Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Luận văn thạc sĩ Đặc điểm vốn từ của trẻ mẫu giáo bé

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (29.85 MB, 116 trang )

Edited with the trial version of
Foxit Advanced PDF Editor
To remove this notice, visit:
www.foxitsoftware.com/shopping

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

UBND THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG

ĐẶC ĐIỂM VỐN TỪ CỦA TRẺ MẪU GIÁO BÉ
Ở MỘT SỐ TRƯỜNG MẦM NON QUẬN KIẾN AN,
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

CHUYÊN NGÀNH: NGÔN NGỮ VIỆT NAM
MÃ SỐ: 60.22.01.02

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THỊ HIÊN

HẢI PHÒNG - 2016


Edited with the trial version of
Foxit Advanced PDF Editor
To remove this notice, visit:
www.foxitsoftware.com/shopping

i


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn này là trung thực và chưa từng được ai công
bố trong bất kì công trình nào khác. Các thông tin trích dẫn trong luận văn
đều đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Hải Phòng, ngày 06 tháng 01 năm 2017
Tác giả luận văn


Edited with the trial version of
Foxit Advanced PDF Editor
To remove this notice, visit:
www.foxitsoftware.com/shopping

ii
LỜI CẢM ƠN

Trong suốt thời gian theo học tại trường Đại học Hải Phòng và đặc biệt
là trong khoảng thời gian thực hiện luận văn tốt nghiệp, tôi đã nhận được sự
giúp đỡ hết lòng về mặt vật chất, tinh thần, kiến thức và những kinh nghiệm
qúi báu từ gia đình, thầy cô, bạn bè. Qua đây tôi xin gửi lời cảm ơn chân
thành đến:
Gia đình - những người luôn giúp đỡ tôi về mọi mặt để tôi có thể hoàn
thành nhiệm vụ một cách tốt nhất;
Qúy Thầy, Cô giảng dạy chuyên ngành Ngôn ngữ học Việt Nam khóa 6
tại trường Đại học Hải Phòng, những người đã hết lòng truyền đạt kiến thức
và những kinh nghiệm qúy báu cho chúng tôi;
Tiến sĩ Nguyễn Thị Hiên, người đã tận tình hướng dẫn, động viên và
giúp đỡ tôi trong suốt thời gian thực hiện luận văn tốt nghiệp;

Các anh chị học viên trong lớp Cao học Ngôn ngữ Việt Nam khóa 6 và
các bạn đồng nghiệp đã ủng hộ, giúp đỡ, chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm và tài
liệu cho tôi trong quá trình nghiên cứu và thực hiện Luận văn này;
Cuối cùng xin kính chúc sức khỏe tới qúy thầy cô, gia đình và các
anh chị học viên.
Hải Phòng, ngày 06 tháng 01 năm 2017
Tác giả luận văn


iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................ii
MỤC LỤC ............................................................................................................ iii
DANH MỤC BẢNG BIỂU ................................................................................... v
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1.CƠ SỞ LÍ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU.... 10
1.1. Một số vấn đề lí thuyết về từ tiếng Việt ........................................................ 10
1.1.1. Khái niệm từ tiếng Việt .............................................................................. 10
1.1.2. Một số đặc điểm ngữ pháp của từ tiếng Việt ............................................. 11
1.1.3. Đặc điểm ngữ nghĩa của từ tiếng Việt ....................................................... 15
1.2. Đặc điểm tâm lí của trẻ mẫu giáo bé............................................................. 22
1.2.1. Sự phát triển hoạt động và giao tiếp của trẻ 3-4 tuổi ................................. 22
1.2.2. Sự phát triển chú ý, ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo bé .................................... 23
1.2.3. Đặc điểm phát triển tư duy của trẻ mẫu giáo bé ........................................ 23
1.3. Đặc điểm phát triển vốn từ của trẻ mẫu giáo bé ........................................... 24
1.3.1. Vốn từ của trẻ mẫu giáo bé xét về mặt số lượng và cấu tạo ...................... 24
1.3.2. Đặc điểm nắm nghĩa từ của trẻ mẫu giáo bé .............................................. 25
1.4. Tiểu kết chương 1.......................................................................................... 27
CHƯƠNG 2.KHẢO SÁT VỐN TỪ CỦA TRẺ MẪU GIÁO BÉ Ở MỘT SỐ

TRƯỜNG MẦM NON QUẬN KIẾN AN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG .......... 29
2.1. Khái quát chung về việc khảo sát vốn từ của trẻ .......................................... 29
2.2. Kết quả khảo sát vốn từ của trẻ mẫu giáo bé ................................................ 29
2.2.1. Vốn từ của trẻ mẫu giáo bé xét về mặt số lượng ....................................... 29
2.2.2. Vốn từ của trẻ xét về mặt cấu tạo............................................................... 33
2.2.3. Vốn từ của trẻ xét về mặt từ loại ................................................................ 40
2.2.4. Đặc điểm vốn từ của trẻ mẫu giáo bé xét về mặt ngữ nghĩa...................... 48
2.2.5. Vốn từ của trẻ mẫu giáo bé xét theo góc độ giới tính ......................... 55


iv
2.3. Tiểu kết chương 2.......................................................................................... 59
CHƯƠNG 3.ĐỀ XUẤT MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN VỐN TỪ CHO TRẺ
MẪU GIÁO BÉ Ở QUẬN KIẾN AN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG ............................... 61
3.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển vốn từ của trẻ mẫu giáo bé ............ 61
3.1.1. Các yếu tố sinh lý thần kinh ....................................................................... 61
3.2.2. Yếu tố môi trường sống của trẻ .................................................................. 61
3.2. Một số đề xuất về biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ .................................. 63
3.2.1. Xây dựng môi trường ngôn ngữ tích cực giúp trẻ phát triển vốn từ .......... 64
3.2.2. Tổ chức các hoạt động theo hướng phát huy tính tích cực trong vốn từ ở
trẻ thông qua chế độ sinh hoạt trong ngày ........................................................... 65
3.2.3. Tổ chức hoạt động học để phát triển vốn từ cho trẻ .................................. 69
3.2.4. Phối hợp với phụ huynh học sinh để phát triển vốn từ cho trẻ............................ 72
3.3. Tiểu kết chương 3.......................................................................................... 74
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 75
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 77


v
DANH MỤC BẢNG BIỂU


Số hiệu
bảng
2.1

2.2

2.3

2.4

2.5

Tên bảng
Kết quả khảo sát vốn từ của trẻ mẫu giáo bé
xét số lượng
Kết quả khảo sát vốn từ của trẻ mẫu giáo bé xét
về mặt cấu tạo
Kết quả khảo sát vốn từ của trẻ mẫu giáo bé xét
về mặt từ loại
Kết quả khảo sát vốn từ của trẻ mẫu giáo bé xét
về phương diện nghĩa qua các chủ đề
Kết quả khảo sát khả năng hiểu nghĩa của những
từ chỉ khái niệm ở trẻ mẫu giáo bé

