Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

Ý nghĩa biểu trưng của hình ảnh thực vật trong thành ngữ tiếng việt (2016)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (584.03 KB, 78 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
***********

DƯƠNG HỒNG LIÊN

Ý NGHĨA BIỂU TRƯNG CỦA HÌNH
ẢNH THỰC VẬT TRONG THÀNH
NGỮ TIẾNG VIỆT

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Ngôn Ngữ

HÀ NỘI - 2016


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
***********

DƯƠNG HỒNG LIÊN

Ý NGHĨA BIỂU TRƯNG CỦA HÌNH
ẢNH THỰC VẬT TRONG THÀNH
NGỮ TIẾNG VIỆT
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Ngôn Ngữ

Người hướng dẫn khoa học
TS. ĐỖ THỊ THU HƯƠNG


HÀ NỘI - 2016


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ...................................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................................1
2 Lịch sử vấn đề.................................................................................................................2
3. Mục đích và nhiện vụ nghiên cứu..................................................................................3
3.1 Mục đích: .................................................................................................................3
3.2 Nhiệm vụ: .................................................................................................................3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................................4
4.1. Đối tượng nghiên cứu .............................................................................................4
4.2 Phạm vi nghiên cứu: ................................................................................................4
5. Phương pháp nghiên cứu ...............................................................................................4
6. Bố cục của luận văn .......................................................................................................4
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN ............................................................................................6
1.1 Khái quát về thành ngữ ................................................................................................6
1.1.1 Khái niệm thành ngữ.............................................................................................6
1.1.2 Đặc điểm của thành ngữ .......................................................................................6
1.1.3 Nhận diện thành ngữ.............................................................................................8
1.1.4 Giá trị văn hoá – dân tộc của thành ngữ tiếng Việt ...........................................16
1.2 Nghĩa biểu trưng và hình ảnh ảnh thực vật mang nghĩa biểu trưng trong thành ngữ
tiếng Việt..........................................................................................................................16
1.2.1 Khái niệm nghĩa biểu trưng ................................................................................16
1.2.2 Hình ảnh thực vật mang nghĩa biểu trưng trong thành ngữ tiếng Việt ..............17
CHƯƠNG 2 .........................................................................................................................20
PHÂN TÍCH KẾT QUẢ THỐNG KÊ ................................................................................20
2.1 Kết quả thống kê, phân loại .......................................................................................20
2.2. Sự phong phú của hình ảnh thực vật trong thành ngữ tiếng Việt .............................25
2.2.1 Hình ảnh được miêu tả đa dạng về cấu trúc.......................................................25

2.2.2 Hình ảnh đa dạng về phạm vi biểu hiện .............................................................25
2.2.3 Hình ảnh thực vật được liên tưởng từ nhiều góc độ ...........................................26
CHƯƠNG 3 .........................................................................................................................31
MIÊU TẢ NGHĨA BIỂU TRƯNG CỦA THÀNH NGỮ CÓ CHỨA ................................31
HÌNH ẢNH THỰC VẬT TRONG TIẾNG VIỆT...............................................................31
3.1 Ý nghĩa biểu trưng của hình ảnh thực vật trong thành ngữ tiếng
Việt................................31
3.1.1 Ý nghĩa biểu trưng của hình ảnh thực vật trong thành ngữ so sánh
.......................31
3.1.2 Ý nghĩa biểu trưng của hình ảnh thực vật trong thành ngữ ẩn dụ......................34
3.2 Hình ảnh biểu trưng đa nghĩa trong thành ngữ ..........................................................39
3.3 Hình ảnh đồng nghĩa biểu trưng ................................................................................41
KẾT LUẬN..........................................................................................................................44


PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
1.1 Thành ngữ là một bộ phận rất quan trọng trong hệ thống từ vựng của
một ngôn ngữ. Nó là một loại đơn vị có số lượng lớn, đa dạng về cấu tạo và
phong phú về nội dung. Cùng với sự phát triển của tiếng nói dân tộc, thành
ngữ dần dần hình thành, được nhân dân sử dụng như một công cụ giao tiếp
chung. Thành ngữ phản ánh những đặc trưng văn hoá của mỗi dân tộc, bao
gồm các giá trị vật chất và tinh thần của dân tộc đó. Qua thành ngữ có thể
thấy rõ đặc điểm của lối nói, cách tư duy, đặc điểm văn hoá của người Việt về
nhận thức và phản ánh thế giới. Thành ngữ không những góp phần làm phong
phú vốn từ mà còn tạo nên những nét đẹp cho tiếng Việt về nhiều phương
diện. Sử dụng thành ngữ đúng lúc, đúng cách sẽ đem dến hiệu quả giao tiếp
bất ngờ, làm cho cả người nói và người nghe đều tâm đắc. Vì vậy, nghiên cứu
thành ngữ luôn là một đề tài có ý nghĩa cả về lí luận và thực tiễn.

