TÓM TẮT:
Là một tác phẩm của một tác gia nước ngoài nhưng lại lấy bối cảnh ở một
nước thuộc địa Đông Dương, “ Người tình” của Marguerite Duras lại không bàn về
vấn đề chính trị rối ren hay đời sống nhân dân lầm than, nó dường như đi một lối
khác, theo trào lưu tiểu thuyết mới, lại mang hơi hướng tự truyện, kể về câu
chuyện tuổi trẻ gắn với gia đình và tình nhân. Bởi nhận thấy sự biến chuyển của
những người phụ nữ trong tác phẩm trước một xã hội nam quyền đầy định kiến,
đặc biệt là nhân vật “tôi”, trong cô ẩn chứa tinh thần phản kháng và bản chất nữ
giới vô cùng độc đáo, chúng tôi sẽ đi sâu vào tác phẩm mà phân tích diễn ngôn phái
nữ của những nhân vật nữ theo chủ nghĩa phê bình nữ quyền. Từ đó rút ra kết
luận, tác phẩm “Người tình” đã tập trung khám phá thế giới bên trong vốn bất định
và mơ hồ của người phụ nữ thay vì châm ngòi cho cuộc chiến khốc liệt giữa thế
giới nam quyền và người phụ nữ.
DẪN NHẬP:
1. Lí do chọn đề tài:
“Người tình” là một tiểu thuyết mang hơi hướng tự truyện, kể về cuộc đời
tuổi trẻ của một cô gái mười lăm tuổi trước sóng gió tình yêu đã phá vỡ những rào
cản của gia đình và xã hội để bắt đầu một mối quan hệ cấm đoán với sự biết
trước sẽ chẳng có tương lai. Những dòng văn trong tác phẩm là sự trở đi trở của
dòng ý thức của nhân vật “tôi” trong hiện tại và quá khứ về mỗi nhân vật: người
anh trai độc ác, người mẹ nửa điên nửa tỉnh, người anh út yếu đuối, yểu mệnh và
người tình giàu có, yêu cô da diết. Một tác phẩm nằm trong trào lưu tiểu thuyết
mới song lại trở nên khác biệt bởi những hình tượng người phụ nữ khác biệt.
Trên mảnh đất “Người tình” này, đã có không ít “cày cuốc” trong những khía
cạnh từ hình tượng nhân vật được giải mã cùng những ẩn ức tính dục của chủ
nghĩa phê bình phân tâm học, đến nghệ thuật trần thuật trong ngôi kể và điểm nhìn
linh hoạt, song vẫn chưa có một công trình nghiên cứu nào phân tích tác phẩm nói
chung, diễn ngôn phái nữ của những người phụ nữ nói riêng qua phê bình nữ
quyền để khám phá sâu sắc hơn thế giới nữ giới trong tiểu thuyết.
2. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng: Tiểu thuyết “Người tình” của Marguerite Duras dưới góc nhìn diễn
ngôn phái nữ
3. Phương pháp nghiên cứu: Để nghiên cứu về tiểu thuyết này, dưới góc nhìn
diễn ngôn phái nữ, chúng tôi sử dụng những phương pháp: trình bày, phân tích,
tổng hợp, bình luận.
MỞ ĐẦU:
Lí thuyết chung:
Là một trào lưu phê bình nổi lên trong những năm 6070 của thế kỉ trước, Một
điều hiển nhiên là phong trào phụ nữ thập niên 1960 không phải là điểm khởi phát
cho phong trào nữ quyền. Thậm chí, nó còn làm sống lại của những quan niệm cũ
và những hành động mà được xem là thuộc về vấn đề bất bình đẳng của phụ nữ
đã từng được đề cập trong các quyển sách kinh điển, một vài trường hợp đã được
đề xuất phương án giải quyết. Một số tác phẩm như: Một minh chứng cho các
quyền của phụ nữ của Mary Wollstonecraft (1972) hoặc trong một số bài thảo
luận của các tác giả nam giới như Milton, Pope, và Rousseau; tác phẩm Phụ nữ và
A.
1.
lao động của Olive Schreiner (1911); tác phẩm Căn phòng riêng Viginia Woolf
(1929), là bức tranh sinh động về những bất công dành cho phụ nữ trên con đường
học vấn và trong vấn đề hôn nhân và làm mẹ; và Simone de Beauvoir với tác
phẩm Giới tính thứ hai (1949) là một phần quan trọng trong bức tranh sinh động về
phụ nữ trong tiểu thuyết của D.H.Lawrence. Nam giới cũng góp phần tạo nên lối
viết nữ như cách thể hiện của một số tác giả nam giới trong các tác phẩm: Sự
khuất phục của đàn bà của John Stuart Mill (1869) và tác phẩm Nguồn gốc của gia
đình của Friedrich Engels (1884).
Phê bình nữ quyền từ những năm 1970 đã đạt được một vị trí đáng kể bởi
những tồn tại bên trong nó. Cuộc tranh luận và những ý kiến bất đồng tập trung
vào ba vấn đề được quan tâm nhất: 1. Vai trò của học thuyết; 2. Bản chất của ngôn
ngữ; 3. Giá trị hoặc các lĩnh vực khác của phân tâm học. Những cuộc tranh luận
vẫn diễn ra không hồi kết.
Trong tiểu luận trên, chúng tôi xin tập trung vào những diễn ngôn phái nữ một
phần chính trong lí thuyết của chủ nghĩa trên, để phân tích tác phẩm “Người tình”.
2. Các thuật ngữ:
Trước khi đi vào tìm hiểu diễn ngôn phái nữ và sự biến chuyển của nó trong
tiểu thuyết “Người tình” của Marguerite Duras, ta cần nằm được khái niệm của
“diễn ngôn” và “diễn ngôn phái nữ”.
“Diễn ngôn” là một thuật ngữ được hiểu dưới nhiều cách khác nhau, theo
M. Foucault có ba cách hiểu chính, nhưng theo bài tiểu luận “ Dẫn nhập lí thuyết
diễn ngôn của M. Foucault và nghiên cứu văn học” của Trần Văn Toàn, “ Nghiên
cứu diễn ngôn nữ quyền – một diễn ngôn cụ thể một cách tự nhiên gắn liền với
định nghĩa thứ hai”, “Định nghĩa thứ hai của Foucault về diễn ngôn hình dung diễn
ngôn như là “một nhóm các nhận định được cá thể hóa”. Đây là định nghĩa thường
được Foucault sử dụng để nhận dạng các diễn ngôn cụ thể. Diễn ngôn trong cách
sử dụng này là một nhóm những nhận định được tổ chức theo một cách thức nào
đó và có một mạch lạc và một hiệu lực chung. Theo đó, người ta có thể nói đến
chẳng hạn: diễn ngôn nữ quyền, diễn ngôn thuộc địa, diễn ngôn nam tính, diễn
ngôn nữ tính, diễn ngôn y học, diễn ngôn phân tâm học…Diễn ngôn trong cách
hiểu này vì thế được dùng ở số nhiều (discourses) ”. Nghĩa là diễn ngôn là tất cả
thuộc về ngôn ngữ mang tính tập thể, cộng đồng, như trong tiểu luận này, “diễn
ngôn phái nữ” là những phát ngôn, hành động ngôn ngữ thuộc về nữ giới.
B. NỘI DUNG:
1. … Từ tấn công những phiên bản nam tính của thế giới:
Trong cuốn giáo trình “Beginning theory, an introduction to literary and cultural
theory”, Peter Barry, Manchester university Press, 1995, (tạm dịch: Nhập môn về
văn học và lí thuyết văn hóa), bản dịch lưu hành nội bộ của khoa Ngữ văn,
ĐHSPHN của Nguyễn Thị Ngọc Minh, Lương Thị Hiền, Lộ Đức Anh, Nguyễn
Diệu Linh, phê bình nữ quyền được nhắc đến trong luận điểm: “Những giai đoạn
khác biệt với những mối bận tâm và những động thái riêng dường như là đặc điểm
của phê bình nữ quyền”, và biểu hiện đầu tiên gắn với “việc lột trần cái mà ta có
thể gọi là những cơ chế của chế độ gia trưởng, “những tư tưởng, thái độ” văn hóa
ở đàn ông và phụ nữ giúp duy trình sự bất bình đẳng giới” nghĩa là tấn công vào
giới tính nam cùng những bất công với phụ nữ gây ra bởi chế độ nam quyền.
Trong tiểu thuyết “Người tình”, Marguerite Duras đã xây dựng nên hai tuyến
nhân vật theo giới tính: Một là những người phụ nữ như nhân vật “tôi” chính là sự
phóng chiếu của tác giả trong cuốn tiểu thuyết mang màu sắc tự truyện này, nhân
vật bà mẹ là hiệu trưởng của một trường nữ sinh ở Sa Đéc, Helene Lagonelle một
cô gái mười bảy tuổi xinh đẹp tuyệt trần nhưng chưa và cũng không muốn trưởng
thành cùng vô số những người phụ nữ khác được nhắc đến trong truyện một cách
tưởng chừng bâng quơ, ngẫu nhiên song lại ẩn chứa dụng ý của nhà văn. Hai là
những người đàn ông bắt đầu từ người anh cả mà nhân vật “tôi” hận đến tận
xương tủy, chỉ mong anh ta sớm chết đi, để người anh út của cô có một cuộc sống
bình yên, không phải thấp thỏm trong nỗi sợ mà anh ta đem lại; quan trọng hơn hết
đó chính là người tình của cô bé xuất hiện như một biến cố, bước vào cuộc sống
của cô như một điều diệu kì và ra đi như một hồi ức đẹp và những người đàn ông
khác cũng được nhắc đến trong truyện đi liền với những phụ nữ xa lạ trên.
Vậy trước khi đi tìm hiểu sự phản kháng của phái nữ với phái tính còn lại của
thế giới, ta cần thấy được phái nam được hiện lên như thế nào trong tác phẩm?
1.1. Hình tượng thế giới đàn ông:
Thế giới đàn ông là bức tranh muôn màu với mỗi người đàn ông lại làm nên
một màu sắc riêng, từ đó tạo nên một phức cảm kì lạ đối với những người phụ nữ,
người con gái trong truyện.
