Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Tiểu luận - Ảnh hưởng của triết học Phật Giáo đối với xã hội Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.91 KB, 34 trang )

MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU....................................................................................................................................2
1. Lý do chọn đề tài........................................................................................................................2
2. Đối tượng nghiên cứu................................................................................................................3
3. Phương pháp nghiên cứu..........................................................................................................3
NỘI DUNG..........................................................................................................................................4
Chương I: NGUỒN GỐC RA ĐỜI VÀ TƯ TƯỞNG CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC PHẬT
GIÁO....................................................................................................................................................4
1.1 Nguồn gốc lịch sử của Phật giáo............................................................................................4
1.2 Những tư tưởng cơ bản của triết học Phật giáo..................................................................5
1.2.1. Quan điểm của Phật giáo về thế giới quan....................................................................6
1.2.2. Quan điểm của Phật giáo về nhân sinh quan.................................................................8
1.2.3. Quá trình du nhập của Phật giáo vào Việt Nam...........................................................14
Chương II: ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI XÃ
HỘI VIỆT NAM...............................................................................................................................18
2.1 Ảnh hưởng của Phật giáo về tư tưởng................................................................................18
2.2 Ảnh hưởng của Phật giáo về đạo lí.....................................................................................19
2.3 Ảnh hưởng của Phật giáo qua phong tục tập quán..........................................................19
- Ảnh hưởng qua tục ăn chay, phóng sanh, bố thí..................................................................19
- Ảnh hưởng qua tục cúng rằm, mùng một và lễ chùa...........................................................20
- Ảnh hưởng Phật giáo qua nghi thức ma chay, cưới hỏi.......................................................21
- Các phong tục tập quán khác...............................................................................................21
2.4 Ảnh hưởng qua các loại hình văn hóa nghệ thuật............................................................24
- Ảnh hưởng qua ca dao, thơ..................................................................................................24
- Thể hiện qua nghệ thuật sân khấu:......................................................................................24
KẾT LUẬN.......................................................................................................................................30
TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................................................32


LỜI NÓI ĐẦU


1. Lý do chọn đề tài
Tôn giáo là một nhu cầu của bộ phận văn hóa tinh thần của từng con người,
của từng cộng đồng xã hội. Trong đó Phật giáo là một trào lưu triết học tôn giáo
với cái đích là cứu con người thoát khỏi nỗi khổ. Nó xuất hiện cuối thế kỉ 6 trước
công nguyên ở Ấn Độ. Nội dung cơ bản của triết học Phật giáo là đề cập đến việc
lý giải căn nguyên của nổi khổ và tìm con đường giải thoát con người khỏi nổi khổ
triền miên đó.
Phật giáo khởi thủy ở Ấn Độ truyền đi khắp các xứ lân cận. Trước hết sang
các nước Trung Á rồi sang Tây Tạng, Trung Hoa, Nhật Bản và các nước miền Nam
Châu Á. Việt Nam cũng thuộc trong phạm vi ảnh hưởng ấy. Mỗi khi Phật giáo vào
nước nào tùy theo phong tục mỗi nước mà có sự khác nhau. Phật giáo ở mổi nước
có một tinh thần và tính cách khác nhau như lịch sử nước ấy.
Phật giáo đến với người Việt Nam từ rất lâu đời, vào khoảng nửa cuối thế kỉ
thứ I. Do bản chất từ bi hỉ xả, đạo Phật đã nhanh chóng tìm được chỗ đứng và bám
rễ vững chắc trên đất nước ta.
Từ khi vào Việt Nam, Phật giáo ảnh hưởng sâu sắc đến dời sống tinh thần của
người Việt Nam. Vì các triết lý Phật giáo xuất phát từ tâm tư và nguyện vọng của
người lao động nên số người theo Phật tăng nhanh. Những ảnh hưởng của tư tưởng
Phật giáo ăn sâu vào đời sống của đại đa số người dân Việt Nam không chỉ từ trong
giai đoạn đầu của lịch sử dân tộc mà còn ngay cả cuộc sống ngày nay.
Trong công cuộc xây dựng đất nước quá độ lên CNXH, chủ nghĩa Mác Lênin là tư tưởng chủ đạo, là vũ khí lý luận của chúng ta nhưng bên cạnh đó, bộ
phận kiến trúc thượng tầng của xã hội cũ vẫn có sức sống dai dẳng, trong đó giáo
lý nhà Phật đã ít nhiều in sâu vào tư tưởng tình cảm của một số bộ phận lớn dân cư
Việt Nam. Việc xoá bỏ hoàn toàn ảnh hưởng của nó là không thể thực hiện được
nên chúng ta cần vận dụng nó một cách hợp lý để góp phần đạt được mục đích của
thời kỳ quá độ cũng như sau này. Vì vậy, việc nghiên cứu lịch sử, giáo lý, và sự tác
động của đạo Phật đối với thế giới quan, nhân sinh quan của con người là hết sức
cần thiết. Việc đi sâu nghiên cứu, đánh giá những mặt hạn chế cũng như tiến bộ,
2



nhân đạo của Phật giáo giúp ta hiểu rõ tâm lý người dân hơn và qua đó tìm ra được
một phương cách để hướng đạo cho họ một nhân cách chính, đúng đắn. Theo đạo
để làm điều thiện, tránh cái ác, hình thành nhân cách con người tốt hơn chứ không
trở nên mê tín dị đoan, cúng bái, lên đồng, gây ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ, niềm
tin của quần chúng nhân dân.
Lĩnh vực nghiên cứu Phật giáo hiện nay tương đối được mở rộng, ngoài việc
nghiên cứu giáo lý, kinh điển, lịch sử... của Phật giáo ra còn đề cập đến các lĩnh
vực Triết học, Sử học, Tâm lý học, Khảo cổ học, Xã hội học, Dân tộc học, Văn
học, Nghệ thuật... Phật học đã trở thành một trong những khoa học tương đối quan
trọng trong khoa học xã hội, trước mắt có quan hệ mật thiết với xã hội học.
Hơn nữa, quá trình Phật giáo phát triển, truyền bá ở Việt Nam gắn liền với
quá trình hình thành, phát triển tư tưởng, đạo đức của con người. Vì vậy khi nghiên
cứu lịch sử, tư tưởng, đạo đức Việt Nam không thể không đề cập đến Phật giáo và
những mối quan hệ, tác động qua lại giữa chúng.
Tóm lại, nghiên cứu Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến xã hội và con người
Việt Nam là một nội dung quan trọng nhằm tìm hiểu lịch sử cũng như định hướng
cho sự phát triển nhân cách, tư duy con người Việt Nam trong tương lai.
2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là sự ra đời và những tư tưởng cơ bản của
Phật giáo cùng với sự du nhập và phát triển của Phật giáo Việt Nam.
3. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài có sử dụng tổng hợp các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong đó chú ý các phương pháp chính là:
Logic và lịch sử, phân tích và tổng hợp, gắn lý luận với thực tiễn để thực hiện
nhiệm vụ đặt ra.

3



NỘI DUNG
Chương I: NGUỒN GỐC RA ĐỜI VÀ TƯ TƯỞNG CƠ BẢN
CỦA TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO
1.1 Nguồn gốc lịch sử của Phật giáo
Đạo Phật mang tên người sáng lập là Đà (hay Buddha). Đạo Phật chính là
giáo lý mà Phật Đà đã thuyết giảng. Sau khi ra đời ở Ấn Độ vào thế kỷ thứ 9 đến
thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên, đạo Phật được lưu hành rộng rãi ở các quốc gia
trong khu vực Á – Phi, gần đây được truyền tới các nước Âu – Mỹ. Trong quá trình
truyền bá của mình, đạo Phật đã kết hợp với tín ngưỡng, tập tục, dân gian, văn hoá
bản địa để hình thành rất nhiều tông phái và học phái, có tác động vô cùng quan
trọng với đời sống xã hội và văn hoá của rất nhiều quốc gia.
Vào thời cổ đại, Ấn Độ là nước đa thần giáo, chế độ mẫu hệ. Đến thời người
Aryan tràn vào xâm chiếm, xã hội Ấn Độ chia thành bốn giai cấp là Đạo sĩ (Bà La
Môn), Vua Quan (Sát Đế Lợi), Công Nông Thương (Phệ Xá) và Nô lệ (Thủ Đà
La). Gia đình chuyển thành phụ hệ. Về tư tưởng tôn giáo dù nhiều đạo giáo vẫn tồn
tại nhưng giáo sĩ Bà La Môn truyền bá tư tưởng nhất thần. Triết lý tôn giáo phủ
nhận vai trò của con người đối với cuộc đời và cả thế giới khách quan. Kết quả là
sinh ra hai xu hướng là trốn đời khổ hạnh hoặc xuôi theo dòng đời hưởng lạc thú
vật chất. Từ hai mặt xã hội và tôn giáo, người dân Ấn Độ mất niềm tin, mong ước
có một vị cứu tinh ra đời để xóa bỏ giai cấp bất công và ổn định tư tưởng tôn giáo,
đem lại an lạc hạnh phúc cho mọi người. Trong bối cảnh đó, đức Phật Thích Ca
Mâu Ni ra đời.
Ngoài bất công xã hội, tôn giáo phức tạp, đất nước Ấn Độ chia thành nhiều
nước nhỏ thường tranh chấp nhau chẳng khác thời chiến quốc bên Trung Quốc,
thời 12 sứ quân ở Việt Nam. Trong các nước đó, quốc gia giàu mạnh nhất là Ca
Tỳ La Vệ (Kapilavastu), phía bắc Trung Ấn, nay là Pipsava, phía nam nước
Nepal. Nhà vua trị vì nước đó tên là Tịnh Phạn (Sudhodana). Vào năm 204 trước
Công Nguyên, hoàng hậu MaDa (Maya) hạ sinh một hoàng tử khôi ngô tuấn tú tại
vườn ngự uyển Lâm Tỳ Ni (Lumbini) dước gốc cây Ưu Bát La thường gọi là cây
Vô Ưu (Asokaa) có hoa với màu sắc rực rỡ. Thái tử có tên là Tất Đạt Đa lớn lên,