1.2 Trong giao tiếp, người Việt Nam rất thích sử dụng những lối nói
bóng bẩy, có hình ảnh, mang tính hình tượng cho nên trong giao tiếp nói
chung và trong các loại hình nghệ thuật nói riêng, thành ngữ được sử dụng rất
nhiều. Vậy trong thành ngữ, người Việt đã sử dụng những loại hình ảnh nào,
các hình ảnh dó mang ý nghĩa biểu trưng ra sao? Cũng vậy, chỉ xét các hình
ảnh thực vật, có bao nhiêu hình ảnh thực vật được sử dụng trong thành ngữ và
chúng mang ý nghĩa gì? Đó là một câu hỏi lí thú cần thiết phải trả lời khi
nghiên cứu thành ngữ.
Từ những lí do trên đây, chúng tôi lựa chọn đề tài “Ý nghĩa biểu trưng
của hình ảnh thực vật trong thành ngữ tiếng Việt”. Chúng tôi hi vọng các kết
quả nghiên cứu của đề tài này sẽ đóng góp thêm một góc nhìn mới đối với

1


việc nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt, từ đó góp phần làm phong phú thêm
các kết quả nghiên cứu về thành ngữ tiếng Việt.
2 Lịch sử vấn đề
Thành ngữ học được xem như là một khoa học về ngôn ngữ độc lập vì
thành ngữ được lấy làm đối tượng nghiên cứu. Môn thành ngữ học xuất hiện
đầu thế kỉ XX gắn liền với tên tuổi cảu nhà ngôn ngữ học Thuỵ Sỹ gốc Pháp
Charle Bally, người đặt cơ sở khoa học cho sự cần thiết phải nghiên cứu
những cụm từ cố định trong ngôn ngữ. Ngay từ lúc ra đời, vấn đề thành ngữ
học đã được các nhà nghiên cứu khá quan tâm.
Đầu tiên phải kể đến cuốn từ điển Hán Việt thành ngữ [5] của Bửu Cân,
công bố năm 1933. Tiếp đó là tập Tục ngữ phong dao, tập sách này đã tập hợp
hơn 6500 đơn vị, không phân biệt thành ngữ và tục ngữ. Tiếp tục hướng biên
soạn này, hàng loạt từ điển thành ngữ, tục ngữ ra đời như Thành ngữ tiếng
Việt [34]; Từ điển giải thích thành ngữ tiếng Việt [18].
Công trình đầu tiên có giá trị lớn trong việc chỉ ra những đặc điểm cơ

bản nhất của thành ngữ là Việt Nam văn học sử yếu (1951) của nhà nghiên
cứu văn học Dương Quảng Hàm. Tiếp đến là công trình của Vũ Ngọc Phan
Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam [36]… Các tác giả đã chỉ ra được những
đặc trưng riêng của thành ngữ thông qua việc so sánh với tục ngữ. Đó là
những đặc trưng làm cơ sở đầu tiên cho việc nhận diện thành ngữ.
Các đặc điểm cơ bản của thành ngữ cũng được đề cập đến trong các cuốn
từ điển về thành ngữ như: Thành ngữ tiếng Việt [3]; Từ điển giải thích thành
ngữ Việt Nam [18]; Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam[15].
Ngoài ra, trong các giáo trình, sách giáo khoa tham khảo về từ vựng và
các vấn đề có liên quan, nhiều tác giả đã đề cập đến thành ngữ tiếng Việt với
tư cách là đơn vị từ vựng, nêu lên những đặc trưng cơ bản về cấu tạo, ngữ
nghĩa và chỉ ra những giá trị của thành ngữ trong sử dụng. Đó là các công

2


trình như: Từ và vốn từ tiếng Việt hiện đại [41]; Từ và nhận diện từ [15]; Từ
vựng – Ngữ nghĩa tiếng Việt [5]… Có thể nói các công trình này đã cung cấp
cho chúng ta những kiến thức đại cương về thành ngữ. Và gần đây, tác giả
Kiều Văn trong Tân từ điển thành ngữ tiếng Việt [42] cũng đã đề cập đến
thành ngữ và những đặc trưng của nó. Ngoài ra, ta còn bắt gặp những công
trình đề cập đến từng mặt, từng khía cạnh của thành ngữ trong các luận văn,
luận án, tạp chí… của nhiều tác giả. Nhưng có lẽ công trình quy mô nhất,
mang tính lí luận nhất, chuyên sâu nhất vẫn là Thành ngữ học tiếng Việt [21]
của Hoàng Văn Hành. Ông không chỉ là người đầu tiên nêu lên một cách có
hệ thống các đặc trưng và giá trị của thành ngữ mà còn đặt vấn đề xem thành
ngữ là một đối tượng nghiên cứu độc lập và một ngành khoa học đó là Thành
ngữ học. Tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều vấn đề mà các tác giả mới đang gợi mở
và các công trình khác cũng chưa đi sâu nghiên cứu.
Kế thừa các kết quả nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt, khóa luận của

chúng tôi đi sâu nghiên cứu ý nghĩa biểu trưng của hình ảnh thực vật trong
thành ngữ tiếng Việt.
3. Mục đích và nhiện vụ nghiên
cứu
3.1
đích:

Mục

Trên cơ sở khảo sát, tập hợp các thành ngữ có xuất hiện hình ảnh thực vật,
khoá luận chỉ ra nghĩa biểu trưng của những hình ảnh thực vật trong thành
ngữ tiếng Việt, từ đó góp phần làm sáng tỏ những đặc trưng văn hoá, tư duy
của người Việt.
3.2
vụ:

