Tải bản đầy đủ (.pdf) (167 trang)

Luận án Tiến sĩ Luật học: Thực hành quyền công tố trong điều tra các tội giết người theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.58 MB, 167 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN QUỐC HÂN

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG
ĐIỀU TRA CÁC TỘI GIẾT NGƢỜI THEO
PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 9.38.01.04

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Văn Huyên

Hà Nội - 2019


LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan Luận án này là công trình
nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nghiên
cứu đề cập trong Luận án là trung thực, có nguồn gốc
trích dẫn rõ ràng.
Tác giả Luận án

NGUYỄN QUỐC HÂN



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ...................................... 8
1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài ......................................................................... 8
1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước ........................................................................... 11
1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án và những vấn đề luận án
tiếp tục nghiên cứu và giải quyết .................................................................................. 20
Kết luận chương 1 ......................................................................................................... 26
CHƢƠNG 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỰC
HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG ĐIỀU TRA CÁC TỘI GIẾT NGƢỜI
THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ........................................ 28
2.1. Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong điều tra các tội giết người . 28
2.2. Quy định của pháp luật Việt Nam đối với hoạt động thực hành quyền công tố
trong điều tra các tội giết người .................................................................................... 62
Kết luận chương 2 ......................................................................................................... 77
CHƢƠNG 3: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG
TỐ TRONG ĐIỀU TRA CÁC TỘI GIẾT NGƢỜI THEO PHÁP LUẬT TỐ
TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM .................................................................................... 78
3.1. Tình hình, đặc điểm các tội giết người ở Việt Nam trong những năm gần đây .... 78
3.2. Thực trạng tổ chức lực lượng của Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trong
điều tra các tội giết người .............................................................................................. 84
3.3. Hoạt động thực hành quyền công tố trong điều tra các tội giết người ................... 86
3.4. Nhận xét, đánh giá những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế
của công tác thực hành quyền công tố trong điều tra các tội giết người .................... 101
Kết luận chương 3 ....................................................................................................... 112
CHƢƠNG 4: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG THỰC
HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG ĐIỀU TRA CÁC TỘI GIẾT NGƢỜI ..... 114
4.1. Dự báo tình hình các tội giết người...................................................................... 114
4.2. Yên cầu nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong điều tra các tội
giết người .................................................................................................................... 117



4.3. Giải pháp hoàn thiện pháp Luật Hình sự và Tố tụng hình sự, và những giải
pháp khác..................................................................................................................... 121
Kết luận chương 4 ....................................................................................................... 144
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 145
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN .............................................................................. 147
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................. 148


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLHS
BLTTHS
CQĐT

: Bộ luật hình sự
: Bộ luật tố tụng hình sự
: Cơ quan điều tra

ĐTV

: Điều tra viên

KSV

: Kiểm sát viên

THQCT

VKS
VKSND
VKSNDTC

: Thực hành quyền công tố
: Viện kiểm sát
: Viện kiểm sát nhân dân
: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

YCĐT

: Yêu cầu điều tra


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Hoạt động Thực hành quyền công tố (THQCT) là một trong hai chức năng
quan trọng của Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) được quy định tại Điều 107 Hiến
pháp năm 2013: “Viện kiểm sát nhân dân THQCT, kiểm sát hoạt động tư
pháp”[62]. Như vậy, trong bộ máy các cơ quan nhà nước, thì VKSND có hai chức
năng là THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp. Điều 3 Luật tổ chức VKSND năm
2014 quy định:
“Hoạt động Thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm
sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của nhà
nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngày từ khi giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình

khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự” [66].
Nhất quán đường lối đổi mới tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, X, XI,
XII, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục chủ trương xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) của dân, do dân và vì dân, tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân, đồng thời gắn việc thưc hiện chủ trương này với việc
thực hiện công cuộc cải cách tư pháp. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005
đặt ra mục tiêu của cải cách tư pháp là: xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững
mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, kiện toàn
các cơ quan tư pháp theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả… lấy
cải cách tổ chức và hoạt động xét xử làm trung tâm. Trong đó xác định mục tiêu
cải cách đối với ngành Kiểm sát là:
“Trước mắt, viện kiểm sát nhân dân giữ nguyên chức năng như
hiện nay là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Viện
Kiểm sát nhân dân được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của tòa
án…, tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra”[18].
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, với những
ảnh hưởng từ mặt trái của kinh tế thị trường đã làm cho tình hình tội phạm diễn biến
phức tạp, nhiều loại tội phạm mới xuất hiện với chiều hướng gia tăng. Đặc biệt là
loại tội phạm giết người trong thời gian gần đây gia tăng về số lượng, tính chất
nghiêm trọng, thủ đoạn tinh vi, nhiều vụ giết người với tính chất man rợ gây hoang
mang cho quần chúng nhân dân. Trước diễn biến tội phạm giết người gia tăng,
1


ngành Kiểm sát nhân dân đã có nhiều cố gắng nâng cao trách nhiệm trong hoạt
động THQCT các vụ án hình sự nói chung, các vụ án về các tội giết người nói
riêng, đảm bảo việc xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, phục vụ kịp thời
yêu cầu chính trị tại các địa phương và trong cả nước. Thông qua công tác THQCT
trong điều tra các tội giết người, VKSND đã không phê chuẩn các quyết định chưa
đủ căn cứ pháp lý hoặc hủy các quyết định trái pháp luật của CQĐT, nhằm hạn chế