Trang
30

33


41

49

52

Kết quả khảo sát vốn từ vựng của trẻ mẫu giáo
2.6

bé 3- 4 tuổi theo giới tính qua một số mẫu vật
quen thuộc

56


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Ngôn ngữ có vai trò quan trọng trong xã hội loài người. Những kho
tàng văn hóa, tri thức, những kinh nghiệm lịch sử được chứa đựng trong ngôn
ngữ. Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp cơ bản và quan trọng của con người;
nhờ có ngôn ngữ mà con người có thể trao đổi thông tin với nhau một cách
nhanh chóng, đầy đủ, từ đó có thể hiểu nhau, chia sẻ giúp đỡ nhau, biểu thị
mong muốn và nhu cầu với thế giới xung quanh. Hơn thế, ngôn ngữ còn là
công cụ của tư duy, là chìa khóa vạn năng để chúng ta mở kho tàng tri thức
của nhân loại. Ngôn ngữ càng mở rộng thì tri thức thu được càng lớn, đồng
nghĩa với việc cá nhân ngày càng hoàn thiện, xã hội ngày càng phát triển
mạnh mẽ.
1.2. Từ là đơn vị cơ bản, đơn vị đặc trưng tiêu biểu của hệ thống ngôn
ngữ, là cơ sở cho ngôn ngữ thực hiện tốt chức năng làm công cụ giao tiếp và tư

duy của con người. Vốn từ ngữ của một cá nhân phản ánh sự nắm bắt hiện thực,
năng lực tư duy, năng lực trí tuệ của cá nhân đó. Phải thường xuyên bồi dưỡng,
bổ sung, mở rộng phát triển vốn từ ngữ của mỗi cá nhân cũng như vốn từ vựng
chung của toàn xã hội nhằm đảm bảo cho từ vựng của tiếng Việt phản ánh đầy
đủ và kịp thời những sự vật, khái niệm mới nảy sinh trong hiện thực đời sống.
Chính vì thế, khi bàn về quá trình rèn luyện toàn diện của việc dạy văn, cố Thủ
tướng Phạm Văn Đồng đã nói: “Trong ngôn ngữ thì từ là quan trọng nhất, rồi
đến câu, rồi đến văn, cho nên dạy từ là rất cần thiết, phải hiểu tất cả ý nghĩa của
từ, ý nghĩa sâu xa, ý nghĩa phong phú, phải hiểu mọi cách dùng từ”.
1.3. Các nghiên cứu tâm lí học và tâm lí - ngôn ngữ học đã chỉ ra rằng,
vốn từ ngữ cá nhân ở mỗi độ tuổi đều có những đặc điểm phát triển riêng.
Trong đó, độ tuổi trẻ mầm non là giai đoạn mà ngôn ngữ có sự phát triển
nhanh về cả ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp. Trẻ có bước nhảy vọt về số lượng
từ và yếu tố văn hóa, xã hội ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển vốn từ của
trẻ. Đối với trẻ mầm non, ngôn ngữ là phương tiện nhận thức thế giới xung


2
quanh, là cơ sở của mọi sự suy nghĩ, là công cụ của tư duy. Trẻ có nhu cầu
tìm hiểu mở rộng hiểu biết về thế giới xung quanh, sự phát triển của ngôn ngữ
giúp cho hoạt động trí tuệ, các thao tác tư duy ngày càng được hoàn thiện,
kích thích trẻ tích cực sáng tạo hoạt động trí tuệ. Đặc biệt, ngôn ngữ còn là
phương tiện để điều khiển, điều chỉnh hành vi, rèn luyện những phẩm chất
đạo đức tốt, những nguyên tắc, tình cảm và hành vi đạo đức phù hợp với xã
hội mà trẻ đang sống. Từ đó, ngôn ngữ cũng giúp trẻ lĩnh hội các giá trị chuẩn
mực của xã hội để hình thành, phát triển toàn diện nhân cách. Bởi vậy, phát
triển ngôn ngữ, đặc biệt là phát triển vốn từ ngữ cho trẻ ở lứa tuổi này là vô
cùng cần thiết.
1.4. Giáo dục ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo được thực hiện từ trong môi
trường giáo dục gia đình, đến các môi trường giao tiếp ngoài xã hội, song nếu

được thực hiện trong môi trường giáo dục của trường mầm non với sự tổ chức
khoa học, hợp lý của các hoạt động giáo dục sẽ mang lại hiệu quả cao trong
việc phát triển ngôn ngữ và mở rộng vốn từ cho trẻ mẫu giáo nói chung và trẻ
mẫu giáo bé nói riêng. Tuy nhiên, trong các nghiên cứu về giáo dục ngôn ngữ
cho trẻ mẫu giáo nói chung và nghiên cứu về giáo dục, phát triển ngôn ngữ
cho trẻ mẫu giáo ở thành phố Hải Phòng nói riêng chưa có nhiều công trình
đánh giá hệ thống về thực trạng vốn từ của trẻ mẫu giáo bé, tức là trẻ ở độ
tuổi 3-4 tuổi. Vấn đề cấp thiết là cần có sự nghiên cứu cụ thể, đầy đủ về thực
trạng vốn từ của trẻ mẫu giáo bé làm căn cứ đề xuất các biện pháp phát triển
ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo trong điều kiện của các trường mầm non tại thành
phố Hải Phòng hiện nay.
Từ những lý do trên, với mong muốn nâng cao chất lượng giáo dục ngôn
ngữ nói chung, phát triển và mở rộng vốn từ nói riêng cho trẻ mẫu giáo bé ở các
trường mầm non trên địa bàn quận Kiến An, thành phố Hải Phòng hiện nay, chúng
tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài:“Đặc điểm vốn từ của trẻ mẫu giáo bé ở một số
trường mầm non quận Kiến An, thành phố Hải Phòng”.


3
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Loài người ngay từ thuở sơ khai đã sáng tạo ra ngôn ngữ, một hệ thống
tín hiệu đặc biệt, dùng làm phương tiện cơ bản và quan trọng nhất trong giao
tiếp giữa các thành viên trong cộng đồng người, cũng từ đó ngôn ngữ được
phát triển cùng với sự phát triển của xã hội loài người. Ngôn ngữ chính là một
trong các yếu tố nâng tầm của con người lên vượt xa về chất so với mọi giống
loài khác.
Trong quá trình phát triển của mỗi cá nhân, sự phát triển ngôn ngữ diễn ra
nhanh nhất ở giai đoạn từ 0 đến 6 tuổi (lứa tuổi mầm non). Từ chỗ sinh ra chưa
có ngôn ngữ, đến cuối 6 tuổi - chỉ một khoảng thời gian rất ngắn so với cả một
đời người, trẻ đã có thể sử dụng thành thạo tiếng mẹ đẻ trong sinh hoạt hàng

ngày. Đây chính là giai đoạn phát cảm về ngôn ngữ, ở giai đoạn này, nếu không
có những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển ngôn ngữ thì sau này khó có thể
phát triển tốt được. Chính vì vậy, nghiên cứu về ngôn ngữ và sự phát triển ngôn
ngữ cho trẻ lứa tuổi mầm non luôn được các nhà ngôn ngữ học, tâm lí học và
giáo dục học quan tâm. Trong phạm vi của đề tài, chúng tôi tổng hợp một số kết
quả nghiên cứu sau:
2.1. Những nghiên cứu về Ngôn ngữ học
Những nghiên cứu về ngôn ngữ trẻ em và sự phát triển của ngôn ngữ
trẻ em được gắn liền với những nghiên cứu tâm lý - ngôn ngữ học. Tác giả
Nguyễn Huy Cẩn trong Luận án PTS Ngôn ngữ học Quá trình hình thành và
phát triển ngôn ngữ trẻ em (1986), khi tổng kết tình hình chung của các bộ
môn có tính liên ngành ở Việt Nam đã nhận xét rằng vấn đề về tâm lý ngôn
ngữ học trong những thập niên gần đây đã thu hút sự chú ý của nhiều nhà
nghiên cứu. Trong một số giáo trình đại học và sách chuyên khảo đã đề cập
đến các vấn đề tâm lý ngôn ngữ học trong đó có những vấn đề về qui luật tâm
lí của quá trình tiếp nhận và tạo lập ngôn ngữ, lời nói.
Trong ngôn ngữ học và tâm lý học, vấn đề phát triển ngôn ngữ của trẻ
em trước tuổi đi học đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm đến. Nói đến sự