Nhiệm

- Tổng hợp các vấn đề lí thuyết lien quan đến đề tài
- Khảo sát, thống kê và phân loại ngữ liệu
- Phân tích nghĩa biểu trưng của hình ảnh thực vật trong thành ngữ tiếng Việt.
3


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là các hình ảnh thực vật và nghĩa
của chúng trong tất cả các thành ngữ tiếng Việt có xuất hiện hình ảnh thực
vật.
4.2 Phạm vi nghiên cứu:

Để phục vụ cho mục đích nghiên cứu, ngữ liệu được khảo sát trong
Thành ngữ tiếng Việt [3], Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam [15].
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sử dụng chủ yếu các phương pháp
sau:
Phương pháp thống kê, phân loại: Dựa trên cơ sở các tư liệu đã chọn, tôi
tiến hành khảo sát, thống kê số lượng cụ thể các thành ngữ có chứa hình ảnh
thực vật trong thành ngữ tiếng Việt, sau đó phân chia chúng thành các tiểu
loại.
Phương pháp phân tích, tổng hợp: Dựa vào kết quả thống kê và tỉ lệ trên,
chúng tôi tiến hành phân tích nghĩa biểu trưng của hình ảnh thực vật trong
thành ngữ tiếng Việt. Đồng thời tổng hợp và rút ra ý nghĩa của các hình ảnh
thực vật và các sắc thái văn hoá của người Việt thông qua hình ảnh và nghĩa
biểu trưng.
Phương pháp so sánh – đối chiếu: So sánh, đối chiếu tỷ lệ, tần số xuất
hiện giữa các hình ảnh thực vật cụ thể và nghĩa của chúng trong thành ngữ
tiếng Việt.
6. Bố cục của luận
văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn bao gồm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận

4


Chương 2: Phân tích kết quả thống kê
Chương 3: Miêu tả nghĩa biểu trưng của thành ngữ có chứa hình ảnh
thực vật trong tiếng Việt.



CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1 Khái quát về thành ngữ
1.1.1 Khái niệm thành ngữ
Trong tất cả các định nghĩa về thành ngữ, tôi thấy định nghĩa dưới đây
của Hoàng Văn Hành là đầy đủ và dễ hiểu nhất, trong Thành ngữ học tiếng
Việt [21] ông viết: “Thành ngữ là một loại tổ hợp cố định, bền vững về hình
thái – cấu trúc, hoàn chỉnh, bóng bẩy về nghĩa, được sử dụng rộng rãi trong
giao tiếp thường ngày, đặc biệt trong khẩu ngữ”.
1.1.2 Đặc điểm của thành ngữ
1.1.2.1 Đặc điểm kết cấu
Thành ngữ là một tổ hợp từ cố định, bền vững về hình thái, cấu trúc.
Tính ổn định, cố định về thành phần từ vựng và cấu trúc của thành ngữ
được hình thành là do thói quen sử dụng của người bản ngữ. Đầu tiên nó vốn
chỉ là một tổ hợp từ tự do nhưng trải qua bao thế hệ, chúng được con người sử
dụng lặp đi lặp lại nhiều lần và ngày càng trở nên trau chuốt, uyển chuyển
trong lời nói. Cùng với sự chuyển di nghĩa nhất định, nó đã được cộng đồng
người bản ngữ ghi nhận và ưa dùng. Vì vậy, dạng ổn định của thành ngữ là
dạng chuẩn, mang tính xã hội cao.
Ví dụ: Cá đối bằng đầu, Dai như đỉa đói, Lên voi xuống chó,...
Theo Hoàng Văn Hành, tính bền vững về hình thái – cấu trúc của thành
ngữ có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau, có thể do thời gian mà ngữ nghĩa
của các thành tố và quan hệ ngữ pháp giữa chúng bị mờ nhạt dần; cũng có thể
là do các thành ngữ có nguồn gốc từ truyện cổ tích, truyền thuyết (Sư tử Hà
Đông; Nợ như chúa Chổm,..) hay có thể do tính vần điệu, tính tiết tấu, quan
hệ đối điệp của các từ trong thành ngữ; hoặc cũng có thể do tính thoả đáng về
biểu thị, tính không bình thường về cú pháp...


