào Đảng và Bác
Hồ. Trong những năm qua, đội ngũ cán bộ xã ở tỉnh Yên Bái đã có nhiều cố
gắng trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, cùng với sự nỗ lực phấn đấu của
nhân dân đã đạt được những thành quả quan trọng về phát triển kinh tế, văn hóa,
xã hội, làm thay đổi bộ mặt các vùng miền trong tỉnh. Đội ngũ cán bộ xã phần
đông được rèn luyện qua thử thách, trưởng thành trong chiến đấu và cơng tác, có
bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, trình độ trí tuệ cán bộ từng
bước được nâng lên.
Tuy nhiên, vấn đề nổi cộm và cũng là hạn chế lớn nhất của đội ngũ cán bộ
nói chung và cán bộ xã nói riêng là sự yếu kém về tư duy lý luận, năng lực
chuyên môn và năng lực thực tiễn. Cũng như các tỉnh Tây Bắc, Yên Bái vẫn là
3
một tỉnh cịn nhiều khó khăn về kinh tế, cơ sở hạ tầng thấp kém, trình độ mọi
mặt của nhân dân và cán bộ chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của cơng
cuộc đổi mới. Do đó, cần phải nghiên cứu sâu, đánh giá đúng những mặt mạnh,
mặt yếu, để từ đó vạch ra phương hướng và biện pháp nhằm nâng cao hơn nữa
chất lượng đội ngũ cán bộ xã ở tỉnh Yên Bái. Đây là một vấn đề bức xúc và cần
thiết, là nhiệm vụ chiến lược trong công tác xây dựng Đảng của Đảng bộ tỉnh
Yên Bái hiện nay.
Nhận thức rõ vị trí, vai trị quan trọng của đội ngũ cán bộ cấp xã tỉnh Yên
Bái nói chung, đội ngũ cán bộ xã tại 156 xã ở tỉnh n Bái nói riêng, xuất phát
từ vị trí công tác, tác giả chủ động lựa chọn vấn đề: “Chất lượng đội ngũ cán
bộ xã ở tỉnh Yên Bái giai đoạn hiện nay” để nghiên cứu và làm luận văn thạc
sỹ chuyên ngành Xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Xung quanh vấn đề cán bộ nói chung và chất lượng đội ngũ cán bộ xã nói
riêng đã có nhiều cơng trình nghiên cứu của các nhà khoa học được cơng bố trên
các sách, báo, tạp chí và trong các hội thảo khoa học, đáng chú ý là:
2.1. Các đề tài và sách chuyên khảo
- Nhánh đề tài KX.05-11-06, “Xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ lãnh
đạo chủ chốt cấp cơ sở xã, phường, thị trấn”, do TS. Phan Văn Tích chủ biên,
1993. Đây là một phần của đề tài nghiên cứu về cán bộ chủ chốt nói chung
thuộc chương trình đổi mới hệ thống chính trị. Phần này nghiên cứu hướng vào
việc làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán
bộ nói chung và vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở trong hệ
thống chính trị đổi mới; đánh giá đúng đắn thực trạng đội ngũ cán bộ lãnh đạo
chủ chốt cấp này; xác định cơ cấu và tiêu chuẩn người cán bộ lãnh đạo chủ chốt
ở cơ sở; và những giải pháp chủ yếu để xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ
chốt xã, phường, thị trấn. Như vậy, đối tượng nghiên cứu trong nhánh đề tài này
là những cán bộ lãnh đạo chủ chốt cơ sở trong mối quan hệ với tập thể lãnh đạo
của nó. Tuy nhiên, phạm vi nghiên cứu của phần này chỉ là các xã, phường, thị
trấn của các tỉnh đồng bằng (cán bộ các tỉnh miền núi đã có phần nghiên cứu
4
riêng), và cũng chỉ nghiên cứu cán bộ Đảng và chính quyền, cịn cán bộ đồn thể
và cán bộ kinh doanh đã có phần nghiên cứu khác.
- Đề tài cấp Nhà nước KX 05-11: “Xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ
lãnh đạo trong hệ thống chính trị đổi mới” (1994) của Học viện Nguyễn Ái
Quốc, Hà Nội, đã nghiệm thu đạt kết quả tốt và được in thành sách năm 1998,
do PGS, TS. Trần Xuân Sầm chủ biên.
- Đề tài: KH-BD (2008) – 20 “Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ người Khmer ở xã, phường, thị trấn khu vực Tây Nam Bộ”, Đó là đề tài
khoa học được Hội đồng nghiệm thu do đồng chí Trần Lưu Hải, Uỷ viên Trung
ương Đảng, Phó trưởng Ban Tổ chức Trung ương làm Chủ tịch đã nghiệm thu
do đồng chí Nguyễn Thái Hịa, Phó vụ trưởng Vụ Địa phương III, Ban Tổ chức
Trung ương làm Chủ nhiệm. Đề tài nêu khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã
hội và lược sử hình thành vùng đất Nam bộ và Tây Nam bộ có liên quan trực
tiếp đến người Khmer Tây Nam bộ; đặc điểm người dân Tây Nam bộ và đơn vị
hành chính cấp xã; đặc điểm dân tộc Khmer Tây Nam bộ; những vấn đề chính
trị-xã hội tác động đến đồng bào Khmer và chính sách dân tộc của Đảng và Nhà
nước ta. Làm rõ thực trạng và đánh giá đội ngũ cán bộ người dân tộc Khmer
trong hệ thống chính trị khu vực Tây Nam bộ, kết quả công tác quy hoạch, tạo
nguồn cán bộ, những thuận lợi và khó khăn, những kinh nghiệm từ thực tiễn
công tác cán bộ người dân tộc Khmer Tây Nam bộ. Trên cơ sở đó nêu mục tiêu,
phương hướng, căn cứ, điều kiện và 11 giải pháp xây dựng, nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ người Khmer; những đề xuất, kiến nghị với cơ quan Trung ương,
với cấp tỉnh khu vực Tây Nam bộ và với cấp huyện, cấp xã. Đặc biệt, đề tài đã
xây dựng được yếu tố mang tính mơ hình về tiêu chuẩn 5 chức danh chủ chốt ở
cơ sở. Hội đồng nghiệm thu đánh giá đề tài đã đi sâu vào vấn đề có tính cấp thiết
trong giai đoạn hiện nay; kết quả nghiên cứu của đề tài có giá trị ứng dụng cao,
những con số thống kê gợi mở, rất hữu ích cho người làm công tác tổ chức, cán
bộ. Đề tài được Hội đồng nghiệm thu đánh giá xuất sắc. Góc độ nghiên cứu của
đề tài rộng hơn so với đề tài mà tác giả đang nghiên cứu, đối tượng chính của đề
tài này chủ yếu là cán bộ cấp xã người Khmer (cả cán bộ chuyên trách, công
chức và cán bộ không chuyên trách cấp xã).
5
- Đề tài khoa học cấp Bộ năm 1997-1998, “Về những yêu cầu của đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp huyện ngoại thành Hà Nội trong giai đoạn hiện nay”, do
TS. Nguyễn Văn Sáu chủ nhiệm (2001). Thực chất đây là cuốn kỷ yếu khoa học,
tập hợp những bài viết có liên quan đến cơng tác cán bộ quản lý, lãnh đạo hiện
nay; về vai trò chức năng của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ngoại thành Hà
Nội trong giai đoạn hiện nay; tiêu chuẩn, yêu cầu cơ bản của đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp huyện ngoại thành Hà Nội; và thực trạng, phương hướng, giải pháp
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ngoại thành Hà Nội.
