Tải bản đầy đủ (.pdf) (121 trang)

Luận văn thạc sĩ Đặc điểm từ xưng hô qua lời thoại nhân vật trong tác phẩm số đỏ của Vũ Trọng Phụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (949.37 KB, 121 trang )

Edited with the trial version of
Foxit Advanced PDF Editor
To remove this notice, visit:
www.foxitsoftware.com/shopping

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

UBND THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
___________________________________

ĐẶC ĐIỂM TỪ XƯNG HÔ QUA LỜI THOẠI NHÂN VẬT
TRONG TÁC PHẨM SỐ ĐỎ CỦA NHÀ VĂN VŨ TRỌNG PHỤNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

CHUYÊN NGÀNH: NGÔN NGỮ VIỆT NAM
MÃ SỐ: 60.22.01.02
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Đức Thuận

HẢI PHÒNG – 2017


Edited with the trial version of
Foxit Advanced PDF Editor
To remove this notice, visit:
www.foxitsoftware.com/shopping

i
LỜI CAM ĐOAN



Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa có ai công bố
trong một công trình nghiên cứu nào khác. Tôi cũng xin cam đoan rằng các
thông tin trích trong luận văn đều đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Hải Phòng, tháng 5 năm 2017
Tác giả


Edited with the trial version of
Foxit Advanced PDF Editor
To remove this notice, visit:
www.foxitsoftware.com/shopping

ii
LỜI CẢM ƠN

Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới PGS.TS Nguyễn Đức
Thuận - người đã tận tình hướng dẫn em trong suốt quá trình làm luận
văn vừa qua.
Em cũng xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ và tạo điều kiện mọi mặt của
các thầy, cô giáo trường Đại học Hải Phòng, Phòng quản lý đào tạo Sau đại học,
Viện Ngôn ngữ học – Viện Khoa học Xã hội Việt Nam đã nhiệt tình giảng dạy,
cung cấp cho em những vấn đề lý luận làm cơ sở cho việc nghiên cứu, đã đóng
góp những ý kiến quý báu cho đề tài.
Em xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, tập thể cán bộ, giáo viên
trường THPT Thủy Sơn đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong quá trình học tập và
nghiên cứu.
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn đình, người thân, bạn bè đã động viên,
tạo điều kiện giúp đỡ để em hoàn thành luận văn này.

Xin chân thành cảm ơn!
Hải Phòng, tháng 5 năm 2017
Tác giả


iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .............................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................ii
MỤC LỤC........................................................................................................iii
DANH MỤC BẢNG BIỂU ............................................................................. vi
DANH MỤC VIẾT TẮT ................................................................................vii
PHẦN MỞ ĐẦU............................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI .............................................................................................................. 7
1.1. Vấn đề hội thoại và lời thoại......................................................................7
1.1.1. Khái niệm hội thoại................................................................................. 7
1.1.2. Lời thoại nhân vật ................................................................................... 8
1.2. Khái niệm xưng hô và từ xưng hô trong hội thoại..................................... 9
1.2.1. Khái niệm xưng hô và từ xưng hô .......................................................... 9
1.2.2. Sử dụng từ xưng hô trong hội thoại ...................................................... 12
1.3. Từ xưng hô trong tiếng Việt..................................................................... 15
1.3.1. Từ xưng hô chuyên dụng - đại từ nhân xưng........................................ 15
1.3.2. Từ xưng hô không chuyên dụng ........................................................... 16
1.4. Nhân vật và ngôn ngữ nhân vật trong hội thoại....................................... 17
1.4.1. Khái niệm nhân vật ............................................................................... 17
1.4.2. Ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ tác giả ............................................... 19
1.5. Vài nét về Vũ Trọng Phụng và tác phẩm Số đỏ....................................... 19
1.5.1. Vài nét về Vũ Trọng Phụng .................................................................. 19
1.5.2. Về tác phẩm Số đỏ................................................................................. 22



iv
1.6. Tiểu kết chương 1..................................................................................... 24
CHƯƠNG 2. ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO VÀ SỬ DỤNG TỪ XƯNG HÔ QUA
LỜI THOẠI NHÂN VẬT TRONG SỐ ĐỎ CỦA NHÀ VĂN VŨ TRỌNG
PHỤNG ........................................................................................................... 26
2.1. Các yếu tố chi phối cách sử dụng từ xưng hô.......................................... 26
2.1.1. Không gian ............................................................................................ 26
2.1.2. Thời gian ............................................................................................... 28
2.2. Đặc điểm cấu tạo từ xưng hô qua lời thoại nhân vật trong tác phẩm Số đỏ
của nhà văn Vũ Trọng Phụng.......................................................................... 29
2.2.1. Kết quả thống kê định lượng................................................................. 29
2.2.2. Nhận xét định tính................................................................................. 36
2.3. Đặc điểm sử dụng từ xưng hô qua lời thoại nhân vật ............................. 46
2.3.1. Một từ xưng hô được dùng ở các ngôi khác nhau ................................ 46
2.3.2. Từ thân tộc dùng làm từ xưng hô ngoài xã hội..................................... 49
2.3.3. TXH thay đổi theo diễn biến nội dung cuộc thoại ................................ 51
2.3.4. Dùng từ xưng hô phản ánh quan hệ giai cấp......................................... 55
2.3.5. Dùng từ xưng hô thuộc phong cách ngôn ngữ sinh hoạt hàng ngày..... 60
2.3.6. Dùng từ xưng hô thuộc phương ngữ Bắc Bộ ........................................ 61
2.4. Tiểu kết chương 2..................................................................................... 63
CHƯƠNG 3.VAI TRÒ CỦA TỪ XƯNG HÔ QUA LỜI THOẠI NHÂN VẬT
TRONG TÁC PHẨM SỐ ĐỎ CỦA NHÀ VĂN VŨ TRỌNG PHỤNG ....... 64
3.1. Từ xưng hô thể hiện vị trí, đẳng cấp xã hội ............................................. 64
3.2. Thể hiện quan hệ liên cá nhân.................................................................. 70
3.3. Từ xưng hô thể hiện ngôn ngữ lịch sử xã hội giai đoạn 1930-1945........ 72
3.4. Các TXH biểu hiện thái độ, tình cảm của nhân vật giao tiếp .................. 78