4
phát triển ngôn ngữ của trẻ, người ta thường đề cập đến sự phát triển về các
mặt: ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp và ngôn ngữ mạch lạc. Tất cả các yếu tố
ngôn ngữ đó sẽ giúp trẻ diễn đạt ý nghĩ, biểu lộ cảm xúc, trao đổi tư tưởng,
tình cảm … với các trẻ cùng lớp và những người xung quanh ngày một chuẩn
xác hơn, đa dạng hơn. Cụ thể, cho đến nay, các nhà ngôn ngữ học đã không
chỉ xác định được cơ sở tâm lý ngôn ngữ học của sự tiếp thu ngôn ngữ ở trẻ
em người Việt, mà còn nêu lên những đặc điểm tổ chức và hoạt động của khả
năng ngôn ngữ trẻ em.
Trong cuốn “Tâm lý ngôn ngữ học và việc nghiên cứu ngôn ngữ ở trẻ

em Việt Nam”, các nhà ngôn ngữ học đã tổng kết những thành tựu trong việc
nghiên cứu ngôn ngữ trẻ em Việt Nam không chỉ trên phương diện “định
lượng” là quá trình phát triển của các phương diện ngữ âm, ngữ pháp, ngữ
nghĩa của trẻ em mà còn nêu lên những đặc trưng của quá trình tiếp thu và sản
sinh phát ngôn của trẻ em Việt. Đó là sự hình thành và phát triển các cấu trúc
nền tảng thuộc các cấp độ ngữ âm, ngữ nghĩa, ngữ pháp được biểu hiện trong
các giai đoạn phát triển sớm trong hoạt động lời nói của trẻ em. Các nhà
nghiên cứu cho rằng: Sự sản sinh phát ngôn lời nói ở trẻ em gắn liền với sự tri
nhận của trẻ đối với thế giới xung quanh, mà trực tiếp là tri nhận về hoạt động
thực tiễn của đứa trẻ cũng như những thao tác của chúng đối với đối tượng.
Tác giả Đoàn Thiện Thuật với các công trình Nghiên cứu ngôn ngữ trẻ em
trước tuổi học đường; Dạy nói cho trẻ em câm điếc (đề tài cấp nhà nước 19721974) và rất nhiều những bào báo, chuyên khảo được đăng trên tạp chí Ngôn
ngữ học cũng về lĩnh vực ngôn ngữ trẻ em đã phân tích, làm rõ khả năng ngôn
ngữ của trẻ trên các lĩnh vực âm vị, ngữ pháp, ngữnghĩa và giao tiếp…
Đặc biệt, các nhà nghiên cứu đã tập trung miêu tả tỉ mỉ các hiện tượng
xuất hiện ngôn ngữ tự nhiên cũng như quá trình hình thành và phát triển ngôn
ngữ của trẻ lứa tuổi mẫu giáo; tiêu biểu là những các công trình của Nguyễn Huy
Cẩn, Từ hoạt động đến ngôn ngữ trẻ em; của Lưu Thị Lan, Những bước phát
triển ngôn ngữ trẻ em từ 1 - 6 tuổi; hay Khả năng tạo câu của trẻ 3 - 7 tuổi…


5
Bên cạnh đó, các vấn đề về sự sản sinh và tiếp thu ngôn ngữ, về mối
quan hệ giữa sự phát triển ngôn ngữ và sự phát triển tư duy, giữa các hoạt
động - hành động ngôn ngữ của trẻ em... cũng đã thu hút sự chú ý, quan tâm
nghiên cứu của ngôn ngữ học hiện đại.
2.2. Những nghiên cứu về Giáo dục Mầm non
Nghiên cứu ngôn ngữ của trẻ em từ chuyên ngành Giáo dục mầm non
có sự tham gia đóng góp của đông đảo các nhà sư phạm, các gáo viên trực
tiếp đứng lớp. Trong đó phải kể đến các tác giả tiêu biểu như: Nguyễn Ánh

Tuyết, Phan Trọng Ngọ, Đinh Hồng Thái, Tạ Thị Ngọc Thanh, Nguyễn Xuân
Khoa, Hồ Lam Hồng, Võ Phan Thu Hương…
Nhìn chung, ngôn ngữ của trẻ em trước tuổi học đường được các nhà
giáo dục tập trung mô tả khá tỉ mỉ. Các hiện tượng xuất hiện ngôn ngữ tự
nhiên của trẻ trong từng độ tuổi; quá trình hình thành và phát triển ngôn ngữ
tự nhiên của trẻ về mặt ngữ âm, ngữ pháp và từ vựng được nghiên cứu trong
các công trình tiêu biểu như: Quá trình hình thành và phát triển ngôn ngữ trẻ
em, Tiếng nói của trẻ thơ,… Các công trình này đã có những đóng góp vào
khoa học giáo dục mầm non, giáo dục trẻ em trước tuổi đi học và đào tạo giáo
viên mầm non. Nhóm tác giả và các công trình nghiên cứu này đã tổng hợp
các phương pháp phát triển ngữ âm, vốn từ, ngữ pháp cũng như các hình thức
phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ ở lứa tuổi mầm non.
Bên cạnh đó, phải kể đến một số công trình đi sâu vào nghiên cứu thực
trạng khả năng ngôn ngữ của trẻ em ở từng mặt như: Hiện trạng phát âm của
học sinh mẫu giáo hay Những yếu tố ảnh hưởng đến việc hình thành và phát
triển vốn từ của trẻ 1 đến 3 tuổi, Mối quan hệ giữa phát triển ngôn ngữ và
khả năng nắm vững chuyện kể ở trẻ 3 đến 4 tuổi, Dạy trẻ phát âm đúng và
làm giàu vốn từ của trẻ...Với các công trình này, các nhà sư phạm quan tâm
tới các phương pháp và biện pháp phát triển từng mặt trong năng lực ngôn
ngữ của trẻ. Cụ thể hơn, có thể điểm qua một số tác giả và công trình nghiên
cứu sau:


6
Tác giả Lưu Thị Lan (1986), Bùi Việt Anh (1989),…đã đi sâu nghiên
cứu sự phát triển ngôn ngữ của trẻ em theo từng giai đoạn 24 - 36 tháng, 3
tuổi, 4 - 5 tuổi, 1 - 3 tuổi, 3 - 5 tuổi.
Nghiên cứu về vốn từ, khả năng hiểu từ, ngữ pháp của trẻ em ở các độ
tuổi khác nhau có công trình của tác giả Dương Diệu Hoa (1985), Nguyễn
Minh Huệ (1989), Hồ Minh Tâm (1989),...