- PGS, TS. Nguyễn Phú Trọng, PGS, TS. Trần Xuân Sầm (đồng chủ biên)
(2003), “Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong
thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội. Trên cơ sở các quan điểm lý luận và tổng kết thực tiễn, cuốn sách
đã phân tích, lý giải, hệ thống hóa các căn cứ khoa học của việc nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, từ
đó đưa ra những kiến nghị về phương hướng, giải pháp nhằm củng cố, phát triển
đội ngũ này cả về chất lượng, số lượng và cơ cấu cho phù hợp với u cầu của
sự nghiệp đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Đề tài cấp tỉnh: “Nghiên cứu đổi mới nâng cao chất lượng đào tạo đội
ngũ cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn tỉnh Yên Bái” do ơng Đặng Văn Tấu –
Hiệu trưởng trường Chính trị tỉnh Yên Bái làm chủ nhiệm đề tài (2008). Đề tài
đã khái quát về đặc điểm tự nhiên, tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Yên Bái và đội
ngũ cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn tỉnh Yên Bái khi tham gia học tập tại
trường Chính trị tỉnh Yên Bái; đánh giá thực trạng chất lượng đào tạo đội ngũ
cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn từ năm 2002 đến 2007 và đưa ra hệ thống
các giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ cán bộ chủ chốt xã, phường,
thị trấn tỉnh Yên Bái từ 2008 đến nay.
- Đề tài cấp tỉnh: “Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng cán bộ,
công chức cấp xã sau đào tạo ở trường Chính trị tỉnh Yên Bái từ năm 2008 đến
nay” do Ths. Nguyễn Ngọc Hưng – Hiệu trưởng trường Chính trị tỉnh Yên Bái
làm chủ nhiệm đề tài (2014). Đề tài nghiên cứu đội ngũ cán bộ, công chức cấp
xã bao gồm cán bộ cấp xã (11 chức danh) và công chức cấp xã (đã tham gia đào
6
tạo hệ trung cấp LLCT- HC tại trường từ năm 2008 đến nay); điều tra, đánh giá
thực trạng chất lượng cán bộ, công chức cấp xã sau đào tạo ở trường Chính trị
tỉnh Yên Bái từ năm 2008 đến nay; đề xuất một số giải pháp nâng cao chất
lượng cán bộ, công chức cấp xã sau đào tạo tại trường Chính trị tỉnh hiện nay và
cơng tác quản lý, sử dụng cán bộ, công chức ở các cấp của tỉnh n Bái.
2.2. Các bài viết trên các tạp chí
- Đồn Nhân Đạo (2011), “Những kỹ năng cần có của cán bộ, công chức
trong xu thế hội nhập hiện nay”, Tạp chí Quản lý Nhà nước, số 186 (7/2011),
tr.10-13. Bài viết đề cập đến những kỹ năng cần có của cán bộ, công chức hiện
nay trong xu thế hội nhập bao gồm: Kỹ năng tiếp cận, khai thác và xử lý thơng
tin; kỹ năng làm việc nhóm; kỹ năng làm việc độc lập; kỹ năng lập kế hoạch; kỹ
năng quản lý thời gian; kỹ năng giao tiếp và thuyết trình; phân tích đặc điểm,
trình độ, kỹ năng đội ngũ cán bộ, công chức nước ta hiện nay; đề xuất giải pháp
nhằm nâng cao kỹ năng dành cho cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu hội nhập.
- Đỗ Văn Đương - Lê Duyên Hà (2011), “Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ
chốt cơ sở ở các tỉnh Tây Nguyên”, Tạp chí quản lý Nhà nước, số 190, tr.47-49.
Nội dung bài viết đề cập đến những kết quả đạt được trong xây dựng đội ngũ
cán bộ chủ chốt cơ sở ở các tỉnh Tây Nguyên; đề xuấtt một số giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở trên địa bàn các tỉnh Tây
Nguyên theo yêu cầu của thời kỳ mới.
- Đinh Thị Minh Tuyết – Trịnh Văn Khánh (2011), “Năng lực thực thi
công vụ của đội ngũ cơng chức cấp xã”, Tạp chí Quản lý Nhà nước, số 182, tr.
24-27. Bài viết đề cập đến năng lực thực thi cơng vụ của cơng chức nói chung
và chức chức cấp xã nói riêng được cấu thành từ 3 yếu tố: Kiến thức - Kỹ năng
nghiệp vụ - Thái độ, ý thức, hành vi. Trong đó khẳng định năng lực của đội ngũ
công chức cấp xã được đánh giá chính xác nhất qua hiệu quả cơng việc. Qua đó
tác giả bài viết nhấn mạnh để đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của
Nhà nước đến với Nhân dân, trở thành hành động của Nhân dân phải từng bước
xây dựng được đội ngũ công chức cấp xã trong sáng về phẩm chất đạo đức,
mạnh về trình độ năng lực, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của chính quyền cơ sở
xã, phường, thị trấn giai đoạn hiện nay.
7
- Lê Văn Yên – Phan Khánh Bằng (2012), “Một số giải pháp củng cố và
nâng cao uy tín cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong tình hình hiện nay”, Tạp chí
Lịch sử Đảng, số 12, tr.28-33. Bài viết đưa ra hệ thống các giải pháp góp phần
củng cố và nâng cao uy tín người lãnh đạo chủ chốt nhằm đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ của cách mạng nước ta hiện nay trong đó đề cập đến việc tiếp tục thực
hiện Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị về “Quy chế dân chủ ở cơ sở” và
triển khai thực hiện “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” mà
Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI đề ra; đồng thời chỉ rõ cán bộ lãnh đạo quản
lý cần không ngừng phấn đấu, rèn luyện và xây dựng cho mình phong cách lãnh
đạo dân chủ, tập thể, giữ vững sự tín nhiệm của quần chúng; tăng cường củng
cố, kiện toàn đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của các tổ chức chính trị
ở đơn vị.
- Nguyễn Văn Huyên (2015), “Bản lĩnh chính trị của cán bộ chủ chốt
trong hệ thống chính trị trước yêu cầu mới”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 10,
tr.14-18. Bài viết bàn về những yếu tố quyết định đến bản lĩnh chính trị của cán
bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị bao gồm các yếu tố khí chất, phẩm chất,
năng lực của người cán bộ. Tác giả cũng khẳng định “không thể chấp nhận việc
lựa chọn cán bộ chủ chốt, cơ cấu cán bộ chủ chốt một cách thiếu khoa học, bất
chấp lý luận, thực tiễn; bỏ qua các yếu tố của bản lĩnh chính trị, thậm chí tùy
tiện, chủ quan, theo lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm”. Trên cơ sở đó tác giả nêu
quan điểm phải lựa chọn được những người thực sự có phẩm chất, năng lực
chính trị, có chun mơn, bản lĩnh chính trị cao để đưa vào đội ngũ cán bộ chủ
chốt của hệ thống chính trị đồng thời với việc tuyển chọn và cơ cấu vào các
chức vụ chủ chốt của Đảng và Nhà nước, phải gắn bó chặt chẽ và nhịp nhàng
với việc kiện tồn và đào thải những người khơng đủ bản lĩnh chính trị ra hệ
thống chính trị.
- Trần Thị Hạnh (2015), “Thực trạng chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức cấp xã”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 10, tr.83-87. Bài viết đưa ra bảng
thống kê của Bộ Nội vụ về số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức và
những người hoạt động không chuyên trách cấp xã tính đến tháng 6 năm 2013.
Qua đó khẳng định trình độ chun mơn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, công
8
chức cấp xã nhìn chung thấp hơn so với mặt bằng chung của đội ngũ cán bộ,
công chức. Trên thực tế không những đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở trình
độ “cầm tay chỉ việc”, chưa qua đào tạo hoặc thậm chí có tình trạng “học giả
bằng thật”, do đó ảnh hưởng đến việc quản lý, điều hành, triển khai các văn bản
pháp luật tại địa bàn xã. Trên cơ sở thực trạng đó tác giả cũng đề xuất các giải
pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức cấp xã thời gian tới.