Là mảnh ghép đầu tiên, người anh cả hiện lên trong nỗi ám ảnh của nhân vật
“tôi”, anh “nghiện thuốc phiện”, “cờ bạc”, anh ta là kẻ lục lọi tủ đồ để kiếm
những đồng tiền tích cóp của người mẹ, lấy trộm cả của cải của người làm, anh
hành hạ, dọa nạt đứa em trai và áp đặt cô em gái, hơn hết mọi hành động của anh
đều được “hợp pháp hóa” bởi người mẹ mà theo lời kể, là “đứa con duy nhất được
mẹ tôi gọi là: con tôi”. Không những thế, anh ta chính là người đề những thứ “luật
lệ” và cưỡng chế hai người em phải phục tùng. Đặc biệt trong chi tiết “một bữa ăn
ở Sa Đéc”, “ba chúng tôi ngồi ăn”, “anh ta bảo anh út phải chú ý, không được ăn
nhiều như vậy”, “ anh ta nhắc nhở rằng những miếng thịt to là phần của anh ta”,
“anh ta đợi xem anh út có dám nói một tiếng nào không, chỉ một tiếng thôi, hai nắm
đấm của anh ta đã đặt sẵn trên mặt bàn để đập nát mặt anh út”. Anh là đại diện
cho sự thống trị, áp bức của người anh trưởng trong xã hội nam quyền, là nỗi sợ
luôn thường trực trong cuộc sống của nhân vật “tôi” và người anh út, sở hữu một
quyền lực mà có lúc đã khiến người em gái thật sự bị tuân phục: “ham muốn của
tôi đã phục tùng anh cả, chối bỏ người tình của tôi”, song cũng ẩn chứa những gì là
xấu xa, bỉ ổi nhất.
Và rồi “sau khi mẹ tôi chết anh ta đơn độc… Đó chỉ là một tên lưu manh,
những thứ mà anh ta theo đuổi thật nhỏ mọn. Anh ta gây khiếp sợ xung quanh
mình, không ngoài phạm vi đó, Với chúng tôi anh ta đã mất đi sự thống trị thực sự
của mình”. Vậy hóa ra ngay từ ban đầu, quyền lực của anh ta chỉ dựa trên sự dung
túng của người mẹ, anh ta chỉ có giá trị khi người mẹ còn sống. Vị thế cùng quyền
lực tối thượng mà anh ta có được phải chăng cũng chỉ có thời hạn, đó là đến khi
người mẹ nhắm mắt xuôi tay?
Tiếp theo là người anh út, dưới sự áp bức của người anh cả, anh bao giờ cũng
trở nên bé nhỏ, khúm núm đến đáng thương. Anh thường “không nói gì hết”, để
mặc cho anh cả tự độc thoại trong cơn cáu giận của mình, rồi “giữa hai hàng mi
của anh nước mắt bắt đầu trào ra”, anh khóc trong bữa ăn ở Sa Đéc, chắc bữa ăn
ấy không chỉ có một lần mà dường như nó đã lặp đi lặp lại như một cơn ác mộng
đời anh. Anh không dám cất tiếng phản kháng lại sự đe dọa của anh trai mà phải
để người em gái bênh vực. Nếu như anh cả đại diện cho mặt dữ tợn, hung tàn thì
người anh út dường như lại là biểu tượng cho sự bạc nhược, yếu đuối của người
đàn ông.
Song anh út liệu có phải luôn núp sau bóng người em gái bé bỏng của mình để
mãi mãi lẩn trốn khỏi những đớn đau, đe dọa? Không, đến khi mạng sống của
người đồng minh duy nhất của anh bị đe dọa, là lúc “bà mẹ lấy hết sức ra để
đánh”, mà bà cho rằng sẽ giúp người con gái ấy “khỏi lầm đường lạc lối”, “anh út
thét lên bảo mẹ để cho em gái yên”, mặc dù sau đó, “anh đi ra vườn, anh lẩn trốn,
anh sợ là tôi bị giết, anh khiếp sợ, anh luôn sợ cái kẻ xa lạ này, gã anh cả của
chúng tôi”. Tinh thần phản kháng ấy của anh như thứ tàn lửa, tưởng chừng sẽ mãi
bị vùi lấp trong tấn tro xám cuộc đời chứa đựng nỗi sợ đến ngây ngốc trước kẻ xa
lạ độc ác kia nhưng giờ đây lại được thổi bùng lên bởi ngọn lửa tình yêu, trong vô
thức, dành cho người em gái mạnh mẽ song cũng thật đáng thương, như anh, bị bà
mẹ coi nhẹ, lãng quên. Vị thế của anh út từ một người không nắm trong tay quyền
lực, đối diện với mọi sự ngược đãi chỉ biết run sợ, khóc lóc, nay hình tượng lại trở
nên lớn lao, mạnh mẽ lạ thường. Chính nội lực ấy của anh đã khiến “ mẹ tôi bình
tĩnh lại”, điều đó cũng đồng nghĩa đập tan được “ý đồ đen tối, kinh khủng” của
người anh cả là sự đau đớn, cái chết bị thảm của đứa em gái “đã bị ô danh”, không
đáng giá bằng một con chó cái.
Nếu như khi phân tích hai người anh trai của nhân vật “tôi”, ta đặc biệt chú ý
đến vị thế cùng quyền lực của họ trong gia đình bởi họ cũng tồn tại trong một môi
trường xã hội thu nhỏ ấy thì đến người nhân vật nam chính trong truyện, anh chàng
“người tình” gốc Hoa vốn nằm trong một môi trường lớn hơn xã hội Việt Nam
trong thời kì Pháp thuộc, anh không chỉ có quyền lực đối với người con gái của
mình mà còn có vị thế cao trong xã hội. “Anh ta thuộc về một số ít nhà tư bản tài
chính gốc Hoa, những người nắm giữ toàn bộ bất động sản của giới bình dân ở
thuộc địa”. Những cuộc nói chuyện hẳn hoi ít ỏi giữa anh và nhân tình chỉ xung
quanh viêc bố anh có bao nhiêu tài sản: “Tất cả đã bắt đầu ở Chợ Lớn, với những
gian nhà liền vách dành cho dân bản xứ. Ông ây đã cho xây ba trăm gian như vậy..”.
Song kì lạ thay, thứ làm nên sức hút khó cưỡng cùng quyền lực khủng khiêp ấy ở
anh, anh lại “chán ngán”. Với người con gái anh yêu, với gia đình cô, anh chưa bao
giờ tỏ ra mình là người bề trên, thậm chí, anh còn cảm nhận được sự khinh bỉ từ
phía gia đình nhà cô vì anh là người da màu, nhưng đáp lại chỉ là sự nhẫn nhịn, chịu
đựng. Song dường như dáng vẻ của anh lại không tương xứng với quyền lực của
anh, “làn da êm ái một cách choáng ngợp. Thân hình gầy gò, không sức lực, không
cơ bắp, có thể anh đã từng bị ốm, đang trong thời kì phục hồi, không có gì nam tính
ngoài bộ phận sinh dục, anh rất yếu ớt..”, cơ thể của anh chỉ sinh ra để làm một
việc mà đến suốt cuộc đời anh vẫn chỉ làm được việc đó đó chính là “yêu”. Anh
được nuông chiều như một hoàng tử, không phải va chạm gì với đời, yếu mà ốm,
khác với cái “gầy gò” của cô bé nhân tình mười lăm tuôi rưỡi, yếu vì nghèo hèn.
Không những thế, bắt đầu từ giây phút anh nhìn thấy nhân vật “tôi” trên
chuyến phà qua Sài Gòn, anh đã đánh dấu khoảnh khắc mất vị thế cùng quyền lực
của anh, đâu chỉ với cô bé ấy, mà còn với gia đình cô và người bố của anh.
Thứ nhất, với cô bé, ngay từ lúc nhìn cô, “anh chậm rãi tiến về phía cô. Rõ
ràng, anh e ngại. Anh không mỉm cười lúc thoạt đầu. Thoạt đầu anh mời cô một
điếu thuốc lá. Tay anh run run”. Bản thân nỗi sợ này đã được giải thích trong chính
tác phẩm “ có sự khác biệt về chủng tộc, anh không phải là người da trắng, anh
cần phải vượt qua sự khác biệt này”. Nhưng nó cũng như một điềm báo về nỗi sợ
mà anh sẽ phải chịu, khi trong anh, một người giàu có, đứng trên đỉnh cao của
quyền lực, lại phải e dè về một cô bé nghèo hèn, không có cái gì trong tay nỗi sợ
trong tình yêu. Quả nhiên, khi anh choáng ngợp trước vẻ đẹp của cô, anh đã cho cô
cái quyền: “Cô xinh đẹp thế, cô có thể làm gì cũng được”, anh chấp nhận một sự
thật nghiệt ngã: cô đến với anh chỉ vì tiền.
Đạt được sự chấp thuận của cô, vào một buổi chiều thứ năm, anh đưa cô về
căn phòng độc thân của anh ở một con phố ở Chợ Lớn trên chiếc oto đen quen
thuộc, đáng lí ra người sợ phải là cô gái trẻ chưa đến tuổi thành niên ấy, nhưng
ngược lại, “anh thì run rẩy”, “anh nhìn cô như chờ đợi cô nói nhưng cô không nói.
Vậy là anh cũng không nhúc nhích, anh không cởi quần áo cô ra, anh nói rằng anh
yêu cô như điên dại, anh nói câu đó thật khẽ”. Vì sao khi đối diện cô, anh lại luôn
run rẩy, khẽ khàng đến vậy? Anh sợ cô sẽ không yêu anh, hay sợ anh sẽ làm tổn
thương cô? Anh không sợ bị cô chê cười khi bày tỏ trước mặc dù đáp lại tình yêu
thiết tha ấy, cô chỉ im lặng, thậm chí “cô nói với anh: em muốn anh đừng yêu em
thì hơn. Thậm chí nếu anh yêu em, em vẫn muốn anh cứ làm như cách thường lệ
với đàn bà”. Cái cô mong chờ không phải tình yêu, mà đầu tiên là sự thỏa mãn thói
tò mò của những cô gái tuổi dậy thì ẩn chứa trong mình những khao khát thể xác.
Anh “bắt đầu đau khổ từ lúc đó, trong căn phòng này, lần đầu tiên, anh không nói
dối về điều này nữa. Anh nói với cô rằng, anh đã biết là cô sẽ chẳng bao giờ yêu
anh”. Lần đầu tiên, anh cảm nhận thấy anh đang đau khổ, anh chưa bao giờ đau
khổ khi yêu ư? Hay thực chất những mối tình choáng váng ở thủ đô Paris hoa lệ
chưa bao giờ là tình yêu thật sự với anh? Và trong giây phút, cô “chạm vào sự êm ái
của bộ phận sinh dục, của làn da”, “anh rên rỉ, khóc lóc”, “anh chìm trong một tình
yêu thảm hại”, “vừa khóc anh vừa làm chuyện đó”.
Tiếp đến, anh ghen, anh sợ cô sẽ có người đàn ông khác, anh điên cuồng cắn
xé cô, anh nói “anh đã biết ngay lập tức, từ lúc qua sông, rằng tôi sẽ bám lấy người
tình đầu tiên của tôi như thế này, rằng tôi sẽ thích yêu đương, anh nói là anh đã
biết rằng tôi sẽ sẽ lừa dôi anh và tôi cũng sẽ lừa dối tất cả những người đàn ông
mà tôi sẽ cặp đôi cùng”.