4


Thái tử văn võ song toàn, có vợ là công chúa Da Du Đà La (Yasodara), con vua
Thiện Giác.
Trước bối cảnh xã hội giai cấp, tư tưởng tôn giáo siêu hình, cuộc sống con
người cậy mạnh hiếp yếu… Năm 29 tuổi, Thái Tử đã đến bên dòng A Nô Ma cắt
tóc làm nhà đạo sĩ. Sau thời gian học đạo 6 năm, Thái Tử thấy con người hưởng lạc
sẽ bê tha thối nát; còn tu khổ hạnh chỉ chuốc thêm khổ thân; chỉ có con đường
trung đạo mới mong thành chính quả. Bởi thế, Thái Tử đã bỏ năm anh em ông
Kiều Trần Như, dùng bát sữa của Tu Xá Đề (Sajata) xuống sông Ni Liên tắm rửa
rồi lên thiền quán dưới gốc cây Tất Bát La xứ Ba La Nại. Qua 49 ngày chiến đấu
với nội ngoại ma, Thái Tử đã chứng tam minh là Túc mạng minh, Thiên nhân
minh, Lậu tân minh và thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni năm 36 tuổi.
Thành Phật rồi, Đức Phật đến rừng nai xứ Ba La Nai giáo với năm người bạn
cùng tu khổ hạnh ngày trước, cùng nhóm Kiều Trần Như với phái Tứ đế Khắp vùng
Ngũ Hà suốt 45 năm, Đức Phật thuyết pháp trên 300 hội, vào tận hang cùng ngõ
hẻm một cách tận tụy và rộng rãi. Phật đã dừng chân bên vệ đường xâu kim cho một
bà già mù lòa; săn sóc, dọn dẹp ô uế cho người bệnh. Vì từ bi, bình đẳng, đức Phật
đã nhận cái tát của em bé cúng dường, nhận thức ăn dư thừa của một tiện nữ dâng
cúng. Với hiếu đạo, Phật đã đích thân khuân quan tài của vua Tịnh Phạn. Phật đã
giáo hóa không lúc nào ngừng nghỉ. Phật làm tất cả mọi việc dù là rất nhỏ… Tất cả
việc làm của Phật chỉ có mục đích duy nhất là bày trí kiến Phật cho chúng sinh. Phật
đến rừng SaLa vào Niết Bàn lúc nửa đêm dưới ánh trăng rằm tỏa rạng vào năm 80
tuổi. Trên đường Phật đã chuẩn bị mọi thứ cho các môn đồ để họ có thể tự lập được
sau khi ngài viên tịch. Và, tại một nơi thuộc ngoại vi thành phố Cusinagara, Phật đã
ra đi. Câu nói cuối cùng của Phật là: “Hỡi các tì kheo, tất cả những gì đang tồn tại
rồi sẽ qua đi. Vậy các người càng không nên ngừng gắng sức!”.
1.2 Những tư tưởng cơ bản của triết học Phật giáo
Tư tưởng triết học Phật Giáo ban đầu chỉ là truyền miệng, sau đó được viết

thành văn thể trong một khối kinh điển rất lớn, gọi là “Tam Tạng”, Gồm 3 Tạng
kinh điển là: Tạng Kinh, Tạng Luật, và Tạng Luận. Trong đó thể hiện các quan
điểm về thế giới và con người. Gồm:
5


- Tạng Luật: Gồm toàn bộ những giới luật của Phật giáo qui định cho cả năm
bộ phái Phật giáo như: “Tứ phần luật” của thượng toạ bộ, Maha tăng kỷ luật của
“Đại chúng bộ”, căn bản nhất thiết hữu bộ luật”... Sau này còn thêm các Bộ luật
của Đại Thừa như An Lạc, Phạm Võng.
- Tạng Kinh: Chép lời Phật dạy, trong thời kỳ đầu Tạng Kinh gồm nhiều tập
dưới dạng các tiền đề, mỗi tập được gọi là một Ahàm.
- Tạng Luận: Gồm những bài bình chú, giải thích về giáo pháp của Phật giáo.
Tạng luận gồm bảy bộ thể hiện một cách toàn diện các quan điểm về giáo pháp của
Phật giáo.
Tư tưởng triết học Phật giáo trên hai phương diện, về bản thể luận và nhân
sinh quan, chứa đựng những tư tưởng duy vật và biện chứng chất phác.
1.2.1. Quan điểm của Phật giáo về thế giới quan
Quan điểm về thế giới quan của Phật giáo thể hiện tập trung ở nội dung của 3
phạm trù: vô ngã, vô thường và duyên.
- Vô ngã (không có cái tôi chân thật)
Trái với quan điểm của kinh Vêđa, đạo Bà La Môn và đa số các môn phái
triết học tôn giáo đương thời thừa nhận sự tồn tại của một thực thể siêu nhiên tối
cao, sáng tạo và chi phối vũ trụ, Phật giáo cho rằng thế giới xung quanh ta và cả
con người không phải do một vị thần nào sáng tạo ra mà được cấu thành bởi sự kết
hợp của 2 yếu tố là “Sắc” và “Danh”. Trong đó, Sắc là yếu tố vật chất, là cái có thể
cảm nhận được, nó bao gồm đất, nước, lửa và không khí; Danh là yếu tố tinh thần,
không có hình chất mà chỉ có tên gọi. Nó bao gồm: thụ (cảm thụ), tưởng (suy
nghĩ), hành (ý muốn để hành động) và thức (sự nhận thức).
Danh và Sắc kết hợp lại tạo thành 5 yếu tố gọi là “Ngũ uẩn”. Ngũ uẩn bao

gồm Sắc (vật chất), Thụ (cảm giác), Tưởng (ấn tượng), Hành (suy lý) và Thức (ý
thức), chúng tác động qua lại với nhau tạo nên vạn vật và con người. Nhưng sự tồn
tại của sự vật chỉ là tạm thời, thoáng qua, không có sự vật riêng biệt nào tồn tại mãi
mãi. Do đó, không có “Bản ngã” hay cái tôi chân thực.