v
3.5. Từ xưng hô thể hiện chiến lược giao tiếp của nhân vật ........................... 80
3.6. Những tương đồng và khác biệt về việc sử dụng TXH qua lời thoại nhân
vật trong tác phẩm Số đỏ so với một số tác phẩm của dòng văn học hiện thực
phê phán .......................................................................................................... 86
3.6.1. Những tương đồng ................................................................................ 88
3.6.2. Những khác biệt .................................................................................... 95
3.7. Tiểu kết chương 3................................................................................... 102
KẾT LUẬN ................................................................................................... 104
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................. 106
PHỤ LỤC ...................................................................................................... 109


vi
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Số hiệu

Tên bảng

bảng

Trang

2.1

Bảng TXH là từ đơn trong Số đỏ

30

2.2


Các TXH là từ ghép trong Số đỏ

33

2.3

Các TXH là tổ hợp từ trong tác phẩm Số đỏ

35

Bảng thống kê các TXH qua cuộc thoại nhân vật trong

96

3.1

Số đỏ của Vũ Trọng Phụng và trong một số truyện ngắn
của Nam Cao


vii

DANH MỤC VIẾT TẮT

ĐTCĐ

:

Đại từ chỉ định


ĐTNX

:

Đại từ nhân xưng

TXHCD :

Từ xưng hô chuyên dụng

TTT

:

Từ thân tộc

TXH

:

Từ xưng hô


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài nghiên cứu
1.1 Trong giao tiếp bằng ngôn ngữ, từ xưng hô (TXH) là yếu tố đầu
tiên mà các vai giao tiếp cần phải lựa chọn để xác lập vị trí của mình. Qua
cách sử dụng TXH người ta có thể biết được tình cảm, thái độ, mối quan hệ,

trình độ học vấn… của các nhân vật tham gia giao tiếp. Trong quá trình xây
dựng nhân vật, đặc biệt là những nhân vật trung tâm, nhà văn thường rất chú
trọng về việc xây dựng tâm lí nhân vật trong đó có phương tiện quan trọng là
dùng từ xưng hô để góp phần khắc họa cá tính nhân vật. Vì vậy, việc tìm
hiểu, nghiên cứu TXH có ý nghĩa rất quan trọng, là cơ sở để tìm hiểu khám
phá thế giới hình tượng, làm sáng tỏ tâm lý nhân vật và các lớp nội dung ý
nghĩa của văn bản nghệ thuật, từ đó, khẳng định những thành tựu và đóng
góp của nhà văn cho nền văn học dân tộc.
1.2. Vũ Trọng Phụng là cây bút hiện thực chủ nghĩa tiêu biểu trước Cách
mạng Tháng 8/1945 . Chỉ với 9 năm sáng tác, ông đã để lại cho nền văn chương
của nước nhà một khối lượng tác phẩm đồ sộ : 9 tiểu thuyết, 8 phóng sự, 6 vở kịch
và 30 truyện ngắn cùng các bài báo.Đặc biệt nhà văn Vũ Trọng Phụng rất thành
công ở thể loại tiểu thuyết, như Giông tố, Số đỏ. Số đỏ được đánh giá là tiểu
thuyết trào phúng có một không hai trong lịch sử văn học dân tộc.
Tuy tuổi đời và thời gian sáng tác ngắn ngủi, nhưng Vũ Trọng Phụng
được đánh giá là một nhà văn lớn, có vị trí đặc biệt trong nền văn xuôi hiện
đại Việt Nam. Ông được xem là một nhà văn có tài năng trào phúng kiệt xuất.
Chỉ riêng với tác phẩm Số đỏ cũng đủ để xếp Vũ Trong Phụng vào một trong
những nhà trào phúng hàng đầu thế giới, so với AQ chính chuyện của Lỗ Tấn,
Đôn-Ki-hô-tê của Xéc-van-téc ( Hoàng Thiếu Sơn). Ông còn được mệnh danh
là “Ông vua phóng sự đất Bắc”. Chất phóng sự xâm nhập vào cả truyện ngắn
và tiểu thuyết trào phúng. Có người ví Số đỏ là một tấn đại hài kịch cũng
đúng, đó là đại trường thiên về tấn trò đời của xã hội trưởng giả ở thành thị
những năm đầu thế kỉ XX, đang quay cuồng trong cơn lốc Âu hóa. Xã hội


2
thành thị là một sân khấu, mà ở đó các nhân vật đều là những vai hề lố lăng,
rởm đời, đồi bại nhất.
1.3. Trong gần một thế kỉ qua, sự nghiệp văn học của Vũ Trọng Phụng

đã thu hút sự quan tâm, yêu mến của các nhà nghiên cứu, phê bình văn học và
đông đảo công chúng. Kết quả là đã có rất nhiều bài viết, nhiều công trình
nghiên cứu về sáng tác của ông, trong đó cũng có không ít các công trình
nghiên cứu dưới góc độ ngôn ngữ học. Song, hầu hết các công trình đó mới
chỉ đề cập đến những vấn đề như cách đặt tiêu đề, ngôn ngữ nhân vật, ngôn
ngữ độc thoại, ngôn ngữ đối thoại. Đặc biệt việc nghiên cứu về từ xưng hô
qua lời thoại nhân vật trong tác phẩm Số đỏ của Vũ Trọng Phụng theo sự
tìm hiểu của chúng tôi đến nay dường như còn là một khoảng trống.
Tiếp cận tiểu thuyết Số đỏ để tìm hiểu đặc điểm TXH qua lời thoại
nhân vật nhằm khai thác giá trị của một tác phẩm văn học thông qua hệ thống
TXH trong lời thoại nhân vật là một điều không kém phần thú vị. Bởi qua đó,
người viết có điều kiện tiếp cận, tìm hiểu khả năng xây dựng nhân vật và nhất
là tâm lí nhân vật của nhà văn Vũ Trọng Phụng.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi lựa chọn và tiến hành nghiên
cứu đề tài: Đặc điểm từ xưng hô qua lời thoại nhân vật trong tác phẩm Số đỏ
của nhà văn Vũ Trọng Phụng.
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
2.1. Về từ xưng hô trong tiếng Việt
Từ lâu, TXH đã trở thành lĩnh vực được các nhà nghiên cứu ngôn ngữ
học quan tâm từ góc độ đại cương đến tiếng Việt, từ phương diện miêu tả đến
đối chiếu và dụng học. Cho đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về
TXH. Các tác giả đi theo ba hướng nghiên cứu:
- Bàn về TXH ở góc độ lý luận chung.
- Bàn về TXH được sử dụng trong phạm vi gia đình và xã hội.
- TXH được nghiên cứu từ góc độ đối chiếu.
Về hướng thứ nhất có thể kể đến công trình nghiên cứu Grammaire de