- Tạ Ngọc Hải (2016), “Bàn về tiêu chí đánh giá chất lượng cán bộ, công
chức và chất lượng cán bộ, công chức”, Thơng tin cải cách nền hành chính Nhà
nước, số 01, tr.14-20. Bài viết đưa ra tiêu chí đánh giá chất lượng mỗi cá nhân
cán bộ, công chức và tiêu chí đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ, cơng chức.
Trong đó nhấn mạnh chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức phụ thuộc nhiều vào
chất lượng của từng cán bộ, cơng chức. Trên cơ sở đó phân tích và làm rõ một số
tiêu chí đánh giá cụ thể như về lối sống, tác phong và lề lối làm việc; năm lực,
trình độ chun mơn nghiệp vụ; ý thức tổ chức kỷ luật… Tác giả cũng khẳng
định ở nước ta, trên phương diện nghiên cứu lý luận và những quy định thực tế
của pháp luật vẫn chưa có sự rõ ràng trong việc sử dụng các khái niệm, tiêu chí,
tiêu chuẩn, nội dung, yêu cầu, điều kiện đánh giá cá nhân với đánh giá chất
lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; chưa có sự phân tách giữa đánh giá
chất lượng cá nhân với đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ, cơng chức. Do đó,
việc sử dụng đơn phương pháp với các tiêu chí rất chung như hiện nay là những
hạn chế trong kết quả đánh giá chất lượng cán bộ, công chức, viên chức.
- Lương Mạnh Sơn (2016), “Giải pháp nâng cao năng lực thực thi công
vụ của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã”, Tạp chí Thanh tra, số 02, tr. 23-25.
Bài viết đề cập đến 5 giải pháp nâng cao năng lực thực thi công vụ của đội ngũ
cán bộ, công chức cấp xã trong đó có giải pháp thứ 5 đề cập đến việc hồn thiện
quy chế, tiêu chí đánh giá cán bộ, cơng chức cấp xã là một trong những nội dung
có liên quan đến vấn đề mà Luận văn sẽ tiếp cận. Trên cơ sở phân tích từng giải
pháp tác giả bài viết cũng khẳng định để nâng cao năng lực thực thi công vụ của
đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã cần thực hiện có hiệu quả từ khâu tuyển dụng,
sử dụng, chế độ đãi ngộ, đánh giá cán bộ, công chức.
9
- Đào Thị Kim Lân (2016), “Nâng cao năng lực thực thi công vụ của đội
ngũ cán bộ, công chức”, Tạp chí Tổ chức Nhà nước, số 03, tr. 28-32. Nội dung
của bài viết đề cập đến thực trạng năng lực thực thi công vụ của cán bộ, công
chức hiện nay, trong đó nhấn mạnh đội ngũ cán bộ, cơng chức trong hệ thống
chính trị “đơng nhưng khơng mạnh”; thừa những cán bộ, công chức không đáp
ứng được yêu cầu, nhiệm vụ được giao nhưng thiếu những cán bộ, công chức
giỏi, có trình độ chun mơn cao, làm việc có tâm huyết và trách nhiệm với
công việc. Khả năng thực thi công vụ của cán bộ, công chức thấp là nguyên
nhân chính dẫn tới kết quả thực hiện nhiệm vụ của tồn bộ hệ thống cơng vụ
khơng cao, kìm hãm sự phát triển của xã hội. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra một
số định hướng nâng cao chất lượng thực thi công vụ của cán bộ, công chức trong
thời gian tới.
2.3. Các luận án và luận văn đã được bảo vệ
- Phạm Công Khâm (2000), “Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã
vùng nông thôn đồng bằng sông Cửu Long hiện nay”, Luận án Tiến sỹ chuyên
ngành Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Luận án trình
bày vị trí, vai trị của cấp xã nói chung, cấp xã đồng bằng sơng Cửu Long nói
riêng; những vấn đề lý luận, thực tiễn về xây dựng đội ngũ cán bộ cấp xã trong
sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn đồng bằng sông Cửu Long hiện
nay; nghiên cứu thực trạng kinh tế - xã hội, đội ngũ cán bộ và công tác xây dựng
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã vùng nông thôn đồng bằng sông Cửu Long; kinh
nghiệm và vấn đề đặt ra; đưa ra mục tiêu, quan điểm và những giải pháp chủ yếu
để làm tốt công tác trên.
- Nguyễn Thái Sơn (2002), “Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt
cấp tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước”, Luận án Tiến sỹ chuyên ngành Xây dựng Đảng, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Luận án nghiên cứu và xác định rõ vị trí,
vai trị, chức năng của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh; đánh giá đúng
thực trạng và công tác xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh vùng
đồng bằng sơng Hồng; phân tích đặc điểm, vai trị, u cầu CNH - HĐH nơng
nghiệp, nơng thơn các tỉnh đồng bằng sông Hồng và những vấn đề đặt ra cần
10
giải quyết; xác định tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh nói chung và
tiêu chuẩn từng chức danh của họ, đề xuất, kiến nghị một số giải pháp thực hiện.
- Nguyễn Huy Châu (2003), “Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã là
người dân tộc Khmer ở tỉnh Kiên Giang giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sĩ,
Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. Luận văn làm rõ một số
vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp xã là người dân tộc Khmer. Về lý luận, luận văn không trình bày tồn bộ vấn
đề cán bộ nói chung, mà tập trung nghiên cứu những vấn đề trực tiếp liên quan,
làm cơ sở cho việc xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã là người dân tộc
Khmer ở tỉnh Kiên Giang hiện nay. Về mặt thực tiễn, luận văn tập trung nghiên
cứu các xã, phường, thị trấn có đông đồng bào Khmer sinh sống ở tỉnh Kiên
Giang. Trong chừng mực nhất định, luận văn liên hệ đến một số tỉnh có đồng
bào Khmer sinh sống ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Đồng thời đưa ra
phương hướng và giải pháp thiết thực nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp xã là người dân tộc Khmer ở tỉnh Kiên Giang hiện nay.
- Đinh Ngọc Giang (2010), “Chuẩn hóa Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã các
tỉnh đồng bằng sông Hồng giai đoạn hiện nay”, Luận án Tiến sỹ chuyên ngành
Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. Luận
án trình bày tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài; những vấn đề
lý luận và thực tiễn về chuẩn hóa Chủ tịch UBND xã các tỉnh đồng bằng sơng
Hồng; phân tích thực trạng và ngun nhân của vấn đề này từ năm 2002 đến
nay. Đề tài đã được Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (Hà Nội) in thành sách
chuyên khảo vào năm 2011 với tựa đề “Chuẩn hóa chức danh Chủ tịch Ủy ban
nhân dân xã (Qua khảo sát ở các tỉnh đồng bằng sơng Hồng)”.
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu và các bài viết trên các tạp chí trên
đã đóng góp kiến giải có giá trị về đội ngũ cán bộ nói chung và đội ngũ cán bộ
xã nói riêng. Mỗi cơng trình đã khai thác trên những bình diện, cấp độ khác
nhau, góp phần làm rõ hơn những vấn đề về lý luận và thực tiễn, kiến nghị
những giải pháp khả thi nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ nói chung,
cán bộ xã trong cả nước và nhiều địa phương khác nhau nói riêng. Tuy nhiên,
cho đến nay chưa có đề tài, cơng trình khoa học nào nghiên cứu một cách có hệ
11
thống và toàn diện về chất lượng đội ngũ cán bộ xã ở tỉnh Yên Bái đáp ứng yêu
cầu của thời kỳ mới. Trên cơ sở tiếp thu một cách có chọn lọc những kết quả của
các cơng trình khoa học nói trên, Luận văn đi sâu nghiên cứu làm rõ vấn đề
“Chất lượng đội ngũ cán bộ xã ở tỉnh Yên Bái giai đoạn hiện nay”.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Chất lượng đội ngũ cán bộ xã ở tỉnh Yên Bái giai đoạn hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề chất lượng đội ngũ cán bộ xã tỉnh
Yên Bái giai đoạn hiện nay.