Tác giả Nguyễn Ánh Tuyết, Phạm Hoàng Gia, Đoàn Thị Tâm với Tâm
lí trẻ em lứa tuổi mầm non đã tiến hành nghiên cứu sự phát triển tâm lí của trẻ
mầm non qua các giai đoạn lứa tuổi.
Các tác giả Nguyễn Quang Ninh, Bùi Kim Tuyến, Lưu Thị Lan, Nguyễn
Thanh Hồng với công trình Tiếng Việt và phương pháp phát triển lời nói cho trẻ;
tác giả Đinh Hồng Thái với các giáo trình Phương pháp phát triển lời nói cho trẻ
em và Phương pháp phát triển ngôn ngữ tuổi mầm non… đã trình bày một cách hệ
thống và sâu sắc các cơ sở ngôn ngữ học của Tiếng Việt và những đặc điểm ngôn
ngữ của trẻ mẫu giáo. Trên cơ sở đó, các tác giả đã xây dựng các phương pháp
phát triển và hoàn thiện lời nói cho trẻ.
Đặc biệt, trong công trình Những bước phát triển ngôn ngữ của trẻ từ 1
- 6 tuổi, Luận án Phó Tiến sĩ, tác giả Lưu Thị Lan đã nghiên cứu xác lập các
bước, giai đoạn hình thành phát triển ngôn ngữ cho trẻ từ 1 đến 6 tuổi. Luận
án đã chỉ rõ các bước phát triển về ngữ âm của trẻ em Việt Nam bắt đầu từ
giai đoạn tiền ngôn ngữ (0-1 tuổi), giai đoạn ngôn ngữ (1- 6 tuổi), về mặt ngữ
âm có những bước tiến dài đặc biệt là giai đoạn 3 - 6 tuổi. Các bước phát triển
về từ vựng được tác giả thống kê từng lứa tuổi với số lượng từ tối thiểu và số
lượng từ tối đa. Từ các kết quả nghiên cứu, tác giả khẳng định từ 18 tháng
tuổi trở đi, trẻ có bước nhảy vọt về số lượng từ và yếu tố văn hóa, xã hội ảnh
hưởng trực tiếp đến sự phát triển vốn từ của trẻ.
Trong cuốn Dạy trẻ phát âm đúng và làm giàu vốn từ của trẻ, tác giả
Tạ Thị Ngọc Thanh đã tổng hợp nhiều kết quả nghiên cứu về những đặc điểm
phát âm và vốn từ của trẻ; của phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ, cũng


7
như các hình thức dạy trẻ kể chuyện thông qua xem tranh ảnh, vui chơi, dạo
chơi, tham quan; phương pháp kể sáng tạo truyện cổ tích thần kỳ; phương
pháp phát triển ngôn ngữ mạch lạc, trong đó kể chuyện được xem như là một
biện pháp phát triển hữu hiệu đối với trẻ em trước tuổi học nói chung và trẻ 34 tuổi nói riêng.

Nhìn chung việc nghiên cứu ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo về vốn từ, ngữ
âm, ngữ điệu, ngữ pháp được các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu ở nhiều
mặt, nhiều lứa tuổi khác nhau. Tất cả những nghiên cứu này đều chứng tỏ rằng
ngôn ngữ là một điều kiện hết sức quan trọng và rất cần thiết. Để từ đó chúng
ta có thể giúp trẻ có sự phát triển ngôn ngữ một cách đầy đủ về các mặt. Đó
cũng là phương tiện cơ bản nhất, quan trọng nhất để trẻ phát triển tư duy, hình
thành và phát triển nhân cách; là công cụ để trẻ giao tiếp, học tập, vui
chơi,…Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu trên cũng cho thấy các nhà
nghiên cứu quan tâm phần nhiều tới phương pháp và biện pháp giáo dục, phát
triển ngôn ngữ về số lượng (sử dụng nhiều từ, nói được nhiều đoạn, câu…),
còn chất lượng ngôn ngữ, ý nghĩa nội dung của ngôn ngữ, khả năng ngữ dụng
của trẻ mầm non… vẫn còn là những khoảng trống và đang còn nhiều điều cần
được tiếp tục nghiên cứu.
3. Mục đích nghiên cứu
Qua việc nghiên cứu lí luận và khảo sát về thực trạng đặc điểm vốn từ
của trẻ mẫu giáo bé (3-4 tuổi) ở một số trường mầm non trên địa bàn quận
Kiến An, thành phố Hải Phòng, đề tài hướng đến việc đánh giá đặc điểm vốn
từ của trẻ mẫu giáo bé về mặt số lượng, cấu tạo, từ loại và mặt ngữ nghĩa, giới
tính. Từ đó đề tài đề xuất một số biện pháp phát triển, mở rộng vốn từ cho trẻ
mấu giáo bé (3- 4 tuổi).
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trong luận văn này, chúng tôi tiến hành các nhiệm vụ nghiên cứu sau:
4.1. Nghiên cứu, tổng hợp những cơ sở lí luận liên quan đến đề tài thuộc các lĩnh
vực từ vựng - ngữ nghĩa học, tâm lí và tâm lí - ngôn ngữ học, giáo dục học.
4.2. Khảo sát và đánh giá đặc điểm vốn từ của trẻ mẫu giáo bé (3-4 tuổi)
ở một số trường mầm non tại quận Kiến An, thành phố Hải Phòng về các


8
phương diện ngôn ngữ học.

4.3. Đề xuất một số biện pháp nhằm góp phần phát triển, mở rộng vốn từ
và nâng cao khả năng sử dụng từ cho trẻ mẫu giáo bé.
5. Đối tượng – phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài xác định đối tượng nghiên cứu là đặc điểm vốn từ của trẻ mẫu
giáo bé từ 3-4 tuổi (tức là từ 36- 48 tháng tuổi) ở một số trường mầm non tại
quận Kiến An, thành phố Hải Phòng.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Do điều kiện về thời gian, đề tài giới hạn:
- Số lượng khảo sát: 154 trẻ mẫu giáo bé (3 - 4 tuổi).
Nhóm lớp
Tên trường
Trường Mầm non
Thực hành
Trường Mầm non
Trần Thành Ngọ
Trường Mầm non
Hoa Mai
Tổng

Nhóm lớp
3 tuổi A1
3 tuổi A2

Thời
gian
khảo
sát

Số

lượng
trẻ

Gái

Trai

Gái

Trai

64

17

17

15

15

5 tháng

50

13

13

12


12

5 tháng

40

10

10

10

10

5 tháng

154

- Địa bàn khảo sát: Một số trường mầm non công lập tại quận Kiến An
(Trường Mầm non Thực hành; Trường Mầm non Trần Thành Ngọ; Trường
Mầm non Hoa Mai).
- Thời gian tiến hành: Từ tháng 06 năm 2016 đến tháng 10 năm 2016.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn, chúng tôi sử dụng các phương pháp sau:
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận gồm: Phương pháp tổng hợp,
hệ thống hóa, phân tích tài liệu, thống kê – phân loại.
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Để tiến hành nghiên cứu, thu