3
la lenggua annamite, Trương Vĩnh Ký đã dành 30 trang để nói về đại từ,

trong đó là đại từ nhân xưng. Theo Nguyễn Phú Phong (1996) thì “cho đến
nay, người đã cung cấp một bảng đại danh từ nhân xưng sớm nhất và đầy đủ
nhất … là Trương Vĩnh Ký”.
Trong công trình Studies in Vietnamese Grammar ( Ngữ pháp tiếng
Việt, 1951), tác giả M.B. Emeneau đã dành nhiều trang viết về đại từ. Ông
tập trung bàn về đại từ xưng hô và chú ý nhiều đến nhóm từ xưng hô lâm thời
(TXHLT) có nguồn gốc danh từ.
Các nhà Việt ngữ học cũng có những công trình nghiên cứu về TXH...
Các tác giả Trương Văn Chình, Nguyễn Hiến Lê (1963), Nguyễn Kim Thản
(1963)… đã nhấn mạnh vào chức năng trỏ hay thay thế của đại từ nhân xưng
(ĐTNX). Đỗ Hữu Châu (trong các công trình viết năm1982, 1986, 1987) đã
chú ý đến chức năng chiếu vật của các TXH trong hội thoại.
Gần đây, một số tác giả như Nguyễn Văn Chiến, Đỗ Hữu Châu, Bùi
Minh Yến chú trọng đến nghiên cứu hoạt động hành chức của các TXH. Bùi
Minh Yến với hàng loạt bài viết trên Tạp chí, với luận án Từ xưng hô trong
gia đình đến xưng hô ngoài xã hội của người Việt (2002) đã khảo sát đầy đủ
tất cả các phương tiện ngôn ngữ mà các cặp giao tiếp cá thể sử dụng trong
những tình huống giao tiếp khác nhau. Lê Thanh Kim (2002) lại nghiên cứu
về Từ xưng hô và cách xưng hô trong phương ngữ tiếng Việt. Trương Thị
Diễm (2002) đã miêu tả khảo sát toàn diện đặc điểm của TXH có nguồn gốc
từ thân tộc trong giao tiếp của người Việt.
Theo hướng thứ ba, vài chục năm trở lại đây, một số người đã tiến hành
nghiên cứu đối chiếu TXH tiếng Việt với các ngôn ngữ khác: tiếng nước
ngoài, tiếng dân tộc thiểu số… Đó là các công trình nghiên cứu của Nguyễn
Văn Chiến (1992), Hoàng Anh Thi (2001), Dương Thị Nụ (2003), Nguyễn
Minh Hoạt (2007)…
Gần đây, Mai Thu Hương (2007) đã nghiên cứu về Từ xưng hô trong
truyện ngắn Nam Cao. Song, theo chúng tôi được biết, đến nay vẫn chưa có



4
tác giả nào nghiên cứu về từ xưng hô qua lời thoại nhân vật trong tác phẩm Số
đỏ của nhà văn Vũ Trọng Phụng.
Như thế, chúng ta thấy, hướng nghiên cứu từ xưng hô dưới góc độ ngôn
ngữ học trong tác phẩm văn học chưa được giới nghiên cứu quan tâm chú ý.
2.2. Về việc nghiên cứu từ xưng hô trong tác phẩm Số đỏ của nhà văn Vũ
Trọng Phụng.
Nghiên cứu về nhà văn Vũ Trọng Phụng, mà nổi bật là tác phẩm Số đỏ,
người ta không thể không nhớ đến những tác phẩm trong dòng văn học hiện
thực phê phán . Ngay từ khi ra đời, tác phẩm đã trở thành đối tượng nghiên
cứu của nhiều cây bút phê bình văn học. Trong số những công trình đó có cả
sự nghiên cứu về bình diện văn học và bình diện ngôn ngữ.
Nhìn lại lịch sử nghiên cứu tác phẩm Số đỏ của Vũ Trọng Phụng dưới
góc độ ngôn ngữ học, chúng tôi thấy các công trình tập trung làm sáng tỏ một
số phương diện như: Cách thức tổ chức ngôn ngữ trong tiểu thuyết, các
phương tiện đặc trưng trong ngôn ngữ nghệ thuật, thành ngữ, đồng nghĩa
trong tiểu thuyết Số đỏ.
Đỗ Đức Hiểu, Những lớp sóng ngôn từ trong Số đỏ, Vũ Trọng Phụng
tài năng và sự thật, Nxb. Văn học, H., 1997, tr.117.
Nguyễn Hoài Thanh, Chất khẩu ngữ trong lời văn phóng sự của Vũ
Trọng Phụng, Bản sắc hiện đại trong tác phẩm của Vũ Trọng Phụng, Nxb.
Văn học, H., 2003, tr.307.
Chim Văn Bé (2013), Ngôn ngữ văn chương Việt Nam, Trường Đại học
Cần Thơ .
Thái Thị Kiều Lan, Ngôn từ nhân vật trong số đỏ của Vũ Trọng
Phụng, Trường Đại học Cần Thơ 2014 ).
Tuy nhiên cho đến nay, theo sự tiếp cận của chúng tôi, chưa thấy có
công trình nào nghiên cứu tiếp theo về đặc điểm từ xưng hô qua lời thoại
nhân vật trong tác phẩm Số đỏ của nhà văn Vũ Trọng Phụng.