- Phạm vi về không gian: tại 156 xã trên địa bàn tỉnh Yên Bái
- Phạm vi về thời gian: từ 2010 đến nay.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
4.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến chất
lượng đội ngũ cán bộ xã ở tỉnh Yên Bái, luận văn đề xuất phương hướng và giải
pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ nói chung, đội ngũ cán
bộ xã nói riêng góp phần hồn thành nhiệm vụ chính trị của địa phương.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận văn làm rõ những khái niệm chủ yếu về đội ngũ cán bộ xã, chất
lượng đội ngũ cán bộ xã, tiêu chí đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ xã ở tỉnh
Yên Bái giai đoạn hiện nay;
- Khảo sát, đánh giá thực trạng chất lượng đội ngũ cán bộ xã ở tỉnh Yên
Bái giai đoạn hiện nay và tìm ra nguyên nhân của thực trạng đó;
- Đề xuất phương hướng, giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ xã ở tỉnh Yên Bái giai đoạn hiện nay đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
trong thời kỳ mới.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, hệ thống quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và chính sách,
12
pháp luật của Nhà nước về cán bộ và công tác đào tào, bồi dưỡng nâng cao chất
lượng cán bộ nói chung và đội ngũ cán bộ cơ sở nói riêng.
5.2. Cơ sở thực tiễn
Luận văn được điều tra, khảo sát, phân tích, tổng kết thực tiễn thực trạng
chất lượng đội ngũ cán bộ xã ở tỉnh Yên Bái giai đoạn hiện nay.
5.3. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu theo phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngoài ra luận văn còn sử dụng các
phương pháp cụ thể như: phương pháp logic và lịch sử; phương pháp sử dụng
chuyên gia, phân tích - tổng hợp, quy nạp - diễn dịch; khảo sát, thống kê, so
sánh… đặc biệt coi trọng phương pháp tổng kết thực tiễn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về quan niệm, tiêu
chí đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ xã ở tỉnh Yên Bái;
- Luận văn góp phần đánh giá một cách tồn diện và khách quan, trên cơ
sở đó đề ra phương hướng và giải pháp góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ xã ở tỉnh Yên Bái giai đoạn hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho
các cấp ủy, chính quyền ở tỉnh Yên Bái trong việc xây dựng thực hiện kế hoạch
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ xã theo yêu cầu của thời kỳ mới;
- Ngồi ra, Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho học viên
Trường Chính trị tỉnh, Trung tâm Bồi dưỡng chính trị cấp huyện khi nghiên cứu,
học tập chương trình Trung cấp LLCT-HC.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo luận
văn được kết cấu thành 03 chương, 06 tiết.
13
Chương 1
CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ XÃ Ở TỈNH YÊN BÁI –
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. KHÁI QUÁT VỀ TỈNH YÊN BÁI, CÁC XÃ VÀ ĐỘI NGŨ CÁN BỘ XÃ Ở
TỈNH YÊN BÁI
1.1.1. Tỉnh Yên Bái và đặc điểm các xã trên địa bàn tỉnh Yên Bái
1.1.1.1. Khái quát về tỉnh Yên Bái
* Điều kiện địa lý tự nhiên
Yên Bái là tỉnh miền núi, nằm giữa vùng Tây Bắc - Đông Bắc và Trung
du Bắc bộ. Phía Bắc của Yên Bái giáp tỉnh Lào Cai, phía Nam giáp tỉnh Phú
Thọ, phía Đơng giáp tỉnh Hà Giang - Tuyên Quang và phía Tây tiếp giáp tỉnh
Yên Bái. Với vị trí địa lý là cửa ngõ miền Tây Bắc, lại nằm trên trung điểm của
một trong những tuyến hành lang kinh tế chủ lực Trung Quốc – Việt Nam: Côn
Minh – Lào Cai – Hà Nội – Hải Phịng, có hệ thống giao thơng tương đối đa
dạng như đường sắt, đường thủy, đường bộ và gần đây là tuyến đường cao tốc
Nội Bài – Lào Cai được đưa vào sử dụng đã tạo cho Yên Bái có điều kiện và cơ
hội thuận lợi để tăng cường hội nhập và giao lưu kinh tế thương mại, phát triển
văn hóa xã hội không chỉ với các tỉnh trong vùng, các trung tâm kinh tế lớn
trong cả nước mà còn cả trong giao lưu kinh tế quốc tế, đặc biệt là với các tỉnh
Tây Nam Trung Quốc.
Đặc điểm địa hình:
Yên Bái nằm ở vùng núi phía Bắc, có đặc điểm địa hình cao dần từ Đơng
Nam lên Tây Bắc và được kiến tạo bởi 3 dãy núi lớn đều có hướng chạy Tây
Bắc – Đơng Nam: phía Tây có dãy Hồng Liên Sơn – Pú Luông nằm kẹp giữa
sông Hồng và sông Đà, tiếp đến là dãy núi cổ Con Voi nằm kẹp giữa sơng Hồng
và sơng Chảy, phía Đơng có dãy núi đá vôi nằm kẹp giữa sông Chảy và sơng Lơ.
Địa hình khá phức tạp nhưng có thể chia thành hai vùng lớn: vùng cao và vùng
thấp. Vùng cao có độ cao trung bình 600m trở lên, chiếm 67,56% diện tích tồn
tỉnh. Vùng này dân cư thưa thớt, có tiềm năng về đất đai, lâm sản, khống sản,
có khả năng huy động vào phát triển KT - XH. Vùng thấp có độ cao dưới 600 m,
chủ yếu là địa hình đồi núi thấp, thung lũng bồn địa, chiếm 32,44 % diện tích tự
nhiên tồn tỉnh.
14
n Bái có ba hệ thống sơng suối lớn: sơng Hồng, sông Chảy và suối
Nậm Kim (một nhánh của sông Đà). Nguồn tiềm năng này đã được khai thác, sử
dụng, xây dựng thủy điện phục vụ sản xuất nông lâm nghiệp và vận chuyển lâm
sản, hàng hóa, hành khách, giao lưu giữa các vùng trong tỉnh với nhau và với
vùng đồng bằng sơng Hồng. n Bái nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa,
nhiệt độ trung bình 22 -230C, lượng mưa trung bình 1500 - 2200 mm/năm, độ
ẩm trung bình 83 - 87% rất thuận lợi cho việc phát triển nơng, lâm nghiệp. Khí
hậu n Bái chia làm hai mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô. Tuy nhiên do các
yếu tố địa hình nên khí hậu rất đa dạng, và có đến năm tiểu vùng khí hậu khác
nhau (bao gồm: (1) Tiểu vùng Mù Cang Chải với độ cao trung bình 900m, nhiệt
độ nhiệt độ trung bình 18 –200C có khi xuống dưới 00C về mùa đơng, thích hợp
phát triển các loại động, thực vật vùng ôn đới; (2) Tiểu vùng Văn Chấn – nam
Văn Chấn, độ cao trung bình 800 m, nhiệt độ trung bình 18 – 20 0C, phía Bắc là
tiểu vùng mưa nhiều, phía Nam là vùng mưa ít nhất tỉnh, thích hợp phát triển các
loại động, thực vật á nhiệt đới, ôn đới; (3) Tiểu vùng Văn Chấn – Tú Lệ, độ cao
trung bình 200 – 400 m, nhiệt độ trung bình 21 – 32 0C, thích hợp phát triển các
loại cây lương thực, thực phẩm, chè vùng thấp, vùng cao, cây ăn quả và cây lâm
nghiệp; (4) Tiểu vùng nam Trấn Yên - Văn Yên - thành phố Yên Bái - Ba Khe
độ cao trung bình 70 m, nhiệt độ trung bình 23 – 24 0C, là vùng mưa phùn nhiều
nhất tỉnh, có điều kiện phát triển cây lương thực, thực phẩm, cây công nghiệp,
lâm nghiệp, cây ăn quả; (5) Tiểu vùng Lục Yên – Yên Bình độ cao trung bình
dưới 300 m, nhiệt độ trung bình 20 – 230C, là vùng có mặt nước nhiều nhất tỉnh,
có hồ Thác Bà rộng 19.050 ha, có điều kiện phát triển cây lương thực, thực
phẩm, lâm nghiệp và ni trồng thuỷ sản, có tiềm năng du lịch). Đó chính là tài
ngun q cho phát triển đa dạng của hệ thực vật và động vật, cũng như ngành
nơng nghiệp.