đến mức thấp nhất việc làm oan người vô tội cũng như không để xảy ra việc bỏ lọt
tội phạm và người phạm tội; không gia hạn điều tra vụ án để hạn chế tình trạng điều
tra kéo dài; ngăn ngừa sự lạm quyền trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn;
bảo đảm việc khởi tố, việc bắt, việc điều tra có căn cứ và đúng pháp luật.
Tuy nhiên, do hạn chế về trình độ pháp luật, về nhận thức THQCT nói chung
và THQCT trong điều tra các tội giết người nói riêng của một số cán bộ, Kiểm sát
viên và đặc biệt là nhận thức về vị trí, vai trò, trách nhiệm của mình trong hoạt động
THQCT trong điều tra các tội giết người chưa được rõ ràng dẫn đến hiệu quả hoạt
động chưa cao, bộc lộ những hạn chế, yếu kém như: Chưa làm hết trách nhiệm theo
quy định của pháp luật; chưa kịp thời đề ra yêu cầu điều tra đối với điều tra viên;
chưa hình thành kỹ năng phân tích, tổng hợp, đánh giá chứng cứ để phát hiện, giải
quyết kịp thời các mâu thuẫn trong hồ sơ vụ án, tìm ra sự thật khách quan của vụ
án; thiếu tinh thần trách nhiệm trong công tác THQCT trong điều tra các tội giết
người dẫn đến những vi phạm nghiêm trọng các quy định của BLTTHS; không
kiểm tra tính căn cứ và hợp pháp trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn; công
tác tổng kết rút kinh nghiệm tìm ra nguyên nhân hạn chế, yếu kém nhằm đề xuất các
giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động THQCT trong điều tra các tội giết người bị
oan, sai chưa được thực hiện thường xuyên và phổ biến rộng rãi đến các KSV; số
lượng các vụ án VKSND trả lại điều tra bổ sung do thiếu chứng cứ hoặc vi phạm
pháp luật trong hoạt động điều tra còn cao. Từ thực tế của công tác THQCT trong
điều tra các tội giết người trong thời gian qua trên địa toàn quốc, chúng tôi nhận
thấy do nhận thức pháp luật khác nhau, chưa có sự thống nhất trong cách hiểu và áp
dụng pháp luật trong quá trình giải quyết án nên dẫn đến việc áp dụng pháp luật
hình sự của các cơ quan tố tụng ở từng lúc, từng nơi có sự khác nhau trong việc tìm
ra đâu là ranh giới giữa tội “giết người” với các tội: “giết người trong trạng thái tinh
thần bị kích động mạnh”, “giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng
hoặc vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội”… Để từ đó làm cơ sở cho
việc áp dụng pháp luật một cách chính xác. Nhiều vụ án về các tội giết người bị
2



khởi tố, điều tra oan, sai, điển hình như: vụ án Nguyễn Thanh Chấn (Bắc Giang); vụ
án Huỳnh Văn Nén (Bình Thuận); vụ Trần Hol, Trần Cua, Trần Văn Đỡ, Thạch Sô
Phách, Thạch Mười và Khâu Sóc (Sóc Trăng); thậm trí có 02 vụ án giết người
(Bình Phước) bị Tòa án cấp sơ thẩm tuyên vô tội hoặc bị cấp phúc thẩm hủy án để
điều tra lại; số lượng các vụ án các tội giết người hàng năm không giảm, BLHS và
BLTTHS năm 2015 còn có những bất cập, tính chất của tội phạm ngày càng phức
tạp, thủ đoạn gây án manh động, làm ảnh hưởng đến an ninh, trật tự, giảm lòng tin
của nhân dân đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật.
Xuất phát từ thực tế nêu trên cho thấy việc nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý
luận và thực tiễn về THQCT của Viện kiểm sát nhân dân trong điều tra các tội giết
người là cần thiết, nó giúp cho mỗi cán bộ, Kiểm sát viên có nhận thức lý luận và thực
tiễn sâu sắc để giải quyết tốt các vụ án về các tội giết người. Với lý do đó, tác giả chọn
nghiên cứu đề tài: “Thực hành quyền công tố trong điều tra các tội giết người theo
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam” làm Luận án tiến sĩ luật học của mình.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài luận án là nhằm tiếp cận một cách có hệ
thống và toàn diện công tác THQCT trong điều tra các tội giết theo pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam, trên cả hai bình diện lý luận và thực tiễn. Trên cơ sở thống
nhất về mặt nhận thức và đánh giá thực trạng, kết quả nghiên cứu của luận án tìm ra
những khó khăn vướng mắc, tồn tại, bất cập và nguyên nhân làm ảnh hưởng đến kết
quả hoạt động của công tác này. Từ đó đề xuất một số giải pháp, kiến nghị hoàn
thiện cả lý luận và thực tiễn góp phần nhằm nâng cao chất lượng THQCT trong điều
tra các tội giết, góp phần cùng với các cơ quan bảo vệ pháp luật đấu tranh phòng,
chống hiệu quả với loại tội phạm này trong thời gian tới
Để thực hiện mục tiêu nói trên, luận án có nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau:
- Tổng quan tình hình nghiên cứu ở trong và ngoài nước có liên quan đến đề
tài, xác định những nội dung cần tiếp tục nghiên cứu;
- Nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về nội dung của THQCT trong
điều tra các tội giết; lịch sử hình thành và phát triển của các quy định về THQCT

trong điều tra các tội giết người
- Xây dựng những lý luận cơ bản tội phạm về các tội giết người và hoạt động
THQCT trong điều tra các tội giết người theo quy định của BLTTHS hiện hành;

3


- Khảo sát thực trạng hoạt động của VKSND trong công tác THQCT trong
điều tra các tội giết người thời gian qua. Tìm ra nguyên nhân của những kết quả đạt
được và nguyên nhân của những tồn tại hạn chế cần khắc phục.
- Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao quả hiệu chất lượng công tác
THQCT trong điều tra các tội giết người trong giai đoạn hiện nay và thời gian tới.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của luận án
Trên cơ sở mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án, đối tượng nghiên cứu
của luận án tập trung vào những vấn đề sau đây:
- Một là, các công trình nghiên cứu khoa học, các sách chuyên khảo, các bài
viết của các nhà khoa học các học giả trong nước và nước ngoài có liên quan trực
tiếp đến chức năng THQCT của VKSND về các tội giết người làm cơ sở cho việc
phân tích lý luận và pháp luật về THQCT của VKSND đối với loại tội phạm này;
- Hai là, Quan điểm của Đảng và nhà nước về chức năng THQCT của
VKSND trong điều tra các tội giết người; hệ thống pháp luật của Việt Nam trong
lĩnh vực thực hành quyền công tố của VKSND đối với các tội giết người; vấn đề về
công tố, THQCT của VKSND; nội dung, phương pháp thực hành chức năng thực
hành quyền công tố. Các căn cứ các quy định của pháp luật Việt Nam về các khái
niệm có liên quan đến các tội giết người, trong từng tội phạm cụ thể các tội giết
người; các khái niệm về công tố và quyền công tố, THQCT của VKSND đối với
các tội giết người.
- Ba là, diễn biến tình hình tội phạm về các tội giết người, tổ chức lực lượng
của VKSND trong việc thực hiện chức năng THQCT trong điều tra các tội giết
người; đánh giá kết quả thực hiện THQCT trong điều tra các tội giết người của

VKSND trong những năm vừa qua.
- Bốn là, các biện pháp nhằm tăng cường công tác THQCT của VKSND trong
điều tra các tội giết người trong điều kiện phát triển và hội nhập quốc tế.
- Về nội dung: THQCT của VKSND trong điều tra các tội giết người. Các tội
giết người được nghiên cứu trong luận án bao gồm: Tội giết người (Điều 123
BLHS), tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ (Điều 124 BLHS), tội giết người trong
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 125 BLHS), tội giết người do vượt quá
giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người
phạm tội (Điều 126 BLHS).
- Về không gian nghiên cứu: (i) là THQCT trong điều tra các tội giết người
của Vụ THQCT và kiểm sát điều tra án trật tự xã hội (Vụ 2) -VKSNDTC, (ii)
4