Cho đến khi, anh yêu cô đến độ, anh muốn chống lại quyền kiểm soát của cha
anh, dù anh van xin muốn dành một năm cho cô, muốn lấy cô làm vợ, nhưng câu trả
lời từ cha anh vẫn là không, “anh thường khóc vì anh không có sức lực để yêu vượt
lên trên nỗi sợ”. Kết lại “sự dũng cảm của anh là tôi, sự hèn nhát của anh là tiền
bạc của cha anh”. Tiền bạc ban đầu là cái cớ, giờ đây lại là thứ cản trở cuộc tình
này đến với bến bờ hạnh phúc.
Cuối cùng, khi cuộc tình trong một thời gian ngắn phải đi đến hồi kết, anh vừa
phải đối diện với sự cấm cản của cha anh, sự ham lợi của gia đình cô vừa phải
chứng kiến sự thờ ơ vừa đáng hận vừa đáng thương của cô khi cô quyết định rời
bỏ chốn thuộc địa để về Pháp, “thân thể anh không còn muốn nữa cái kẻ sắp ra đi,
phản bội”, “anh bảo là anh đã chết”. Suốt mấy chục năm cuộc đời, anh chưa phải
đau khổ bao giờ mà đến khi gặp anh, anh phải trải qua thứ đớn đau đến chết này.
Anh không muốn có quan hệ thể xác với cô nữa không vì anh đã hết yêu cô, bởi
đến cuối cuốn tiểu thuyết, qua cuộc điện thoại sau nhiều năm chiến tranh, những
cuộc hôn nhân, những đứa con, những cuộc li dị, “anh nói rằng mọi sự vẫn như
trước, anh vẫn yêu cô, rằng anh sẽ không bao giờ ngừng yêu cô được, rằng anh sẽ
yêu cô cho đến chết” mà bởi tình yêu quá lớn làm anh thấy thất vọng về bản thân
anh, về cô, về mọi thứ, cảm giác mà anh chưa từng có trong đời. Có lẽ, nỗi sợ của
anh với cô từ lúc anh run rẩy trong lần gặp gỡ đầu, đến những giọt nước mắt trong
lần anh và cô làm tình lần đầu đã là cảm thức đầu tiên của anh để rồi về sau anh
mới nhận thức sâu sắc rằng tình yêu đầu đời của anh là một cuộc tình “không có
tương lai”, “bị cấm đoán”. Nói tóm lại, trước cô, vị thế cao cao tại thượng của anh
đã biến mất, anh luôn đau khổ, day dứt trong thứ tình yêu đáng thương giữa anh và
cô.
Thứ hai, với cha anh, anh là đứa con trai độc nhất, sẽ là người thừa kế mọi gia
sản của ông. Ông đã chẳng quan tâm đến những cuộc vui đàng điếm với “các cô
gái Paris dễ thương, những cuộc ăn chơi, những chầu nhậu nhẹt, ái chà chà, ở La
Coupole..”, nhưng ông sẽ không để anh cưới cô, anh phải kết hôn với một người
con gái đã đính ước với anh từ nhỏ, giàu có, thân thể đầy những vàng bạc, kim
cương để làm tăng giá trị cùng quyền lực của anh và gia tộc. Dù anh đã cố phản
kháng, cố van xin, nhưng cô vẫn “phát hiện ra là anh không đủ sức để yêu tôi trái ý
cha anh, để giành lấy tôi, để mang tôi đi”. Trước người cha đầy quyền lực ấy, anh
thật sự chẳng có chút tiếng nói nào, anh không thể bảo vệ tình yêu chân thật của
mình mà thay vào đó lại phải nhận lại một cuộc hôn nhân kinh tế.
Thứ ba, trước gia đình nhà cô, cùng với anh cả, anh út và mẹ cô, anh cũng mất
đi chỗ đứng, quyền lực của mình trong những bữa ăn thịnh soạn ở Chợ Lớn. “Các
anh trai tôi ăn ngấu nghiến, không bao giờ nói với anh. Họ cũng chẳng nhìn anh
nữa. Họ không thể nhìn anh”, “ trong những bữa ăn này, chỉ có mẹ tôi nói, bà nói
rất ít” , “ về phần anh, hai lần đầu anh đã đánh liều, anh thử kể về những kì công
của anh ở Paris nhưng vô ích”, “cố gắng của anh chìm trong im lặng”. Dường như
cả gia đình cô, vì thái độ miệt thị chủng tộc, đã khước từ giao tiếp với anh. Cái họ
cần duy nhất ở anh, là tiền, cho những bữa ăn sang chảnh, cuộc vui chơi nhảy múa
ở tiệm Source. Nhưng đến gần cuối truyện, bà mẹ đã phải thay đổi cái nhìn về
“người tình” của con gái mình, vì anh đã bỏ tiền ra để lo cho chuyến đi về Pháp
của anh cả. Song thực chất, vị thế và giá trị của anh với gia đình cô, chỉ được định
đoạt bởi tài sản của anh. Anh nhẫn nhịn trong bữa ăn, để rồi sau đó trút giận lên cô,
nhưng phải chăng là vì tình yêu mà anh dành cho cô? Để cô có thể tiếp tục đóng cái
vai “con điếm, đồ kinh tởm”, lại chính là “tình yêu duy nhất của anh”, anh bằng
lòng tự hạ vị thế của mình xuống dưới những con người thuộc tầng lớp dưới,
nghèo hèn và vật vã trong cuộc sống khổ sở của họ.
Tiểu kết:
Cùng với anh cả, anh út, anh chàng nhân tình giàu có đã tạo nên một bức tranh
tương đối hoàn thiện về thế giới đàn ông. Sự chuyển biến trong vị thế và quyền
lực của họ đối với phái nữ thực chất liên quan trực tiếp đến sự thay đổi trong đời
sống nội tâm. Đối với người anh cả, sống dựa vào tình yêu thương của người mẹ,
và khi chỗ dựa duy nhất ấy mất đi, anh ta lạc lỗng, mất phương hướng, rồi đi đến
bờ vực của sự nhục nhã, đau khổ. Với anh út, từ một người không nắm trong tay
quyền lực, nhưng chỉ cần người em gái nguy hiểm, anh bỗng vùng dậy một cách
mạnh mẽ, đòi lại sự công bằng cho người em. Còn nhân tình, từ một người đứng
đầu về quyền lực được xây dựng bởi tiền tài, sau khi yêu cô, bắt đầu một tình yêu
đích thực của mình, anh phải chịu nỗi đau đớn đầu tiên trong đơi, vì tình yêu mà
mất dần quyền lực, nhún nhường cô và gia đình.
Hơn nữa, vị thế cùng quyền lực cũng sợ biến mất khi họ tồn tại nỗi sợ, như
anh cả sợ cô đơn khi không còn mẹ, anh út sợ xiềng xích, áp bực của người anh xa
lạ và anh nhân tình sợ chính nhân vật “tôi”, gia đình cô và người cha già quyết liệt.
Tồn tại trong tiểu thuyết “Người tình” còn một số hình ảnh người đàn ông
khác, nhưng họ đều là những đàn ông lụy tình, vì tình mà có thể tự tử, hy sinh
mạng sống của mình khi tình yêu bị nhân tình chối từ. Quyền lực của họ cũng bị
tình yêu làm lung lạc, hạ bệ.
1.2. Sự phản kháng phân biệt giới tính:
Qua việc khắc họa thế giới phái nam trong cuốn tiểu thuyết, ta thấy được
những nhân vật nam luôn tồn tại trong thế đối ngược phái nữ, đối với người phụ
này, họ là người nắm quyền, nhưng đối với người con gái khác, họ lại mất hoàn
toàn vị thế cùng sức mạnh của mình. Vậy giây phút mà họ mất đi vị thế cùng
quyền lực của mình cũng chính là lúc mà tinh thần phản kháng của phái tính nữ
xuất hiện, làm chủ tình thế.
Trước hết, tinh thần phản kháng được thể hiện qua diện mạo cùng cách lựa
chọn trang phục của những nhân vật nữ, chúng tôi xin tập trung vào phân tích vào
nhân vật nữ chính vì chỉ có cô mới được tác giả khắc họa tỉ mỉ, cụ thể ở ngoại
hình.
Ở cái ngày định mệnh mà cô gặp tình yêu đầu tiên của đời mình, cô đã đi “đôi
giày cao gót dát kim tuyến vàng đáng nhớ ấy” “thứ đồ hạ giá bán tháo mà mẹ tôi
đã mua cho tôi”. “được trang trí bằng những họa tiết lóng lánh”, nó là một đôi giày
đẹp nhất, làm cho tất cả những dôi giày bình dị trước đó của cô bị lu mờ, trở thành
nhạt nhẽo. Đôi giày làm tôn lên nét nữ tính nhưng vô cùng quyến rũ của cô, chứ
không phải nét nữ tính ngây thơ thuộc về lứa tuổi vị thành niên. Nhưng chính đôi
giày nữ tính ấy càng làm nổi bật một thứ phụ kiện khác của cô, đó là “chiếc mũ
đàn ông vành phăng” mà chính cô cũng cảm nhận lờ mờ “sự mơ hồ có tính quyết
định của hình ảnh nằm ở chiếc mũ này”. Mới đầu khi mua chiếc mũ, “là tôi đội thử
chiếc mũ phớt cho vui thôi, tôi soi vào tấm gương của người bán hàng và tôi thấy:
dưới chiếc mũ đàn ông, cái dáng vẻ mảnh khảnh, cái nhược điểm trẻ con ấy, đã
trở nên khác hẳn. Nó không còn là cứ liệu tàn nhẫn, tiền định của tạo hóa”… Hóa
ra chỉ là một thứ phụ kiện trang trí lại ẩn chứa cái sức mạnh làm thay đổi vẻ bề
ngoài của một con người. Phải chăng sức mạnh ấy nằm ở cụm từ “chiếc mũ đàn
ông”, nó là thứ vốn thuộc về đàn ông, chỉ dành cho đàn ông nay lại được một cô bé
mới lớn đổi trong vẻ thích thú và hãnh diện? Nó át chế đi những gì nhỏ bé, yếu
đuối của cô, biến cô trở nên mạnh mẽ “ngược ý tạo hóa”, mà không phải là sự áp
đặt của một người đàn ông nào mà lại là“một sự lựa chọn của tinh thần”. Chính cô
muốn đặt mình cao hơn vị thế cô đang đứng, cô không còn là cô bé trẻ tuổi non nớt,
bị áp chế bởi người anh tàn bạo, người mẹ nghiêm khắc, xã hội nam quyền, cô là
người con gái bình đẳng, độc lập và tự chủ với cuộc sống của bản thân. “Đôi giày
đối lập với chiếc mũ, giống như chiếc mũ đối lập với tấm thân gầy còm, vậy là nó
hợp với tôi”. Sự đối lập không làm cho bản thân nhân vật mâu thuẫn, trái lại nó
còn như một biểu tượng cho một tương lai đầy những trái ngang, day dứt và đau
đớn, nó mới “hợp” với cô, nó mới là cô thực sự, đó là vì sao cô nghĩ “chiếc mũ biến
tôi trọn vẹn thành riêng của nó ấy, tôi không rời xa nó nữa”. Thậm chí vẻ ngoài
vừa nữ tính vừa lại mạnh mẽ này lại trở thành điểm thu hút của cô đối với anh
chàng người Hoa: “anh bảo cô rằng chiếc mũ hợp với cô, rất hợp là đằng khác,
rằng thật là… độc đáo… một chiếc mũ đàn ông, tại sao lại không nhỉ?”, ngoại hình
đặc biệt đã làm anh phải khuất phục trước cô ngay từ ánh nhìn đầu tiên. Nói tóm
lại, ngay từ ngoại hình, hay nói đúng hơn là cách lựa chọn thể hiện bản thân mình
qua ngoại hiện đã là bước đầu để cô thể hiện tinh thần phản kháng phái nam nói
riêng, thế giới nam quyền nói chung.