Tuy nhiên, cũng cần nói thêm rằng dạng chuẩn nói trên của thành ngữ

không mang tính tuyệt đối bởi trong thực tế sử dụng thì dạng chuẩn ấy không
phải là những quy tắc bất đi bất dịch mà ngược lại nó rất sống động, linh hoạt.
Điều này không hề mâu thuẫn mà nó chỉ là một đặc tính riêng biệt của ngôn
ngữ nói chung.
1.1.2.2 Đặc điểm ngữ nghĩa
Thành ngữ có nghĩa hoàn chỉnh, bóng bẩy, giàu giá trị biểu cảm. Nghĩa
của thành ngữ không suy ra từ tổng số nghĩa của các yếu tố tạo nên nó.
Thành ngữ có khả năng biểu thị những khái niệm hoặc biểu tượng trọn
vẹn về các thuộc tính, quá trình hay sự vật. Thành ngữ là những đơn vị định
dạng của ngôn ngữ. Tuy nhiên, khác với những đơn vị từ vựng bình thường,
thành ngữ là loại đơn vị định dạng bậc hai, nghĩa là nội dung của thành ngữ
không hướng tới điều được nhắc đến trong nghĩa đen của các từ ngữ tạo nên
thành ngữ mà chứa đựng một ý nghĩa khác được suy ra từ chúng.
Ví dụ: thành ngữ Chuột chạy cùng sào không phải đơn thuần miêu tả con
chuột chạy đến đoạn cuối của cây sào mà nói đến tình thế nguy kịch, lâm vào
đường cùng, không lối thoát của con người. Đây chính là nghĩa bóng hay còn
gọi là nghĩa biểu trưng được hình thành nhờ quá trình biểu trưng hoá.
1.1.2.3 Đặc điểm sử dụng
Thành ngữ được dùng tương với từ. Trong câu, nó chỉ là một bộ phận cấu
thành câu.
Khi thành ngữ là một cụm từ cố định có giá trị tương đương với từ, nó có
thể dùng độc lập trong câu.
Ví dụ: Chính các nhà báo Mỹ cũng nói toạc móng heo âm mưa của Mỹ.
(Hồ Chí Minh toàn tập, T6, Tr. 360)
Thành ngữ trên được sử dụng tương đương từ (Nói toạc móng heo = nói
thẳng)


Khi thành ngữ được sử dụng vào làm một thành phần của một câu phức
hợp thì nó đóng vai trò như một từ, một cụm từ, một mệnh đề.

Ví dụ: Chào ông anh! Hôm nay trời đi vắng, rồng đến nhà tôm! Mời ông
anh vào xơi bánh xốp.
(Nguyễn Thị Ngọc Tú – “Đất làng”)
1.1.3 Nhận diện thành
ngữ
1.1.3.1 Thành ngữ với tục ngữ
Tục ngữ là câu nói ngắn gọn, thường có vần điệu, đúc kết tri thức, kinh
nghiệm sống và đạo đức thực tiễn của nhân dân. Giữa tục ngữ và thành ngữ
vừa có những điểm tương đồng với nhau, vừa có những điểm khác biệt với
nhau. Cụ thể:
a. Điểm tương đồng:
Thành ngữ và tục ngữ có nhiều điểm giống nhau, chúng đều là những tổ
hợp có sẵn, có cấu trúc bền vững, cố định, được xây dựng bằng các thủ pháp
cách điệu nghệ thuật (đối xứng, so sánh ví von, điệp âm, láy âm...), nội dung
ngữ nghĩa thường mang tính khái quát, hình ảnh, nghĩa bóng...
b. Điểm khác biệt:
Sự khác biệt giữa thành ngữ và tục ngữ được biểu hiện ở một số phương
diện chính sau đây:
Xét về mặt cấu tạo: Tục ngữ phần lớn có hình thức cấu tạo là một câu.
Câu có thể là câu đơn như: Ăn quả nhớ kẻ trồng cây..., cũng có thể là câu
ghép như: Người có chí ắt phải nên, nhà có nền ắt phải vững; Rồng vàng tắm
nước ao tù, người khôn ở với người ngu bực mình...
Còn thành ngữ phần lớn có hình thức cấu tạo là một cụm từ, có thể là
cụm danh từ (Mắt bồ câu...), có thể là cụm động từ (Chạy giống Bái Công;
Chửi như tát nước vào mặt,...), hay cụm tính từ (Đen như quạ, Trắng như ngó
sen,...)


Vì vậy, nếu tục ngữ có khả năng đứng độc lập trong lời nói thì thành ngữ
thường đi kèm trong lời nói, nó được dùng như một thành phần câu.

Ví dụ: Có phải ngẫu nhiên mà, mặc dầu vừa mới chân ướt chân ráo tới
cái thành phố này, Đức Hoàng thượng ư rất thông thái và đầy tâm hồn nghệ
sĩ đã làm quen được ngay với nghệ sĩ nổi tiếng và một thi sĩ lừng danh rồi
chăng?
(Hồ Chí Minh toàn tập, T4, Tr 90)
Tuy nhiên, cần phải nói thêm rằng cũng có nhiều trường hợp tục ngữ có
cấu tạo hình thức là một cụm từ, lại có những thành ngữ có cấu tạo hình thức
là một câu (Chó cắn áo rách; Chuột chạy cùng sào...), thậm chí là hình thức
của câu ghép (Ông ăn chả, bà ăn nem; Thuyền đua, bè sậy cũng đua...).
Vì vậy, để phân biệt rõ hơn hai loại đơn vị này, chúng ta phải xét thêm
tiêu chí chức năng - ngữ nghĩa.
Tục ngữ chuyển đến người nghe, người đọc một thông báo. Mỗi câu tục
ngữ là một phán đoán, chứa đựng một nội dung tương đối trọn vẹn, biểu đạt
một kết luận theo hình thức liên tưởng loại suy.
Ví dụ: Chuồn chuồn bay thấp thì mưa
Bay cao thì nắng bay vừa thì râm.
Đây là câu tục ngữ thể hiện kinh nghiệm của nhân gian về thời tiết: Nhìn
vào tầm bay của con chuồn chuồn mà co thể đoán biết được tiết trời hiện tại.
Còn thành ngữ có tính chất hoàn chỉnh về nghĩa. Nó biểu thị những khái
niệm dựa trên các hình ảnh, các biểu tượng cụ thể. Do đó, có thể nói nghĩa
của thành ngữ là nghĩa định danh, nó có chức năng như một từ, tức gọi tên sự
vật, hiện tượng, trạng thái, tính chất, đặc điểm hay biểu đạt một khái niệm...
Ví dụ: Đầu voi đuôi chuột chỉ việc làm không cân đối, đề ra to tát, quy
mô nhưng thực hiện thu nhỏ dần, kết quả ít.