Phòng THQCT và kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử sơ thẩm án trật tự xã hội
(Phòng 1 hoặc 2) – các VKSND cấp tỉnh và VKSND cấp huyện trên cả nước.
- Về thời gian nghiên cứu: được nghiên cứu trong phạm vi 10 năm từ 2009
đến hết năm 2018.
- Giới hạn về giai đoạn tố tụng: Phạm vi thực hành quyền công trong điều tra
các tội giết người bắt đầu từ khi khởi tố vụ án hình sự (cả trường hợp THQCT phát
sinh trước khi khởi tố vụ án như: Khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi…)
đến kết thúc khi kết thúc việc điều tra khi CQĐT chuyển hồ sơ sang Viện kiểm sát
đề nghị truy tố bị can hoặc quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ điều tra.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
Phương pháp luận của luận án là phép biện chứng duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử của chủ nghĩa học thuyết Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan
điểm của Đảng, Nhà nước trong đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và đấu
tranh phòng, chống tội phạm về các tội giết người nói riêng.
Luận án nghiên cứu theo chuyên ngành Luật hình sự và Luật tố tụng hình sự
cùng với các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:

- Phương pháp thu thập và nghiên cứu các tài liệu có liên quan để làm rõ tổng
quan tình hình nghiên cứu và những vấn đề lý luận về THQCT trong điều tra các tội
giết người.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp thống kê, so sánh, dự báo và điều tra xã hội
học được sử dụng để thống kê và phân tích tài liệu, báo cáo tổng kết, hồ sơ vụ án
các tội giết người trong thực tiễn nhằm tổng hợp rút ra những ưu điểm, hạn chế,
vướng mắc của công tác THQCT trong điều tra các tội giết người và so sánh giữa
thực hành quyền công tố trong điều tra các tội giết người ở nước ta với một số nước
trên thế giới.
- Phương pháp nghiên cứu điển hình để tiến hành nghiên cứu, phân tích công
tác THQCT trong điều tra các tội giết người ở một số vụ án cụ thể, một số địa
phương để tìm ra những ưu điểm và khuyết điểm, thiếu sót mang tính phổ biến.
- Phương pháp hỏi ý kiến chuyên gia được sử dụng để tọa đàm, trao đổi với
các chuyên gia nhằm tìm hiểu các kinh nghiệm trong công tác THQCT trong điều
tra các tội giết người.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án là công trình chuyên khảo nghiên cứu một cách có hệ thống, tương
đối hoàn thiện về lý luận và thực tiễn THQCT trong điều tra các tội giết người,
5


những kết quả rút ra qua nghiên cứu của luận án có đóng góp mới cho khoa học
chuyên ngành. Cụ thể là:
- Bổ sung, hoàn thiện những vấn đề lý luận về THQCT trong điều tra các tội
giết người; xây dựng những khái niệm, nội dung, phương pháp cơ bản về THQCT
trong điều tra các tội giết người; phân tích làm rõ các dấu hiệu đặc trưng của các tội
giết người.
- Phân tích được thực trạng quy định của pháp luật về THQCT trong điều tra
các tội giết người.
- Khảo sát, thống kê, đánh giá tình hình và tập trung nghiên cứu sâu một số

hoạt động THQCT trong điều tra các tội giết người trong giai đoạn 2009 – 2018.
Qua đó, phân tích, rút ra những kết quả đã đạt được, đồng thời làm rõ những hạn
chế, yếu kém và nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém. Từ đó có phương
hướng nâng cao hiệu quả THQCT trong điều tra các tội giết người; đề xuất các giải
pháp nhằm hoàn thiện lý luận và hiệu quả công tác của VKSND trong hoạt động
THQCT trong điều tra các tội giết người. Từ đó, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt
động điều tra của Cơ quan CSĐT trong điều tra các tội giết người.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Ý nghĩa lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận án đã góp phần bổ sung, hoàn
thiện lý luận khoa học hình sự, tố tụng hình sự và khoa học pháp lý chuyên ngành
Kiểm sát; thống nhất nhận thức về THQCT trong điều tra các tội giết người; phân
định rõ nhiệm vụ giữa THQCT với hoạt động kiểm sát điều tra trong các vụ án về
các tội giết người góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của hai ngành CQĐT và
Viện kiểm sát trong công tác đấu tranh, phòng chống các tội phạm giết người.
Ý nghĩa thực tiễn: Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu phục vụ cho công
tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu nghiệp vụ kiểm sát trong Trường Đại học kiểm
sát Hà Nội, Trường Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát tại Thành phố Hồ Chí
Minh; là nguồn tài liệu giúp CQĐT và Viện kiểm sát tham khảo xây dựng quy chế
phối hợp liên ngành trong đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung; cung cấp
cho các Kiểm sát viên kiến thức cơ bản, thao tác nghiệp vụ THQCT trong điều tra
các tội giết người. Một số đề xuất giải pháp của luận án là tài liệu phục vụ để các cơ
quan có thẩm quyền nghiên cứu, tham khảo khi sửa đổi, bổ sung BLHS và
BLTTHS hiện hành của Việt Nam.
Là tài liệu phục vụ cho các cơ quan Viện kiểm sát, cơ quan chức năng, sinh
viên làm tài liệu tham khảo vận dụng trong công tác THQCT, điều tra... đối với các
6


tội giết người, góp phần bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân, góp phần quan trọng trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm.