6


- Vô thường (vận động biến đổi không ngừng)
Đạo Phật cho rằng “Vô thường” là không cố định, luôn biến đổi. Các sự vật,
hiện tượng trong vũ trụ không đứng yên mà luôn luôn biến đổi không ngừng,
không nghỉ theo chu trình bất tận là “sinh – trụ – dị – diệt”. Nghĩa là sinh ra, tồn
tại, biến dạng và mất đi.
Do đó, không có gì trường tồn, bất định, chỉ có sự vận động biến đổi không
ngừng.Với quan niệm này, Đức Phật dạy: “tất cả những gì trong thế gian đó là biến
đổi, hư hoại đều là vô thường”. Vì vậy mọi sự vật không mãi ở yên trong một trạng
thái nhất định, luôn luôn thay đổi hình dạng, đi từ trạng thái hình thành đến biến dị
rồi tan rã. Sinh và diệt là hai quá trình xảy ra đồng thời trong một sự vật, hiện
tượng cũng như trong toàn thể vũ trụ rộng lớn. Đức Phật cũng dạy rằng không phải
là sự vật, hiện tượng sinh ra mới gọi là sinh, mất (hay chết đi) mới gọi là diệt, mà
trong sự sống có sự chết, chết không phải là hết, không phải là hết khổ mà chết là
điều kiện của một sinh thành mới.
- Duyên (điều kiện cho nguyên nhân trở thành kết quả)
Bà La Môn Phật giáo cho rằng, mọi sự vật, hiện tượng trong vũ trụ từ cái nhỏ
nhất đến cái lớn nhất đều chịu sự chi phối của luật nhân duyên. Trong đó duyên là
điều kiện giúp cho nguyên nhân trở thành kết quả. Kết quả ấy lại nhờ có duyên mà
trở thành nhân khác, nhân khác lại nhờ có duyên mà trở thành kết quả mới. Cứ như
vậy mà tạo nên sự biến đổi không ngừng của các sự vật, tuân theo quy luật “NhânQuả”, nhân là cái hạt, quả là cái trái, cái trái do mầm ấy phát sinh. Nhân và quả là
hai trạng thái nối tiếp nhau, nương vào nhau mà có. Nếu không có nhân thì không
thể có quả, nếu không có quả thì không thể có nhân, nhân thế nào thì quả thế ấy.

Như vậy, thông qua các phạm trù Vô ngã, Vô thường và Duyên, triết học Phật
giáo đã bác bỏ quan điểm duy tâm lúc bấy giờ cho rằng thần Brahman sáng tạo ra
con người và thế giới. Phật giáo cho rằng sự vật và con người được cấu thành từ
các yếu tố vật chất và tinh thần. Các sự vật hiện tượng thế giới nằm trong quá trình
liên hệ, vận động, biến đổi không ngừng. Nguyên nhân của sự vận động, biến đồi
nằm trong các sự vật. Đó là quan điểm biện chứng về thế giới, tuy còn mộc mạc

7


chất phác nhưng rất đáng trân trọng. Và đó cũng là quan điểm duy vật biện chứng
về thế giới.
1.2.2. Quan điểm của Phật giáo về nhân sinh quan
Nội dung triết lý nhân sinh của Phật giáo được thể hiện tập trung trong thuyết
“Tứ Diệu Đế” (Tứ thánh đế – Catvary Arya Satya) tức là 4 chân lý tuyệt diệu đòi
hỏi mọi người phải nhận thức được. Tứ diệu đế là:
- Khổ đế:
Chân lí về sự khổ, cho rằng mọi dạng tồn tại đều mang tính chất khổ não,
không trọn vẹn, cuộc đời con người là một bể khổ. Phật xác nhận đặc tướng của
cuộc đời là vô thường, vô ngã và vì vậy mà con người phải chịu khổ. Có 8 nỗi khổ
là: sinh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, thụ biệt khổ (yêu thương nhau phải xa
nhau), oán tăng hội (ghét nhau phải gần nhau), sở cầu bất đắc (mong muốn mà
không đạt được) và ngũ thụ uẩn (do 5 yếu tố tạo nên con người).
Như vậy, cái khổ về mặt hiện tượng là cảm giác khổ về thân, sự bức xúc của
hoàn cảnh, sự không toại nguyện của tâm lý về bản chất. Về phương diện triết học,
khổ đau là một thực tại như thực đối với con người. Khổ đế là một chân lý khách
quan hiện thực. Khổ hay hình thái bất an là kết quả hàng loạt nhân duyên được tạo
tác từ tâm thức. Như vậy tri nhân thực tại là một cách trực tiếp đi vào soi sáng mọi
hình thái khổ đau của con người. Để thấu hiểu triệt để cái căn nguyên của khổ đau,
con người không thể dừng lại ở sự thật của đau khổ, hay quay mặt chạy trốn, mà

phải đi vào soi sáng cái bản chất nội tại của nó.
Đạo Phật cho rằng đời là bể khổ, nỗi đau khổ là vô tận, là tuyệt đối. Do đó,
con người ở đâu, làm gì cũng khổ. Cuộc đời là đau khổ không còn tồn tại nào
khác. Ngay cả cái chết cũng không chấm dứt sự khổ mà là tiếp tục sự khổ mới.
Phật ví sự khổ của con người bằng hình ảnh: “Nước mắt của chúng sinh nhiều
hơn nước biển”.
- Nhân đế (hay Tập đế):
Là triết lý về sự phát sinh, nguyên nhân gây ra sự khổ. “Tập” là tụ hợp, kết
tập lại. Nguyên nhân của khổ là sự ham muốn, tìm sự thoả mãn dục vọng, thoả
8


mãn được trở thành, thoả mãn được hoại diệt… Các loại ham muốn này là gốc của
luân hồi. Đạo Phật cho rằng nguyên nhân sâu xa của sự khổ, phiền não là do “thập
nhị nhân duyên”, tức 12 nhân duyên tạo ra chu trình khép kín trong mỗi con người.
12 nhân duyên gồm:
+ Vô minh (không sáng suốt): đồng nghĩa với mê tối, ít hiểu biết, không sáng
suốt. Không hiểu được đời là bể khổ, không tìm ra nguyên nhân và con đường
thoát khổ. Trong mười hai nhân duyên, vô minh là căn bản. Nếu không thấu hiểu
Tứ diệu đế cũng được gọi là Vô minh.
+ Duyên hành: là suy nghĩ mà hành động, do hành động mà tạo nên kết quả,
tạo ra cái nghiệp, cái nếp. Do hành động mà có Thức, ấy là Hành làm quả cho Vô
minh và là nhân cho Thức.
+ Duyên thức: Là ý thức là biết. Do Thức mà có Danh sắc, ấy là Thức làm
quả cho Hành và làm nhân cho Danh sắc.
+ Duyên danh sắc: Là tên và hành, ta đã biết tên ta là gì thì phải có hình và tên
của ta. Do Danh sắc mà có Lục xứ, lấy Danh sắc làm quả cho Thức và làm nhân cho
Lục xứ.
+ Duyên lục xứ (hay lục nhập): Là sáu chỗ, sáu cảm giác: Mắt, mũi, lưỡi,
tai, thân và tri thức. Đã có hình hài có tên phải có Lục xứ để tiếp xúc với vạn vật.

Do Lục nhập mà có Xúc - tiếp xúc, ấy là Lục xứ làm quả cho Danh sắc và làm
nhân cho Xúc.
+ Duyên xúc: Là tiếp xúc với ngoại cảnh qua sáu cơ quan xúc giác gây nên mở
rộng xúc, cảm giác. Do Xúc mà có Thụ, ấy là Xúc làm quả cho Lục xứ và làm nhân
cho Thụ.
+ Duyên thụ: Là tiếp thu, lĩnh nạp, những tác động bên ngoài tác động vào
mình. Do Thụ mà có Ái, ấy là Thụ làm quả cho Xúc và làm nhân cho Ái.
+ Duyên ái: Là yêu, khát vọng, mong muốn, thích. Do Ái mà có Thủ. Do đó,
Ái làm quả cho Thụ và làm nhân cho Thủ.
+ Duyên thủ: Là lấy, chiếm đoạt cho mình. Do Thủ mà có Hữu. Do vậy mà
Thủ làm quả cho Ái và làm nhân cho Hữu.
9