Song ngoại hình chỉ là một biểu hiện nhỏ, xuyên suốt trong cuốn tiểu thuyết
mang màu sắc hồi kí này, sự chống lại phái tính nam còn thể hiện trong hành động
trước những nhân vật nam: người anh cả, anh út và nhân tình của cô.
Đầu tiên, với người anh cả, chưa bao giờ tắt đi trong cô, thứ lửa hận thù ngùn
ngụt trong người em gái đáng thương luôn bị chèn ép, “tôi muốn giết, anh cả tôi, tôi
muốn thắng được anh ta một lần, một lần duy nhất thôi và nhìn thấy anh ta chết”.
coi những thứ luật lệ trong gia đình được quy định bởi người anh cả là “thứ luật lệ
súc sinh”. Mong ước anh ta chết tưởng chừng như khao khát cả đời của cô, chỉ anh
ta không còn làm tổn thương được người anh út tội nghiệp của cô nữa. Nó có thể
là tội ác khi một người nguyền rủa cái chết đến nhanh hơn với người nào đó, cũng
là sự vô tâm khi nghe tin anh chết, cô vẫn cảm thấy cái chết đến quá muộn, bởi
người anh cả chết rất lâu sau khi anh út qua đời. Cái chết của kẻ đã hành hạ hai
đứa em nhỏ chẳng đủ để bù đắp cho nỗi đau, nỗi ám ảnh suốt quãng đời ngắn
ngủi của anh út, của người em gái, để đến mức, trong truyện, cứ thỉnh thoảng nỗi
ám ảnh bùng lên rất ngẫu nhiên trong dòng văn phi tuyến tính của bà. Không những
thế, sự phản kháng với người anh trai còn được thể hiện trong nhiều cuộc nói
chuyện: trong bữa ăn ở Sa Đéc, để bảo vệ cho anh út, cô phải thét lên: Sao mọi thứ
lại là của anh? Sao anh không chết đi? , hay trong lúc cô tự phân trần để phủ định
đi cái ô danh mà cô sẽ mang lại cho gia đình nếu như có một nhân tình mà lại là
một nhân tình da màu, gốc Hoa. Tất cả những nỗ lực của cô nhằm chống lại người
anh cả, muốn quên đi dòng máu chung của cô với anh ta lại không thể vượt qua
được sự thương hại khi anh ta sắp đến bờ vực của thảm hại, của cái chết. Và rồi
lại để anh ta lấy hết gia sản của người mẹ già để lại, vào nhà cô trộm hết đi số
tiền tiết kiệm của cô. Đến đây, sự phản kháng lại gặp một bức tường ngăn trở,
bức tường yêu thương, tinh thần phản kháng đã yếu dân, mất đi nội lực của nó.
Tiếp đến, với người anh út vốn không phải là mối đe dọa của cô, cô không thể
hiện sự phản kháng của mình với anh mà cô vì anh mà phản kháng lại những lực
lượng đại diện cho áp đặt nam quyền. Cô biến sự phản kháng thế giới tính nam
thành sức mạnh để bảo vệ người cô yêu thương, vậy cuối cùng điểm xuất phát và
đích đến cũng là tình yêu và sự khao khát tình yêu của cô với anh trai, với người mẹ
để dành lấy tình yêu bình đẳng giữa những đứa con.
Cuối cùng là trong mối quan hệ với người tình, bước vào bể tình bì bõm trong
đầm lầy dục vọng và ham muốn, dù là người thiếu kinh nghiệm hơn nhưng luôn
muốn dẫn trước, là người điều khiển mọi động thái của anh. Đặc biệt là trong lần
giao hoan đầu đời, khi nhân tình vì dành tình yêu chân thành cho cô nên muốn giữ
gìn trinh tiết để cô có thể lấy anh, hay thậm chí có thể lấy những người đàn ông
nào tốt đẹp mà cô có thể gặp, nhưng cô lại là người đề nghị “em vẫn muốn anh cứ
làm như cách thường lệ với đàn bà”. Hơn thế, trước sự ngập ngừng và run rẩy của
anh, “cô, chậm rãi, kiên nhẫn, cô kéo anh lại về phía mình rồi cô bắt đầu cởi quần
áo anh. Nhắm mắt lại, cô làm việc đó. Chậm rãi. Anh có những cử chỉ để giúp cô.
Cô bảo anh đừng đụng đậy, cứ để em…Khi cô yêu cầu, anh dịch người vào trong
giường…”. Không những mọi hành động cô muốn tự mình làm mà còn làm trong
một trạng thái vô cùng thư thả và bình tĩnh. Có lẽ trong giây phút ấy là khoảnh
khắc đầu tiên cô được yêu cầu ai, ra lệnh ai, cô “nhắm mắt” đâu chỉ để hòa vào
không khí đầy ái muội ấy, cô còn sống trong, hưởng nó như nó vốn thuộc về cô,
về giới tính mà luôn bị quy xét cho vai bị động trong mọi cuộc tình. Con gái phải là
người chờ đợi, đón đợi chứ không phải là người tiến tới, dẫn đầu, cô đã phá tan
những định kiến ấy trong tình yêu lẫn đời sống tình dục.
Bên cạnh đó, cô còn đánh mạnh vào tâm lí anh, khiến anh không ngừng đau khổ
và kiệt quệ bởi sự vô tâm trước câu hỏi mà anh đã biết trước câu trả lời: Liệu cô
có yêu anh? cô trả lời “không biết”, bởi ham muốn xác thịt vốn tồn tại trong cô
như một nỗi khát khao chỉ chờ anh đáp ứng “ tôi nhận thấy tôi thèm muốn anh”,
“tôi bảo anh làm chuyện ấy thêm và thêm nữa” mà không gắn với tình yêu, và cũng
bởi nguyên do cô đến với anh, như tất cả những người phụ nữ khác, nhưng lại
khiến anh đau xót vô cùng: cô chỉ đến với anh vì tiền. Rồi cô bỏ đi như một kẻ
phản bội, rời xa anh, để anh chết đi ham muốn của mình mãi mãi mà không thừa
nhận tình cảm của mình.
Nhưng liệu sức mạnh phản kháng lại anh có luôn đủ mạnh mẽ để nâng vị thế
của cô hơn anh? Không, đã có lúc cô phải van xin anh tiếp tục “yêu” cô, có khi “tôi
trở thành đứa con của anh”, chịu tuân phục anh, để anh làm tình mỗi tối. Quan
trọng hơn là cô phải thừa nhận rằng trong cuộc chia li với anh, “cô đã khóc mà
không đẻ lộ nước mắt”, “không để lộ cho mẹ và anh út biết là cô đau khổ” và khi
nghe được một điệu valse của Chopin, “cô gái đứng thẳng dậy như để đến lượt
mình tự sát, đến lượt mình lao người xuống biển và sau đó cô đã khóc vì cô nghĩ
đến người đàn ông Chợ Lớn ấy, và đột nhiên cô không dám chắc là cô đã từng
không yêu anh bằng một tình yêu mà cô không nhận thấy bởi vì nó lẫn vào trong
câu chuyện như nước thấm vào cát và chỉ đến bây giờ cô mới tìm lại được nó vào
cái khoảnh khắc này khi tiếng nhac tuôn ra xuyên qua biển cả”. Phải chăng chính
sự thức tỉnh ý thức về tình yêu mơ hồ mà sâu đậm của cô dành cho anh tự khi nào
đã trở thành “bằng chứng” chống lại sự phản kháng của cô trước anh? Không phải
cô không đủ sức chống lại anh mà là cô không đủ sức chống lại mị lực của tình yêu
nam nữ bình dị song thiêng liêng.
Tiểu kết:
Sự phản kháng lại phiên bản nam tính của thế giới không chỉ là sự đấu tranh
với những người đàn ông đang áp đặt, đè nén nên những người phụ nữ, hay nói
chính xác hơn là nhân vật “tôi” trong truyện mà còn là sự tàn phá sự thành kiến của
xã hội nam quyền về người phụ nữ yếu ớt và thụ động. Phụ nữ đấu tranh không
phải để dành phần hơn thua, bởi cuối cùng, họ vẫn phải chịu thua, trước sức mạnh
của tình yêu mà thôi. Họ đấu tranh vì muốn được công nhận, muốn được đối xử
công bằng, muốn yêu thương và được yêu thương. Đó mới chính là lí do họ đứng
lên phản kháng lại thế giới của phái nam, hay thế giới ủng hộ đàn ông một cách dĩ
nhiên và hiển nhiên.
… Đến khám phá bản chất của giới nữ:
Chính vì tấn công những phiên bản nam tính của thế giới cũng chẳng đem lại
một cuộc sống tốt đẹp hơn, không khổ đau, thiệt thòi cho phụ nữ, hơn nữa với sự
hòa giải với chủ nghĩa phê bình phân tâm học từ Freud tới Lacan, phê bình nữ
quyền đã mở ra một bước đi mới. Sự kết hợp với phân tâm học Lacan đã đưa chủ
nghĩa này đến một cái đích cao hơn, tiến bộ hơn, là “khám phá bản chất của giới
nữ như thế giới quan của phụ nữ và tái tạo những ghi chép về kinh nghiệm của
phụ nữ đã bị thất lạc hay bị tẩy xóa trong lịch sử”, bản chất nằm trong cả ý thức
lẫn tầng sâu kín của tiềm thức và vô thức của họ.