Về tài ngun thiên nhiên:
Tỉnh n Bái có sự đa dạng về tài nguyên. Tổng diện tích đất tự nhiên là
6.886,28 km2. Trong đó diện tích nhóm đất nơng nghiệp là 5.850,9 km2, chiếm
84,96% diện tích đất tự nhiên, diện tích nhóm đất phi nơng nghiệp 537,11 km 2
chiếm 7,80%, diện tích đất chưa sử dụng là 498,28 km 2 chiếm 7,24%. Tỷ lệ che
15
phủ của rừng đạt khoảng trên 62%, đứng thứ 2 trong cả nước. Đất Yên Bái chủ
yếu là đất xám (chiếm 82,57% diện tích tự nhiên của tỉnh), cịn lại là đất mùn
alit (8,1%), đất phù sa (1,33%), đất đỏ (1,76%), đất khác (6,24%). Tài nguyên
khoáng sản Yên Bái khá đa dạng. Hiện tại, toàn tỉnh đã điều tra 257 điểm mỏ
khống sản, xếp vào các nhóm khống sản năng lượng, khống sản vật liệu xây
dựng, khống chất cơng nghiệp, khống sản kim loại và nhóm nước khống.
Đây là các yếu tố rất tốt cho Yên Bái có thể khai thác, sử dụng và đóng góp cho
tăng trưởng kinh tế của tỉnh.
* Tình hình kinh tế - xã hội
Năm 2015, tổng dân số toàn tỉnh là 792.710 người. Mật độ dân số bình là
115 người/km2, tập trung ở một số khu đô thị như thành phố Yên Bái, thị xã
Nghĩa Lộ và các thị trấn huyện lỵ. Theo số liệu điều tra, trên địa bàn tỉnh Yên
Bái có tới 31 dân tộc sinh sống, trong đó có 07 dân tộc có dân số trên 10.000
người, 02 dân tộc có từ 2.000 - 5.000 người, 03 dân tộc có từ 500 - 2.000 người.
Cụ thể là, dân tộc Kinh chiếm 46,3%, dân tộc Tày chiếm 18,3%, dân tộc Dao
chiếm 11,3%, dân tộc Mơng chiếm 11,1%, dân tộc Thái chiếm 7,2%, cịn lại là
các dân tộc khác [52]. Cộng đồng các dân tộc trong tỉnh với những truyền thống
và bản sắc riêng đã hình thành nên một nền văn hóa rất đa dạng và phong phú,
có nhiều nét độc đáo, sâu sắc, nhân văn.
n Bái có 09 đơn vị hành chính (01 thành phố, 01 thị xã và 07 huyện)
với tổng số 180 xã, phường, thị trấn (157 xã và 23 phường, thị trấn); trong đó có
72 xã vùng cao vùng đặc biệt khó khăn; với 1.718 thơn, bản (trong đó có 790
thơn đặc biệt khó khăn được đầu tư theo các chương trình phát triển kinh tế - xã
hội của Nhà nước, có 2 huyện vùng cao Trạm Tấu, Mù Cang Chải (đồng bào
Mông chiếm trên 80%) nằm trong 61 huyện nghèo, đặc biệt khó khăn của cả
nước [53]
Tỉnh Yên Bái là một tỉnh miền núi còn nghèo, nguồn lực tự có cho đầu tư
phát triển kinh tế - xã hội cịn hạn chế; chất lượng nguồn nhân lực thấp, trình độ
cán bộ, đặc biệt là đội ngũ cán bộ cơ sở còn chưa đáp ứng được yêu cầu của sự
nghiệp CNH - HĐH đất nước; trình độ dân trí khơng đồng đều; đời sống của
một bộ phận nhân dân vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc còn nhiều khó
16
khăn. Tuy nhiên, bằng sự nỗ lực của các ngành, các cấp, kết quả kinh tế của Yên
Bái cũng rất khả quan. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm (từ 20102015) là 11,33%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực; tỷ trọng
nơng, lâm nghiệp chiếm 22,92%; công nghiệp - xây dựng 32,01%; dịch vụ
42,88%. GDP bình quân đầu người năm 2015 đạt 25,02 triệu đồng/năm, gấp 2,1
lần so với năm 2010. [15, tr.20,21]
Tiềm năng kinh tế chủ yếu là rừng và đất rừng, trên 80% dân số sống
bằng nông, lâm nghiệp cho nên Yên Bái vẫn là một tỉnh nghèo, công nghiệp
chưa phát triển. Qua điều tra đánh giá sơ bộ, tài nguyên khoáng sản của Yên Bái
đa dạng nhưng đều là loại mỏ nhỏ thuộc địa phương quản lý, khơng có khả năng
khai thác với quy mô lớn, rất phù hợp với công nghiệp địa phương. Yên Bái có
lợi thế để phát triển ngành nông - lâm sản gắn với vùng nguyên liệu: trồng rừng
và chế biến giấy, bột giấy, ván nhân tạo; trồng và chế biến quế, chè. Với nguồn
khoáng sản phong phú, tỉnh có điều kiện thuận lợi trong việc khai thác và chế
biến khoáng sản như đá quý, cao lanh, fenspat, bột Cacbonat canxi (CaCO3),
sắt… và sản xuất vật liệu xây dựng như xi măng, gạch, sứ kỹ thuật, đá xẻ ốp lát,
đá mỹ thuật và các loại vật liệu xây dựng khác.
Hoạt động kinh tế đối ngoại có chuyển biến tích cực; tỉnh đã thu hút được
các nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vốn từ các tổ chức phi chính
phủ (NGO). Trong 05 năm, tổng nguồn vốn ODA, NGO đạt 4.478 tỷ đồng
(trong đó ODA đạt 3.977 tỷ đồng, tăng 3,6 lần so với giai đoạn 2006-2010;
NGO đạt 501 tỷ đồng, tăng 02 lần so với giai đoạn 2006-2010). [15 , tr. 29]. Với
mức tăng trưởng kinh tế và cải thiện thu nhập như hiện nay, các yếu tố kinh tế
này tạo điều kiện tích cực cho việc nâng cao đời sống nhân dân, điều kiện cho
tiếp cận tới các dịch vụ công như giáo dục và y tế. Điều này có ý nghĩa rất tích
cực tới công tác nâng cao chất lượng nguồn lao động cho Yên Bái trong cả giai
đoạn ngắn hạn và dài hạn.
Các hoạt động văn hố thơng tin, thể thao, phát thanh và truyền hình ngày
càng được phát triển cả bề rộng lẫn chiều sâu. Đến nay toàn tỉnh đã phủ sóng
phát thanh 96% và phủ sóng truyền hình được 94% địa bàn dân cư, 100% trung
tâm xã có điểm xem truyền hình, nâng cao chất lượng nội dung chương trình
17
phát thanh, truyền hình phục vụ đắc lực cho nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội
và nâng cao dân trí.
Giáo dục và đào tạo có bước phát triển mới. Mạng lưới trường học được
sắp xếp lại và phát triển phù hợp, cơ sở vật chất được quan tâm đầu tư, bình
qn 3,5 người dân có 01 người đi học [61]. Phổ cập giáo dục trung học cơ sở
và chuẩn quốc gia về giáo dục được duy trì; đến nay, tồn tỉnh có 180 đơn vị xã,
phường, thị trấn đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, 178/180 xã,
phường, thị trấn đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi [15, tr.37].