7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo Luận án gồm 4
chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2: Những vấn đề lý luận và pháp luật về thực hành quyền công tố
trong điều tra các tội giết người theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
Chương 3: Thực trạng hoạt động thực hành quyền công tố trong điều tra các
tội giết người theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
Chương 4: Yêu cầu và giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố
trong điều tra các tội giết người

7


CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Trong thời gian qua đã có một số công trình nghiên cứu của các tác giả nước
ngoài đã cung cấp nhiều thông tin về mô hình tố tụng, vị trí, vai trò của VKSND
hoặc Viện công tố (Cơ quan công tố) và sự tác động của Cơ quan công tố đối với
CQĐT trong hoạt động điều tra các tội phạm hình sự nói chung và các tội giết
người nói riêng. Theo đó, mỗi mô hình tố tụng khác nhau hoặc nhóm các nước có
hệ thống pháp luật truyền thống có những đặc điểm tương đồng như: Một số nước
trước đây (Nga) và hiện tại theo chế độ XHCN (Trung Quốc); một số nước theo
truyền thống luật án lệ (Anh, Mỹ), một số nước theo truyền thống pháp luật châu
Âu lục địa (Pháp, Hà Lan, Đức) và Cơ quan công tố ở một số nước châu Á (Nhật
Bản, Hàn Quốc, Indonesia) thì công tác THQCT của Cơ quan công tố đối với hoạt
động điều tra có vị trí, vai trò khác nhau. Một số công trình đã nghiên cứu của các
nước có liên quan đến luận án như sau:
1.1.1. Các công trình nghiên cứu chuyên sâu về chức năng, nhiệm vụ của

cơ quan công tố
- Sách chuyên khảo của Tony Paul Marguery (2008), The Unity and Diversity
of the Public Prosecution Service in Europe (PhD thesis), The University of
Groninggen (Sự thống nhất và đa dạng của các cơ quan công tố tại châu Âu), [115],
là công trình nghiên cứu chuyên sâu về Cơ quan công tố của hai nước Pháp và Hà
Lan. Kết quả nghiên cứu của công trình về việc THQCT như sau:
+ Cộng hòa Pháp là một quốc gia đại diện cho các nước theo truyền thống
châu Âu lục địa, tố tụng hình mang đặc trưng của mô hình tố tụng thẩm vấn. Viện
công tố Pháp có tư cách đại diện cho xã hội, trách nhiệm chính là tìm kiếm, đòi hỏi
các hoạt động điều tra phải tuân thủ đúng pháp luật khi điều tra các tội phạm, bảo
vệ lợi ích chung của công chúng, xã hội. Viện trưởng Viện công tố ở bên cạnh Tòa
sơ thẩm, là bên chính tố có vị thế và những quyền hạn đặc biệt, quan trọng, như:
quyền được Dự thẩm thông báo về việc chuẩn bị tiến hành một số hoạt động điều
tra như khám nghiệm hiện trường, khám xét; quyền được yêu cầu tham gia vào hoạt
động điều tra; quyền được xem hồ sơ bất ký lúc nào trong quá trình tố tụng (nhưng
trong vòng 24 giờ phải trả cho Dự thẩm). Dự thẩm phải xin ý kiến Viện công tố
trong phần lớn các trường hợp ra quyết định như trả tự do, lệnh tạm giữ, lệnh tạm
giam. Cơ quan công tố có quyền kiểm sát các hoạt động điều tra hình sự. Để đảm
8


bảo Cơ quan công tố có thể thực hiện quyền này, về nguyên tắc, cảnh sát có nghĩa
vụ thông báo kịp thời cho Công tố viên có thẩm quyền về các tội phạm hình sự và
phải gửi cho Công tố viên mọi tài liệu, chứng cứ mà mình có được. Để thực hiện
trách nhiệm, chức năng của mình, Viện công tố có quyền: mở cuộc điều tra, tiến
hành điều tra dưới sự trợ giúp của cảnh sát tư pháp; khởi tố vụ án hình sự, Công tố
viên có toàn quyền hiển diện trong hoạt động thẩm tra (thực tế hiếm xảy ra), nhưng
buộc phải có mặt khi có những quyết định quan trọng. Công tố viên có thẩm quyền
tùy nghi trong việc quyết định có khởi tố vụ án hay không. Công tố viên có quyền
chỉ đạo điều tra, đưa ra các yêu cầu buộc cảnh sát tư pháp phải thực hiện.

+ Theo mô hình tố tụng hình sự của Hà Lan, Công tố viên phải giám sát giai
đoạn điều tra, Công tố viên có thể ra lệnh cho tất cả những người tham gia vào việc
điều tra. Công tố viên phải đảm bảo việc điều tra chỉ tập trung vào những vấn đề
liên quan đến việc đánh giá tội phạm, việc điều tra tuân thủ quy định và những
nguyên tắc của pháp luật.
- Sách chuyên khảo của Dr Despina Kyprianou (2008), “Comparative
Analysis of Prosecution Systems (Part II): The Role of Prosecution Services in
Investigation and Prosecution Principles and Policies”. Cyprus and European Law
Review (Vai trò của Cơ quan công tố trong hoạt động điều tra) [114]. Trong nghiên
cứu của mình, đã trình bày vai trò của Cơ quan công tố trong hoạt động điều tra tại
nhóm các quốc gia theo truyền thống luật án lệ và nhóm các quốc gia theo truyền
thống pháp luật châu Âu lục địa.
- Báo cáo nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của hệ thống tư pháp Nhật Bản:
“Japan Final Repory”, Research studies on the organization and functioning of the
justice system in five selected countries (China, Indonesia, Japan, Republic of
Korea and Russian Federation) for Unitted Nations Development Program,
Vietnam, UNDP, Vietnam (Báo cáo nghiên cứu về tổ chức bộ máy và chức năng
của hệ thống tư pháp tại năm quốc gia: Trung Quốc, Indonesia, Nhật Bản, Hàn
Quốc và Nga), của tác giả William E Buttler (2010), [113]. Nội dung của mỗi báo
cáo đều cung cấp được những thông tin cơ bản nhất về thực trạng và vấn đề cải
cách tư pháp ở mỗi quốc gia được nghiên cứu. Trong đó không thể thiếu những vấn
đề liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của Cơ quan công tố/Viện kiểm sát, đặc biệt
là vấn đề vai trò của Cơ quan công tố đối với hoạt động điều tra.
- Bài tham luận của Jorg-Martin Jehle, (paper given at the UNDP-POGAR
Conference in Cairo, May 17-18, 2005) “The Function of Public Prosecution from
9


a European Comparative Perspective - How International Research Can
Contribute to the Development of Criminal Justice” (Chức năng của Cơ quan công