2.1. Ý thức: sự tồn tại của bản thân:
“Tồn tại”, tại sao nó lại trở thành nỗi ám ảnh đối người phụ nữ có lẽ cũng
không phải điều gì khó lí giải. Đã từ lâu khi thời kì mẫu hệ kết thúc, xã hội phụ
quyền bắt đầu khởi sinh ra những luật lệ khiến người phụ nữ bị kìm kẹp, áp chế
2.
ngược lại, họ không có quyền được làm gì họ thích, không có quyền yêu và được
yêu, họ mất dần dấu ấn của bản thân bởi cái bóng phái nam luôn có xu hướng đè
nén. Và ý thức về sự tồn tại của bản thân được biểu hiện dưới nhiều khía cạnh,
một trong số đó là ý thức về vẻ đẹp ngoại hiện của người phụ nữ.
Chẳng biết từ bao giờ, trong văn chương, chúng ta luôn ca ngợi những vẻ đẹp
nội tâm, vẻ đẹp bên trong khó nhìn thấy mà quên đi rằng có một vẻ đẹp bên ngoài,
luôn thu hút những ánh nhìn mà lại bị chúng ta quên đi như cách ta đề cao những
điều cao cả của ý thức, lương tâm mà bỏ rơi những tiếng kêu yếu ớt từ phần tiềm
thức, vô thức vỗn bị coi là xấu xa, dâm dục.
Trong cuốn tiểu thuyết của phái nữ, cho phái nữ, vì phái nữ này, họ thật sự
được khám phá từ ngoài vào trong. Họ không chỉ tự khám phá bản thân mình mà
còn khám phá vẻ đẹp hình thể của nhau.
Đầu tiên, nhân vật “tôi” luôn để ý đến vẻ đẹp ngoại hình của mình, cố gắng
trở nên xinh đẹp hơn nhờ những thứ phụ kiện bên ngoài như từ đôi giày dát kim
tuyến hay cái váy được sửa những váy cũ kĩ của mẹ cô bằng đôi tay khéo léo của
chị Đô người giúp việc nhà cô đến màu son đỏ đậm mang thứ phong vị của người
phụ trưởng thành, quyến rũ mà cô được Helene Lagonelle trộm của mẹ cho. Cô
cũng không ngừng cảm nhận được ánh nhìn từ những người xung quanh: “tôi có
thể lầm, cứ tưởng mình đẹp như những người phụ nữ đẹp, những người phụ nữ
hay được nhìn, bởi vì quả thực là người ta hay nhìn tôi”. Song kì lạ thay, cô phát
hiện ra vẻ đẹp của mình nói riêng, của những người phụ nữ nói chung, để được
mọi người “ngắm nhìn”, “tôi biết một điều gì đó. Tôi biết rằng không phải quần
áo là thứ làm cho phụ nữ trở nên đẹp nhiều hay ít, cũng không phải là các đồ mĩ
phẩm, cũng không phải là giá của các loại kem bôi, cũng không phải là những của
hiếm lạ..”, cô mơ hồ nhận thấy “tôi biết rằng vấn đề nằm ở chỗ khác. Tôi không
biết nó ở đâu. Tôi chỉ biết rằng nó không ở chỗ mà phụ nữ vẫn tưởng”. Có lẽ đó
chính là “hương vị” tính nữ toát ra từ cái hào quang phái nữ “aura” có lẽ chính là
từ mang thuộc tính nữ rất rõ. Và “hương vị” này đến từ “dục vọng” tồn tại trong
chính mỗi người phụ nữ, “ nó đã có ngay từ cái nhìn đầu tiên hoặc nó chẳng tồn tại
bao giờ”. Cũng như những người đàn bà, có người không bao giờ thu hút ánh nhìn
đàn ông nhưng có người, dù ở bất kì lứa tuổi nào, thậm chí là mới mười lăm tuổi
rưỡi nhân vật “tôi”, cũng có thể làm đàn ông chú ý, yêu thích. Càng sớm ý thức về
vẻ đẹp ngoại hình của bản thân được toát ra từ sự quyến rũ từ bên trong, cô càng
sớm tiên đoán trước được cuộc đời đầy những sóng gió của mình, bởi chính cái
“biển cả” lạc thú trong cô.
Tiếp đến, nhân vật “tôi” trong tác phẩm còn khám phá mà khao khát vẻ đẹp
hình thể của những người phụ nữ khác, điển hình là nhân vật người bạn thân
Helene Lagonelle. “Tôi bủn rủn người vì vẻ đẹp của thân thể của Helene Lagonelle
đang ngả dựa vào tôi. Tấm thân ấy đẹp tuyệt vời, thoải mái dưới lớp váy, ngay
trong tầm tay… Cô không biết ngại ngùng, cô không nhận thức được điều ấy, cô
thường trần truồng đi lại trong phòng ngủ. Thứ đẹp nhất trong tất cả những thứ
mà Thượng Đế ban phát, đó là tấm thân ấy của Helene Lagonelle, không gì sánh
được…” Vẻ đẹp thân thể của Helene đánh mạnh vào giác quan của nhân vật “tôi”,
dù đồng giới song cô cũng không thể nào cưỡng lại được cái đẹp tuyệt đích của
tạo hóa này, vừa trong trắng, trinh nguyên lại vừa quyến rũ, kích dục qua những
hình ảnh “bộ ngực” hay cơ thể trần truồng của cô gái. Hơn thế nữa, đặt trong thế
đối nghịch với vẻ đẹp của đàn ông mà đại diện là người anh út mảnh khảnh và
yếu đuối “ngay cả tấm thân giống như một gã cu li bé nhỏ của anh út tôi cũng
không có nghĩa lí gì trước sắp đẹp lộng lẫy này. Thân thể đàn ông có những đường
nét hà tiện, khép kín. Chúng cũng không bị hư hại đi như những đường nét của
Helene Lagonelle, những đường nét chẳng bao giờ lâu bền được..”, nét đẹp của
Helene không phải là một nét đẹp trường tồn mà nó mong manh, dễ tàn phai, nhưng
chính vì sự mong manh ấy, nó mới thật sự là một cái đẹp cần được nâng niu, trân
trọng. Hơn thế, cái đẹp trong hình thể này còn dấy lên trong nhân vật “tôi” một nỗi
ham muốn đến “bủn rủn cả người” và muốn trao Helene cho người đàn ông của
cô, để anh ta dẫn người bạn của mình vào mê lộ khoái lạc, người chứng kiến là cô
“có thể chết đi được về điều đó” trước sự thăng hoa của một cái đẹp mà những
tưởng không thể bám bụi phàm được. Cái đẹp ấy không chỉ là đối tượng để chiêm
ngưỡng, hưởng thụ mà còn để hâm mộ, ngợi ca.
Vẻ đẹp hình thể vốn là một nét đẹp vô cùng chân chính, cũng đã xuất hiện
nhiều trong những trang truyện của những nhà văn khác, thậm chí là những nam tác
giả, song ý thức về ngoại hình cùng sức hút không thể chối từ thuộc về phái nữ,
cái mà chúng tôi tạm gọi là “hương vị” tính nữ, xuất phát từ bên trong mỗi một
người con gái thì không phải ai cũng cảm mà viết được. Bên cạnh đó, sức mạnh kì
diệu làm thức dậy mọi ham muốn dục tính trong mỗi con người, bất kể giới tính,
độ tuổi, của một thân thể tuyệt mĩ của người con gái đẹp cũng là điều mới mẻ mà
không mấy nhà văn dám viết và biết viết.
Ý thức về nét đẹp trong ngoại hình là một biểu hiện đầu tiên của ý thức về sự
tồn tại song có lẽ chưa đủ, hay nói đúng hơn là trong cuốn tiểu thuyết này, nhân
vật “tôi” còn biết khẳng định dấu ấn của mình và phái nữ qua khía cạnh khác. Một
trong đó là khao khát “tái tạo những ghi chép về kinh nghiệm của phụ nữ “ của
chính mình qua tác phẩm nghệ thuật. Đã hơn một lần nói chính xác là năm lần,
nhân vật “tôi” đã khẳng định đi khẳng định lại về đam mê của mình, không phải là
học Thạc sĩ Toán mà “điều tôi muốn hơn hết là viết, không phải là điều gì khác
cả” và đề tài trong cuốn sách của cô là “những người trong gia đình tôi”. Phải
chăng đối với cô, choán lấy phần lớn cuộc sống của cô là ám ảnh về gia đình, cái
gia đình có một bà mẹ yêu anh trai cả cô hơn mạng sống trong khi anh ta lại như
một “kẻ săn lùng” hai đứa em nhỏ hơn, ép chúng vào đường chết? Cô đã từng thừa
nhận “không có chuyện về đời tôi. Không có. Không bao giờ có tâm điểm. Không
có đường, không có tuyến”, nhưng “câu chuyện về một phần rất nhỏ trong tuổi trẻ
của tôi thì tôi đã từng viết ít nhiều, tức là viết ở mức có thể thấy đươc đôi điều gì
đó”, đấy là câu chuyện về cuộc tình choáng váng của cô và người tình gốc Hoa ấy.
Có lẽ, mối tình ấy cũng đã tạo mơ hồ tạo nên một cái gì sâu đậm trong cô, để từ
đó cô giãi bày về kinh nghiệm của mình, về lí tưởng, về tình yêu, về tình dục và
về hạnh phúc. Từ một cuốn tiểu thuyết mới mang hơi hướng tự truyện, “Người
tình” lại trở thành kim chỉ nan về cách sống của những người con gái ngoại quốc
sống ở vùng đất thuộc địa hay cả tất cả những phụ nữ đứng trước tình yêu nói
chung.
Bên cạnh đó, nhân vật nữ chính còn chú ý đến dấu ấn của phái tính nữ nói
chung. Cô chứng kiến những người phụ nữ “họ chờ đợi”, “họ tự ngắm mình”,
“một vài phụ nữ bị bỏ rơi vì một cô gia nhân trẻ trung kín tiếng”, “một vài phụ nữ
đã tự sát”, họ sống như thể họ chỉ là một vật trang trí nên họ cần đẹp, phải đẹp, là
một cái bao cát để những người đàn ông của họ trút giận và rồi họ ra đi bi thảm,
không để lại một vết tích gì. “Việc chính phụ nữ tự bỏ quên mình như vậy, đối
với tôi bao giờ cũng giống một sai lầm”. Là một người con gái chưa đến tuổi
trưởng thành, nhân vật “tôi” đã dám cất lên tiếng nói vừa thương cảm vừa cảnh
báo những người phụ nữ đang dần đánh mất bản thể của mình trước vòng xoáy xã
hội nam quyền, cũng giống như một luận điểm được nhắc đến trong tác phẩm
“Giới tính thứ hai” (1949) của Simone de Beauvoir : “ Đàn bà bị tạo thành những kẻ
dưới và sự áp bức được phức hợp bởi niềm tin của đàn ông rằng đàn bà là những
kẻdướibởibảntính”. Phải phá tan những định kiến trong xã hội là điều kiện đủ
song điều kiện cần trước hết phải là chính người phụ nữ phải xóa đi những mặc
cảm của mình bị gây ra bởi thế giới bên ngoài về phẩm chất cần có của mình.