Như vậy xét về mặt chức năng ngữ nghĩa ta thấy: Tục ngữ là những câu
khuyên răn về đối nhân xử thế, là những bài học về kinh nghiêm sản xuất, về
thê giới tự nhiên hay đời sống xã hội bằng những câu nói ngắn gọn, súc tích.
Nó là những phán đoán. Ngược lại, thành ngữ chỉ là những khái niệm miêu tả

những hiện tượng tự nhiên và xã hội. Xét về mawth ý nghĩa logic thì chỉ
thuần tuý tường thuật lại một sự việc chứ ít hướng đến mục đích giáo dục tri
thức hay đạo đức, kinh nghiệm cho con người. Nội dung của thành nhữ
thường nghiêng về những hiện tượng có tính chất cụ thể, riêng lẻ, còn nội
dung của tục ngữ thường là những hiện tượng có tính chất khái quát.
1.1.3.2 Thành ngữ với cụm từ tự do
Cụm từ tự do là một tổ hợp hay kết cấu được lâm thời tạo ra trong quá
trình giao tiếp và mang tính cá nhân. Giữa cụm từ tự do và thành ngữ có điểm
tương đồng và điểm khác biệt. Tuy nhiên, giữa chúng phần lớn là điểm khác
biệt.
a. Nét tương đồng:
Thành ngữ và cụm từ tự do đều là những tổ hợp từ hoạt động với tư cách
là một bộ phận cấu thành câu.
b. Nét khác biệt:
Về mặt cấu trúc:
Thành ngữ là cụm từ cố định có cấu trúc bền vững. Thành ngữ không phải
do con người tuỳ tiện tạo ra mà đã được hình thành trong lịch sử. Chúng là
những đơn vị có sẵn như những từ trong ngôn ngữ với mức độ khác nhau đã
mất đi tính độc lập và tổ hợp thành một kết cấu hoàn chỉnh. Vì thế, chúng ta
không thể tuỳ ý thêm ớt hay thay đổi trật tự các yếu tố trong thành ngữ.
Ví dụ: Mẹ tròn con vuông; Tay làm hàm nhai, ...
Còn cụm từ tự do là những nhóm từ kết hợp tạm thời theo quy luật ngữ
pháp để miêu tả một sự vật, hiện tượng hay khái niệm nào đó.


Ví dụ: Ngôi nhà mới của tôi, chạy nhanh lắm,...
Cụm từ tự do không tồn tai sau khi đã hoàn thành việc trao đổi tư tưởng.
Mỗi khi cần đến, chúng ta lại dùng những từ trong cụm từ đó để kết hợp với
các từ khác tạo ra những cụm từ mới.
Về mặt ý nghĩa

Thành ngữ thường mang nghĩa biểu trưng. Ý nghĩa ấy không suy ra trực
tiếp từ các yếu tố tạo thành mà là ý nghĩa tổng hợp của toàn bộ các yếu tố có
trong thành ngữ.
Ví dụ: thành ngữ Ăn cháp đái bát nói đến hành động vô ơn, bội bạc của
con người. Đây là nghĩa tổng hợp toát lên từ tổ hợp.
Còn cụm từ tự do: mỗi từ đều mang một nghĩa độc lập, tức nghĩa của cụm
từ là do nghĩa của từng từ một hợp lại.
Ví dụ: 1, Rất mệt ( trong đó rất là từ chỉ mức độ, mệt là từ chỉ trạng thái)
2, Ngôi nhà mới ( trong đó ngôi nhà là từ chỉ sự vật, mới là từ chỉ
tính chất của sự vật)
Về mặt âm điệu, tiết tấu của toàn cấu trúc
Thành ngữ thường mang âm điệu du dương, có nhạc điệu có vần điệu.
Đặc điểm này thể hiện rõ nhất ở các thành ngữ đối xứng.
Ví dụ: Ba chìm bảy nổi; Chân lấm tay bùn; Nhà cao cửa rộng;...
Còn cụm từ tự do là sự kết hợp của các từ nên âm điệu của nó tuỳ thuộc
vào ngữ cảnh cụ thể mà nó xuất hiện.
Nhờ tuân thủ một số nguyên tắc nêu trên nên thành ngữ tiếng Việt thường
ngắn gọn, súc tích, dễ học, dễ nhớ. Vì vậy, nhân dân ta từ xưa đã có thói quen
vận dụng thành ngữ vào trong lời ăn tiếng nói hàng ngày để làm tăng thêm giá
trị biểu cảm cho lời nói. Đặc biệt, trong văn học rất nhiều nhà văn, nhà thơ
(tiêu biểu là Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Chí Minh...) rất ưa dùng thành ngữ


trong các sáng tác của mình và trên thực tế, việc vận dụng đó của các tác giả
đạt được hiệu quả nghệ thuật rất cao.
1.1.3.3 Thành ngữ với quán ngữ
Quán ngữ là tổ hợp từ cố định đã dùng lâu thành quen, nghĩa có thể suy ra
từ nghĩa của các yếu tố tạo thành. Nó được coi là đơn vị ngôn ngữ trung gian
giữa thành ngữ và cụm từ tự do. Do đó, bên cạnh điểm tương đồng thì quán
ngữ và thành ngữ cũng có những điểm khác biệt nhau.