5
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục đích
Đề tài “Đặc điểm từ xưng hô qua lời thoại nhân vật trong tác phẩm Số đỏ
của nhà văn Vũ Trọng Phụng” nhằm tìm hiểu về đặc điểm ngôn ngữ nhân vật trong
tác phẩm thông qua việc sử dụng các TXH cũng như đặc điểm ngữ nghĩa, ngữ
dụng của chúng trong các hoàn cảnh giao tiếp. Chính điều này đã làm nên giá trị
nghệ thuật khi Vũ Trọng Phụng xây dựng các hình tượng nhân vật trong tác phẩm
của mình. Trong một phạm vi và mức độ nhất định, luận văn sẽ so sánh và chỉ ra
những tương đồng và khác biệt qua cách sử dụng TXH trong tác phẩm Số đỏ của
Vũ Trọng Phụng với cách xưng hô của nhân vật trong một số tác phẩm thuộc dòng
văn học hiện thực phê phán giai đoạn 1930 – 1945.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, luận văn thực hiện ba nhiệm vụ cơ bản sau:
- Nghiên cứu, tập hợp cơ sở lý luận về vấn đề TXH, lời thoại.
- Miêu tả và phân loại TXH, đặc điểm sử dụng TXH qua lời thoại hệ thống
nhân vật trong tiểu thuyết Số đỏ (thông qua thống kê định lượng và định tính);
đồng thời xác định chức năng của TXH qua lời thoại nhân vật, cũng như chỉ ra
các đặc điểm ngữ nghĩa của TXH mà Vũ Trọng Phụng sử dụng trong tác phẩm.
- So sánh những tương đồng và khác biệt cách sử dụng TXH qua lời
thoại nhân vật trong tác phẩm Số đỏ của Vũ Trọng Phụng với một số tác
phẩm của dòng văn học hiện thực phê phán giai đoạn 1930-1945 để thấy
được đặc điểm phong cách ngôn ngữ của nhà văn Vũ Trọng Phụng khi xây
dựng nhân vật.
4. Đối tượng và giới hạn phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn lấy đối tượng nghiên cứu là tác phẩm Số đỏ của nhà văn Vũ
Trọng Phụng - NXB Thời Đại, 2014 .
4.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu là Đặc điểm từ xưng hô qua lời
thoại nhân vật trong tác phẩm Số đỏ của nhà văn Vũ Trọng Phụng.


6
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, người viết áp dụng một số phương pháp, thủ
pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp miêu tả ngôn ngữ học.
- Trên cơ sở các tư liệu thu thập được, chúng tôi sử dụng các thủ pháp
thống kê, phân loại, hệ thống hóa các TXH trong tác phẩm Số đỏ thành các
nhóm, các tiểu hệ thống cho việc miêu tả, nhận xét và phân tích để từ đó miêu tả
đặc điểm cấu trúc, ngữ nghĩa, ngữ dụng của chúng qua lời thoại nhân vật.
- Thủ pháp so sánh, đối chiếu cũng được sử dụng khi so sánh giá trị
ngữ nghĩa, ngữ dụng của các TXH trong tiếng Việt với các từ này trong tác
phẩm Số đỏ của Vũ Trọng Phụng .
6. Đóng góp mới của luận văn
Trong một chừng mực nhất định luận văn đặt ra nhiệm vụ nghiên cứu
tương đối đầy đủ về đặc điểm của TXH qua lời thoại nhân vật trong tác phẩm Số
đỏ theo hướng tiếp cận ngôn ngữ học. Luận văn sẽ góp phần làm sáng tỏ đặc điểm
TXH trong tiếng Việt thông qua việc sử dụng chúng trong lời thoại nhân vật ở
một tác phẩm cụ thể, ở một tác giả tiêu biểu của dòng văn học hiện thực phê phán.
Đồng thời, việc thực hiện đề tài này sẽ là một gợi dẫn bổ ích cho việc khai thác
giá trị của một tác phẩm văn học thông qua hệ thống TXH qua lời thoại nhân vật.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính
của luận văn gồm ba chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận và những vấn đề liên quan đến đề tài.
Chương 2: Đặc điểm cấu tạo và sử dụng từ xưng hô qua lời thoại nhân
vật trong tác phẩm Số đỏ của nhà văn Vũ Trọng Phụng.

Chương 3: Vai trò của từ xưng hô qua lời thoại nhân vật trong tác
phẩm Số đỏ của nhà văn Vũ Trọng Phụng.


7
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Vấn đề hội thoại và lời thoại
1.1.1. Khái niệm hội thoại
Hội thoại là phương tiện phổ biến và cơ bản nhất để trao đổi, dẫn dắt
công việc của con người. Đồng thời, giao tiếp hội thoại cũng là hoạt động cơ
bản của hoạt động ngôn ngữ, một trong những vấn đề chính được ngữ dụng
học quan tâm, là một trong những bộ phận chủ yếu của Ngữ dụng học vĩ mô.
Nhiều nhà Việt ngữ học đã bàn tới vấn đề hội thoại. Qua các cách trình bày,
định nghĩa về vấn đề hội thoại, các nhà Việt ngữ học đều nêu lên những đặc
điểm cơ bản nhất của hội thoại. Những đặc điểm này cũng được tác giả
Nguyễn Đức Dân [8;80], Nguyễn Thiện Giáp [13; 219-221)] nêu ra và trình
bày với hai đặc điểm là đặc điểm bên trong (nội tại) và đặc điểm bên ngoài.
Theo các tác giả, đặc điểm nội tại của hội thoại bao gồm:
1. Sự tương tác qua lại (nguyên tắc luân phiên lượt lời).
2. Sự liên kết (nguyên tắc liên kết hội thoại).
3. Tính mục đích.
4. Nguyên lý hội thoại (nguyên lý cộng tác và nguyên lý tế nhị).
Những đặc điểm bên ngoài của hội thoại gồm:
1. Về số lượng người tham dự.
2. Về quan hệ giữa những người tham dự.
3. Về chu cảnh của những cuộc thoại (thời gian và không gian)
Tác giả cũng đưa ra những lưu ý về không gian hội thoại: sự có mặt của
người đối thoại có tầm quan trọng đáng kể trong hội thoại. Theo quan điểm ngữ
dụng, sự có mặt hiện thực hoặc tưởng tượng cuả người đối thoại là yếu tố cần

thiết cho việc dùng ngôn ngữ được bình thường trong quá trình hội thoại.
Có những câu hỏi, câu chào, câu gọi, câu cầu khiến, có những đại từ
như này, kia, ấy, nọ… mà sự quy chiếu của chúng liên quan đến người nói,
người nghe, ngữ cảnh, sự định hướng không gian.