Nhưng nói là vậy, dù họ có nỗ lực khẳng định bản thân mình thì cuối cùng họ cũng
chỉ còn lưu lại trong tâm trí những đời như những điều tiếng tai hại. Không chỉ cô
mà những người phụ nữ được nhắc đến trong truyện, điển hình là bà lớn, họ đều
“bị ngăn cách với những người khác trong vùng bởi cùng một sự khác biệt”, họ
“đơn độc như những bà hoàng”. Tiếng nói của họ không sức mạnh để át lại dư
luận thời bấy giờ, họ phải làm quen với cuộc sống và ghi lại nó trong trang văn
của mình.
Tiểu kết:
Khẳng định sự tồn tại của bản thân là một bước đầu tiên trong cuộc hành trình
khám phá bản chất của nữ giới, không chỉ bởi tầm quan trọng của nó mà còn bởi
nó thuộc về tầng đầu tiên, tầng ý thức của người phụ nữ bước đầu muốn có một
cuộc sống đích thực trong xã hội bình đẳng giữa những phái tính khác nhau. Nó
chính là bước mở đầu để diễn vào tầng sâu hơn trong bản chất của họ là tầng
tiềm thức và vô thức thường bị chôn vùi trong những tác phẩm ủng hộ nam quyền,
hoặc bị biến trở thành thứ gì đó xấu xa, đen tối.
2.2. Tiềm thức: nỗi hoang mang phái tính:
Ẩn trong một cái gì đó mơ hồ, khi sợ lúc buồn, phái tính nữ ngàn đời luôn
khiến phái nam khó hiểu trước những thái độ cùng hành động bất thường của
mình. Nhiều khi chính họ cũng chẳng thể giải mã những cảm xúc, suy nghĩ của
mình, có lẽ chúng đang nằm trong tầng tiềm thức, họ biết nó đang diễn ra song
không thể nào kiểm soát được nó, chúng tôi đưa ra một khái niệm khá mới “nỗi
hoang mang” phái tính. Trong tiểu thuyết này, nỗi hoang mang ấy được thể hiện
trong sự giẳng co giữa những đối cực trái ngược nhau: lúc sợ mọi thứ khi lại có
thể mạnh mẽ đến ngạc nhiên; khao khát được sống trong giàu có, hạnh phúc có khi
lại bị ước muốn được cô đơn, được chết chặn lại; trạng thái lúc tỉnh lúc điên, khi
yêu khi hận… Tất cả những phức cảm ấy đã không còn gì là xa lạ nữa nhưng để
tạo nên một loạt hình tượng những người phụ đang điên cuồng, hoang mang tột độ
trong vòng quanh cuộc sống của chính họ thì không phải một nhà văn nào cũng có
thể làm được điều đó.
Trước hết, nỗi sợ luôn tồn tại trong mọi người phụ nữ trong tiểu thuyết,
nhưng đặc biệt là trong nhân vật “tôi”: “Tôi sợ chính mình, tôi sợ Thượng Đê”, “lúc
nào tôi cũng sợ, tôi sợ dây chằng bị đứt”. Nỗi sợ ở đây có nét tương đồng với
chứng “bách hại cuồng” được nhắc đến trong sáng tác của Lỗ Tấn, hay nỗi sợ của
con người “trong bao” bởi nó luôn thường trực, quanh quẩn và có thể xuất hiện bất
cứ lúc nào. Phải chăng nỗi sợ này được sinh ra bởi sự yếu đuối cố hữu của đàn bà?
Vậy hóa ra người phụ nữ thật sự bé nhỏ đến thế nên họ cần được đàn ông bảo vệ
nhưng cũng là định đoạt cuộc đời họ chăng? Không, nỗi sợ từ xưa đến nay, không
phải là xúc cảm chỉ thuộc về duy nhất phái nữ. Sự yếu đuối, lo sợ chẳng phải là
xuất phát từ Adam khi Eva đã dám vượt qua sự cấm đoán để khám phá ra trái cấm
đó sao? Và chính người anh út, người tình thậm chí người anh cả của cô cũng tồn
tại nỗi sợ. Nỗi sợ không phải cố hữu của tính nữ nhưng nó lại thể hiện một nét
rất sự đặc biệt trong nhân vật “tôi”. Tại sao cô sợ? Có lẽ cô có thể mơ hồ cảm
nhận những thế lực sẽ làm hại, sẽ hạ bệ cô, mà đáng sợ nhất đó chính là bản thân
cô phần đầy bản năng của cô khó bị kiểm soát bởi ý thức. Nỗi sợ chính là phương
thức mà Cái Siêu Tôi (phần lương tâm) nhắc nhở Cái Tôi (ý thức) rằng Cái Nó (vô
thức) đang sắp vượt thoát ra khỏi ra khỏi vùng biên của nó. Nỗi sợ mơ hồ này nằm
trong vùng tiềm thức giữa vô thức và ý thức là vì lí do đó. Nhưng rồi mặc kệ nỗi
sợ như một hồi chuông cảnh báo, cô vẫn vượt biên, “đi đến tận cùng ý tưởng” bởi
nguồn “sức lực để đi ngược lại sự cấm đoán của mẹ”. Và rồi cuối cùng còn lại
trong cô là nỗi hoang mang vô hạn về dư luận, về gia đình, về kết cục của mối
tình cấm đoán này.
Tiếp đó là sự va đập của khao khát sống trong hạnh phúc, giàu sang bên người
tình và ước muốn được cô đơn, được chết trong nhân vật “tôi”. Dường như biểu
hiện này có thể liên tưởng đến mối quan hệ đối lập giữa hai bản năng theo thuyết
phân tâm học của Freud: bản năng sống (bao gồm bản năng tính dục) và bản năng
chết, luôn kéo con người về trạng thái tĩnh lặng trước khi sinh ra, khiến con người
luôn trong trạng thái đấu tranh quyết liệt. Ban đầu khi đến với nhân tình, dù không
nói về tương lai, nhưng trong tâm khảm, cô vẫn mong có thể ở bên anh mãi mãi khi
cô quấn lấy anh trong những cuộc giao hoan. Song trong những đêm trằn trọc bên
Helene, cô đã từng “ước muốn được chết”, “ước muốn được đơn độc”, để hoàn
toàn chìm vào sự tĩnh lặng của đời người. Sau quá trình đấu tránh lẫn nhau, cảm
thức hoang mang vẫn ở lại khi cô ngỡ ngàng khi nhận ra tình cảm thật sự của mình
dành cho người tình và bỗng dưng bật khóc khi nghe thấy tiếng đàn phát ra từ
boong tàu.
Không những thế, trạng thái khi điên khi tỉnh của bà mẹ còn là một khía cạnh
phức tạp của “nỗi hoang mang” này. Dưới sức ép của người con trai không ngừng
đốt tiền của bà vào những cuộc chơi, thuốc phiện, bà vẫn yêu người con trai cả
bằng một tình yêu tha thiết nhất đến mức bà không hiểu sao bà lại có thể yêu anh
ta đến vậy. Nhưng hậu quả của những việc mà anh ta gây ra chính là đói nghèo
tiếp đói nghèo khi cha qua đời. Bà ám ảnh về đồng tiền lại càng ám ảnh vì đàn con
yếu đuối và tội lỗi. “Bà đã là người điên. Từ khi sinh ra. Từ trong máu. Bà không bị
bệnh điên, bà sống với sự điên rồ như thể đó là sức khỏe”. Vậy điên ở đây là một
trạng thái không bình thường của tâm lí chứ không phải là một căn bệnh. Nhưng có
lúc bà mẹ lại tỉnh táo, tỉnh táo hơn người bình thường trong sự kiên cường chống
đỡ cái gia đình mục ruỗng ấy trước ảnh nhìn, những câu nói của người đời mà
chính nhân vật “tôi” còn phải thốt lên rằng “chính trong sự kiên cường như thế này,
một sự kiên cường phi lí, mà tôi thấy một ân huệ sâu sắc”, bà đã đưa cô thoát ra
khỏi sự hoang mang giữa tình yêu đầy nhục dục, cám dỗ của mình. Song đến chết,
bà vẫn không ngừng lo lắng về đứa con trai của mình, nỗi hoang mang kéo dài đến
tận khi bà nhắm mắt xuôi tay.
Cảm thức nửa hận nửa yêu cũng bộc lộ “nỗi hoang mang phái tính” ấy. Đặc
biệt thái độ vừa hận vừa yêu của nhân vật “tôi” lại dành cho người mẹ, là người
quan trọng nhất của đời cô. “Tôi nghĩ đã nói về tình yêu thương của chúng tôi đối
với mẹ, nhưng tôi không biết tôi đã nói về sự thù hân mà chúng tôi cũng có đối với
bà chưa, và cả về yêu thương mà chúng tôi dành cho nhau và về sự thù hận nữa, sự
thù hận khủng khiếp trong câu chuyện chung hoang tàn và chết chóc của cái gia
đình này, ở mọi lúc, khi yêu thương cũng như khi thù hận, và là câu chuyện vẫn
vượt ra khỏi lí trí của tôi, vẫn không thể thấu hiểu được, đối với tôi, nó ẩn giấu
sâu trong da thịt tôi… tôi chẳng bao giờ yêu, mà cứ tưởng mình yêu, tôi chẳng bao
giờ làm gì cả ngoài việc đợi chờ trước cảnh cửa đóng kín”… Là nạn nhân, cũng là
hung thủ gây nên bi kịch của nhau, mẹ và cô luôn giằng co trong những khoảnh
khắc khi thì nghẹn ngào tâm sự, lúc lại tranh luận gay gắt, thậm chí là ren đe, đánh
đập. Chính cảm thức yêu hận chống chéo đã gây nên một sự trống vắng, một sự
đợi chờ bâng quơ, một nỗi hoang mang mà lí trí không kiểm soát được, ngẫu nhiên
mà tất yếu. Phải chăng nỗi hoang mang ấy đã đưa họ vào “mê cung” trong chính
họ, họ lạc lối và cũng làm cho người ta lạc lối khi cố gắng khám phá thế giới bên
trong họ? Phải chăng bản chất giới nữ như một hố đen, không điểm đầu, không
điểm cuối, vô định, vô bờ?