a. Nét tương đồng:
Các nhà nghiên cứu ngôn ngữ đều thừa nhận thành ngữ và quán ngữ đều
thuộc cụm từ cố định, chúng là những đơn vị có sẵn trong hệ thống từ vựng
của một ngôn ngữ. Cả hai đều được cấu tạo từ một tập hợp các từ đơn có kết
cấu vững chắc, ổn định, bất biến và có ý nghĩa hoàn chỉnh.
b. Nét khác biệt:
Về mặt hình thức
Thành ngữ thường có kết cấu cân xứng hài hoà về số lượng các âm tiết
cũng như vần, thanh...
Ví dụ: Ba đầu sáu tay; ra môn ra khoai...
Thành ngữ chủ yếu được cấu tạo từ những thực từ biểu thị những sự vật,
hiện tượng, hoạt động, tính chất...cụ thể. Còn quán ngữ có hình thức cấu tạo
gần với cụm từ tự do nên tính cân đối hài hoà về âm, vần... rất thấp. Quán ngữ
chủ yếu được cấu tạo từ các yếu tố gồm cả thực từ và hư từ.
Ví dụ: Tóm lại; Chính vì vậy; Nói tóm lại...
Về ý nghĩa
Thành ngữ được dùng với nghĩa bóng, nghĩa của thành ngữ có tính biểu
trưng, tính hình tượng, bóng bẩy... rất cao. Đó là ý nghĩa tổng hợp chung của
tất cả các yếu tố cấu thành chúng


Ví dụ: Lòng lang dạ thú chỉ sự độc ác, tàn nhẫn, không có lương tâm
(nghĩa bóng).
Về chức năng
Thành ngữ có chức năng như từ, mang nghĩa định danh (tức gọi tên sự
vật, hiện tượng, khái niệm, hoạt động, tính chất... trong thực tế khách quan).
Trong câu, nó có thể thay thế cho từ và có thể kết hợp với từ để tạo câu.
Còn quán ngữ là những cụm từ có sẵn được dùng lặp đi lặp lại trong các
văn bản, ngôn bản có tác dụng liên kết, đưa đẩy, rào đón, chuyển ý... hay tạo
tình huống giao tiếp, nhấn mạnh một nội dung cần diễn đạt nào đó. Mỗi

phong cách thường sử dụng những quán ngữ riêng.
Chẳng hạn những quán ngữ như: Của đáng tội; Nói hỗn phép; Nói xin
lỗi,... thường dùng trong phong cách hội thoại. Còn những quán ngữ như: Nói
tóm lại; Tóm lại; Nói cách khác... thường dùng trong phong cách viết.
Tuy nhiên, cũng cần nói thêm rằng trong thực tế có một số quán ngữ
giống với thành ngữ ở lời biểu đạt giàu hình ảnh, gợi hình tượng biểu cảm nên
nó vẫn có thể tạo nên được những sắc thái riêng cho câu khi sử dụng.
Như vậy, có thể nói rằng về hình thức và ý nghĩa, quán ngữ rất giống với
cụm từ tự do nhưng do chúng là những đơn vị rất cần thiết và thường xuyên
được sử dụng trong quá trình giao tiếp của con người như một đơn vị có sẵn
nên quán ngữ được xem như là đơn vị trung gian giữa cụm từ tự do và ngữ cố
định.
1.1.3.4 Thành ngữ với từ ghép
Từ ghép là từ được tạo bởi hai tiếng trở lên và có quan hệ với nhau về ngữ
nghĩa. Cũng giống như tục ngữ, cụm từ tự do, quán ngữ thì giữa từ ghép và
thành ngữ cũng mang những điểm trương đồng và khác biệt với nhau.
a. Nét tương đồng:


Thành ngữ và từ ghép có những điểm giống nhau là chúng đều thuộc cấp
độ từ, đều có ý nghĩa tương đối hoàn chỉnh. Khảo sát các thành ngữ và so
sánh với từ ghép, ta thấy chúng đều có hai quan hệ cơ bản đó là quan hệ đẳng
lập và quan hệ chính phụ.
Ví dụ: Thành ngữ Mẹ gà con vịt (quan hệ đẳng lập); Gãi đúng chỗ ngứa
(quan hệ chính – phụ)
Từ ghép quần áo (quan hệ đẳng lập); xe đạp (quan hệ chính – phụ)
b. Nét khác biệt:
Về mặt kết cấu
Thành ngữ chưa được từ vựng hoá đến mức như từ ghép. Thành tố của
thành ngữ tuy đã mất tính độc lập về nghĩa nhưng vẫn còn giữ địa vị của một