+ Duyên hữu: Là tồn tại, hiện hữu, ham muốn, nên có dục gây thành cái
nghiệp. Do Hữu mà có Sinh, do đó Hữu là quả của Thủ và làm nhân của Sinh.
+ Duyên sinh: Hiện hữu là ta sinh ra ở thế gian làm thần thánh, làm người,
làm súc sinh. Do Sinh mà có Tử, ấy là Sinh làm quả cho Hữu và làm nhân cho Tử.
+ Duyên lão tử: Là già và chết, đã sinh ra là phải già yếu, mà đã già là phải
chết. Nhưng chết - sống là hai mặt đối lập nhau không tách rời nhau. Thể xác tan đi
là hết nhưng linh hồn vẫn ở trong vòng vô minh. Cho nên lại mang cái nghiệp rơi
vào vòng luân hồi (khổ não).
Thập nhị nhân duyên có nhiều cách giải thích khác nhau nhưng nhìn chung
đều cho rằng chúng có quan hệ mật thiết với nhau, cái này là nhân, làm duyên cho
cái kia, cái này là quả của cái trước, đồng thời là nhân cho cái sau. Cũng có lời giải
thích là 12 yếu tố tích lũy đưa đến cái khổ sinh tử hiện tại mà yếu tố căn đế là ái và
thủ, nghĩa là tham lam, ích kỷ, còn gọi là ngã chấp. Mười hai nguyên nhân và kết
quả nối tiếp nhau tạo ra cái vòng lẩn quẩn của nỗi khổ đau nhân loại.
Nguyên nhân sâu hơn và căn bản hơn chính là vô minh, tức là si mê không
thấy rõ bản chất của sự vật hiện tượng đều nương vào nhau mà sinh khởi, đều vô

thường và chuyển biến, không có cái chủ thể, cái bền vững độc lập ở trong chúng.
Chúng ta có thể nhận thấy một cách rõ ràng, khổ hay không là do lòng mình. Hay
nói cách khác, tùy theo cách nhìn của mỗi người đối với cuộc đời mà có khổ hay
không. Nếu không bị sự chấp ngã và dục vọng, vị kỷ hay phiền não khuấy động,
chi phối, ngự trị trong tâm thì cuộc đời đầy an lạc hạnh phúc.
- Diệt đế:
Là chân lý về diệt khổ. Phật giáo cho rằng mọi nỗi khổ điều có thể tiêu diệt được
để đạt tới trạng thái “niết bàn”. Một khi gốc của mọi tham ái được tận diệt thì sự khổ
cũng được tận diệt. Muốn diệt khổ phải đi ngược lại 12 nhân duyên, bắt đầu từ diệt trừ
vô minh.
Vô minh bị diệt, trí tuệ được bừng sáng, hiểu rõ được bản chất tồn tại, thực
tướng của vũ trụ là con người, không còn tham dục và kéo theo những hành động
tạo nghiệp nữa, tức là thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử. Nói cách khác diệt trừ được
10


vô minh, tham dục thì hoạt động ngũ uẩn dừng lại, tu đến niết bàn, tịch diệt khi ấy
mới hết luân hồi sinh tử.
Phật giáo cho rằng, một khi người ta đã làm lắng dịu lòng tham ái, chấp thủ,
thì những nỗi lo âu, sợ hãi, bất an giảm dần, thâm tâm của bạn trở nên thanh thản,
đầu óc tỉnh táo hơn; lúc đó nhìn mọi vấn đề trở nên đơn giản hơn, rộng lượng hơn.
Đó là một hình thức hạnh phúc, cũng nhờ vậy tâm trí không bị chi phối bởi những
tư tưởng chấp thủ, nhờ không bị nung nóng bởi các ngọn lửa phiền muộn, lo lắng
sợ hãi mà tâm lý của bạn trầm tĩnh và sáng suốt hơn, khả năng nhận thức sự vật
hiện tượng sâu sắc hơn, chính xác hơn, thâm tâm được chuyển hóa, thái độ ứng xử
của bạn với mọi người xung quanh rộng lượng và bao dung hơn. Tùy vào khả năng
giảm thiểu lòng tham, vô minh đến mức độ nào thì đời sống của bạn sẽ tăng phần
hạnh phúc đến mức độ ấy.
- Ðạo đế:
Là chân lý về con đường dẫn đến diệt khổ. Đây là con đường tu đạo để hoàn

thiện đạo đức cá nhân. Khổ được giải thích là xuất phát Thập nhị nhân duyên, và
một khi dứt được những nguyên nhân đó thì ta có thể thoát khỏi vòng sinh tử.
Chấm dứt luân hồi, vòng sinh tử đồng nghĩa với việc chứng ngộ niết bàn. Có 8 con
đường chân chính để đạt sự diệt khổ dẫn đến niết bàn gọi là “Bát chính đạo”. Bát
chính đạo bao gồm:
+ Chính kiến: hiểu biết đúng đắn và gìn giữ một quan niệm xác đáng về Tứ
diệu đế và giáo lí vô ngã.
+ Chính tư duy: suy nghĩ luôn có một mục đích đúng đắn, suy xét về ý nghĩa
của bốn chân lí một cách không sai lầm.
+ Chính ngữ: nói năng phải đúng đắn, không nói dối hay nói phù phiếm.
+ Chính nghiệp: giữ nghiệp đúng đắn, tránh phạm giới luật, không làm việc
xấu, nên làm việc thiện.
+ Chính mệnh: giữ ngăn dục vọng đúng đắn, tránh các nghề nghiệp liên quan
đến sát sinh.

11


+ Chính tinh tiến: cố gắng nỗ lực đúng hướng không biết mệt mỏi để phát
triển nghiệp tốt, diệt trừ nghiệp xấu.
+ Chính niệm: tâm niệm luôn tin tưởng vững chắc vào sự giải thoát, luôn
tỉnh giác trên ba phương diện Thân, Khẩu, Ý.
+ Chính định: kiên định, tập trung tư tưởng cao độ suy nghĩ về tứ điệu đế, vô
ngã, vô thường, tâm ý đạt bốn định xuất thế gian.
Theo con đường bát chính đạo nói trên, con người có thể diệt trừ vô minh, đạt
tới sự giải thoát, nhập vào niết bàn là trạng thái hoàn toàn yên tĩnh, sáng suốt,
chấm dứt sinh tử luân hồi.
Trong tám nẻo đường này thì chính kiến, chính tư duy thuộc về trí tuệ
(panna); chính ngữ, chính nghiệp, chính mệnh thuộc về Định (Samadhi). Muốn
thực hiện được “Bát chính đạo” thì phải có phương pháp để thực hiện nhằm ngăn

ngừa những điều gian ác gây thiệt hại cho mình và những người làm điều thiện có
lợi ích cho mình và cho người. Nội dung của các phương pháp đó là thực hiện
“Ngũ giới” (năm điều răn) và “Lục độ” (sáu phép tu).
- “Ngũ giới” gồm:
+ Bất sát: Không sát sinh.
+ Bất đạo: Không làm điều phi nghĩa.
+ Bất dâm: Không dâm dục.
+ Bất vọng ngữ: Không bịa đặt, không vu oan giá họa cho kẻ khác, không nói dối.
+ Bất ẩm tửu: Không uống rượu.
- “Lục độ” gồm:
+ Bố thí: Đem công sức, tài trí, của cải để giúp người một cách thành thực
chứ không để cầu lợi hoặc ban ơn.
+ Trí giới: Trung thành với điều răn, kiên trì tu luyện.
+ Nhẫn nhục: Phải biết kiên nhẫn, nhường nhịn, chịu đựng để làm chủ được mình.
+ Tịnh tiến: Cố gắng nỗ lực vươn lên.
12


+ Thiền định: Tư tưởng phải tập trung vào điều ngay, chính, không để cho cái
xấu che lấp.
+ Bát nhã: Trí tuệ thấy rõ hết, hiểu thấu hết mọi chuyện trên thế gian.
Trong những giai đoạn đầu với vũ trụ quan nhân duyên, đạo Phật đã có những
yếu tố duy vật và tư tưởng biện chứng tự phát. Về chính trị xã hội thì đạo Phật là
tiếng nói phản kháng chế độ đẳng cấp khắc nghiệt, tố cáo chế độ xã hội bất công,
đòi tự do tư tưởng và bình đẳng xã hội, nêu lên ước vọng giải thoát con người khỏi
nỗi bi kịch của cuộc đời… Tuy nhiên, trong luận thuyết về nhân sinh và con đường
giải thoát, tư tưởng Phật giáo còn hạn chế, mang nặng tính bi quan, yếm thế về
cuộc sống, chủ trương “xuất thế”, “siêu thoát” có tính chất duy tâm, không tưởng
về những vấn đề xã hội.
Sau khi Đức Phật tạ thế, các đệ tử của Người đã định kì họp lại. Và tại các

cuộc họp càng về sau, sự bất đồng ý kiến giữa các chư tăng trong việc hiểu và giải
thích kinh Phật ngày càng gay gắt. Hàng ngũ Phật giáo do vậy chia làm hai phái:
Phái của các vị trưởng lão gọi là Thượng Tọa (theravada) theo xu hướng bảo thủ,
chủ trương bám sát kinh điển, giữ nguyên giáo luật; Phật tử chỉ giác ngộ cho bản
thân, chỉ thờ Đức Phật Thích-Ca và chỉ cầu sớm chứng quả La Hán. Phần đông
tăng chúng còn lại không chịu nghe theo, họ khai hội nghị riêng, lập ra phái Đại
Chúng (mahasanghika) chủ trương không câu nệ cố chấp vào kinh điển, khoan
dung đại lượng trong việc thực hiện giáo luật, thu nạp rộng rãi tất cả những ai
muốn quy y, giác ngộ, giải thoát cho nhiều người, thờ Phật, và nhân vật tiêu biểu là
Bồ-Tát.
Tại các lần kiến tập thứ 3 - 4, phái Đại Chúng soạn ra kinh sách riêng và tự
xưng là Đại Thừa (mahayana) nghĩa là “cỗ xe lớn” và gọi phái Thượng Tọa là Tiểu
Thừa (hinayana) nghĩa là “cỗ xe nhỏ”.
Phái Đại Thừa phát triển lên phía Bắc nên được gọi là Bắc Tông, được phổ
biến sang Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên… Còn phái Tiểu Thừa phát triển xuống
phía Nam nên được gọi là Nam Tông, từ trung tâm Srilanca (Tích Lan) phát triển
sang các nước Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Kinh sách Đại Thừa được viết
bằng tiếng Sanscrit, còn kinh sách Tiểu Thừa được viết bằng tiếng Bali.
13