Tiểu kết:
Khám phá bản chất giới nữ, ta không chỉ tìm ra ý thức về sự tồn tại của bản
thân mà ở tầng sâu kín, tầng tiềm thức, là ranh giới giữa ý thức và vô thức, ta còn
thấy được một “nỗi hoang mang phái tính”. Không phải cảm thức này không xuất
hiện ở phái nam, nhưng có lẽ nguồn gốc của cảm giác ấy luôn tới từ giới nữ, tạo
nên sự bất định, khó nắm bắt trong tâm lí của họ. Tiềm thức về nỗi hoang mang
này dường như chính là cánh cửa mở lỗi “mê cung” vô thức chứa những bản năng
nhục dục cùng vô vàn những ẩn ức sâu kín nhất của người phụ nữ.
2.3. Vô thức: dục tính nữ:
Trong bài tiểu luận “Tiếng cười của nàng Medusa”,một tiểu luận tiêu biểu
của chủ nghĩa phê bình nữ quyền, lí thuyết gia Pháp Helene Cixous kết luận, trong
hệ thống dươngvậtlờinóitâmđiểm (nghĩa là trong thế giới lấy nam giới làm
trung tâm), “không có cái gì tự nó là tính dục nữ–dục tính nữ vẫn là dục tính được
định nghĩa bằng sự hiện diện của một cái dương vật, và không bằng một thứ gì
vốn dĩ liên quan đến thân thể hay khoái cảm của phái nữ”, đồng nghĩa với việc
những ham muốn nhục dục của giới nữ phụ nữ hoàn toàn đến từ đàn ông, họ
không hề tồn tại dục tính riêng của mình. Liệu điều này có đúng với tiểu thuyết
mới “Người tình” này không?
Không thể phủ nhận, ham muốn của phụ nữ gắn với đàn ông, chính xác hơn là
thể xác của giới nam với “làn da êm ái”, “thân hình gầy gò, không sức lực” và “bộ
phận sinh dục. Hình ảnh “bộ phận sinh dục” được lặp đi lặp lại trong truyện,
trong những dòng văn phi tuyến tính như tâm trí hỗn loạn của nhân vật “tôi” là ám
ảnh về thế giới nam tính, về người tình của cô. Mỗi khi nhắc đến thân thể của anh
ta trong suy nghĩ hay trong những lần làm tình của hai người, dòng thác của dục
vọng lại cuồn cuộn chảy trong cô, khiến cô “bảo anh làm chuyện ấy thêm và thêm
nữa. Làm chuyện ấy cho tôi. Anh đã làm… Và chuyện đó thực sự đã diễn ra như là
để chết. Và cho đến chết”. Ham muốn tính dục của cô mỗi khi gặp anh lại ngày
một bùng nổ, đến mãi, khi cả hai người mất đi lí trí, quên đi cả tương lai không
tưởng sau này, yêu chỉ vì yêu.
Song nếu nói dục tính nữ xuất phát từ người đàn ông thì điều này có hoàn toàn
đúng? Bởi hai lí do sau: thứ nhất, trong tác phẩm, chính nhân vật “tôi” đã từng cho
rằng: “Dục vọng có trong người đàn bà khiêu gợi nó hoặc là nó không tồn tại”,
nghĩa là chẳng cần phải chờ một người đàn ông nào đem lại ham muốn mà tính
dục vốn nó đã tồn tại như một bản năng, với người phụ nữ luôn khao khát chuyện
ấy. Thứ hai, bộ phận sinh dục hay thể xác của người nam cũng không phải thứ duy
nhất làm phụ nữ dấy lên bản năng tính dục. Họ còn có khao khát muốn chiếm hữu
thể xác của chính họ, phái nữ. “Tôi bủn rủn người vì thèm muốn Helene Lagonelle.
Tôi bủn rủn người vì thèm muôn”, đó là suy nghĩ của nhân vật “tôi” đối với người
bạn cùng phòng cùng là người bạn thân nhất của cô ở trường nội trú. Vậy hóa ra
dục tính của người nữ lại không hoàn toàn xuất phát từ người nam, như Cixous cho
rằng: “Nếu đàn bà có thể cho đàn ông thấy khoái cảm thật sự của họ, thân thể thật
sự của họ–bằng viết ra chúng trong dạng không biểu hiện–Cixous nói, đàn ông sẽ
hiểu là thân thể phụ nữ, tính dục nữ, không liên hệ gì đến dương vật (quá ít hay
quá nhiều)”. Qua tiểu thuyết “Người tình”, ta có thể đồng tình với quan điểm khi
đưa ra thuật ngữ “dục tính nữ” và khẳng định nói độc lập với “dục tính nam” và
“dục tính” nói chung, nó tồn tại như một phần trong vô thức tâm tưởng người phụ
nữ, họ không thể nhìn thấy nhưng có thể cảm nhận được nó. Chính nó là nguồn
sức mạnh khiến họ vượt biên, quên đi lương tâm dẫn đường, làm lơ ý thức mách
bảo và bước vào mê lộ nhục dục không lối thoát.
Tiểu kết:
Cùng với những khám phá về vùng ý thức, tiềm thức, vô thức về dục tính nữ
đã hoàn thiện phần nào bản chất giới nữ theo từng tầng bậc của tâm lí. Song như
chúng tôi đã trình bày, bản chất nữ giới như một mê cung, hay hố đen vô hạn, mỗi
một người phụ nữ lại có những tầng tâm lí với những biểu hiện và nguyên do khác
nhau, từ nhân vật “tôi” một người con gái sớm đã nhận thức đầy đủ về những bất
an của cuộc đời mình ở lứa tuổi mười lăm tuổi rưỡi, đến người mẹ trước vòng
xoáy cuộc đời mà hoang mang nửa điên nửa tỉnh, và tất cả những người phụ nữ
khác trong truyện, sống một cuộc đời trầm lặng nhưng sau họ vẫn là những mâu
thuẫn, lo sợ và khao khát.
Quá trình chuyển biến đối tượng, mối quan tâm của chủ nghĩa phê bình sinh
thái đã cho ta thấy được một bước tiến trong cách mạng nữ giới. Chống lại nam
giới, xã hội phụ quyền chỉ là tạm thời, bởi nền móng của nó đã được hình thành từ
lâu, trở nên quá chắc chắn, khiến trong chính người phụ nữ tồn tại thứ mặc cảm
phái tính; điều cần thay đổi đó là giúp họ nhận thức và bộc lộ ra được bản chất
của mình một cách tự nhiên mà mãnh mẽ, đó có lẽ mới chính là ưu điểm của chủ
nghĩa này so với cách phê bình xã hội học.
3. … Qua “lối viết nữ” phá vỡ những chuẩn mực của lối viết nam:
Là một thuật ngữ của lí thuyết gia Pháp Helene Cixous, từ tiểu luận “Tiếng
cười của Medusa”, “lối viết nữ” được “gắn với giới nữ và mở ra sự chơi tự do của
ý nghĩa trong khuôn khổ của các cấu trúc ngữ pháp được nới lỏng. Không thể định
một thực hành viết lách của giới nữ, nó sẽ luôn vượt hơn cái diễn ngôn quy định
hệ thống lấy nam giới làm trung tâm…”, đó phải là một diễn ngôn có sức mạnh
“quét sạch cú pháp, ngắt đứt cái sợi chỉ nổi tiếng mà với đàn ông nó có vai trò như
một sợi dây rốn biểu tượng”. Hay nói đơn giản, đó là diễn ngôn phá tan những gì
vốn có trong diễn ngôn văn học đã được tạo nên trong những trước tác của giới
nam nhà văn, từ từ ngữ đến cú pháp và quan trọng là những biểu tượng, tượng
trưng vốn xuất hiện như những cố hữu được định đoạt bởi “thẩm quyền, trật tư,
người cha, sự trấn áp và kiểm soát” mà thay vào đó là những kí hiệu mang bản chất
ngẫu nhiên, lỏng lẻo hơn, không ngừng “trượt”, “thế chỗ”. Chính vì thế, “lối viết
nữ” có thể ra vô hạn về không gian, thời gian thực lẫn hư trong tâm tưởng. Như
quan điểm của Elaine Showalter trong “Một nền văn học riêng của họ” (A
Literature of Their Own, 1986), bà cũng hợp lí hoá cho vấn đề về “những sự tuôn
trào chẳng nên hình dạng” của phụ nữ bằng cách vạch ra một lí thuyết mà đã xem
sự chẳng nên hình dạng như biểu hiện tự nhiên của đồng cảm phái nữ, và khuôn
thức như kí hiệu về tính một chiều của đàn ông. Bà cố gắng tự giác để tạo ra
những câu tỉnh lược và phân mảnh để mà truyền đạt điều bà cứu xét là hình dạng
và kết thức của tâm trí đàn bà. Trong tiểu luận này, chúng tôi không chỉ tập trung
vào nghiên cứu từ ngữ chứa đựng những kí hiệu “trượt” và cú pháp “phân mảnh”
như các nhà nghiên cứu phê bình nữ quyền đưa ra mà còn bước đầu tìm hiểu sự
“trượt” và “phân mảnh” trong chính mối quan hệ giữa tác giả cuốn tiểu thuyết tự
truyện và nhân vật “tôi” là trung tâm của truyện.
Trước hết, tính kí hiệu được ẩn chứa trong những từ ngữ được lặp đi lặp lại,
như một dấu hiệu đặc biệt, nhưng lại không mang ý nghĩa biểu tượng như nó đã
từng xuất hiện trong tất cả các tác phẩm trước của tác giả nam giới. Nó không chỉ
không cố định, trở thành biểu mẫu mà nó trượt trên các trường nghĩa khác nhau.
Như hình ảnh “chiếc mũ vành phẳng”, “đôi giày dát kim tuyến vàng”, trong trường
nghĩa đồ vật, chúng đơn thuần chỉ là phụ kiện, vật trang trí, tôn lên vẻ đẹp nữ tính
mà cá tính của cô gái da trắng trẻ tuổi đất thuộc địa. Nhưng vượt thoát ra khỏi
trường ban đầu của nó, “chiếc mũ” gắn với tính chất “đàn ông” tạo nên “sự mơ hồ
có tính quyết định”, nó không chỉ là thứ đại diện cho cái mạnh mẽ của người đàn
ông, át đi nét yếu ớt, trẻ con trong cô mà còn kí hiệu cho “lựa chọn của tinh thần”,
“ngược ý tạo hóa”, lời tiên tri cho một hành động sẽ phá vỡ những rào cản, thành
kiến về vị thế và vai trò của người phụ nữ trong tương lai. Nét nghĩa này đã đẩy
hình ảnh vốn vô tri ấy sang một trường nghĩa thể hiện sự thách thức vị thế cao cả
thuộc về đàn ông của người phụ nữ. Đặt cạnh với hình ành “đôi giày dát kim tuyến
vàng”, hai hình ảnh tạo nên một sự sánh đôi phức hợp giữa cảm giác vừa muốn tỏ
ra nữ tính, thu hút phái nam, vừa muốn chống đối lại bản thể nam của thế giới.