Đào tạo chuyên nghiệp, đào tạo nghề được chú trọng và có chuyển biến tích cực;
tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 35%, trong đó đào tạo nghề đạt 17%.
Chất lượng cơng tác bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ nhân dân được cải thiện.
Bình qn tồn tỉnh có 33,7 giường bệnh, 07 bác sỹ và 04 dược sỹ đại học trên
một vạn dân. Có 141 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế.
Giải quyết việc làm, xố đói giảm nghèo, thực hiện chính sách đối với
người có cơng và an sinh xã hội đạt nhiều kết quả tích cực. Hàng năm tạo được
trên 17.000 việc làm mới cho người lao động, tỷ lệ người lao động khơng có
việc làm khu vực thành thị giảm xuống còn dưới 3,8%. Tỷ lệ hộ nghèo giai đoạn
2011-2015 bình quân giảm 4%/năm.
1.1.1.2. Đặc điểm các xã trên địa bàn tỉnh Yên Bái
* Quan niệm về cấp xã
Theo khoản 1, điều 110 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 2013, quy định:
Các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam được phân định như sau:
Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
Tỉnh chia thành huyện, thị xã vàthành phố thuộc tỉnh; thành phố
trực thuộc trung ương chia thành quận, huyện, thị xã và đơn vị hành
chính tương đương;
Huyện chia thành xã, thị trấn; thị xã và thành phố thuộc tỉnh chia
thành phường và xã; quận chia thành phường.
18
Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập.
[31.tr.73, 74].
Để cụ thể hóa quy định được ghi nhận trong Hiến pháp 2013, Luật Tổ
chức chính quyền địa phương năm 2015 (có hiệu lực thi hành kể từ ngày
01/01/2016) đã ghi nhận các đơn vị hành chính của nước Cộng hịa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam gồm có:
1. Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp
tỉnh);
2. Huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành
phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp huyện);
3. Xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã);
4. Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt. [40]
Như vậy, có thể khẳng định cấp xã là 1 cấp chính quyền địa phương, là
cấp hành chính cuối cùng, đồng thời cũng là cấp thấp nhất trong hệ thống tổ
chức hành chính bốn cấp (Trung ương, tình, huyện, xã) của nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam được pháp luật quy định. Đây là cấp trực tiếp lãnh, chỉ
đạo phát triển toàn diện tất cả các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội ở nông
thôn; là cấp tiến hành xây dựng nội bộ Đảng, xây dựng chính quyền nói riêng,
xây dựng hệ thống chính trị nói chung ở cơ sở trong sạch, vững mạnh. Đồng
thời là “cầu nối”' giữa các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương với nhân dân,
nơi phản ánh một cách đúng đắn, đầy đủ và sinh động những tâm tư, tình cảm,
nguyện vọng chính đáng của nhân dân, đồng thời cũng là nơi cung cấp những
kinh nghiệm quý báu về công tác xây dựng nội bộ Đảng, công tác lãnh đạo,
quản lý về phát triển kinh tế - xã hội, về quốc phòng - an ninh ở nông thôn và
thành thị cho cấp trên để có những điều chỉnh, bổ sung những chủ trương, chính
sách cho phù hợp với tình hình thực tiễn ở địa phương, cơ sở.
Cấp xã là nơi triển khai và tổ chức thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, tạo
điều kiện cho mọi cán bộ, đảng viên và nhân dân được thực hiện đầy đủ các
quyền và nghĩa vụ của mình. Chính quyền cấp xã có vai trị to lớn trong việc
thực hiện chức năng quản lý hành chính tại cơ sở. Nơi đây sẽ diễn ra các hoạt
động quản lý hành chính nhà nước về kinh tế, văn hóa, về trật tự an tồn xã hội,
19
về đất đai, môi trường và các hoạt động khác có liên quan đến đời sống của nhân
dân nhằm đảm bảo cho các hoạt động này đi vào nền nếp.
Tóm lại, cấp xã là nơi tổ chức, động viên nhân dân thực hiện hai nhiệm vụ
chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; xây dựng và phát triển kinh tế, văn
hóa - xã hội, nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực
hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, cơng bằng, văn
minh”.
Xuất phát từ vị trí, vai trò của cấp cơ sở, tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ
năm Ban chấp hành Trung ương khóa IX về đổi mới và nâng cao chất lượng
HTCT ở cơ sở xã, phường, thị trấn, Đảng ta khẳng định:
Cơ sở xã, phường, thị trấn là nơi tuyệt đại bộ phận nhân dân cư trú,
sinh sống. Hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn có vai trị
rất quan trọng trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện
đường lối đổi mới của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước,
tăng cường đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ cùa dân,
huy động các khả năng phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức cuộc
sống của cộng đồng dân cư. [19].
Thực hiện nghị quyết trên, trong những năm qua, các cấp ủy, chính quyền
địa phương ở tỉnh Yên Bái luôn quan tâm chăm lo xây dựng HTCT ở xã,
phường, thị trấn trong sạch, vững mạnh nhằm đáp ứng cho công tác lãnh chỉ đạo
kịp thời các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn cấp xã. Chính vì
vậy mà diện mạo các xã, phường, thị trấn ở tỉnh Yên Bái ngày nay đã có sự phát
triển, sự thay đổi đáng kể, thể hiện ở chỗ đời sống cả về vật chất và tinh thần của
nhân dân được nâng lên rõ rệt, tình hình xã hội, an ninh, quốc phịng được củng
cố và giữ vững. Thực tiễn đã chứng minh, việc xây dựng cấp xã vững mạnh về
mọi mặt sẽ góp phần quan trọng vào sự vững mạnh của địa phương trực tiếp đó
là cấp huyện. Sự vững manh của cấp xã là thành trì vững chắc để phịng và
chống mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch trong và ngồi nước, là
nền tảng của sự thành cơng. Ngược lại, cấp xã yếu kém, nhiều vấn đề phức tạp
nảy sinh, tồn tại chưa có biện pháp khắc phục sẽ dẫn đến đời sống kinh tế của
nhân dân khó khăn, tĩnh hình xã hội bất ổn, an ninh, quốc phịng bị đe dọa.
20
* Đặc điểm các xã trên địa bàn tỉnh Yên Bái
Hiện nay, tỉnh Yên Bái có 09 đơn vị hành chính (gồm 01 thành phố; 01
thị xã; 07 huyện) với 180 xã, phường, thị trấn (trong đó có 157 xã, 13 phường và
10 thị trấn). Các xã thuộc tỉnh Yên Bái có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, các xã thuộc tỉnh Yên Bái đa số nằm ở vùng sâu, vùng xa, vùng
đặc biệt khó khăn, kinh tế chưa phát triển, điều kiện giao thơng khó khăn. Trong
157 xã ở tỉnh Yên Bái có đến 60 xã vùng II và 72 xã vùng III (vùng cao, vùng
sâu, vùng xa, kinh tế chưa phát triển) và trong đó đặc thù có 2 huyện Trạm Tấu
và Mù Cang Chải 100% xã đều nằm trong diện xã đặc biệt khó khăn của tỉnh.
Điều này ảnh hưởng rất lớn đến việc tổ chức lại sản xuất, việc chuyển dịch cơ
cấu kinh tế tại các xã và gặp nhiều khó khăn do kết cấu hạ tầng kém phát triển,
việc trao đổi buôn bán, giao lưu giữa các vùng miền còn hạn chế.
Yên Bái là một tỉnh miền núi, đặc trưng cơ bản là địa hình hiểm trở, dân
cư sống thưa thớt. Bản là đơn vị nhỏ nhất. Bản nhỏ có từ 5 tới 10 hộ và bản lớn
thường có vài chục nóc nhà trở lên. Trong bản tồn tại tàn dư công xã nông thôn
cổ xưa, có tính cộng đồng bền chặt của các thành viên trong bản. Người đứng
đầu bản gọi là tạo bản hay trưởng bản. Tạo bản, trưởng bản là người cao tuổi,
khỏe mạnh, có uy tín nhất của những dịng họ lớn. Mỗi bản có luật lệ riêng theo
từng dân tộc. Các thành viên trong bản chịu sự ràng buộc của hệ thống luật tục
của bản mình và tơn trọng luật tục của bản khác.