9
thập các số liệu khảo sát thực trạng vốn từ của trẻ mẫu giáo bé trên thực tế
như thế nào đồng thời xem xét ảnh hưởng của các yếu tố khách quan và chủ
quan đến sự phát triển vốn từ của trẻ, chúng tôi sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau:
- Phương pháp điều tra (bằng cách trao đổi, nói chuyện trực tiếp với
trẻ, ghi âm, ghi hình…) và phương pháp phỏng vấn.
- Thủ pháp thống kê để thu thập tư liệu.
- Phương pháp miêu tả để khảo sát, phân tích đặc điểm ngữ pháp - ngữ
nghĩa của các đơn vị từ trong vốn từ của trẻ.
Để thu thập tư liệu cho luận văn, bên cạnh việc trao đổi trực tiếp với trẻ,
ghi hình các hoạt động có sử dụng ngôn ngữ của trẻ thì chúng tôi sử dụng
biện pháp ghi âm là chủ yếu. Do tính sinh động của lời nói nên việc nhận diện
đơn vị từ ngữ trong vốn từ hàng ngày của trẻ trong luận văn này có thể ít
nhiều mang tính “chủ quan” của người viết.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận liên quan đến đề tài nghiên cứu
Chương 2. Khảo sát vốn từ của trẻ mẫu giáo bé ở một số trường mầm non
quận Kiến An, thành phố Hải Phòng
Chương 3. Đề xuất một số biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo bé
quận Kiến An, thành phố Hải Phòng


10
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1. Một số vấn đề lí thuyết về từ tiếng Việt
1.1.1. Khái niệm từ tiếng Việt

Xét về mặt cấp độ, từ là đơn vị được cấu tạo trực tiếp từ các hình vị và là
đơn vị trực tiếp cấu tạo nên câu. Từ là đơn vị có sẵn, hiển nhiên, cố định, bắt
buộc, có đặc điểm về hình thức và nội dung. Trong các ngôn ngữ khác nhau,
các đặc điểm về hình thức và nội dung của từ cũng khác nhau. Vì vậy, việc đưa
ra một định nghĩa cụ thể về từ áp dụng cho tất cả các ngôn ngữ (kể cả tiếng
Việt) là điều không thể, ngay cả các định nghĩa về từ tiếng Việt trong các nhà
Việt ngữ học cũng không hoàn toàn giống nhau. Cho đến nay, đã có rất nhiều
công trình nghiên cứu về từ và từ tiếng Việt với khoảng trên 300 định nghĩa
khác nhau. Với mỗi mục đích nghiên cứu, người nghiên cứu nhấn mạnh tới
một phương diện nào đó của từ, có thể điểm qua một số quan niệm sau:
Trong cuốn Từ điển tiếng Việt của tác giả Hoàng Phê đã định nghĩa về
từ như sau: “Từ là đơn vị ngôn ngữ mà bắt đầu từ nó ngôn ngữ mới thực hiện
chức năng giao tiếp và chức năng tư duy…Từ là một đơn vị hai mặt: mặt hình
thức và mặt ý nghĩa”. [30, tr.235].
Tác giả Nguyễn Như Ý, trong cuốn Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ
học, đã khái quát về từ như sau: “Từ là đơn vị cấu trúc, ngữ nghĩa cơ bản của
ngôn ngữ dùng để gọi tên các sự vật và thuộc tính của chúng, các hiện tượng,
các quan hệ của thực tiễn, là một tổng thể các dấu hiệu ngữ âm, ngữ nghĩa và
ngữ pháp đặc trưng cho từng ngôn ngữ”. [39, tr.95].
Theo Nguyễn Thiện Giáp: “Từ của tiếng Việt là một chỉnh thể nhỏ nhất
có ý nghĩa dùng để tạo câu nói; nó có hình thức của một âm tiết, một “chữ”
viết “lời” nói”. [28, tr.204].
Cho tới nay, nhiều công trình nghiên cứu đều thống nhất với định nghĩa
của nhóm tác giả Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến: “Từ
là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa, có kết cấu vỏ ngữ âm bền vững hoàn chỉnh, có


11
chức năng gọi tên; được vận dụng độc lập hay tái hiện tự do trong lời nói để
tạo câu. Từ có thể có một âm tiết hoặc hai, ba âm tiết trở lên”. [19, tr.327].

Với mục đích nghiên cứu về đặc điểm vốn từ của trẻ em lứa tuổi mẫu
giáo, trong đề tài này chúng tôi sử dụng định nghĩa về từ của tác giả Đỗ Hữu
Châu: “Từ của tiếng Việt là một hoặc một số âm tiết cố định bất biến mang
những đặc điểm ngữ pháp nhất định, nằm trong những kiểu cấu tạo nhất
định, tất cả ứng với một kiểu ý nghĩa nhất định lớn nhất trong tiếng Việt và
nhỏ nhất để tạo câu”. [10, tr.246].
1.1.2. Một số đặc điểm ngữ pháp của từ tiếng Việt
1.1.2.1. Đặc điểm cấu tạo của từ tiếng Việt
Mỗi kiểu loại từ có kiểu cấu tạo riêng giúp xác định ngữ nghĩa, ngữ
pháp có nghĩa là từ đơn khác với từ láy, từ ghép về kiểu cấu tạo cho nên các
kiểu loại từ này cũng khác nhau cả về ngữ nghĩa và ngữ pháp.
Trong tiếng Việt, hình vị, từ và cụm từ, câu...về mặt ngữ âm đều là
những âm tiết hoặc những tổ hợp âm tiết, cho nên việc nhận thức một âm tiết
hoặc một tổ hợp âm tiết nào đó có phải là từ hay không có ý nghĩa cực kì
quan trọng đối với việc sử dụng từ và lĩnh hội ý nghĩa của câu nói.
Về nguyên tắc, cấu tạo từ là những vận động trong lòng một ngôn ngữ để
sản sinh ra các từ cho ngôn ngữ, phục vụ những nhu cầu mới về mặt diễn đạt mà
xã hội đặt ra, việc sản sinh ra từ cũng trước hết là sản sinh ra các nghĩa mới.
Trong tiếng Việt, các yếu tố cấu tạo từ là những hình thức ngữ âm có
nghĩa nhỏ nhất, tức là những yếu tố không thể phân chia thành những yếu tố nhỏ
hơn nữa mà cũng có nghĩa được dùng để cấu tạo ra các từ theo phương thức cấu
tạo từ tiếng Việt. Theo đó, về mặt cấu tạo, từ tiếng Việt được chia thành:
Từ đơn là từ được cấu tạo bởi chỉ một tiếng. Từ đơn là do một từ tố tạo
thành và có cấu tạo từ đơn (đơn tiết) hoặc từ đơn (đa âm tiết). Tuy có số
lượng ít nhưng rất quan trọng vì chúng là cơ sở cấu tạo ra những từ phức hiện
đang có xu hướng phát triển rất mạnh, đa số các từ đơn là từ nhiều nghĩa.
Từ ghép là những từ có cấu tạo từ hai tiếng trở lên, giữa các tiếng có