1.2.3. Quá trình du nhập của Phật giáo vào Việt Nam
Qua lịch sử, Phật giáo từ Ấn Độ truyền vào Việt Nam cùng thời với con
đường truyền qua Trung Quốc. Theo cuốn “Cổ sử các nước Ấn Độ hóa ở vùng
Viễn Đông” và cuốn "Roman coins INDIA-1964 P.559-683 cùa R. Sewedl". Trong
những năm đầu của công nguyên, các thương nhân hàng hải của Ấn Độ qua miền
Viễn Đông để buôn bán, đạo Phật đã theo bằng đường thủy qua Srilanca, Java,
Inddônêxia, Ấn Độ và Trung Quốc. Ở những nơi thương nhân ghé lại, nơi thừa tự
được lập để nguyện cầu bình an, may mắn. Từ dó, tư tưởng tôn giáo được thiết lập.
Theo cuốn “Ngô chí” của Trung Quốc vào đời Hán thì có nói: Sĩ Nhiếp trong

buổi loạn lạc đã giữ yên quận Giao Châu, giúp dân an cư lạc nghiệp. Vì thế ông
được người dân bản xứ tôn kính. Đi đâu ông cũng có người Hồ đi theo hai bên
đường. Mà theo Sylvainlevi, Hồ là từ mà người Trung Quốc dùng để chỉ người
Trung Á hay Ấn Độ. Như vậy, người Ấn Độ, kể cả các nhà sư có nhiều ở Giao
Châu lúc bấy giờ. Bản thân Sĩ Nhiếp cũng đã theo đạo Phật, đi đâu cũng có các nhà
sư đi theo… Như thế chứng tỏ là đạo Phật đã do các nhà sư Ấn Độ đem vào Việt
Nam vào hạ bán thế kỉ thứ 2.
Còn một số sách khác cho thấy rằng: Sinh hoạt Phật giáo đã bắt đầu ở Việt
Nam từ đầu thế kỷ do các nhà buôn đem vào. Rồi thực sự có các nhà sư theo
thuyền buôn đến truyền đạo vào cuối thế kỷ thứ 2 và đầu thế kỷ thứ 3 bằng hai con
đường là đường thủy và đường bộ. Vào các thế kỷ đầu ở Giao Châu, Phật giáo đã
có một trung tâm lớn tại Luy Lâu - một trong ba trung tâm lớn của đế quốc nhà
Hán, trụ sở của quận Giao Chỉ là Luy Lâu đã sớm trở thành trung tâm quan trọng
của Phật giáo. Tại đây với hoạt động truyền giáo của Khâu-Đà-La (Kasudla) đã
xuất hiện truyền thuyết đầu tiên về Phật giáo Việt Nam với Thạch Quang Phật và
Mang Nương Phật Mẫu. Từ đây những nhà sư Ấn Độ như Ma-ha-kỳ-vực
(Marajivaka), Khâu Đà La (Kasudara), Khương Tăng Hội (K’ang-seng-houei), Chi
Cương Lương Lâu (Kalaruci), Mâu Bác (meou-pô).
Do Phật giáo được truyền bá trực tiếp từ Ấn Độ vào Việt Nam nên ngay từ
đầu công nguyên từ Buddha (Bậc Giác Ngộ) tiếng phạn đã được phiên âm sang
tiếng Việt là Bụt. Phật giáo Giao Châu lúc này mang màu sắc Tiểu Thừa Nam
14


Tông, và trong mắt người Việt nông nghiệp, hình tượng Bụt được hình dung như vị
thần dân dã toàn năng có mặt khắp nơi, luôn sẵn sàng xuất hiện để cứu giúp người
tốt và trừng trị kẻ xấu. Sau này, sang thế kỷ thứ 4-5 có thêm luồng ảnh hưởng của
Phật Giáo Đại Thừa Bắc Tông từ Trung Hoa tràn vào không bao lâu, nó đã lấn át
và thay thế luồng Nam Tông có từ trước đó. Khi ấy từ Buddha tiếng Phạn vào tiếng
Hán được phiên âm thành Phật ngang đà, Phật đồ, vào tiếng Việt rút gọn thành

Phật. Và từ đây từ Phật dần dần thay thế từ Bụt.
Từ Trung Hoa, có ba tông phái Phật giáo được truyền vào Việt Nam, đó là:
Thiền tông, Tịnh Độ tông và Mật tông. Việt Nam là xứ nông nghiệp, thiên nhiên ít
được ưu đãi, nhiều thiên tai bão lụt, con người tin nhiều vào thần thánh, phép lạ,…
bởi thế Mật giáo rất dễ du nhập. Các sư như Ma Ha Kỳ Vực, Khâu Đà La, Chi
Cương Lương làm nhiều phép thần thông lạ thường được dân Việt Nam ưa thích.
Mật tông là tông phái chủ trương sử dụng những phép tu huyền bí như dùng
linh thù, mật chú, ấn quyết… để mau chóng đạt đến giác ngộ và giải thoát. Ở Việt
Nam Mật tông không tồn tại độc lập như một tông phái riêng mà nhanh chóng hòa
vào dòng tín ngưỡng dân gian.
Tịnh Độ tông, với pháp môn niệm Phật cầu Vãng sinh, lớp bình dân dễ dàng
tin theo. Phép tu chỉ có chuyện niệm Phật A Di Đà. Dù chưa dứt hết nghiệp, sau
khi chết, người chuyên niệm Phật vẫn được Vãng sinh cực lạc.
Thiền tông là pháp môn thấy dễ mà khó, thiền không khéo sẽ bị tẩu hỏa nhập
ma, điên loạn, mất bình thường. Tuy thế, người Việt Nam vẫn tiếp nhận và cũng
khá phổ biến trong các nhà sư và trí thức.
Khi vào Việt Nam, Phật giáo đã tiếp xúc ngay với các tín ngưỡng truyền
thống của dân tộc ta, do đó, đã tổng hợp chặt chẽ ngay với chúng. Hệ thống chùa
“Tứ pháp” kết hợp việc thờ Phật với thờ các vị thần tự nhiên như Mây - Mưa - Sấm
- Chớp và thờ đá. Lối kiến trúc của chùa chiền Việt Nam là “tiền Phật hậu Thần”
với việc đưa vào chùa các thần, thánh, các thành hoàng thổ địa và các anh hùng
dân tộc. Có chùa thờ cả Bác Hồ ở Hậu tổ và hầu như không một chùa nào là không
để bia hậu, bát nhang cho các linh hồn, vong hồn đã mất. Vào Việt Nam, đức Phật
được đồng nhất với những vị thần tín ngưỡng truyền thống có khả năng cứu giúp
15


mọi người thoát khỏi tai họa. Hơn nữa vì muốn giữ cho Phật giáo ở mãi bên mình,
người Việt Nam nhiều khi phá cả giới luật. Người Việt Nam giao tiếp theo nguyên
tắc “xưng khiêm hô nhường” nên các vị Bồ tát, hòa thượng mà người Việt Nam