từ.
Đối với từ ghép, trật tự các thành tố rất bền vững.
Ví dụ: Máy bay, tàu hoả, xe đạp,... ta không thể thay đổi trật tự hay thêm
bớt các yếu tố trong đó.
Còn đối với thành ngữ, trong một số trường hợp chúng ta vẫn có thể thêm
bớt hay thay đổi vị trí một yếu tố nào đó mà ý nghĩa của tổ hợp vẫn không
đổi.
Ví dụ:
Ba chìm bảy nổi  Bảy nổi ba chìm (Đảo trật tự)
Dai như đỉa  Dai như đỉa đói (Thêm yếu tố)
Ăn bữa nay lo bữa mai  Ăn bữa hôm lo bữa mai (Thay yếu tố)
Công như công dã tràng  Công Dã Tràng ( Bớt yếu tố)
Về nghĩa
Nghĩa của thành ngữ nói chung không thể suy trực tiếp từ nghĩa của
những yếu tố cấu thành nó.
Ví dụ: Hoa tàn nhuỵ rữa chỉ người phụ nữ không còn trinh tiết, sắc đẹp
tàn tạ


Các thành ngữ: Không đội trời chung; Thâm gan tm ruột; ... cũng tương
tự như thế.
Còn nghĩa của hầu hết các từ ghép là nghĩa kết hợp của các thành
tố. Ví dụ: Cha mẹ; Máy cà; Xe đạp;...
Từ ghép thường chỉ có một nghĩa (không có nghĩa bóng) còn trong thành
ngữ có từ có nghĩa chính, có từ có nghĩa phụ.
Ví dụ: thành ngữ Lòng lim dạ sắt thì lim và sắt cùng chỉ nghĩa phụ.
Mặt khác, so với nghĩa của từ ghép thì nghĩa của thành ngữ dễ được
cắt
nghĩa từ nguyên hơn.
Ví dụ: Nợ như chúa Chổm được cắt nghĩa bằng hình tượng lịch sử. Đó là

về chúa Nôm, tức vua Trang – tôn Hậu Lê trước khi lên làm vua nợ rất nhiều
nên người đời gọi là chúa Chổm. Vì thế thành ngữ Nợ như chúa Chổm có
nghĩa là nợ nhiều.
Từ ghép có khả năng diễn đạt đồng thời quan hệ chủng và loại, có cả
phương diện chung lẫn phương diện riêng ( đối với từ ghép chính phụ).
Ví dụ: từ Máy sấy vừa biểu thị tổng loại máy nói chung lại vừa biểu thị
một loại máy cụ thể có công dụng là dùng để sấy (lương thực, thực phẩm
hay các vật dụng khác).
Còn thành ngữ không có khả năng trên mà chỉ biểu thị một sắc thái ngữ
nghĩa cụ thể, nêu bật một khía cạnh nào đó của đặc điểm tính chất... được nói
tới.
Ví dụ: thành ngữ Nhanh như thổi không biểu thị khái niệm nhanh nói
chung với mọi sắc thái biểu hiện của nó mà chỉ nói lên sự phát triển
nhanh như được thổi phồng lên. Nó được phân biệt với các thành ngữ tương
đương khác như: Nhanh như chớp; Nhanh như cắt; ...


Như vậy, thành ngữ thuộc cấp độ từ nhưng cũng có nhiều điểm khác
biệt với từ. Trên đây chỉ là những điểm nổi bật làm cơ sở để chúng ta phân
định thành ngưc và từ ghép.


1.1.4 Giá trị văn hoá – dân tộc của thành ngữ tiếng Việt
Thành ngữ tiếng Việt chủ yếu biểu thị những hiện tượng thuộc đời
sống sinh hoạt của con người như cách sống, phương thức đối nhân xử thế,
tính cách, phẩm hạnh con người Việt,.. Những hiện tượng này mang đậm nét
đặc trưng văn hóa dân tộc Việt nên không nhằm lẫn với đặc trưng văn hóa
của các nước khác. Việt Nam là một nước nông nghiệp, những hình ảnh gợi
ra trong các thành ngữ cũng chính là những hình ảnh có liên quan với nền
sản xuất nông nghiệp, ví dụ: Cày sâu cuốc bẫm; Chân lấm tay bùn; Dầm

mưa dãi nắng; Đồng chua nước mặn;…
Thành ngữ tiếng Việt còn ẩn chứa những đặc điểm của lịch sử dân
tộc, ví dụ: Con rồng cháu tiên; Con hồng cháu lạc; Nợ như chúa chổm;…
Nó phản ánh phong tục, tập quán, lối sống của người Việt, ví dụ: Có voi đòi
tiên; Mẹ chồng nàng dâu; Cha mẹ đặt đâu con ngồi đó;… Trong thành ngữ
tiếng Việt còn ẩn tàng những tri thức về văn hóa hình thành vào những thời
kì lịch sử nhất định, ví dụ: Bới lông tìm chim; Lá thắm chỉ hồng; Mạt cưa
mướp đắng… Tính dân tộc còn thể hiện ở việc lựa chọn hình ảnh biểu trưng.
Đó có thể là hình ảnh của những đồ vật như “chén, chăn - gối, áo,…”, hay
những cái cây “chanh, mướp,…”, hoặc những con vật như “trâu, mèo, ốc,
cò,…”. Chính từ những hình ảnh quen thuộc mà chúng ta có cách tiếp cận tìm
hiểu dễ dàng. Tất cả là những nét đặc trưng mang đậm màu sắc của quê
hương, xứ sở người Việt trong xã hội nông nghiệp xưa, được quan sát một
cách tài tình.
1.2 Nghĩa biểu trưng và hình ảnh ảnh thực vật mang nghĩa biểu trưng
trong thành ngữ tiếng Việt.
1.2.1 Khái niệm nghĩa biểu trưng
Nghĩa biểu trưng của thành ngữ là toàn bộ những ý nghĩa, những ý niệm
khái quát từ hình ảnh hoặc sự vật, sự việc cụ thể được miêu tả, được nói tới