tố từ góc nhìn so sánh tại châu Âu - Các nghiên cứu quốc tế có thể đóng góp cho sự
phát triển tư pháp hình sự như thế nào), [113]. Trong tham luận của mình, JorgMartin Jehle chỉ ra rằng, tại hầu hết các nước châu Âu (trừ Anh và Ailen), Cơ quan
công tố được xem như cơ quan đứng đầu trong giai đoạn điều tra. Điều này đồng
nghĩa với việc Cơ quan Công tố phải kiểm soát tất cả các bước điều tra tội phạm
của Cảnh sát. Thông thường, Cơ quan công tố chỉ được thông báo sau khi Cảnh sát
đã hoàn thành việc điều tra, trừ trường hợp, đối với những tội nghiêm trọng như giết
người thì Cơ quan công tố phải tham gia ngay từ đầu giai đoạn điều tra. Thực tế này
thể hiện sự thiếu nhân lực của Cơ quan công tố nhưng không vì đó mà Cảnh sát
được coi là cơ quan độc lập trong giai đoạn điều tra. Cảnh sát có nghĩa vụ cung cấp
đầy đủ chứng cứ cho Cơ quan công tố và đảm bảo rằng việc thu thập chứng cứ tuân
thủ đúng pháp luật. Cảnh sát thực hiện theo hướng dẫn điều tra do Tổng công tố ban
hành. Trong phạm vi địa phương, Cơ quan công tố và Cảnh sát phối hợp chặt chẽ
với nhauđể đưa ra các quy tắc tiến hành điều tra và Cảnh sát phải tuân thủ những
quy tắc này.
1.1.2. Những nghiên cứu về các tội giết người và hoạt động điều tra về loại
tội phạm giết người liên quan đến luận án
- Sách chuyên khảo (2003): “The Need to Kill: Inside the World of the Serial
Killer” (Muốn được giết người: Bên trong thế giới của những kẻ giết người hàng
loạt), “Serial Murder: An Elusive Phenomenon” (Giết người hàng loạt: Một hiện
tượng khó hiểu) (2003), của Steven Egger. Tác giả đã nghiên cứu các vụ án giết
nhiều người, phân tích những suy nghĩ, tính cách, động cơ bên trong của người
phạm tội và đề ra phương pháp điều tra cụ thể đối với từng trường hợp ...
- Trên thế giới, đã có nhiều cuốn sách, báo cáo, công trình nghiên cứu chuyên
sâu về tội giết người và hoạt động điều tra về loại hình tội phạm này, tiêu biểu như:
Tác giả Robert D. Keppel và Joseph G. Weis, National Criminal Justice
Reference Service. Public Domain, 1992, “Improving the Investigation of Violent
Crime: The Homicide Investigation and Tracking System”. Trong bản báo cáo này,
tác giả đã đề cập đến công tác điều tra tội phạm giết người ở Mỹ qua việc sử dụng
hệ thống truy tìm và điều tra HITS.


10


Tác giả John Lindow, Nxb Soumalainen Tiedeakatemia, Acadenia
Scientiarum Fennica, 1997, “Murder and vengeance among the gods”. Tác phẩm đã
đi sâu vào nghiên cứu, phân tích những phương pháp, thủ đoạn tội giết người.
Tác giả Stanley Yeo, 1998, “ Unrestrained killings and the law”, nhà xuất bản:
Oxford University Prees, USA. Tác giả đã đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật
nhằm đấu tranh phòng chống tội giết người.
Tác giả Bruce L.Berg and John J.Horgan, 1998, “Criminal investigation” Nxb:
McGraw – Hill Humanities/Scocial Sc. Tác giả đã đề cập đến các phương pháp điều
tra tội phạm trong đó có tội giết người.
Nhìn chung các tác giả của những cuốn sách trên chỉ nghiên cứu đi sâu vào
phân tích tội phạm nói chung và tội danh giết người nói riêng ở một số khía cạnh cụ
thể dưới góc độ của luật hình sự, xã hội học, tội phạm học trên quan điểm nhận định
của các cá nhân hay mang tính đặc thù của mỗi vùng lãnh thổ, mỗi quốc gia; vì vậy
cách nhìn nhận cũng thiếu đi tính toàn diện. Mặt khác, có rất ít nghiên cứu đi sâu
vào chủ đề THQCT trong điều tra các tội giết người, nhưng những cuốn sách này là
những tài liệu tham khảo quan trọng để nghiên cứu sinh tiến hành nghiên cứu một
cách đầy đủ hơn, toàn diện hơn về đề tài THQCT trong điều tra các tội giết người
trên cả nước ta có hiệu quả.
1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Thực hành quyền công tố trong điều tra các tội giết người là một đề tài mang
tính chuyên sâu về một nhóm tội danh. Dạng đề tài này đã được một số tác giả
nghiên cứu về chức năng, nhiệm vụ của VKSND, trong giai đoạn điều tra vụ án
hình sự, vai trò, vị trí của VKSND Thực hành quyền công tố trong điều tra các tội
giết người. Tác giả nêu một số công trình khoa học đã nghiên cứu có liên quan đến
đề tài luận án, là các nhóm sau:
1.2.1. Nhóm nghiên cứu về mô hình tố tụng các nước trên thế giới liên quan
đến đề tài

Về những công trình nghiên cứu các vấn đề cụ thể có liên quan trực tiếp đến
đề tài luận án, tác giả nhận thấy có một số công trình sau:
- Nguyễn Thị Thu Quý, bài viết “Nghiên cứu pháp luật tố tụng hình sự Cộng
hòa liên bang Đức”, Thông tin Khoa học Kiểm sát (tập 5+6 năm 2013), Hà Nội.
Tác giả đã có nghiên cứu tố tụng hình tố tụng hình sự Cộng hòa liên bang Đức, về
cơ bản là mô hình tố tụng thẩm vấn, xét hỏi có kết hợp. Cơ quan công tố đóng vai
trò trung tâm của quá trình tố tụng và được coi là cơ quan có trách nhiệm trong lĩnh
11


vực tư pháp hình sự. Cảnh sát luôn là CQĐT chủ yếu và họ thường xuyên hiến hành
điều tra một cách độc lập. Viện công tố chỉ điều tra trong những trường hợp ngoại
lệ và đặc biệt với vai trò chính của Cơ quan công tố là truy tố tội phạm. Công tố
viên hướng dẫn trực tiếp đối với hoạt động điều tra, tư vấn về chứng cứ chuyên
ngành [88. Tr 81].
- ThS. Lại Thị Thu Hà, bài viết “Nghiên cứu pháp luật tố tụng hình sự Nhật
Bản”, Thông tin Khoa học Kiểm sát (tập 5+6 năm 2013), Hà Nội. Trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự Công tố viên có quyền tự mình điều tra hoặc ra lệnh cho trợ
lý công tố viên tiến hành điều tra khi thấy cần thiết và yêu cầu cảnh sát thư pháp hỗ
trợ điều tra; có quyền đưa ra yêu cầu điều tra, chỉ đạo hoạt động điều tra của cảnh
sát tư pháp. Mối quan hệ giữa Cảnh sát - Viện công tố trong hoạt động điều tra là
quan hệ hợp tác và phối hợp với nhau, mỗi bên đều có quyền năng pháp lý độc lập.
Song Công tố viên có vai trò chỉ đạo các hoạt động điều tra của Cảnh sát, thậm chí
có thể ra chỉ thị cho Cảnh sát [88. Tr 115].
- TS. Nguyễn Minh Đức, chủ biên, số chuyên đề “Mô hình tố tụng hình sự
một số nước trên thế giới” Thông tin Khoa học Kiểm sát (số 5+6 năm 2013), Hà
Nội. Đã thông tin đến bạn đọc về mô hình tố tụng một số nước như: Trung Quốc,
Liên bang Nga, Anh và xứ Wales...[88. Tr 10, 41, 163, 164]
+ Tại Liên bang Nga, VKS là cơ quan chủ yếu trong hệ thống tư pháp hình sự.
Trong thời ký Xô Viết, VKS được trao quyền giám sát chung đối với toàn bộ hệ