8
Gần đây, Nguyễn Thiện Giáp [16; 219-221] cũng giải thích khá kĩ về
khái niệm này cũng như đặc điểm của hội thoại. Dưới đây là một số ý kiến cụ
thể của các nhà nghiên cứu về vấn đề này.
Theo Nguyễn Như Ý thì: “Hội thoại là hoạt động giao tiếp bằng lời, ở
dạng nói, giữa các nhân vật giao tiếp nhằm trao đổi các nội dung miêu tả và
liên cá nhân theo đích được đặt ra” [35;122].
Còn theo Đỗ Hữu Châu, “Hội thoại là hình thức giao tiếp thường
xuyên, phổ biến của ngôn ngữ, nó cũng là hình thức cơ sở của mọi hoạt động
ngôn ngữ khác” [4;20].
Và theo Nguyễn Đức Dân, “Trong giao tiếp hai chiều, bên này nói, bên
kia nghe và phản hồi trở lại. Lúc đó, vai trò của hai bên thay đổi. Bên nghe lại
trở thành bên nói và bên nói lại trở thành bên nghe. Đó là hội thoại. Hoạt động
giao tiếp phổ biến và căn bản nhất của con người là hội thoại…” [8;76].
Hay Nguyễn Thiện Giáp thì cho rằng: "Mỗi cuộc thoại đều diễn ra vào lúc
nào đó, ở đâu đó, trong hoàn cảnh nào đó. Nhân tố ngữ cảnh có vai trò to lớn
trong việc tạo lập và lĩnh hội các phát ngôn trong hội thoại". [16 ;219-220].
Như vậy, từ những ý kiến trên ta nhận thấy trong hội thoại bao giờ cũng
bao gồm các yếu tố: người nói, người nghe, nội dung trao đổi và ngữ cảnh.
1.1.2. Lời thoại nhân vật
Lời thoại nhân vật có thể là độc thoại, có thể là đối thoại.
Theo tác giả Lê Bá Hán, “Đối thoại là cuộc giao tiếp song phương mà
lời này xuất hiện như một phản ứng đáp lại lời nói của đối phương giao tiếp.
Lời đối thoại có sự tiếp xúc phi quan phương và không công khai, không bị

thúc trong không khí bình đẳng của người đối thoại. Lời đối thoại thường
kèm theo các động tác cử chỉ biểu cảm và tạo nên bởi phát ngôn của nhiều
người”[17;159].
Cũng theo tác giả Lê Bá Hán, “Độc thoại là hình thức thoại không đòi
hỏi sự đáp lại, độc lập với phản ứng của người tiếp nhận và được thể hiện
thoải mái cả trong hình thức nói lẫn viết” [17;159].


9
Tính độc thoại có biểu hiện bên ngoài là một dòng lời nói liên tục,
không hề bị ngắt quãng bởi những lời nói của người khác. Độc thoại được
phân làm hai loại: độc thoại cô lập và độc thoại có hướng.
Trong tác phẩm văn học, lời thoại có vai trò rất quan trọng. Thông qua
ngôn ngữ nhân vật trong những cuộc giao tiếp, tính cách nhân vật được bộc lộ
rõ nét. Không chỉ có thế, thông qua lời nói của nhân vật, người đọc còn có thể
cảm nhận được tính cách, trình độ văn hóa và kinh nghiệm sống của nhân vật.
Ngôn ngữ của nhân vật khi giao tiếp còn thể hiện đời sống nội tâm phong phú
của nhân vật, những diễn biến tâm lý, tình cảm theo suốt cuộc đời nhân vật.
Thông qua nhân vật và những cuộc thoại mà nhân vật tham gia, các tác
giả thường thể hiện tư tưởng tình cảm của mình. Có thể nói ngôn ngữ nhân
vật chính là bức thông điệp mà nhà văn nhắn gửi đối với độc giả. Ngôn ngữ
nhân vật góp phần quan trọng thể hiện nội dung tư tưởng của tác phẩm.
1.2. Khái niệm xưng hô và từ xưng hô trong hội thoại
1.2.1. Khái niệm xưng hô và từ xưng hô
1. Xưng hô là một hành vi ngôn ngữ được thực hiện trong giao tiếp ở tất
cả các cộng đồng người. Theo Từ điển tiếng Việt [Hoàng Phê (2003)], thì
xưng hô là ''tự xưng mình và gọi người khác là gì đó khi nói với nhau để biểu
thị tính chất của mối quan hệ với nhau''. Xưng hô là một bộ phận của lời nói.
Nó được biểu thị qua giao tiếp giữa con người với con người trong xã hội.
Xưng là một hành động người nói dùng một biểu thức ngôn ngữ để đưa

mình vào cuộc thoại, để người nghe biết rằng mình đang nói và chịu trách
nhiệm về lời nói của mình. Đây là hành động tự quy chiếu của người nói
(ngôi thứ nhất).
Hô là hành động người nói dùng một biểu thức ngôn ngữ để đưa người
nghe vào trong cuộc thoại. Hô được hiểu là tập hợp những biểu thức mà
người nói dùng để chỉ người đối thoại với mình.
Đặc điểm của xưng hô là phải có sự hiện diện của người nói và người
nghe. Có thể nói, trong bất kỳ một cuộc giao tiếp nào không thể thiếu được từ


10
xưng và từ hô. Ngay cả khi trong trường hợp vắng mặt (zezo), cũng có thể coi
là một sự có mặt không hiện hữu mang tới một ý nghĩa nhất định. Tuy nhiên,
do ngôn ngữ của một dân tộc phản ánh và thể hiện đặc điểm tư duy, văn học,
phong tục, truyền thống riêng của dân tộc đó, nên việc đánh giá về sự xuất
hiện hay không xuất hiện từ xưng hô cũng như cách xưng và hô là có khác
nhau. Đây cũng là một trong những lý do giải thích vì sao khi giao tiếp bằng
ngoại ngữ, người ta thường ít nhiều mang thói quen lối tư duy bản ngữ vào
việc sử dụng TXH trong câu, như dùng TXH vào trong những câu đáng lẽ
không cần dùng TXH và không dùng TXH trong những câu đúng ra là phải
dùng TXH. Ngay trong một dân tộc, giao tiếp bằng ngôn ngữ của một dân tộc
đó, ở mỗi giai đoạn lịch sử và ở các cộng đồng nói năng khác nhau do nhiều
lý do khác nhau mà cũng có cách xưng hô khác nhau và nhìn nhận khác nhau
về cách xưng hô.
Cần phân biệt xưng hô và xưng gọi. Nếu như xưng gọi là một phát ngôn
của người nói (thường chỉ là một lần trong hội thoại), hướng vào người nghe để
người nghe biết được người hô gọi muốn thực hiện cuộc hội thoại với anh ta thì
xưng hô là một hoạt động ngôn từ diễn ra thường xuyên liên tục trong cuộc
thoại, nó được diễn tiến qua ngôn ngữ của các nhân vật tham gia hội thoại.
Tuy nhiên, mỗi ngôn ngữ đều có hệ thống TXH và có cách dùng