yêu quý đều được tôn làm Phật hết: Phật bà Quan Âm (vốn là Bồ tát), Phật Di-Lặc
(vốn là hòa thượng). Còn tượng Phật Việt Nam vốn mang dáng dấp hiền hòa của
người Việt Nam.
Bên cạnh đó, Phật giáo Việt Nam lại tổng hợp các tông phái với nhau nên
không có tông phái Phật giáo nào ở Việt Nam là thuần khiết. Tuy Thiền tông chủ
trương bất lập ngôn, song ở Việt Nam, chính các thiền sư đã để lại khá nhiều trước
tác giá trị.
Phật giáo Việt Nam cũng dung hợp chặt chẽ con đường giải thoát bằng tha
lực, phối hợp Thiền tông với Tịnh Độ tông (niệm Phật A di đà và cầu Bồ tát). Chùa
miền Bắc là cả một Phật điện vô cùng phong phú với hàng chục pho tượng Phật,
Bồ-tát, La-hán của các tông phái khác nhau. Còn ở phía Nam, Đại Thừa và Tiểu
Thừa kết hợp mật thiết với nhau trong đó: nhiều chùa mang hình thức Tiểu Thừa
(thờ Phật Thích-ca). Mặc áo vàng nhưng lại theo giáo lý Đại Thừa; bên cạnh tượng
Phật Thích-ca lớn vẫn có nhiều tượng Phật nhỏ khác, bên cạnh áo vàng vẫn sử
dụng đồ nâu và đồ lam.
Ngoài ra Phật giáo Việt Nam còn kết hợp chặt chẽ giữa việc đạo với việc đời.
Tuy là một tôn giáo xuất thế, nhưng ở Việt Nam, Phật giáo lại rất nhập thế: các cao
tăng được Nhà nước mời tham chính hoặc cố vấn trong những việc hệ trọng. Sự
gắn bó giữa đạo với đời mật thiết tới mức không chỉ có các nhà sư tham gia vào
chính sự, mà các thời Lý-Trần còn khá nhiều vua quan quý tộc đi tu (thiền phái
Thảo Đường và Trúc Lâm Yên Tử). Với truyền thống gắn bó giữa đạo với đời, đầu
thế kỉ 20, Phật tử Việt Nam hăng hái tham gia vào các hoặc động của xã hội như
cuộc vận động đòi ân xá cho cụ Phan Bội Châu và đám tang cụ Phan Châu Trinh.
Thời Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu, Phật tử miền Nam đã tham gia tích
cực vào phong trào đấu tranh đòi hòa bình và độc lập, nổi bật là sự kiện Phật tử
xuống đường đấu tranh chống lại nền độc tài chuyên chế của gia đình họ Ngô năm
1963. Đặc biệt là sự kiện hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu để phản đối chế độ
16



độc tài đó. Trong các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, một
bộ phận không nhỏ các tăng ni Phật tử đã tạm lột bỏ lớp áo cà sa để cùng nhân dân
cả nước cầm súng đánh giặc cứu nước.

17


Chương II: ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO ĐỐI
VỚI XÃ HỘI VIỆT NAM
Như đã trình bày ở các phần trước, Phật giáo là một học thuyết về sự giải
thoát, toàn bộ học thuyết hướng con người về tư tưởng giải thoát. Đồng thời, nó
cũng là học thuyết về đạo đức, đề cập đến vấn đề bình đẳng, bác ái. Vì vậy, ngay
sau khi được các nhà sư Ấn Độ đưa vào Việt Nam, Phật giáo đã nhanh chóng được
nhân dân ta tiếp nhận một cách tự nhiên và phát triển. Do thâm nhập một cách hòa
bình, ngay từ thời Bắc thuộc, Phật giáo đã phổ biến rộng khắp.
Cho đến nay Phật giáo vẫn là tôn giáo có số lượng tín đồ đông nhất ở Việt
Nam. Đạo Phật thân thiết với người Việt Nam đến nỗi dường như một người Việt
Nam nếu không theo một tôn giáo nào khác, ắt là theo Phật hoặc chí ít là có cảm
tình với đạo Phật. Điều đó cho thấy ảnh hưởng của Phật giáo đối với đời sống tinh
thần của nhân dân ta là rất mạnh mẽ.
Với truyền thống gắn bó đạo với đời, ngay từ thời Đinh - Tiền Lê, Lý, Trần…
các sư đều tham gia chính sự. Ngoài ra, vào các thời Lý-Trần, còn khá nhiều vua
quan quý tộc đi tu như vua Trần Nhân Tông…
2.1 Ảnh hưởng của Phật giáo về tư tưởng
Tư tưởng hay đạo lí của Phật giáo là đạo lí Duyên Khởi, Tứ Diệu Đế và Bát
chánh Đạo. Ba đạo lí này là nền tảng cho tất cả các tông phái Phật giáo nguyên
thủy cũng như Đại Thừa đã ăn sâu vào lòng người dân Việt. Về giáo lí nghiệp báo
hay nghiệp nhân quả báo của đạo Phật đã được truyền vào nước ta rất sớm. Giáo lí
này đã trở thành nếp sống tín ngưỡng đối với người Việt Nam có hiểu biết, có suy
nghĩ. Người ta biết lựa chọn ăn ở hiền lành, nó chẳng những thích hợp với giới

bình dân mà còn ảnh hưởng đến giới trí thức. Vì thế, giáo lí nghiệp báo luân hồi đã
in dấu ấn đậm nét trong văn chương bình dân, văn chương chữ Hán, chữ Nôm từ
xưa cho đến nay để dẫn dắt từng thế hệ con người biết soi sáng tâm trí mình vào lí
nhân quả nghiệp báo mà hành động sao cho tốt đẹp, đem lại hòa bình an vui cho
mọi người. Mỗi người dân Việt Nam đều biết câu “ác giả ác báo”. Mặt khác, họ
hiểu rằng nghiệp nhân quả không phải là định nghiệp mà có thể làm thay đổi, do

18


đó họ tự biết sửa chữa, tu tập cải ác thành thiện. Từ những hành động thiện, giảm
bớt điều ác, dần dần ta sẽ chuyển hóa và tạo cho ta một cuộc sống yên vui.
2.2 Ảnh hưởng của Phật giáo về đạo lí
Đạo lí ảnh hưởng nhất là giáo lí từ bi, tinh thần hiếu hòa, hiếu sinh của Phật
giáo đã ảnh hưởng và thấm nhuần sâu sắc trong tâm hồn người Việt Nam. Tinh
thần thương người như thể thương thân này đã biến thành ca dao, tục ngữ rất phổ
biến trong quần chúng Việt Nam như: “lá lành đùm lá rách”, “nhiễu điều phủ lấy
giá gương. Người trong một nước phải thương nhau cùng”. Đó là những câu ca
dao tục ngữ mà bất cứ người Việt Nam nào cũng thấm nhuần và thuộc lòng, nói lên
lòng nhân ái vị tha của người Việt Nam.
Ngoài đạo lí Từ Bi, người Việt Nam còn chịu ảnh hưởng của Đạo lí Tứ Ân,
gồm: ân cha mẹ, ân sư trưởng, ân quốc gia và ân chúng sinh. Trong đó ân cha mẹ
là nổi bật và ảnh hưởng rất sâu đậm trong tình cảm và đạo lí người Việt bởi vì đạo
Phật đặc biệt chú trọng đến chữ hiếu, như thế là phù hợp với đạo lí truyền thống
của dân tộc Việt. Đạo lí Tứ Ân còn có chung động cơ thúc đẩy từ bi hỉ xa khiến
con người ta sống hài hòa với xã hội, thiên nhiên để tiến đến hạnh phúc đích thực
và bền vững.
2.3 Ảnh hưởng của Phật giáo qua phong tục tập quán
- Ảnh hưởng qua tục ăn chay, phóng sanh, bố thí
Hơn lúc nào hết trong mấy chục năm lại đây người Phật tử Việt Nam rất

chăm lo đến việc thực hiện các nghi lễ của đạo mình. Họ hay lên chùa trong các
ngày sóc, ngày vọng, họ trân trọng thành kính trong khi thi hành lễ, họ siêng năng
trong việc thiền định, giữ giới, làm việc thiện. Mặt khác nhà chùa sẵn sàng thực
hiện các yêu cầu của họ như cầu siêu, giải oan,... Tất cả những điều này củng cố
niềm tin vào giáo lý, vừa quy định tư duy và hành động của họ, tạo cơ sở để hình
thành những nhân cách riêng biệt.
Về ăn chay, hầu như tất cả người Việt Nam đều chịu ảnh hưởng của nếp sống
văn hóa này. Nó xuất phát từ quan niệm từ bi của Phật giáo. Đạo Phật không muốn
sát sinh mà trái lại phải thương yêu mọi loài. Số ngày ăn chay tuy có khác nhau
19