thống pháp luật và thẩm quyền này còn giữ nguyên cho đến khi thành lập nhà nước
liên bang. VKS là một hệ thống cơ quan nhà nước độc lập bên cạnh các hệ thống cơ
quan nhà nước khác như cơ quan quyền lực nhà nước do dân cử, cơ quan hành
pháp, cơ quan Tòa án. Chức năng hiến định của VKS là kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong phạm vi cả nước, trong mọi lĩnh vực pháp luật, phạm vi hoạt động
của VKS rộng hơn nhiều hoạt động của Viện công tố các nước khác và cả VKS ở
nước ta, không chia các nhiệm vụ, quyền hạn về QCT với kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong hoạt động điều tra như BLTTHS ở nước ta, mà quy định chung
nhiệm vụ, quyền hạn của KSV trong hoạt hoạt động điều tra.
+ Ở Trung Quốc, VKSND là cơ quan tư pháp, được tổ chức thành một hệ
thống độc lập. VKS có chức năng THQCT và chức năng giám sát pháp luật của nhà
nước nói chung, giám sát các hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự nói riêng một
cách độc lập theo quy định của pháp luật mà không bị can thiệp bởi bất kỳ cơ quan
hành chính, tổ chức hoặc cá nhân nào
12


+ Mô hình tố tụng hình sự của Anh và xứ Wales theo nguyên tắc về tiền lệ
pháp (stare decisis) có tính chất cơ bản đóng vai trò trung tâm trong hệ thống tư
pháp Anh. Nhằm để bị cáo biết được họ bị buộc tội về tội gì, một bản cáo trạng sẽ
được lập ra trong đó nghi rõ quyết định truy tố của Viện công tố.
Như vậy, đối với các nước theo truyền thống án lệ, điển hình như nước Anh,
Mỹ, Cơ quan công tố thực hiện chức năng giám sát hoạt động điều tra theo hướng
chủ yếu phối hợp, hướng dẫn hoạt động điều tra theo đúng quy định của pháp luật,
không chỉ đạo các hoạt động điều tra.
1.2.2. Nhóm nghiên cứu lý luận về Quyền công tố, thực hành quyền công tố
trong điều tra vụ án hình sự nói chung và các tội giết người nói riêng
- Luận án tiến sĩ Luật học (2002), Hà Nội. “Quyền công tố ở Việt Nam” của
TS. Lê Thị Tuyết Hoa, đã nghiên cứu những vấn đề lý luận về vấn đề quyền công tố
ở một số nước trên thế giới và QCT trong tố tụng hình sự ở Việt Nam; khái niệm,

đối tượng, phạm vi quyền công tố, nội dung và thực trạng tổ chức THQCT trong tố
tụng hình sự ở Việt Nam và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt
động công tố ở nước ta; Luận án đã xác định quyền công tố trong TTHS là “quyền
của Nhà nước giao cho Viện kiểm sát thực hiện theo quy định của Hiến pháp và
pháp luật để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, thực hiện sự buộc
tội đối với người đó tại Tòa án” [34, tr. 37].
- Luận án tiến sĩ luật học (2008), Hà Nội.“Tội giết người trong luật hình sự
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”, của TS. Đỗ Đức Hồng Hà đã phân tích nguyên
nhân của tội phạm giết người cũng như nguyên nhân của tồn tại trong đấu tranh
phòng, chống tội phạm giết người ở Việt Nam, từ đó kiến nghị với Ủy ban thường
vụ quốc hội, TAND tối cao, VKSND tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp ban hành
văn bản hướng dẫn về: Tiêu chí phân biệt tội giết người với tội phạm khác cũng gây
hậu quả chết người; kiến nghị với chính phủ xây dựng thêm các chương trình quốc
gia phòng, chống tội phạm và sự gia tăng của nó sẽ dẫn đến hậu quả gia tăng tội
phạm giết người [29, tr. 290-291].
- Luận án tiến sỹ “Quyền hạn của Kiểm sát viên theo quy định của luật tố tụng
hình sự Việt Nam và Liên bang Nga”, Trường Đại học tổng hợp quốc gia Ku Ban,
Liên bang Nga, 2012. TS. Mai Đắc Biên đưa ra các kết luận sau:
1) Theo BLTTHS Liên bang Nga, KSV trong giai đoạn điều tra, truy tố vụ án
hình sự có những hoạt động hướng tới việc bảo vệ quyền và tự do của con người,
công dân, bảo đảm tính pháp chế, tính toàn diện, đầy đủ và khách quan trong điều
13


tra tội phạm, làm rõ các tình tiết, phương thức thực hiện tội phạm, áp dụng các biện
pháp luật định để ngăn chặn chúng;
2) Chức năng, nhiệm vụ của VKS/KSV Việt Nam trong giai đoạn điều tra,
truy tố vụ án hình sự bao gồm: kiểm sát việc tuân theo pháp luật, truy tố hình sự,
phòng ngừa và ngăn chặn tội phạm, định hướng và đưa ra yêu cầu điều tra cho
CQĐT. Hai chức năng, nhiệm vụ đầu tiên là cơ bản, hai chức năng tiếp theo có tính