chúng, để một mặt thực hiện chức năng xưng gọi, mặt khác thể hiện được
những đặc điểm văn hoá giao tiếp của dân tộc đó. TXH, từ trước tới nay đã
được nhiều nhà nghiên cứu ngôn ngữ quan tâm ở hai bình diện cấu trúc và
chức năng. Với sự phát triển của ngôn ngữ học theo hướng nghiên cứu ngôn
ngữ trong hoạt động hành chức, trước hết là hành chức trong giao tiếp, vấn đề
xưng hô được xem xét trong phạm vi rộng hơn. Nó không còn là vấn đề thuần
tuý trong ngôn ngữ học cấu trúc, mà còn là vấn đề của ngữ dụng học, của xã
hội ngôn ngữ học, của vấn đề ngôn ngữ học xuyên văn hoá... Hiện nay, các lý
thuyết hội thoại, ngữ dụng học, văn hoá học,... đã rọi nhiều ánh sáng, từ đó
định ra nhiều hướng tìm hiểu mới cho việc nghiên cứu TXH. Rõ ràng, việc


11
nghiên cứu ngôn ngữ không chỉ dừng lại ở mặt cấu trúc mà còn mở hướng
nghiên cứu ở các mặt chức năng, ngữ dụng học.
Xưng hô trong tiếng Việt chịu áp lực mạnh mẽ của sự chuẩn mực xã
hội. Chuẩn mực xã hội quy định việc lựa chọn TXH. Đối với tiếng Việt, vận
dụng khái niệm quyền thế và liên kết để xem xét cách xưng gọi trong giao
tiếp khác với một số ngôn ngữ Ấn Âu. Các từ dùng để xưng hô trong giao
tiếp tiếng Việt bao gồm không chỉ các đại từ nhân xưng (ĐTNX) gốc mà còn
có rất nhiều từ thuộc từ loại khác chuyển sang, trong đó đáng chú ý là nhóm
từ thân tộc (TTT). Cùng với một số từ xưng gọi khác, các TTT có đặc điểm
đáng lưu ý là, chúng vừa dùng để ''xưng'' vừa dùng để ''hô'' (gọi khách thể
giao tiếp) cả trong giao tiếp gia đình lẫn trong giao tiếp xã hội. Hầu hết các
TXH tiếng Việt được phân bố cách sử dụng theo thang độ quyền thế, kết
liên, lịch sự... ở cả trong ''xưng'' lẫn ''gọi''. Vì thế, thông qua cách sử dụng từ
xưng hô có thể thấy được thái độ, quan điểm của các thành viên tham gia giao
tiếp. Trong giao tiếp có rất nhiều yếu tố tác động đến sự lựa chọn từ ngữ xưng
hô. Và, ngay trong mối quan hệ giữa ''xưng'' và ''hô'' cũng hình thành nên hai
mối quan hệ: mối quan hệ tương hỗ và mối quan hệ phi tương hỗ.

Xưng hô là một hành vi ngôn ngữ và là một hành vi ở lời, bởi hành vi ở
lời là những hành vi người nói thực hiện ngay khi nói năng.
Hiện nay, nhiều nhà Việt ngữ đã dùng thuật ngữ từ xưng hô gồm nhiều
từ loại khác nhau để chỉ các từ, ngữ, các cấu trúc ngôn ngữ dùng để trỏ người
trong hoạt động giao tiếp ngôn ngữ ở dạng nói và viết. Với quan điểm này, hệ
thống TXH trong tiếng Việt được chia làm hai nhóm, gồm:
a) Nhóm TXH chuyên dụng (các ĐTNX).
b) Nhóm từ (ngữ) xưng hô không chuyên dụng (từ, ngữ thuộc các từ
loại khác nhau được lâm thời dùng để xưng hô).
Rõ ràng, khái niệm TXH có ngoại diên rộng hơn đại từ nhân xưng
(ĐTNX). Trong hệ thống TXH, ngoài các ĐTNX chuyên dụng còn có lớp
TXH lâm thời phong phú và đa dạng đáp ứng được nhu cầu giao tiếp của con


12
người và biểu hiện rõ nhiều nét đặc trưng trong văn hoá ứng xử của cộng
đồng dân tộc.
Các nhà Việt ngữ có những ý kiến khác nhau về phạm trù xưng hô.
Theo tác giả Đỗ Hữu Châu thì: “Phạm trù xưng hô hay phạm trù ngôi
bao gồm những phương tiện chiếu vật, nhờ đó người nói tự quy chiếu, tức tự
đưa mình vào diễn ngôn (tự xưng) và đưa người giao tiếp với mình (đối
xứng) vào diễn ngôn. Như thế phạm trù ngôi thuộc quan hệ vai giao tiếp ngay
trong cuộc giao tiếp đang diễn ra với điểm gốc là lời nói”[4;73]. Còn
Nguyễn Văn Chiến lại quan niệm: “Hệ thống xưng hô là những từ được “rút
ra” từ trong hệ thống ngôn ngữ, dùng để xưng hô (biểu thị các phạm trù xưng
hô nhất định) giao tiếp xã hội.”[6;41]. Thế nhưng, Nguyễn Thị Trung Thành
thì lại coi: “Từ xưng hô là toàn bộ những đơn vị từ vựng được dùng để người
nói tự xưng, để gọi người giao tiếp với mình và để chỉ người thứ ba vắng mặt
trong cuộc giao tiếp. Còn đại từ xưng hô là một từ loại, hay chính xác hơn là
một bộ phận của từ loại đại từ được dùng để xưng hô” [32;3].

Như vậy, các tác giả nêu trên đều chỉ ra những đặc điểm của phạm trù
xưng hô và TXH. Đồng thời, TXH được dùng trong giao tiếp, hội thoại giữa
các ngôi thứ nhất (người nói) và ngôi thứ hai (người nghe). Còn ngôi thứ ba
chỉ là đối tượng được nhắc đến trong khi ngôi thư nhất và ngôi thứ hai nói
chuyện, nên không sử dụng TXH.
1.2.2. Sử dụng từ xưng hô trong hội thoại
Các TXH được các nhân vật trong hội thoại sử dụng một cách không
cố định, bất biến mà luôn biến đổi. Các ngôi trong giao tiếp luôn luôn đổi vai
và đổi ngôi cho nhau. Không chỉ có thế, các TXH còn bộc lộ thái độ, tình cảm
của người nói. Các TXH thay đổi theo tâm trạng vui, buồn, hứng thú, phấn
khích hay chán nản của người nói. Ví dụ:
- Anh ngu lắm! Cụ gì? Tôi chỉ mới đáng tuổi là mẹ anh thôi…
- Cái dân An Nam ngu thật! [26;12]
- Thế cậu yêu me thì cậu thơm me đi nào...” [26;25]