12

quan hệ với nhau về mặt nghĩa. Căn cứ vào quan hệ mặt nghĩa giữa các tiếng
trong từ ghép, người ta chia làm hai loại: từ ghép đẳng lập và từ ghép chính
phụ. Cụ thể:
Từ ghép chính phụ: Là những từ ghép giữa hai từ tố có quan hệ chính
phụ. Nếu kí hiệu từ tố chính là X từ tố phụ là Y thì từ tố phụ là Y có tác dụng
phân hóa nghĩa của từ tố chính X. Đây là kiểu từ ghép có quan hệ bất bình
đẳng với nhau; một từ tố có vai trò chính và một đóng vai trò từ tố phụ; thành
tố chính giữ vai trò trung tâm biểu đạt ý nghĩa...thành tố phụ biểu thị ý nghĩa
hạn định khu biệt sự vật hoạt động trạng thái quá trình được thể hiện ở thành
tố chính.
Từ ghép đẳng lập: Là những từ ghép trong đó các từ tố được ghép bình
đẳng với nhau, không từ tố nào chính, không từ tố nào phụ. Cả hai từ tố ghép
lại với nhau để cho nghĩa mới của toàn bộ từ ghép.
Từ láy là những từ được cấu tạo bởi hai tiếng trở lên, giữa các tiếng có
quan hệ với nhau về mặt âm. Trong từ láy chỉ có một tiếng gốc có nghĩa, các
tiếng khác láy lại tiếng gốc. Từ láy có đặc điểm:
Có hình thức là một âm tiết giống toàn bộ hay giống một phần hình
thức ngữ âm của từ tố cơ sở.
Âm tiết có nghĩa giống toàn bộ hay bộ phận nghĩa của từ tố cơ sở.
Về thanh điệu, nếu từ láy đôi thì có 2 âm tiết có thanh điệu đi với nhau
như nhóm thanh cao và nhóm thanh thấp.
Cả từ tố cơ sở và từ tố láy hợp lại thành từ láy.
1.1.2.2. Đặc điểm về từ loại
Từ loại là những lớp từ có cùng bản chất ngữ pháp, được chia theo ý
nghĩa, theo khả năng kết hợp với các từ ngữ khác trong ngữ lưu và thể hiện
những chức năng ngữ pháp nhất định ở trong câu. Hệ thống từ loại có tính chất
là cơ sở của cơ cấu ngữ pháp một ngôn ngữ nhất định. Bất kì một ngôn ngữ nào
có từ thì ngôn ngữ ấy nhất định sẽ có từ loại. Theo Diệp Quang Ban - Hoàng
Văn Thung, hệ thống từ loại tiếng Việt có thể sắp xếp thành hai nhóm, bao gồm
những từ loại sau đây: Nhóm 1: danh từ, động từ, tính từ; số từ; đại từ. Nhóm 2:

phụ từ (định từ, phó từ); kết từ; tiểu từ (trợ từ và tình thái từ). [1, tr.124].


13
Danh từ : là những từ mang ý nghĩa chỉ thực thể. Danh từ có khả năng
làm thành tố chính trong cụm danh từ; có khả năng kết hợp với các đại từ chỉ
định: này, kia, ấy, nọ,...; có khả năng kết hợp trực tiếp hay gián tiếp với số từ.
Chức năng cú pháp chính của nó là làm chủ ngữ trong câu. Trong đó có: danh
từ riêng (danh từ riêng là tên riêng của từng người, từng sự vật cụ thể và danh
từ chung là từ chỉ tên chung của một chủng loại sự vật, có tính khái quát, trừu
tượng, không có mối liên hệ đơn nhất giữa tên gọi và vật cụ thể được gọi tên).
Động từ: biểu thị ý nghĩa hoạt động, quá trình, trạng thái của đối tượng.
Động từ làm trung tâm trong cụm động từ. Các từ chứng tiêu biểu của động từ
là: hãy, đừng, chớ, đã, đang, sẽ, đều, vẫn, cũng, xong, rồi, nữa,... Chức năng
cú pháp chính là làm vị ngữ trong câu. Dựa vào bản chất nghĩa - ngữ pháp của
động từ, ta có thể chia động từ thành hai loại lớn: những động từ độc lập và
những động từ không độc lập. Động từ độc lập là những động từ tự thân có
nghĩa, chúng có thể dùng độc lập, không cần một động từ khác đi kèm. Nhóm
động từ không độc lập là những động từ biểu thị tình thái vận động, quá trình
nhưng tự thân chưa mang nghĩa trọn vẹn.
Tính từ: là lớp từ chỉ ý nghĩa đặc trưng (đặc trưng của thực thể hay đặc
trưng của quá trình). Tính từ thường làm thành tố trung tâm trong cụm tính từ.
Từ chứng cho tính từ là các phó từ như: rất, hơi, quá, lắm,... Tính từ thường
làm vị ngữ trong câu. Dựa vào nghĩa và khả năng kết hợp của tính từ (về ngữ
pháp) có thể chia tính từ thành các tiểu loại: những tính từ chỉ đặc trưng, tính
chất tuyệt đối (không được đánh giá theo thang độ): Ví dụ: riêng, chung,
công, tư, chính, phụ, công cộng, đỏ lòm, trắng phau, đen sì, xanh mượt,...;
những tính từ chủ đặc trưng thuộc về phẩm chất (được đánh giá theo thang
độ). Tính từ chỉ đặc trưng về màu sắc, mùi vị. Ví dụ: xanh, đỏ, vàng, đậm,
nhạt, thơm, thối, cay, ngọt, nhạt,... Tính từ chỉ tính chất phẩm chất. Ví dụ: tốt,

đẹp, xấu, khéo, vụng, tầm thường, quan trọng, phải, trái, hèn, mạnh, dũng
cảm,... Tính từ chỉ đặc trưng về kích thước, số lượng. Ví dụ: to, nhỏ, nặng,
nhẹ, nhiều, ít, rậm, thưa, ngắn, dài, cao, thấp,... Tính từ chỉ đặc trưng về
cường độ. Ví dụ: mạnh, yếu, nóng, lạnh... Tính từ chỉ đặc trưng về hình thể.
Ví dụ: vuông, tròn, thẳng, gãy, cong, méo, gầy, béo,... Tính từ chỉ đặc trưng


14
về âm thanh. Ví dụ: ồn, im, ồn ào, im lìm,... Tính từ chỉ đặc trưng mô phỏng
(thường là từ láy). Ví dụ: ào ào, đùng đùng, chênh vênh, gập ghềnh,…
Số từ: so với đại từ, số từ gần với thực từ hơn vì nó còn có những nét
nghĩa chân thực. Số từ gồm những từ biểu thị ý nghĩa số. Ý nghĩa số vừa có
tính chất thực, vừa có tính chất hư. Số từ phổ biến là được dùng kèm với danh
từ để biểu thị số lượng sự vật nêu ở danh từ. Số từ có thể có từ kèm bổ nghĩa
cho nó (nhưng hạn chế) như: độ, chừng, khoảng, hơn, ngót,... Có thể đảm
nhiệm một số chức năng cú pháp như chủ ngữ, vị ngữ nhưng không nhiều. Số
từ xác định: gồm những từ chỉ ý nghĩa số luợng chính xác, có thể dùng để đếm,
để tính toán về số lượng của sự vật như: một, hai, ba, năm, trăm, hai phần ba,
bốn phần năm,... Số từ không xác định: biểu thị số không chính xác. Loại này có
số lượng không nhiều lắm. Ví dụ: vài, dăm, mươi, vài ba, đôi ba, dăm ba, một
vài, một hai, ba bảy, hai ba, năm sáu, mấy,...
Đại từ: là lớp từ dùng để thay thế và chỉ trỏ. Nghĩa của đại từ là biểu
thị các quan hệ định vị bao hàm cả nghĩa trỏ và thay thế. Ý nghĩa thay thế ở
đây là thay thế cái đã được gọi tên, cái đã được nói tới và được biết tới trước
đó. Ý nghĩa thay thế là thay thế về mặt cú pháp chứ không thay thế về từ loại.
Đại từ có khả năng kết hợp rất hạn chế. Chức năng cú pháp Đại từ nói chung
có thể đảm nhận được các chức năng cú pháp của thực từ được thay thế.
Phó từ: là hư từ thường dùng kèm với thực từ (động từ, tính từ).
Chúng biểu thị ý nghĩa về quan hệ giữa quá trình và đặc trưng với thực tại,
đồng thời cũng biểu hiện ý nghĩa về cách thức nhận thức và phản ánh các quá

trình và đặc trưng trong hiện thực. Phó từ không có khả năng làm trung tâm
ngữ nghĩa - ngữ pháp trong kết hợp thực từ và trong cấu tạo thành phần câu.
Nói chung, có thể dùng phó từ làm từ chứng để phân loại động từ và tính từ.
Trợ từ: là từ loại biểu thị ý nghĩa tình thái bằng cách nhấn mạnh vào từ,
kết hợp từ…có nội dung phản ánh liên quan đến thực tại mà người nói muốn
lưu ý người nghe. Chúng được dùng để nhấn mạnh vào một chi tiết nào đó hoặc