trong từng tháng, nhưng cùng giống nhau ở quan điểm từ bi hỷ xả của Phật giáo.
Do hiệu quả của việc ăn chay trong việc tăng cường sức khỏe, chống bệnh tật, nên
người Việt Nam dù là Phật tử hay không đều thích ăn chay. Ăn chay và thờ Phật là
hai việc đi đôi với nhau của người Việt Nam. Dù không phải là Phật tử cũng dùng
tượng Phật hay tranh ảnh về Phật giáo để trang trí cho đẹp và nghiêm trang.
Cùng với tục thờ Phật, tục thờ cúng tổ tiên của dân tộc Việt Nam có từ lâu
đời. Tục này xuất phát từ lòng kính yêu đối với ông bà, cha mẹ, tổ tiên và được
xem là một dạng tín ngưỡng quan trọng của người Việt Nam. Vào những ngày rằm,
mùng 1 những gia đình không theo đạo Phật cũng mua hoa quả thắp nhang trên
bàn thờ tổ tiên.
Cũng xuất phát từ tinh thần từ bi của đạo Phật, tục lệ bố thí và phóng sinh đã
ăn sâu vào đời sống tinh thần. Đến ngày rằm và mùng 1, người Việt thường mua
chim, cá… để đem về chùa cầu nguyện rồi đi phóng sinh. Người dân cũng thích
làm phước bố thí và sẵn sàng giúp đỡ kẻ nghèo khó hoạn nạn. Tuy nhiên, trong xã
hội hiện đại những biểu hiện mang tính chất hình thức trên ngày càng bị thu hẹp.
Thay vào đó mọi người tham gia vào những đợt cứu trợ đồng bào gặp thiên
tai, hoạn nạn, hoàn cảnh sống khó khăn đúng với truyền thống đạo lí của dân tộc:
lá lành đùm lá rách.

- Ảnh hưởng qua tục cúng rằm, mùng một và lễ chùa
Tập tục đến chùa để tìm sự bình an cho tâm hồn đã trở thành một nét phong
tục lâu dời “đi chùa lễ Phật” của tổ tiên. Những ngày lễ hội lớn trong năm bắt đầu
từ Phật giáo như: lễ Phật Đản, lễ Vu Lan, lể tắm Phật… thực sự đã trở thành ngày
hội văn hóa của người dân. Những ngày lễ lớn như trên của Phật giáo đã là chất
keo gắn người dân với nhau và ảnh hưởng ngày càng sâu đậm trong nhân dân.
Có thể nói phong tục tập quán ở Việt Nam trong quá trình tồn tại và phát triển
đã chịu tác động của trào lưu văn hóa khác nhau, nhất là từ Trung Quốc, trong đó
Phật giáo đã dự một phần quan trọng vào việc định hình và duy trì không ít các tập
tục dân gian vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Nhưng không phải tất cả các tập tục có
sự ảnh hưởng của Phật giáo đều là tốt cả mà trong đó có tập tục cần phải chắt lọc
lại như tập tục xin xăm bói quẻ, cúng sao giải hạn, coi ngày giờ, đốt vàng mã để
20


phù hợp với chính pháp. Đó là nhiệm vụ nặng nề của các nhà truyền giáo trong
thời hiện đại.
- Ảnh hưởng Phật giáo qua nghi thức ma chay, cưới hỏi
Đây cũng là sinh hoạt thường xảy ra trong đời sống người Việt. Về ma chay,
theo phong tục của người Việt Nam và Trung Hoa trước đây rất là phiền phức và
hao tốn. Tuy nhiên nhờ có sự dẫn dắt của chư tăng thì tang lễ diễn ra đơn giản và
trang nghiêm hơn. Khi trong gia đình (theo Đạo Phật) có người qua đời, thân
quyến đến chùa thỉnh chư tăng về nhà để giúp đỡ phần tang lễ (thường gọi là làm
ma chay).
Ở những gia đình không theo Đạo Phật nhưng do người quá cố hoặc gia chủ
mến chuộng Đạo Phật nên họ thỉnh chư tăng, ni đến tụng kinh cầu siêu cho hương
linh và tổ chức tang lễ giống như những tín đồ theo Đạo Phật. Nhìn chung, tập tục
ma chay tại Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu đậm từ những nghi thức của Phật giáo.
Việc cưới hỏi, tầm ảnh hưởng của Phật giáo tỏ ra ít phức tạp hơn so với Thiên
Chúa giáo, khổng giáo hay Hồi giáo. Trước khi tiến tới hôn nhân, nhiều đôi bạn trẻ

theo tín ngưỡng Phật giáo, thường đến chùa khấn nguyện với chư Phật phù hộ cho
mối lương duyên của họ được thuận buồm xuôi gió. Đến ngày cưới hỏi, họ được
hướng dẫn về chùa để chư tăng làm lễ “hằng thuận quy y” trước khi rước dâu. Đó
là một lễ chúc lành ngắn gọn và được chư tăng khuyên dạy một số nguyên tắc đạo
đức Phật giáo, để làm kim chỉ nam cho cuộc sống mới.
Ngoài những phong tục của người Việt Nam chịu ảnh hưởng Phật giáo đã
được kể trên, chúng ta còn thấy một số tập tục khác cũng tương đối phổ biến và có
ít nhiều liên quan đến Phật giáo mà chúng ta phải ghi nhận.
- Các phong tục tập quán khác
+ Tập tục đốt vàng mã:
Đây là tập tục rất phổ biến ở Việt Nam mà người Việt đã tiếp nhận từ Phật
giáo Trung Quốc. Nhiều người ngộ nhận rằng tập tục này xuất gia từ quan điểm
nhân quả luân hồi của Phật giáo, do đó nó đã tồn tại trong Phật giáo từ xưa cho tới
ngày nay. Nếu đời này ai ăn ở hiền lành, tu tâm dưỡng tánh thì đời sau sẽ tái sinh
21


trở lại làm người hạnh phúc, sung sướng giàu sang hoặc vãng sanh về thế giới cực
lạc. Còn nếu kiếp này ăn ở tệ bạc, làm nhiều điều ác, sau khi chết sẽ bị đọa xuống
địa ngục cõi âm ti chịu nhiều đau khổ. Người nhiều tội lỗi hay không có ai thờ
cúng, cầu siêu thì ở nơi địa ngục bị oan ức, đói lạnh, không thể siêu thoát hoặc đầu
thai được. Cho nên những người thân ở nơi dương thế phải thờ cúng, tụng kinh cầu
siêu để người thân của mình dưới cõi âm ti bớt đi phần tội lỗi hoặc được ấm no mà
thoát kiếp. Sau khi cúng giỗ, ngày vọng người chết sẽ nhận được những vật dụng,
tiền bạc đã cúng và đốt đó. Trong các đồ mã và giấy tiền vàng bạc để cúng thường
có hình ảnh (Phật Di Lặc hay Bồ Tát Quan Âm) hoặc chữ nghĩa (chú vãng sanh,
chữ triện) có yếu tố của Phật giáo với ý đồ mong sự cứu độ của Chư Phật đối với
người đã khuất.
Ở đây xin nói rõ, tập tục đốt vàng mã là một "hủ tục" mang tính mê tín dị
đoan và vô lý, người Phật tử chân chính không bao giờ chấp nhận. Chính trên thế

gian này, đồng tiền của nước này mang sang nước khác còn khó được chấp nhận,
huống hồ từ nhân gian, đốt gởi xuống âm phủ xài, là chuyện không có cơ sở để tin
cậy được. Theo Phật dạy chúng sanh tùy nghiệp thiện ác theo đó mà thác sanh nơi
cõi lành, cõi dữ. Thân nhân chúng ta chết cũng theo nghiệp thiện ác mà thọ sanh
vào sáu cõi chứ không ngồi chờ việc đốt vàng mã của người thân, vừa trái với đạo
lý, vừa phí tổn tiền bạc vô ích. Theo Phật giáo thì có rất nhiều cách để thể hiện
lòng thương và lòng chung thủy của người sống đối với người chết bằng cách khi
có người sắp chết, thân quyến phải phát tâm bố thí, cúng dường, phóng sanh và
điều quan trọng là phải thông tin cho người đó biết việc làm của gia đình mà
hướng tâm đến con người thiện, nhờ đó mà họ sẽ thọ sanh vào cảnh giới an lành.
+ Tập tục coi ngày giờ:
Đây là một tập tục ăn sâu vào tập quán của người Việt nói riêng và cả Châu Á
nói chung. Mỗi khi sắp làm một việc gì quan trọng như xây dựng nhà cửa, đám
chết, đám cưới, xuất hành đầu năm... người ta thường về chùa để nhờ các thầy coi
giúp giùm ngày nào tốt thì làm ngày nào xấu thì tránh. Thông thường người ta hay
tránh ba ngày: mùng 05, 14, 23, họ cho ba ngày này là xui xẻo, là bất hạnh, cần
phải tránh.
22