13
- Cậu ơi! Cậu yêu quí của me ơi, cậu mặc quần áo vào, chóng
ngoan…[26; 27].
Việc sử dụng TXH phản ánh đạo đức, trình độ văn hóa, thái độ, sự hiểu
biết của các vai giao tiếp. Vì vậy, khi xưng hô phải có sự hiểu biết lẫn nhau
về độ tuổi, quan hệ gia đình, quan niệm sống, sở thích cá nhân, quan hệ xã
hội, nghề nghiệp để giao tiếp đúng và đạt hiệu quả giao tiếp cao.
Một câu hỏi đặt ra là có bao nhiêu cách xưng hô trong giao tiếp ?
Người ta có thể quy thành một số kiểu xưng hô thường gặp trong giao
tiếp như sau:
a) Xưng hô bằng các từ dùng để xưng hô, gồm:
1. Các từ là ĐTNX.
2. Các từ thân tộc (TTT) dùng làm TXH.
3. Các từ khác được dùng làm TXH.

b) Xưng hô bằng chức danh, gồm:
4. Gọi bằng một trong các chức danh.
5. Gọi bằng nhiều hoặc tất cả các chức danh,
d) Xưng hô bằng họ và tên, gồm:
6. Xưng hô bằng tên.
7. Xưng hô bằng họ.
8. Xưng hô bằng tên đệm + tên.
9. Xưng hô bằng họ + tên.
10. Xưng hô bằng họ + tên đệm + tên.
e) Xưng hô bằng tên của những người thân thuộc như tên của chồng,
vợ, con (cách gọi thay).
11. Gọi bằng tên của người thân thuộc (chồng, vợ, con).
g) Xưng hô bằng sự kết hợp (6) (7) (8) (9)
12. Gọi bằng các kết hợp khác nhau (thí dụ chức danh + tên; chức danh +
họ tên; từ xưng hô + tên / họ tên...)
h) Xưng hô bằng sự khuyết vắng TXH:


14
13. Không xuất hiện TXH trong giao tiếp (khuyết vắng TXH).
Các mối quan hệ về xưng hô trong giao tiếp phụ thuộc vào từng bối
cảnh giao tiếp cụ thể. Qua khảo sát, các tác giả đều đưa ra một nhận định
chung là, giữa bạn bè với nhau thường gọi bằng tên, giữa người lạ hoặc chỉ
biết nhau thì gọi bằng chức danh hoặc họ. Tuy nhiên, ranh giới này không rõ
ràng. Chẳng hạn, trong giao tiếp chỉ cần tìm thấy một mối quan hệ nhỏ nào
đấy thì sau năm phút người ta có thể chuyển từ cách gọi chức danh, họ sang
gọi bằng tên. Người ít tuổi gọi người lớn tuổi hơn bằng chức danh, họ và
ngược lại, người lớn tuổi gọi người ít tuổi hơn bằng tên. Cũng vậy, người có
địa vị thấp gọi người có địa vị cao bằng chức danh, họ/tên và ngược lại người
có địa vị cao gọi người có địa vị thấp bằng tên. Nhưng khi tuổi tác, địa vị

nghề nghiệp có sự mâu thuẫn thì địa vị nghề nghiệp được coi là nhân tố đặt
lên hàng đầu.
Các TXH chủ yếu được chia thành hai loại: Các ĐTXH chuyên dụng
và các TXH lâm thời. Theo quan điểm của các nhà Việt ngữ trước đây trong
các giáo trình và sách nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt, Cao Xuân Hạo cho
rằng: “Bên cạnh nhóm đại từ nhân xưng đích thực dùng trong xưng hô, người
Việt còn dùng các “đại từ nhân xưng lâm thời” gồm các danh từ thân tộc,
danh từ chỉ chức vụ, nghề nghiệp để xưng hô” [19;11]. Còn Diệp Quang Ban
quan niệm: “Bên cạnh các nhân xưng từ đích thực, trong xưng hô người Việt
còn sử dụng các lớp từ sau: Danh từ chỉ quan hệ thân tộc; danh từ chỉ chức
vụ; một số từ, tổ hợp từ khác” [1;17]. Ông cũng nhấn mạnh: “Trong xưng hô,
chính lớp từ thứ hai tức danh từ chỉ quan hệ thân tộc cho thấy rõ nhất nghĩa
liên nhân của nhân xưng từ trong tiếng Việt” [1;21].
Trong thực tế giao tiếp, người Việt thường mượn các từ chỉ quan hệ gia
đình, nghề nghiệp, chức vụ, học hàm, học vị… để xưng gọi, đặc biệt là các từ
chỉ quan hệ gia đình chiếm số lượng lớn và xuất hiện trong nhiều môi trường
hoạt động của con người. Trong giao tiếp, người Việt có xu hướng “thân tộc
hóa” khi hô gọi. Bởi vì, trong giao tiếp, người nói thường hướng tới người


15
đối thoại với hai thái độ: lịch sự hoặc không lịch sự, gắn với bốn kiểu sắc thái
biểu cảm: trang trọng, trung hòa, thân mật, suồng sã và thô tục, khinh thường.
Trong khi đó, các ĐTNX đích thực trong tiếng Việt ít mang sắc thái trung
tính chủ yếu mang sắc thái không lịch sự. Mặt khác, trong giao tiếp, xưng hô
thường thể hiện ở hai phạm vi: Xưng hô trong gia tộc và xưng hô ngoài xã
hội. Hơn nữa, điểm đặc biệt trong giao tiếp của người Việt là quan hệ giữa
người và người trong gia tộc chuyển thành quan hệ giữa người với người theo
chuẩn mực xã hội, chuẩn mực xã hội chi phối việc lựa chọn từ ngữ xưng hô
của các cá nhân trong giao tiếp.