chất bổ sung;
3) Đánh giá về sự đặc biệt trong chế định THQCT của VKS/KSV theo quy
định của BLTTHS Việt Nam trong sự so sánh với chế định THQCT của VKS/KSV
Liên bang Nga, thấy rằng: VKS/KSV Việt Nam có sự linh hoạt trong thực hiện các
hoạt động tố tụng và ban hành các quyết định, có quyền hạn lớn để tác động vào
hoạt động tố tụng của CQĐT/ĐTV nhằm bảo đảm việc điều tra đúng quy định của
pháp luật [6, tr. 122].
- Luận án tiến sĩ luật học (2016), “Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt
động điều tra vụ án giết người”, của TS. Lê Đức Xuân, Đại học Cảnh sát thành phố
Hồ Chí Minh. Trong Luận án tác giả đã bổ sung, hoàn thiện lý luận khoa học pháp
lý chuyên ngành Kiểm sát; làm rõ nội dung công tác kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong hoạt động điều tra vụ án giết người. Phân định nhiệm vụ giữa kiểm sát
việc tuân theo pháp luật với hoạt động điều tra đối với vụ án giết người nhằm góp
phần nâng cao hiệu quả hoạt động của hai ngành trong công tác đấu tranh, phòng
chống tội phạm giết người [110, tr. 7].
1.2.3. Nhóm về sách chuyên khảo các công trình khoa học nghiên cứu về vị
trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân
- Sách chuyên khảo do Viện kiểm sát nhân dân tối cao chủ biên (năm 2015),
Hà Nội. “Các bài nói, bài viết của lãnh đạo Đảng và nhà nước về Viện kiểm sát
nhân dân”, tập hợp 49 bài phát biểu của lãnh đạo Đảng và Nhà nước về chức năng,
nhiệm vụ của VKSND hiện tại và xu hướng đổi mới theo yêu cầu cải cách tư pháp.
Nội dung các bài phát biểu rất phong phú, nhưng đều khẳng định Viện kiểm sát
nhân dân tiếp tục thực hiện hai chức năng theo quy định của Hiếp pháp năm 2013
quy định, đó là THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp [103, tr 209, 260].
- Sách chuyên khảo của GS.TS. Nguyễn Đăng Dung (năm 2005), Hà Nội. “Sự
hạn chế quyền lực nhà nước”, tác giả đề cập đến vấn đề “Tư pháp Việt Nam với
việc hạn chế quyền lực nhà nước” và cho rằng việc cải cách tổ chức, hoạt động tư
pháp có một số điểm cần thiết phải đặt ra để nghiên cứu hiện nay. Trong đó nêu
14



quan điểm: “Để có một lời buộc tội chính xác đồng thời phải nhanh chóng với mục
đích không làm oan người vô tội, thì các CQĐT phải trực thuộc trực tiếp Viện công
tố - cơ quan buộc tội. Hay nói một cách khác các CQĐT tội phạm phải trực thuộc
Viện kiểm sát” [11, tr. 649]. Công trình nghiên cứu trên là tài liệu tham khảo quan
trọng về vấn đề nhà nước và pháp luật, có ý nghĩa rất lớn cho việc nghiên cứu đề tài
ở khía cạnh thực hành quyền công tố.
- Sách do GS.TS. Nguyễn Đăng Dung, chủ biên (xuất bản năm 2012, Hà Nội).
“Những vấn đề về Hiếp pháp và sửa đổi Hiến pháp”, đề cập đến sự ra đời và phát
triển VKS, cơ cấu tổ chức VKS qua các bản Hiến pháp, làm rõ sự cần thiết thực
hiện các chức năng, nhiệm vụ của VKSND trong từng thời kỳ lịch sử. Đồng thời,
tác giả phân tích một cách sâu sắc việc thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động
tư pháp của VKS và khẳng định hoạt động điều tra là hoạt động quan trọng bậc nhất
của quá trình tố tụng. Điều tra được xác định là khâu đầu tiên, đồng thời cũng là
khâu có tính quyết định nhất trong toàn bộ quy trình của hoạt động tư pháp [12,
tr.305]. Các hoạt động truy tố, xét xử là những hoạt động tiếp theo nhằm tìm ra tính
xác thực của hoạt động điều tra, do đó hoạt động điều tra gắn bó với hoạt động công
tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật.
- GS.TSKH. Lê Cảm bài viết “Về Viện kiểm sát Việt Nam” (Tạp chí kiểm sát
số 21-2011, Hà Nội) [8], đã đề cập một cách sâu sắc chức năng, nhiệm vụ, thiết chế
về Viện Công tố, VKSND các nước trên thế giới; vị trí của VKSND trong bộ máy
nhà nước ta; phân tích sự cần thiết phải tiếp tục duy trì các chức năng của VKSND
như quy định của Hiến pháp hiện hành. Đồng thời, tác giả khẳng định sự cần thiết
phải duy trì vị trí hiện hành của VKSND trong hệ thống bộ máy nhà nước. Tuy
nhiên, để phân biệt vị trí của Toà án nhân dân, trong Hiến pháp cần đặt một chương
riêng về VKSND ngay sau chương về TAND. Nhiều nước XHCN trước đây ở
Đông Âu hiện nay đã đi theo hướng đó. Cũng có quốc gia đặt chung trong một
chương của Hiến pháp nhưng nói rõ tên chương là “Các cơ quan tư pháp”. Cách
làm này cũng có nhiều yếu tố hợp lý, bởi vì cần khẳng định rằng, hoạt động của
VKSND ở nước ta, nếu với hai loại chức năng như hiện nay, chắc chắn là nằm

trong quỹ đạo của các hoạt động tư pháp. Việc đặt VKSND trong phạm vi các hoạt
động tư pháp theo tinh thần các văn kiện của Đảng ta là hoàn toàn có cơ sở khoa
học mà mục đích chủ đạo của cách lựa chọn này phải là bảo đảm yêu cầu về tính
độc lập của các hoạt động tư pháp, trong đó có hoạt động của VKSND.

15


- Giáo trình “Kỹ năng THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố
tụng hình sự” do PGS.TS. Nguyễn Văn Huyên, chủ biên (năm 2006, sửa đổi, bổ
sung năm 2012), Hà Nội [40]. Giáo trình này lần đầu ra mắt bạn đọc năm 2006, từ
đó đến nay đã có nhiều văn bản pháp luật được sửa đổi, bổ sung hoặc được ban
hành mới, theo đó nhiều quy chế về nghiệp vụ, về cơ cấu tổ chức, bộ máy, chức
năng nhiệm vụ và quyền hạn của các đơn vị nghiệp vụ VKSND tối cao được ban
hành chính thức và sau 6 năm từ khi xuất bản Học viện Tư pháp cũng nhận được
nhiều ý kiến đóng góp của các nhà khoa học, của các thầy cô giáo và bạn đọc. Cuốn
giáo trình chỉnh sửa, bổ sung năm 2012 đã nhật kịp thời, đầy đủ những quy định
mới của pháp luật trong THQCT và kiểm sát tuân theo pháp luật trong tố tụng hình
sự. Cuốn giáo trình là tài liệu giảng dạy, học tập quan trọng, cần thiết cho nghiên
cứu, tham khảo có giá trị với cán bộ, KSV trong việc thực hiện chức năng, nhiệm
vụ của ngành kiểm sát và những người muốn quan tâm đến lĩnh vực hoạt động
nghiệp vụ THQCT nói chung và THQCT trong điều tra các tội giết người nói riêng.
- Sách chuyên khảo của GS.TS. Nguyễn Xuân Yêm (xuất bản năm 2001), Nhà
xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội. “Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội
phạm”, đã làm rõ đặc điểm của tội phạm giết người, đi sâu phân tích một số động
cơ phổ biến của tội phạm giết người ở Việt Nam; một số phương thức, thủ đoạn gây
án của tội phạm giết người; đặc điểm nhân thân của thủ phạm giết người, người bị
hại và mốiquan hệ giữa thủ phạm và người bị hại. Đồng thời, tác giả cũng đã làm
sáng tỏ nguyên nhân, điều kiện của tội phạm giết người và đưa ra một số giải pháp
có tính thực tiễn trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm giết người cho xã