Hay hình ảnh ước muốn duy nhất của nhân vật “tôi” là “viết văn”, những câu văn
nhắc đến công việc này được xuất hiện nhiều lần có lẽ không chỉ nói về đam mê
với nghiệp viết của cô, nó được đặt cạnh những hình ảnh về cuộc sống gia đình,
người mẹ, những người anh, nó như một sự giãi bày về thể nghiệm đời sống, về
mong muốn sáng tạo nghệ thuật, thể hiện sự tồn tại cùng tài năng của bản thân.
Từ trường nghĩa chỉ nghề nghiệp, những câu văn chuyển sang quan niệm của mọi
người về mối quan hệ giữa nghề cầm bút và phụ nữ. Liệu đàn bà có đủ tư cách trở
thành người nghệ sĩ? Đó là câu hỏi đặt ra ngay từ đầu truyện và đến cuối đã được
trả lời bằng sự nổi tiếng của nhân vật “tôi”. Và hàng loạt những từ ngữ ấn chứa kí
hiệu, không cố định, không ngừng trượt trong vỏ ngôn ngữ tạo nên bức tranh 3D
liên tục biến đổi về nghĩa, bức tranh về thế giới phụ nữ khi nằm ở thế đối lập lúc
lại song hành với đàn ông.
Tiếp đó, để tạo nên một “lối viết nữ” đầy khác biệt, khác với “một thứ văn
xuôi tự nhiên, nhanh nhạy nhưng không nhếch nhác, diễn cảm nhưng không cầu kì,
nhuốm vẻ riêng của họ mà vẫn không ngừng trở thành thứ tài sản chung” (Căn
phòng riêng Virginia Woolf), đặc trưng của một “câu văn nữ” là “các mệnh đề
được kết nối theo trật tự lỏng leo hơn, thay vì được cân đối và điểm tô cẩn thận
như tỏng văn xuôi của nam giới”, ngắn gọn hơn là một cấu trúc “phân mảnh”,
không tuân theo một quy luật tuyến tính nhất định nào. Mạch văn bị chuyển đổi
liên tục, đứt đoạn, dòng thời gian cũng bị bóp méo khi hiện tại, lúc quá khứ nhưng
vẫn xoay quanh một câu chuyện “câu chuyện về một phần rất nhỏ trong tuổi trẻ”.
Sự hỗn loạn trong mạch văn có lẽ cũng là sự hỗn loạn trong tâm trạng, cảm xúc,
bởi tính tự truyện của tiểu thuyết mới, như một cuốn nhật kí viết về gia đình, tuổi
thơ. Song còn một cách lí giải khác đó là sự pha trộn hoàn toàn trong văn xuôi của
Marguerite Duras giữa ngôn ngữ văn học và ngôn ngữ điện ảnh. Những đoạn dừng
đột ngột, những khúc quay cận cảnh giây phút hoan lạc hay toàn cảnh khoảnh khắc
nhân vật “tôi” và người tình chia tay trong bí mật,… Sự phi tuyến tính của nó dựa
theo sự hợp lí về mặt chi tiết, hình ảnh, nó tập trung vào những hình tượng mang
tính quyết định đến cuộc đời sau này của nhân vật “tôi”: lần đầu làm tình, cuộc nói
chuyện cụt ngủn về gia sản, cảnh anh cả chèn ép hai đứa em và sự chia li vĩnh
viễn,…
Song có phải sự phân mảnh, lỏng lẻo này chỉ có ở “lối viết nữ”? Sự thật là
tiểu thuyết mới bị ảnh hưởng khá nhiều bởi thủ pháp dòng ý thức mà những người
tiên phong là những nam tác giả: Laurence Sterne và Lev Nikolayevich Tolstoy có
thể coi là mốc đánh dấu một giai đoạn mới trong việc hoàn thiện các phương thức
phân tích tâm lý này. Vậy có phải khiên cưỡng nếu nói chỉ có “lối viết nữ” sở hữu
cú pháp đứt đoạn, hỗn loạn này? Chẳng lẽ người đàn ông lại không thể tồn tại
trạng thái tâm lí phức tạp, rối loạn như vây? Thế đâu còn tồn tại một “lối viết nữ”
nào ở đây? Theo chúng tôi, sự khác biệt giữa “lối viết nữ” và thủ pháp dòng ý thức
là sự tự ý thức của người làm nghệ thuật. Nếu như với thủ pháp dòng ý thức là
một thủ pháp yêu cầu một liên kết chặt chẽ giữa cái chi tiết để bộc lộ tâm lí sâu
kín nhất của con người thì “lối viết nữ” mang tính bản năng hơn, vì theo
Cixous :“phái nữ và ngôn ngữ của họ–uyển chuyển hơn, lưu loát hơn, ít cố định
hơn phái nam”, cũng phụ thuộc vào bản chất sinh lí nữ. Điều đó làm nên sự khác
biệt giữa “lối viết nữ” và thủ pháp dòng ý thức tưởng chừng có nhiều mối liên hệ.
Không chỉ thế, tính chất “phân mảnh” còn nằm trong mối quan hệ giữa tác giả
cuốn tiểu thuyết tự truyện và nhân vật “tôi” là trung tâm của truyện, nó gần với
một khái niệm “Cái khác” (Otherness). Qua việc phân tích cách thức Duras vận
dụng giọng (voice) và các đại từ nhân xưng (pronouns) ngôi thứ nhất và ngôi thứ
ba, chúng tôi sẽ chứng minh trong một số trường hợp, chính nhân vật nữ chính
tưởng chừng là sự phóng chiếu của nhà văn hóa ra lại bị phân tách. Mở đầu cuốn
tiểu thuyết, nhân vật xưng “tôi”, nhưng lại không phải là cô gái mười lăm tuổi
rưỡi kia, mà lại là một người phụ nữ trung niên kể về cuộc đời tuổi trẻ của mình:
“Một hôm, khi tôi đã luống tuổi…”. Sự phân tách ngay từ đầu giữa một người phụ
nữ đã luống tuổi và cô bé chưa trưởng thành đã báo hiệu một sự phẩn mảnh trong
mối quan hệ gắn bó của tác giả và nhân vật tiểu thuyết. Rồi câu chuyện bị thay
đổi mạch khi nhân vật “tôi” lại trở về quá khứ, thời niên thiếu của mình để kể lại
câu chuyện ấy, lúc xưng “tôi” từ điểm nhìn bên trong, ngôi thứ nhất, đến “cô” từ
điểm nhìn bên ngoài , ngôn thứ ba. Sự phân thân còn tiếp diễn và lên đỉnh điểm khi
nhà văn khi gọi bản thân mình trong tác phẩm là “cô ấy”, “cô bé da trắng”. Phải
chăng sự phân thân ấy cũng là một biểu hiện của sự hỗn loạn trong cấu trúc tâm lí
của người con gái kia, lúc nằm trong ý thức về “tôi” bản thân, khi lại hoang mang
trước phần tiềm thức, vô thức của mình để rồi khi nhìn lại, lại thấy nó như một
kẻ khác?
Tiểu kết:
Qua “lối viết nữ” chỉ có thể được viết và viết hay bởi người phụ nữ, cho
người phụ nữ, về người phụ nữ, Marguerite Duras đã cho ta thấy những diễn ngôn
phái nữ và sự biến chuyển của nó qua tiếng nói của những người phụ nữ trong cả
tác phẩm. Từ những từ ngữ mang bản chất kí hiệu, cú pháp phân mảnh đến sự
phân tách trong chính mối quan hệ giữa tác giả và nhân vật tiểu thuyết tự truyện
được phóng chiếu từ chính tác giả, ta đã thấy được bản chất thế giới phức tạp của
giới nữ trong ba tầng cấu trúc tâm lí: ý thức, tiềm thức và vô thức
KẾT LUẬN:
Bằng phương pháp trình bày, phân tích, tổng hợp, bình luận, theo chủ nghĩa
phê bình nữ quyền, tiểu thuyết mới “Người tình” của Marguerite Duras đã thể hiện
được diễn ngôn và sự biến đổi trong diễn ngôn: từ tấn công phiên bản nam giới
đến khám phá bản chất giới nữ, qua một “lối viết nữ” phá tan những truyền thống
ngôn ngữ của phái nam. Song trong hai thời kì của chủ nghĩa, tác phẩm “Người
tình” đã tập trung khám phá thế giới bên trong vốn bất định và mơ hồ của người
phụ nữ thay vì châm ngòi cho cuộc chiến khốc liệt giữa thế giới nam quyền và
người phụ nữ. Họ cần sống cho bản thân, dám bôc lộ những khao khát, ham muốn
của mình về tình yêu, hạnh phúc. Là một tác phẩm viết bởi phụ nữ, về phụ nữ,
cho phụ nữ, “Người tình” đã thật sự hoàn thành được sứ mệnh cứu rỗi thân phận
người phụ nữ, đặc biệt là người phụ nữ trong xã hội nam quyền ở một đất nước
thuộc địa nhiều hủ tục và định kiến
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Peter Barry, Beginning theory, an introduction to literary and cultural
theory”, Peter Barry, Manchester university Press, 1995, (tạm dịch: Nhập môn về
văn học và lí thuyết văn hóa), bản dịch lưu hành nội bộ của khoa Ngữ văn,
ĐHSPHN của Nguyễn Thị Ngọc Minh, Lương Thị Hiền, Lộ Đức Anh, Nguyễn
Diệu Linh
2. Mary Klages, Tiếng cười nàng Medusa, Hồ Như chuyển ngữ:
/>3.
Raman Selden, Phê bình nữ quyền, Hồ Liễu dịch
Trần Văn Toàn, Dẫn nhập lí thuyết diễn ngôn của M. Foucault và nghiên
cứu văn học:
4.
/>/Default.aspx
5. Peter Barry, Beginning theory, an introduction to literary and cultural
theory”, Peter Barry, Manchester university Press, 1995, Cao Hạnh Thủy dịch, Tạp
chí Đại học Sài Gòn, Bình luận văn học, Niên san 2013:
Chương VI: Feminist criticism:
http://khoavanhocngonngu.edu.vn/nghiencuu/lyluanvaphebinhvanhoc/6671ph
%C3%AAb%C3%ACnhn%E1%BB%AFquy%E1%BB%81n2.html