Từ thân tộc là các từ chỉ những người trong gia đình, họ hàng thuộc các
thế hệ, lớp tuổi, thứ bậc tôn ti (riêng bốn từ: vợ, chồng, dâu, rể không dùng).
Đó là các từ: ông, bà, bố, mẹ, anh, chị, em, chú, bác, cô, dì, con, cháu… và cả
một số danh từ chỉ bạn bè hay ngôi thứ như: bạn, đồng chí, ngài, vị… được
dùng trong xưng hô. Khi trở thành TXH, các từ thân tộc đã biểu thị vị trí của
các nhân vật trong giao tiếp là người nói, người nghe hay người được nói tới.
Đó chính là phạm trù ngôi. Hơn nữa, từ thân tộc không chỉ nhằm biểu thị
phạm trù ngôi mà còn nhằm thông báo gián tiếp về tuổi tác, vị thế xã hội, tình
cảm…giữa các nhân vật tham gia giao tiếp.
1.3. Từ xưng hô trong tiếng Việt
1.3.1. Từ xưng hô chuyên dụng - đại từ nhân xưng
Trong tiếng Việt, khi nói đến các TXH người ta thường nhắc tới các
nhóm từ: ĐTNX: tôi, tao, mày, nó, hắn… và được gọi là các từ xưng hô
chuyên dụng (TXHCD) vì chức năng chính, chủ yếu là xưng hô; từ thân tộc
(TTT): cha, mẹ, ông,bà, anh, chị em…..; từ ngữ chỉ chức vụ, nghề nghiệp:
giáo sư, tiến sĩ, giám đốc, hiệu trưởng, bác sĩ… Các từ này được gọi là từ
xưng hô lâm thời.
Trong tiếng Việt, ĐTNX có thể được phân thành 3 loại (theo các ngôi
giao tiếp):
+ Đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất (chỉ người đang nói):


16
Số ít: tôi, tao, tớ, mình, ta…
Số nhiều: chúng tôi, chúng tao, chúng tớ…
+ Đại từ nhân xưng ngôi thứ hai (chỉ người đang giao tiếp cùng):
Số ít: mày…
Số nhiều: chúng mày,chúng ta…
+ Đại từ nhân xưng ngôi thứ ba (chỉ những người không tham gia giao
tiếp nhưng được nhắc đến trong cuộc giao tiếp):

Số ít: nó, hắn, y...
Số nhiều: họ, chúng, chúng nó…
Đại từ xưng hô chuyên dụng trong tiếng Việt không chỉ dùng để xưng
hô mà còn dùng để bày tỏ quan hệ (xấu hay tốt, chính thức hay không chính
thức, thân mật hay xa lạ) của các vai giao tiếp. Ý nghĩa trực tiếp của các
ĐTNX đựợc xác định trong những hoàn cảnh giao tiếp cụ thể (phụ thuộc vào
văn cảnh).
1.3.2. Từ xưng hô không chuyên dụng
TXH không chuyên dụng là những từ thuộc các nhóm từ loại khác
nhưng được sử dụng như ĐTXH. Đó là các từ ngữ chỉ quan hệ thân thuộc: cụ,
ông, bà, bố, mẹ, chú, bác, thím, cô, cậu, mợ, dì, anh, chị, ... Nguyên tắc chung
để sử dụng các từ ngữ chỉ thân tộc từ này là căn cứ vào vai giao tiếp (vị thế
của các vai giao tiếp), tức người đóng vai giao tiếp có quan hệ với nhau như
thế nào thì sử dụng từ xưng hô như thế. Các từ ngữ chỉ thân tộc có thể được
sử dụng để xưng hô trong gia đình, gia tộc nhưng cũng có thể sử dụng để
xưng hô trong xã hội. Trong giao tiếp xã hội, tùy theo vị thế xã hội và mối
quan hệ liên cá nhân giữa các vai giao tiếp mà người tham gia giao tiếp lựa
chọn những cách xưng hô thích hợp.
Một số từ ngữ được dùng để xưng hô một cách chính thức, như bạn,
đồng chí, ngài, vị, và những từ ngữ chỉ chức vụ, nghề nghiệp, học hàm, học
vị, như giám đốc, thủ trưởng, bộ trưởng, thủ tướng, thày giáo, cô giáo, bác sĩ,
giáo sư, tiến sĩ,… cũng được dùng làm đại từ chỉ ngôi (ngôi thứ hai).


17
Một số danh từ chỉ tên riêng của các nhân vật tham gia giao tiếp: Huệ,
Hồng, Hoa, Thơm, Nghi… Nhiều trường hợp các tên riêng của các nhân vật
được dùng kết hợp với các danh từ thân tộc, danh từ chỉ nghề nghiệp: em
Hoa, anh Nghi, bác sĩ Thơm…
ĐTNX ở ngôi thứ ba số ít có thể được tạo ra bằng cách kết hợp từ “ta”

hoặc “ấy” với các từ chỉ quan hệ thân thuộc. Ví dụ: ông ta/ông ấy, bà ta/bà
ấy, chị ta/chị ấy. Đại từ hắn cũng có thể kết hợp với ta để tạo thêm đại từ
“hắn ta” ở ngôi thứ ba.
Các TXH trong tiếng Việt rất đa dạng và mang màu sắc biểu cảm.
Người nói cần sử dụng các TXH sao cho phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp,
mục đích giao tiếp, nội dung giao tiếp, đối tượng tham dự giao tiếp và các
mối quan hệ liên cá nhân. Do vậy, “Từ xưng hô không chỉ là công cụ để
người nói thực hiện cái việc không thể không làm là đưa mình và người đối
thoại với mình vào diễn ngôn, mà còn là công cụ để người nói tự mình câu
thúc (bó buộc) mình và câu thúc người trong một kiểu quan hệ liên cá nhân
nhất định” [4; 75].
1.4. Nhân vật và ngôn ngữ nhân vật trong hội thoại
1.4.1. Khái niệm nhân vật
Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Nhân vật là yếu tố cơ bản nhất trong
tác phẩm văn học, là tiêu điểm để bộc lộ chủ đề, tư tưởng của tác phẩm và
đến lượt mình nó lại được các yếu tố có tính chất hình thức của tác phẩm
khắc họa” [ 17; 28].
Nhân vật trong văn học là một đơn vị nghệ thuật, mang tính ước lệ, qua
nhân vật nhà văn muốn phản ánh đời sống, thể hiện tư tưởng, tình cảm của
mình. Chức năng của nhân vật là do nhà văn ngầm quy định. Đó có thể là
chức năng khái quát quy luật cuộc sống con người, những suy nghĩ, ước ao,
kì vọng của con người, cho nên nhà văn xây dựng nhân vật là để thể hiện
những cá nhân nhất định và quan niệm đánh giá về cá nhân đó. Đó cũng có
thể là chức năng khái quát tính cách số phận con người (tính cách nhân vật là


×