15
để biểu thị sự đánh giá của người nói đối với một sự tình trong câu. Trợ từ không
có khả năng làm trung tâm trong cụm từ, nó có thể đứng trước từ mà nó bổ sung
ý nghĩa tình thái, không có khả năng làm thành phần câu. Ví dụ: chính, tự, ngay,
cả, những, hàng, đích, đích thị, chỉ, chỉ là, đến, đến cả, đến nỗi, thật ra, thì, là,
mà, cái, ngay cả, ngay như, ngay những, đúng, đúng là,...
Tình thái từ: là từ loại biểu thị ý nghĩa tình thái trong quan hệ của chủ
thể phát ngôn với người nghe hay với nội dung được phản ánh, hoặc ý nghĩa
tình thái gắn với mục đích phát ngôn. Tuy tình thái từ có số lượng không
nhiều nhưng nó mang những sắc thái khá đa dạng. Nhờ nó mà người nói
(người viết) có thể bày tỏ được những sắc thái tình cảm và thái độ tế nhị đối
với người nghe, hoặc đối với nội dung câu nói. Tình thái từ không có mối liên
hệ hình thức với từ đứng trước hoặc sau chúng. Tình thái từ thường làm dấu
hiệu chỉ rõ mục đích phát ngôn của câu. Tình thái từ nghi vấn: à, ư, nhỉ, nhé,
chứ, chăng, hử, hả, không, …; Tình thái từ cầu khiến: đi, thôi, nào, với, kia,
chứ…; Tình thái từ thể hiện thái độ ngạc nhiên: nhỉ, ư,…; Tình thái từ cảm
thán: thấy, sao…; Tình thái từ biểu hiện cảm xúc: a, á, ạ, vậy, mà, cơ, hử,
nhé, đấy…
1.1.3. Đặc điểm ngữ nghĩa của từ tiếng Việt
1.1.3.1. Khái niệm nghĩa của từ
Từ bao gồm hai phương diện: Vỏ âm thanh và nội dung cần biểu hiện,
nghĩa. Trong hai mặt của đơn vị ngôn ngữ này (biểu hiện và được biểu hiện,

hình thức và nội dung), nghĩa thuộc mặt thứ hai.
Các nhà ngôn ngữ học đã đưa ra nhiều cách hiểu về nghĩa của từ.
“Nghĩa” là một khái niệm rất trừu tượng. Đó là khái niệm gắn với tất cả các
đơn vị ngôn ngữ bởi sự tồn tại của ngôn ngữ là nghĩa; không có nghĩa, sự tồn
tại của hình thức âm thanh là không có mục đích.
Nhiều nhà nghiên cứu có cùng quan điểm về “nghĩa” như sau: Hiện
thực phản ánh vào trong nhận thức, tạo nên một mối liên hệ thường trực với


16
một hình thức âm thanh nhất định. Sự phản ánh này được hiện thực hóa bằng
ngôn ngữ, mối liên hệ này được hiểu là nghĩa.
Theo Nguyễn Thiện Giáp: “Nghĩa của từ (cũng như các đơn vị ngôn
ngữ khác) là quan hệ của từ với cái gì đó nằm ngoài bản thân nó. Hiểu nghĩa
của một đơn vị nào đó là hiểu đơn vị ấy có quan hệ với cái gì, tức nó biểu thị
cái gì”. [27, tr.261]. Cần phân biệt nghĩa của từ ngữ với sự hiểu biết về nghĩa
đó. Hiểu biết về nghĩa của đơn vị ngôn ngữ nào đó nằm trong nhận thức của
con người, còn nghĩa của đơn vị ngôn ngữ tồn tại thực sự khách quan trong
lời nói, còn trong nhận thức chỉ có sự phản ánh của những nghĩa đó mà thôi.
Sau khái niệm “nghĩa của từ”, thường có những sự phân biệt: nghĩa đen,
nghĩa bóng, nghĩa hàm ẩn, nghĩa biểu cảm, nghĩa biểu hiện, nghĩa cấu trúc,
nghĩa chính, nghĩa phụ, nghĩa chuyển tiếp, nghĩa gốc, nghĩa gợi cảm, nghĩa
hàm chỉ, nghĩa hiển ngôn…
Nghĩa của từ là mặt bên trong của từ, là cái mấu chốt nhất của tư duy
ngôn ngữ. Nếu từ mà không có nghĩa thì không phải là từ mà nó chỉ là âm
thanh trống rỗng. Ý nghĩa của từ là mối quan hệ của từ với ý thức của con
người về các sự vật và hiện tượng. Cơ sở để xây dựng ý nghĩa của từ là biểu
tượng và khái niệm, đó là hình thức phản ánh của con người về sự vật hiện
tượng xung quanh.
Đối với từng người từ có nghĩa và ý; Ý của từ là quan hệ của từ với

từng người hoặc nhóm người nào đó. Ý của từ phản ánh động cơ và mục đích
hoạt động của họ. Ý cùng với nghĩa của từ phản ánh lối sống, phản ánh mức
độ phát triển nhân cách của con người. Ở từng người, nghĩa của từ phát triển
tương ứng với trình độ học vấn của người đó.
Nghĩa của từ chỉ thể hiện khi sử dụng các từ trong lời nói, nó không có
tính ổn định, vì bản thân mối quan hệ của từ với các sự vật, hiện tượng có thể
thay đổi tùy theo hoàn cảnh nói năng cụ thể. [27, tr.261].
Như vậy, có thể nói rằng: Từ chỉ có giá trị khi nó có nghĩa, một từ
không có nghĩa thì đó là một âm trơ.