Các bản xa nhau và cách trung tâm xã, nhiều bản đi bộ cả ngày đường
mới đến được trung tâm xã. Mặc dù, không phải là cấp hành chính nhưng thơn,
bản có vị trí vơ cùng quan trọng. Dân đến với Đảng, Nhà nước trước hết qua
thôn, bản. Trên thực tế, thôn, bản ở tỉnh Yên Bái là một thiết chế lâu đời, là một
cộng đồng bền vững, có tác động trực tiếp đến đời sống hàng ngày của đồng bào
dân tộc. Ở các thôn, bản truyền thống, luật tục, hương ước của các tộc người, vai
trò của dòng họ, trưởng bản còn rất đậm nét. Do vậy, phải phát huy những giá trị
tích cực của truyền thống, luật tục và vai trò của trưởng bản để điều tiết các mối
quan hệ xã hội địa phương.
Thứ hai, kinh tế - xã hội của các xã ở tỉnh Yên Bái còn chậm phát triển, tỷ
lệ hộ nghèo vẫn còn cao.
21
Tỉnh Yên Bái nói chung và các xã ở tỉnh Yên Bái nói riêng là nơi giàu
tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên, con người ở đây cũng cần cù, chịu khó.
Tuy nhiên, bước vào giai đoạn phát triển kinh tế thị trường, nhiều nơi (nhất là
các xã vùng sâu, vùng xa) chưa bắt kịp với nhịp độ phát triển của đất nước, kinh
tế hàng hóa chưa phát triển, cịn duy trì kinh tế tự cung, tự cấp, sản xuất lạc hậu.
Các xã thuộc tỉnh Yên Bái chưa phát huy được hết thế mạnh của mình là phát
triển một số cây cơng nghiệp, cây ăn quả có giá trị cao, chưa khai thác được
tiềm năng quý giá của lâm sản. Năm 2015, thu nhập bình quân đầu người của
tỉnh là 25,02 triệu đồng và tỷ lệ hộ nghèo vẫn ở mức cao (16,02% - theo tiêu chí
cũ) và tập trung chủ yếu ở các xã vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt
khó khăn của tỉnh (Tỷ lệ hộ nghèo cao nhất trong toàn tỉnh là ở 2 huyện vùng
cao là huyện Trạm Tấu – chiếm 48,45% và Mù Cang Chải – chiếm 47,47%).
Thu nhập bình quân đầu người của các xã trong tỉnh còn thấp, nguồn ngân
sách chủ yếu dựa vào trợ cấp của Trung ương. Đời sống của một bộ phận đồng
bào vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn, trình độ dân trí thấp, tập qn canh
tác lạc hậu chưa được đẩy lùi. Tình trạng tranh chấp đất đai, di cư tự do, cùng
các tệ nạn xã hội chưa giảm.
Dựa vào tiêu chí của Ủy ban dân tộc thì sau hơn 30 năm đổi mới, Yên Bái
đã hình thành 03 khu vực kinh tế, cụ thể như sau:
Khu vực I: Kinh tế đã phát triển, kết cấu hạ tầng được xây dựng tốt,
đời sống nhân dân ổn định và được cải thiện một bước quan trọng,
trình độ dân trí cao. Khu vực này gồm 49 đơn vị hành chính cấp xã
trong đó có 26 xã (cụ thể là: thành phố Yên Bái - 08 xã; huyện Yên
Bình - 07 xã; huyện Lục Yên - 02 xã; huyện Trấn Yên - 06 xã;
huyện Văn Yên - 02 xã; huyện Văn Chấn - 01 xã).
Khu vực II: Kinh tế có phát triển nhưng mức tăng trưởng khơng
cao, kết cấu hạ tầng được xây dựng nhiều, đời sống nhân dân chưa
ổn định, trình độ dân trí chưa cao. Khu vực này gồm 60 xã (cụ thể
là: thị xã Nghĩa Lộ - 01 xã; huyện Yên Bình - 11 xã; huyện Lục
Yên - 11 xã; huyện Trấn Yên - 12 xã; huyện Văn Yên - 14 xã;
huyện Văn Chấn - 10 xã; huyện Trạm Tấu - 01 xã).
22
Khu vực III: Chủ yếu là vùng cao, vùng sâu, vùng xa, kinh tế chưa
phát triển. Việc tổ chức lại sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn
gặp nhiều khó khăn, kết cấu hạ tầng kém phát triển, các hộ đói
nghèo chủ yếu tập trung ở đây. Khu vực này gồm 72 xã (cụ thể là:
thị xã Nghĩa Lộ - 02 xã; huyện Yên Bình - 06 xã; huyện Lục Yên 10 xã; huyện Trấn Yên - 03 xã; huyện Văn Yên - 10 xã; huyện Văn
Chấn - 17 xã; huyện Trạm Tấu - 11 xã; huyện Mù Cang Chải - 13
xã). [10, 58, 59, 60]
Hiện nay, 03 vùng kinh tế và các tiểu vùng tiếp tục được bổ sung quy
hoạch, đầu tư phát triển phù hợp với tiềm năng, lợi thế của từng vùng. Vùng cao
đặc biệt được quan tâm tăng cường đầu tư bằng nhiều chương trình dự án và cơ
chế chính sách ưu đãi; đẩy mạnh phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển sản xuất,
chăm lo cơng tác y tế, giáo dục, xóa đói giảm nghèo, cải thiện đời sống vật chất
và tinh thần của nhân dân, từng bước thu hẹp về trình độ phát triển giữa các
vùng.
Thứ ba, các xã thuộc tỉnh Yên Bái là nơi có nhiều dân tộc thiểu số sinh
sống.
Theo số liệu điều tra, trên địa bàn tỉnh Yên Bái có tới 31 dân tộc sinh
sống, trong đó có 07 dân tộc có dân số trên 10.000 người, 02 dân tộc có từ 2.000
- 5.000 người, 03 dân tộc có từ 500 - 2.000 người. Cụ thể là, dân tộc Kinh chiếm
46,3%, dân tộc Tày chiếm 18,3%, dân tộc Dao chiếm 11,3%, dân tộc Mông
chiếm 11,1%, dân tộc Thái chiếm 7,2%, còn lại là các dân tộc khác [52]. Sự đa
dạng về thành phần dân tộc tạo nên sự đa dạng trong văn hóa của cộng đồng các
dân tộc trên địa bàn tỉnh Yên Bái. Tùy theo tộc người và dòng họ mà cách thức
sinh hoạt và lao động của họ tuân theo thiết chế dòng họ hay theo luật tục (lệ
làng).
Người Thái ln có lịng hiếu khách, trọng tình thương và lễ phép, kính
trọng người già, yêu quý trẻ nhỏ. Ở người Thái tuy khơng có ý thức dân tộc địa
phương cực đoan song lại có ý thức cao về quyền tự chủ lãnh đạo của dân tộc
mình. Câu nói cha truyền, con nối trong người Thái là “bản mường hau”, bản
mường mình phải làm chủ, mình phải giữ gìn. Dân tộc Thái ở Yên Bái có
23
khoảng 41.000 người, tập trung nhiều nhất tại thị xã Nghĩa Lộ, huyện Văn Chấn
(khoảng 13 nghìn người, sinh sống rải rác khắp vùng lịng chảo Mường Lị).
Người Mơng rất dân chủ trong gia đình. Đây là một dân tộc thường có
một niềm tin nhất định và hành động theo “một cái lý nhất định”. Trong suy
nghĩ của người Mông có thể cịn khá đơn giản, song đã có niềm tin thì rất vững
chắc. Chính vì vậy, người Mơng cũng dễ bị kích động, dễ bị lơi cuốn theo trực
giác, cảm tính.