trong thành ngữ. Nội dung của thành ngữ là sự thống nhất của hai ý
nghĩa,


trong đó nghĩa đen là nền tảng, là cơ sở để suy ra nghĩa bóng (nghĩa
biểu
trưng), còn nghĩa bóng vừa là nội dung, vừa là mục đích của sự biểu
trưng.
1.2.2 Hình ảnh thực vật mang nghĩa biểu trưng trong thành ngữ

tiếng Việt
Hình ảnh biểu trưng chính là hình ảnh có ý nghĩa biểu trưng, nó tạo nên
giá trị biểu trưng cho thành ngữ. Bởi vậy, khi nói hình ảnh thực vật mang ý
nghĩa biểu trưng trong thành ngữ tiếng Việt thì phải hiểu rằng bản thân thực
vật đó không có “nghĩa vụ” là luôn biểu trưng cho một đặc điểm, tính chất,
thuộc tính cụ thể nào đó của con người mà đó là con người đã “gán” cho
nó do nó có những đặc điểm tương đồng.
Chẳng hạn, rau hẹ khi nấu có đặc điểm là quấn vào nhau và có mùi đặc
trưng không thể lẫn với các thứ rau khác. Từ đó, người đã lấy đặc điểm mùi vị
của rau hẹ phản ánh vào thành ngữ Rối như canh hẹ hoặc Rành rành
như canh nấu hẹ.
Vì vậy, đi tm hiểu giá trị biểu trưng của hình ảnh thực vật trong thành
ngữ tếng Việt chính là tm ra những giá trị ngữ nghĩa mà con người đã lựa
chọn và gán cho chúng theo cách cảm nhận riêng của họ. Tất nhiên, sự
cảm nhận ấy phải dựa trên những cơ sở nhất định mà trước hết là dựa vào
những đặc điểm nổi bật của mỗi thực vật, các đặc điểm đó phải có sự tương
ứng với những đặc điểm của con người và cho phép người tiếp nhận liên
tưởng đến nghĩa biểu trưng, bởi muốn tạo ra nghĩa để người ta có thể hiểu
được thì giữa hình ảnh và bản chất của sự vật phải có sự tương đồng.
Dựa vào sự tương đồng đó, cùng với quá trình nhận thức, suy diễn, liên
tưởng của tư duy con người cho phép con người hình dung thực vật trong
thành ngữ ấy biểu trưng cho đặc điểm gì, thuộc tính, tính chất… gì của con
người.


Ví dụ: Đen như củ súng; Trắng như ngó cần;...


Như vậy, dù hình ảnh thực vật là do con người lựa chọn và nghĩa biểu
trưng của hình ảnh ấy cũng là do con người suy ra. Nhưng quá trình đó

không thể diễn ra một cách tuỳ tện, chủ quan mà phải có tính lí do, có sự
logic trong tư duy con người. Chính vì điều này mà mặc dù thành ngữ được
sử dụng rất phổ biến trong tất cả các lĩnh vực đặc biệt là trong văn học nghệ
thuật, trong giao tiếp thường ngày của con người với mọi thế hệ, mọi tầng
lớp, giới tính khác nhau nhưng nó không những không bị hiểu sai mà còn làm
cho lời nói càng trở nên bóng bẩy, hàm súc, giàu hình ảnh, tăng thêm hiệu
quả cho quá trình giao tiếp.
Tiể u kế t chương 1
1. Thành ngữ là những đơn vị từ vựng có sẵn, được cố định hoá từ những
cụm từ tự do, câu và hình thành, phát triển cùng với sự phát triển của lịch sử
- văn hoá ngôn ngữ.
Về hình thức: thành ngữ bao gồm một tập hợp các từ đơn là thực từ. Các
thực từ ấy có thể xuất phát từ những nguồn gốc khác nhau, tuy nhiên phần
lớn là các từ thuần Việt, có kết cấu vững chắc, ổn định, cố định, bất biến, khó
có thể thay đổi hay tách rời.
Về nghĩa: thành ngữ có ý nghĩa hoàn chỉnh, khái quát, nghĩa của thành
ngữ không bằng tổng số nghĩa của các yếu tố cấu thành mà phải thông
qua quá trình liên tưởng, suy diễn. Hay nói cách khác, thành ngữ có nghĩa
ngầm ẩn, nghĩa biểu trưng.
Về chức năng: thành ngữ được sử dụng tương đương như từ, nó có
thể
dùng thay thế từ hoặc kết hợp với từ để tạo câu.


Về cấu tạo: thành ngữ được cấu tạo là một cụm từ, đó có thể là cụm
danh từ, cụm động từ hoặc cum tính từ, các yếu tố trong cụm từ ấy có thể
kết hợp với nhau theo quan hệ đẳng lập, chinh – phụ, chủ - vị.



×