Theo cái nhìn của Phật giáo thì đây cũng là một loại hình mê tín, người Phật
tử không nên chạy theo. Đức Phật dạy rằng với người làm điều lành, ngày nào
cũng là ngày tốt với người làm việc tốt, ngày nào cũng là ngày lành. Năm tháng
đối với người làm thiện đều là ngày tốt cả, gieo nhân thiện thì sẽ gặt quả lành. Giáo
lý nhân quả của Đạo Phật là cán cân công bằng với khổ đau và hạnh phúc của con
người chứ không phải là sự phân định của hên xui.
+ Tập tục cúng sao giải hạn:
Tập tục này rất phổ biến và ăn sâu vào tập quán của người Việt và lại có sự
tham gia của Phật giáo. Nguyên nhân cũng bắt nguồn từ Trung Quốc, sau truyền
qua Việt Nam rồi vào trong Phật giáo. Thời xưa ta có Tam giáo đồng nguyên; Phật,

Lão và Khổng giáo, đồng quy về mặt nguồn. Chủ trương như nhau, cùng một thiện
chí để đóng góp cho xã hội, phục hưng đạo đức, đưa đời sống của con người đến ấm
no hạnh phúc.
Trong bối cảnh Tam giáo đó, các thầy Phật giáo phải linh động, phải tìm hiểu,
học hỏi những cái lưu truyền của đạo bạn để có một cái nhìn hòa đồng, cảm thông
và nhất là để kéo Phật tử trở về với bói quẻ, xem tướng, thì các thầy cũng cúng sao,
bói quẻ xin xăm, để cho người Phật tử quay về chùa, thay vì để họ lạy thần linh thì
lạy Phật tốt hơn. Bước thứ hai là giảng đạo lý nhân quả, Bát chánh đạo, tạo chánh
kiến cho người Phật tử xóa bỏ tà kiến trước đây của họ. Trong phương tiện này đã
có một số người lạm dụng và dần dà nó trở thành một loại hình sinh hoạt của Phật
giáo. Hiểu rõ điều này, người Phật tử nên loại bỏ tập tục mê tín này.
+ Tập tục xin xăm, bỏi quẻ:
Xin xăm bói quẻ là một việc cầu may. Cũng bắt nguồn từ Trung Quốc, một
loại hình sinh hoạt khá rầm rộ tại các chùa, đình, miếu vào dịp đầu năm mới hoặc
các ngày lễ lớn. Các chùa làng có thờ Quan Thánh Đế Quân thường có đi đôi với
việc xin xăm. Người xin xăm trước hết đến lạy Phật rồi sang bàn thờ Quan Thánh,
khấn nguyện xin một quẻ xăm, rồi họ lắc ống xăm có 100 thẻ để lấy một thẻ rớt ra,
sau đó họ cầm quẻ xăm đến nhờ thầy trụ trì giải đáp giùm vận mạng của mình. Mỗi
thẻ ứng với một lá xăm có ghi sẵn trong những điều tiên đoán về công việc làm ăn,
học tập, hôn nhân, gia đình... của mỗi người bốc được quẻ xăm đó. Đây là một tập
23


tục không lành mạnh do tin tưởng vào sự may rủi của số phận đã được sắp đặt, an
bài từ trước. Như sách xưa có câu “phước chí tâm linh, hoa lai thần ám”. Nghĩa là
người gặp lúc phước đến thì giở quẻ ra đều tốt, khi họa lại thì rút lá xăm nào cũng
xấu. Thế là tốt xấu tại mình, không phải tại xăm quẻ. Người Phật tử chân chính cần
phải loại bỏ những loại hình mê tín này.
Phong tục tập quán tại Việt Nam trong quá trình tồn tại và phát triển đã chịu
nhiều tác động của trào lưu văn hóa khác nhau. Nhất là từ Trung Quốc. Trong đó

Phật giáo đã dự phần quan trọng trong việc định hình và duy trì không ít các tập
tục dân gian mà chúng ta thấy vẫn còn tồn tại cho tới ngày nay. Tuy nhiên, không
phải các tập tục có sự ảnh hưởng của Phật giáo là tốt tất cả, mà trong đó có tập tục
cần phải chắc lọc lại để phù hợp với đời sống hiện đại. Bên cạnh sự ảnh hưởng
trong các phong tục tập quán của dân tộc. Phật giáo còn ảnh hưởng qua các loại
hình nghệ thuật như, nghệ thuật tạo hình, nghệ thuật sân khấu cải lương...
2.4 Ảnh hưởng qua các loại hình văn hóa nghệ thuật
- Ảnh hưởng qua ca dao, thơ
Tư tưởng đạo lý Phật giáo cũng thường được ông cha ta đề cập đến trong ca
dao dân ca dưới đề tài này hay khía cạnh khác để nhắc nhở, khuyên răn dạy bảo với
mục đích xây dựng cuộc sống yên vui, phù hợp với truyền thống đạo lý dân tộc Việt
Nam. Quan niệm đạo Phật là đạo hiếu, lời dạy của Phật về việc nhớ ơn và báo ơn cha
mẹ là những cảm giác suy tư in đậm trong lòng người dân đã được thể qua ca dao dân
ca. Ví dụ:
"Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con"
- Thể hiện qua nghệ thuật sân khấu:
Tính triết lý nhân quả báo ứng của Phật giáo đóng vai trò quan trọng trong
các bài ca tuồng, vở diễn phù hợp với đạo lý Phương Đông và nếp sống truyền
thống của dân tộc, giáo lý “nhân quả báo ứng, thưởng thiện phạt ác”… được các
24


soạn giả thể hiện trong các vở cải lương… Ví dụ: “Quan Âm Thị Kính”. Ngoài ra
cón có các vở chịu ảnh hưởng ít nhiều của tư tưởng Phật giáo như các vở: “Phạm
Công Cúc Hoa”, “Kim Vân Kiều”, "Lưu Bình Dương Lễ",… do sự ảnh hưởng tinh
thần từ bi hỉ xả của Phật giáo nên các vở tuồng, cải lương ở phần kết thúc luôn
luôn có hậu.

Thời đại ngày nay, là thời đại phát triển. Nước ta vừa trải qua mấy chục năm
chiến tranh và hàng chục năm sống dưới chế độ quan liêu bao cấp, đời sống còn
nghèo nàn, lạc hậu vẫn cần đến sự phát triển. Phát triển có nghĩa là sự tăng trưởng
nhanh chóng về kinh tế, đời sống vật chất và văn hoá. Đảng và Nhà nước đã chỉ ra
nhiệm vụ trước mắt làm dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh.
Để đạt mục tiêu này nước ta cần có những người có tham vọng lớn, năng động, lạc
quan, tin tưởng, dũng cảm mở rộng sáng tạo. Những phẩm chất này phần lớn trái
với giáo lý nhà Phật, vì tham vọng trái với cấm dục, vô dục, ly dục của Nhà Phật...
Vì vậy việc cần làm hiện nay là phải xác định rõ Phật giáo có ảnh hưởng đến hệ tư
tưởng của người Việt Nam như thế nào để từ đó đưa ra những chính sách phát triển
phù hợp với lòng dân, làm cho xã hội ngày càng phát triển tiến bộ và tốt đẹp hơn.
2.5 Ảnh hưởng của Phật giáo tới thế hệ trẻ
Ngày nay ở nước ta Phật giáo không còn ở vị trí chính thống. Nhà trường ở
các cấp học phổ thông không có chương trình giảng dạy lịch sử, triết lý, đạo đức
Phật giáo một cách hệ thống. Số gia đình Phật tử cũng không còn đông như trước
đây. Sinh viên các trường Đại học chỉ nhận được rất ít kiến thức sơ bộ về Phật
giáo thông qua bộ môn “lịch sử triết học Phương Đông”, trừ những khoa chuyên
ngành Triết học. Vì thế phần lớn những hiểu biết của chúng ta về Phật giáo trước
hết là chịu ảnh hưởng tự nhiên của gia đình, sau đó là từ bạn bè, thầy cô và những
mối quan hệ xã hội khác. Trong đó ảnh hưởng của gia đình có tác động lớn lên
mỗi chúng ta. Trong mỗi gia đình mọi người đều theo đạo Phật hoặc không theo
một tôn giáo nào nhưng vẫn giữ tập tục quan trọng đi lễ chùa vào những ngày âm
quan trọng như ngày Tết, lễ, rằm... Người già thường nói chuyện với con cháu về
Đức Phật, Bồ Tát, về đạo lý làm người dựa vào các giáo lý Phật giáo. Những suy
nghĩ quan niệm này có thể phai nhạt, thậm chí đi ngược lại khi ta gặp một trào
25


×