Đối với người Dao thì lịng hiếu khách là nét tâm lý nổi bật. Do điều kiện
địa lý sinh sống nên người Dao có mối giao lưu rộng rãi với người Tày, Việt,
Nùng, vì vậy, trong ứng xử của người Dao từ trong gia đình đến ngồi xã hội có
sự khéo léo hơn. Người Dao có sự nhạy bén, tinh khơn trong giao lưu hàng hóa
và trong quan hệ xã hội.
Người Tày luôn thể hiện xu thế hướng nội. Người Tày ln chín chắn
trong suy nghĩ, cân nhắc trong lời nói và hành động, có khả năng kiềm chế rất
cao nên trong quan hệ ít dẫn đến chuyện mất lịng nhau. Cũng vì thế mà người
Tày có tâm lý ngại va chạm, nhút nhát trong quan hệ, cư xử chân thật, song
khơng khéo léo, cịn ngại ngùng trong giao tiếp vì đơi khi cịn tự ti, thiếu mạnh
dạn
Tuy có nhiều điểm khác nhau nhưng các dân tộc ở tỉnh Yên Bái đều có
điểm chung là tuân thủ pháp luật, chịu sự quản lý trực tiếp của chính quyền xã.
Bằng pháp luật, xã duy trì được trật tự xã hội và bảo vệ được quyền lợi cơng
dân, do đó, dân tin, dân gắn kết với xã và dựa vào xã, cùng cộng đồng có trách
nhiệm trong mọi cơng việc của xã.
Đối tượng hoạt động, giao tiếp của người cán bộ ở đây cũng rất đa dạng,
bởi vì những cộng đồng người ở đây rất khác nhau về hoàn cảnh kinh tế, về địa
vị xã hội, về các mối quan hệ dịng họ, gia đình, về định hướng giá trị, đạo đức,
thói quen. Địi hỏi người cán bộ khơng chỉ giải quyết cơng việc bằng lí trí, pháp
luật mà cịn bằng cả tình cảm làng xóm, dịng họ, cộng đồng. Vì thế, người cán
bộ khơng chỉ cần sự nhiệt tình, tinh thần trách nhiệm mà phải có lịng kiên trì,
chịu đựng, phải biết ứng xử theo những đặc trưng tâm lý dân tộc, phải biết động
24
viên bà con người dân tộc, tổ chức họ lại và dẫn dắt họ tin vào Đảng, Nhà nước,
cùng nhau xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Thứ tư, các xã thuộc tỉnh n Bái có văn hố đa dạng.
Tính đến năm 2015 tỉnh Yên Bái đã có 02 di sản văn hóa phi vật thể được
cơng nhận là di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia là lễ cấp sắc của dân tộc
Dao đỏ và 6 điệu xịe cổ dân tộc Thái Mường Lị. Ngồi ra, các giá trị văn hóa
đặc sắc của từng dân tộc đều được bản lưu, nghiên cứu và đến nay đã sưu tầm,
đưa vào lưu trữ và phát huy được 80 lễ hội truyền thống, 47 phong tục tập quán,
sinh hoạt văn hóa dân gian. Đặc biệt, cuối năm 2012, Yên Bái đã thực hiện chủ
trương vận động đồng bào Mông ăn Tết Nguyên đán cùng với cả nước cho phù
hợp với điều kiện sản xuất và học tập của các em học sinh và nhân dân mà đi
đầu là huyện Trạm Tấu. Kết quả là Yên Bái đã trở thành tỉnh đầu tiên trong cả
nước thực hiện thành công cuộc vận động đồng bào Mông ăn chung một tết.
Các xã thuộc tỉnh Yên Bái có nhiều dân tộc khác nhau sinh sống. Các dân
tộc này, họ sống, lao động, suy nghĩ và quan hệ với nhau theo những sở thích
khác nhau, những nhu cầu khác nhau và mang trên mình những nét tính cách
tâm lý rất khác nhau. Điều đó đã ảnh hưởng, chi phối, tác động trực tiếp đến nếp
nghĩ, nếp làm và phong cách lãnh đạo của người cán bộ. Đứng trước những
phong tục, tập quán của bà con dân bản (cả những phong tục, tập quán lạc hậu),
đòi hỏi người cán bộ phải cân nhắc, đôi khi để giải quyết được những công việc
lớn, người cán bộ phải chấp nhận cả những luật tục của bản, làng.
Các xã ở tỉnh Yên Bái tiêu biểu cho truyền thống văn hóa, yêu nước, cần
cù lao động và hiếu học của dân tộc Việt Nam. Cấu trúc làng xã, cách quản lý xã
hội của các vùng ở nước ta đều bắt nguồn từ nơi đây. Nét chung nhất, nổi bật
nhất của văn hóa các dân tộc ở tỉnh Yên Bái là đồn kết, thương u nhau từ
trong gia đình, dịng họ, bản làng, dân tộc và giữa các dân tộc với nhau. Mọi
sinh hoạt và hoạt động văn hóa đều mang tính bình đẳng và tính cộng đồng rất
cao, mỗi dân tộc có đặc trưng văn hóa độc đáo, phong phú, kho tàng văn hóa
dân gian đồ sộ; đồng thời, có sự giao lưu, giao thoa văn hóa giữa các dân tộc và
văn hóa giữa các dân tộc tỉnh Yên Bái với văn hóa các bộ tộc Lào anh em. Con
người sống hồn nhiên, chân thật, tin yêu nhau, rất quý trọng khách. Tất cả làm
25
nên vẻ đẹp độc đáo, đặc sắc văn hóa vùng Tây Bắc trong nền văn hóa chung của
đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, các xã ở Yên Bái cũng là vùng
còn in đậm dấu ấn của những tàn dư phong kiến, những tập tục lạc hậu, điều này
đã ảnh hưởng khơng nhỏ đến tiến trình đổi mới của nhiều xã trong vùng.
Thứ năm, nguồn nhân lực chủ yếu là lao động phổ thông, công tác dạy
nghề đã ngày càng được tỉnh quan tâm, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo của các xã
thuộc tỉnh Yên Bái ngày càng tăng.
Thực hiện Quyết định 1956/QĐ-TTg ngày 27/11/2009 của Thủ tướng
Chính phủ về Phê duyệt đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm
2020”, giai đoạn 2011-2015 công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn đã
được tỉnh thường xuyên quan tâm và được triển khai thực hiện dạy nghề trên đại
bàn của 90% số xã, trên 60 xã vùng cao, vùng khó khăn. Tỷ lệ lao động qua đào
tạo nghề tăng dần qua các năm từ 20,6% năm 2011 lên đến 27,8% năm 2014 và
năm 2015 đạt 30%.
Người dân ở các xã thuộc tỉnh n Bái thường ít có điều kiện học tập
nâng cao trình độ mọi mặt. Trên địa bàn các xã vùng cao nguồn nhân lực chủ
yếu là lao động phổ thơng, số lao động được đào tạo có trình độ chun mơn, kỹ
thuật cịn thiếu cả về số lượng và chất lượng. Điều này làm cho việc lựa chọn
cán bộ có trình độ, năng lực tham gia vào cơng tác lãnh đạo, quản lý tại địa bàn
các xã vùng cao gặp rất nhiều khó khăn.
1.1.2. Đội ngũ cán bộ xã ở tỉnh Yên Bái - Quan niệm, vai trò, đặc điểm
1.1.2.1. Quan niệm về đội ngũ cán bộ xã ở tỉnh Yên Bái
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Đội ngũ là khối đông người được tập hợp và tổ
chức thành một lực lượng có quy củ” [59, tr.535].
Và “Cán bộ” được định nghĩa là:
- Người làm cơng tác có nghiệp vụ chun mơn trong cơ quan nhà nước,
đảng, đồn thể.
- Người làm cơng tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức, phân
biệt với người khơng có chức vụ.