17
1.1.3.2. Một số đặc điểm về nghĩa của từ
Nghĩa của một từ được xác định bởi mối quan hệ với các từ khác trong
hệ thống ngôn ngữ. Ví dụ: Nghĩa của từ “béo” được xác định bởi mối quan hệ
với nghĩa của từ “gầy”.
Nghĩa của từ trong giao tiếp cũng gắn với ngữ cảnh cụ thể, khi ngữ
cảnh thay đổi thì nghĩa thay đổi. Ví dụ: từ “đầu” trong nhiều ngữ cảnh khác
nhau sẽ mang nghĩa khác nhau.
Đặc điểm tri nhận của mỗi dân tộc gắn với phong tục, tập quán, văn hóa
riêng sẽ tạo nên sự khác nhau trong nghĩa của từ. Ví dụ: người Việt gọi đa số
loài vật sống dưới nước là cá, dù nó không thuộc họ nhà cá như cá sấu, cá mực.
Trong khi đó, người Anh lại có sự phân biệt rõ các loài này.
Nghĩa của từ được mở rộng theo sự phát triển của xã hội.Ví dụ: xã hội
ngày càng phát triển thì từ “chạy” lại có thêm các nghĩa mới như: chạy việc,
chạy dự án, chạy công trình…
Bản thân nghĩa của từ, tự nó không chỉ được ra sự vật, hiện tượng cụ thể nào
hết. Chỉ khi được dùng trong giao tiếp, nó mới có nghĩa sở chỉ, tức là khả năng quy
chiếu vào một sự vật, hiện tượng nào đó trong thế giới khách quan. Ví dụ: một đứa
bé nói “con chó xanh” sẽ không có nghĩa nếu đặt ngoài ngữ cảnh giao tiếp. Nhưng

nếu đặt vào ngữ cảnh giao tiếp là trong cửa hàng đồ chơi thì có thể hiểu đứa bé đang
nói con chó đồ chơi có màu xanh.
1.1.3.3. Các thành phần nghĩa của từ
a. Nghĩa trung tâm
Đối với đại đa số thực từ (gồm danh từ, động từ, tính từ, số từ), nghĩa
trung tâm gồm có:
Nghĩa biểu vật: Là “loại sự vật được từ gọi tên, biểu thị” [5, tr.94]. Nói
cách khác, “sự vật, hiện tượng, đặc điểm ngoài ngôn ngữ được từ biểu thị tạo
thành nghĩa biểu vật của từ”. [5, tr.105]. Ví dụ: Nghĩa biểu vật của từ “chim” là
loại động vật có lông, có cánh và hai chân, thường biết bay.
Nghĩa biểu vật không phải bản thân sự vật, hiện tượng trong thực tế.


18
Nó là sự phản ánh sự vật, hiện tượng vào ngôn ngữ.
Nghĩa biểu vật của từ còn là “phạm vi sự vật mà từ đó được sử dụng”
[5, tr.94]. Ví dụ: Nghĩa biểu vật của từ “suy nghĩ” là con người, các loài vật
khác không phải nghĩa biểu vật của “suy nghĩ”.
Nghĩa biểu vật của từ có các đặc điểm như sau:
Trên thực tế, các sự vật, hiện tượng bao giờ cũng gắn với một sự vật
cụ thể nào đó, nhưng nghĩa biểu vật của từ lại tách sự vật khỏi nhau, tách hoạt
động, tính chất khỏi chủ thể của chúng.
Trong ngôn ngữ, nghĩa biểu vật của từ bỏ qua những biểu hiện cụ thể, sinh
động của sự vật trong thực tế khách quan. Ví dụ: nghĩa biểu vật của từ “cây”
không chỉ rõ cái cây đó màu gì, cao bao nhiêu, thuộc loại cây gì, trồng ở đâu…
Cùng diễn đạt một sự vật, hiện tượng, khái niệm nhưng nghĩa biểu vật
của từ có phạm vi rộng hẹp khác nhau. Ví dụ: nghĩa biểu vật của từ “đi” có
mức độ biểu hiện rộng hẹp tùy theo các trường hợp. Có lúc, nghĩa của nó chỉ
bao gồm hành động bằng chân, bước về phía trước. Nhưng có lúc, nghĩa của
nó lại bao gồm cả hành động đút lót, biếu xén hoặc trao tặng.

Nghĩa biểu vật được khái quát thành nhiều loại khác nhau tùy theo quan
niệm riêng của từng vùng ngôn ngữ.
Nghĩa biểu niệm: là hiểu biết về nghĩa biểu vật của từ. [5, tr.95]. Cụ thể hơn,
nếu nghĩa biểu vật là sự ngôn ngữ hóa sự vật ngoài đời thì nghĩa biểu niệm là sự
ngôn ngữ hóa khái niệm về sự vật. [5, tr.95].
Đỗ Hữu Châu cho rằng “các nghĩa biểu niệm một mặt thông qua các ý
nghĩa biểu vật mà liên hệ với thực tế khách quan, mặt khác lại có liên hệ với
khái niệm, qua khái niệm mà liên hệ với sự vật, hiện tượng ngoài ngôn ngữ”.
[17, tr.111].
Ngoài ra, có thể hiểu nghĩa biểu niệm là một cấu trúc do các nét nghĩa,
tức là các nghĩa tố ngữ nghĩa nhỏ hơn hợp thành. Các nét nghĩa này một phần
phản ánh các thuộc tính của các sự vật ngoài ngôn ngữ, một phần do cấu trúc
ngôn ngữ quy định. [5, tr.96]. Ví dụ: cấu trúc nghĩa biểu niệm của từ “ăn” gồm:


19
[hoạt động nhai và nuốt], [đưa thức ăn vào cơ thể], [qua đường miệng], [để nuôi
sống cơ thể]. Là hiểu biết về nghĩa biểu vật của từ. [5, tr.95]. Cụ thể hơn, nếu
nghĩa biểu vật là sự ngôn ngữ hóa sự vật ngoài đời thì nghĩa biểu niệm là sự
ngôn ngữ hóa khái niệm về sự vật. [5, tr.95]. Đỗ Hữu Châu cho rằng “các
nghĩa biểu niệm một mặt thông qua các ý nghĩa biểu vật mà liên hệ với thực
tế khách quan, mặt khác lại có liên hệ với khái niệm, qua khái niệm mà liên
hệ với sự vật, hiện tượng ngoài ngôn ngữ” [17, tr.111].
Ngoài ra, có thể hiểu nghĩa biểu niệm là một cấu trúc do các nét nghĩa,
tức là các nghĩa tố ngữ nghĩa nhỏ hơn hợp thành. Các nét nghĩa này một phần
phản ánh các thuộc tính của các sự vật ngoài ngôn ngữ, một phần do cấu trúc
ngôn ngữ quy định. [5, tr.96]. Ví dụ: cấu trúc nghĩa biểu niệm của từ “ăn” gồm:
[hoạt động nhai và nuốt], [đưa thức ăn vào cơ thể], [qua đường miệng], [để nuôi
sống cơ thể].
b. Nghĩa phi trung tâm

Nghĩa phi trung tâm của từ gồm các nét nghĩa như sau:
Nghĩa biểu thái: là nét nghĩa biểu thị tình cảm, thái độ đánh giá xấu tốt
đi kèm với nghĩa biểu niệm. [5, tr.97].
Ví dụ: cùng diễn đạt sự qua đời của một con người, nhưng từ “hi sinh”
có nghĩa biểu thái chỉ thái độ tôn trọng, trang nghiêm, dùng cho những chiến
sĩ, anh hùng. Trong khi từ “toi mạng” lại có nghĩa biểu thái chỉ thái độ khinh
thị, châm biếm, dùng cho kẻ xấu, đáng bị coi thường.
Nghĩa biểu thái còn gắn bó chặt chẽ với ngữ cảnh sử dụng của ngôn ngữ.
Nghĩa liên hội (còn gọi là nghĩa liên tưởng): là mỗi từ do được sử dụng
trong những ngôn cảnh nhất định, do kinh nghiệm của từng người khi tiếp xúc
với sự vật được nó gọi tên nên có thể mang những liên tưởng của cả một lớp
người hay từng lớp cá nhân người. [5, tr.98].
Nghĩa liên hội là cơ sở cho sự mở nghĩa, đa nghĩa, chuyển nghĩa, cũng
như các kết hợp đa dạng của từ.
Nghĩa ngữ pháp: là một khuôn gồm các nét nghĩa chung của nghĩa biểu


×