hội, các cơ quan bảo vệ pháp luật và Cơ quan Công an [111, tr.408-521].
- Sách chuyên khảo do TS. Lê Hữu Thể làm chủ biên (năm 2013), “Thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra”, Nhà xuất
bản Tư pháp, Hà Nội, đã đề cập các quan điểm và lý luận chung về chức năng,
nhiệm vụ của VKS trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, đối tượng, phạm vi quyền
công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự trong giai đoạn điều tra. Trong đó,
mối quan hệ giữa QCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra
các vụ án hình sự là hai chức năng độc lập nhau, nhưng có quan hệ mật thiết với
nhau [72, tr. 93, 940].
- Sách chuyên khảo trong khuôn khổ hoạt động Dự án “Hợp tác kỹ thuật trong
lĩnh vực pháp luật” giữa Cộng hòa XHCN Việt Nam và Nhật Bản (xuất bản năm
2006 “Sổ tay Kiểm sát viên tập 1”, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội [89]. Nội dung
16


của cuốn sổ tay được xây dựng trên cơ sở của 40 công trình nghiên cứu khoa học
của tập thể tác giả các chuyên gia nghiên cứu lý luận và các Kiểm sát viên hoạt
động thực tiễn trong ngành Kiểm sát đã đề cập những vấn đề lý luận chung, quan
trọng, có ý nghĩa quyết định tới chất lượng và hiệu quả hoạt động THQCT, kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự. Sổ tay Kiểm sát
viên cũng trình bày một số kinh nghiệm thực tiễn thực hành quyền công tố, trong đó
có tội phạm giết người.
- Phạm Hồng Quân, bài viết “Về chức năng nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân
dân trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự”, Tạp chí Khoa học Luật học, số 28
(2012), Hà Nội. [52, tr.186-198]. Tác giả đã làm sáng tỏ những chức năng nhiệm vụ
của VKSND trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự. Trên cơ sở này, tác giả bước
đầu đặt ra một số giải pháp đề cao chức năng và nhiệm vụ của VKSND trước yêu
cầu cải cách tư pháp.
1.2.4. Nhóm các công trình khoa học nghiên cứu về mối quan hệ giữa Viện
kiểm sát với cơ quan điều tra trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự

- Ban cán sự Đảng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Đề án 7 (năm 2011), Hà
Nội. “Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam”, là công trình nghiên cứu về các mô hình
tố tụng hình sự điển hình trên thế giới và của Việt Nam. Trong đó, từ việc phân tích
mô hình tố tụng hình sự một số nước, như: Cộng hòa Pháp, Cộng hòa Liên bang
Đức, Cộng hòa Italia, Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, Vương Quốc Anh, Cộng hòa
Australia, Nhật Bản, Liên bang Nga, Trung Quốc, các tác giả đã làm rõ những đặc
điểm của ba mô hình tố tụng điển hình trên thế giới hiện nay. Đề án cũng đã nghiên
cứu mô hình tố tụng hình sự Việt Nam qua các thời kỳ: Phong kiến, Pháp thuộc và
các giai đoạn 1945 - 1988; 1988 – 2003; 2003 - 2015. Từ các nghiên cứu, có thể
thấy quá trình hình thành và hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự nước ta vừa mang
tính tiếp thu, chọn lọc của nước ngoài theo xu hướng văn minh, hiện đại vừa mang
đậm nét văn hóa, lịch sử kế thừa và phát triển pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ;
đồng thời, chỉ ra nhu cầu tất yếu, khách quan để tiếp tục hoàn thiện mô hình tố tụng
hình sự Việt Nam, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và yêu cầu đấu tranh phòng
chống tội phạm ở nước ta trong thời kỳ hội nhập và phát triển [4].
- GS.TS. Võ Khánh Vinh (2012), “Bình luận khoa học Bộ tố tụng hình sự”,
Hà Nội. [109] đã trình bày về quan hệ giữa CQĐT, VKSND, Tòa án, người bào
chữa trong tố tụng hình sự. Theo đó, tác giả đã đi sâu phân tích quan hệ phối hợp,
chế ước giữa VKSND với CQĐT trong tố tụng hình sự qua từng hoạt động điều tra.
17


- TS. Lê Hữu Thể, Chủ nhiệm đề tài (nghiệm thu năm 2004), Hà Nội. Đề tài
khoa học cấp bộ “Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong việc Thực hành quyền
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự
theo tinh thần Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị”. Các tác giả đã phân tích cụ
thể những nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong giai đoạn điều tra các vụ án hình
sự. Đồng thời, khảo sát thực trạng thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND
trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự trên phạm vi toàn quốc từ năm 2002 đến
năm 2003; nêu kết quả đạt nổi bật từ việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ đã góp

phần cùng CQĐT trong hoạt động điều tra làm rõ rất nhiều vụ án hình sự, khắc
phục tình trạng làm oan người vô tội và bỏ lọt tội phạm trong những năm trước [71,
tr. 231, 232, 235].
- TS. Nguyễn Tiến Sơn, Luận án tiến sĩ (năm 2012), Hà Nội. Với đề tài “Mối
quan hệ giữa CQĐT với Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự Việt Nam”[68], tác giả
đã nghiên cứu dưới góc độ lý luận một cách toàn diện và chuyên sâu về mối quan
hệ giữa CQĐT và VKS trong tố tụng hình sự Việt Nam. Trong đó, đã nghiên cứu vị
trí, chức năng, nhiệm vụ của CQĐT và VKS trong bộ máy Nhà nước ta, phân định
chức năng, nhiệm vụ THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tố tụng hình
sự. Luận án đã tiến hành nghiên cứu, xây dựng các khái niệm, đặc điểm, vai trò,
nguyên tắc, nội dung, hình thức của mối quan hệ giữa CQĐT và VKS trong tố tụng
hình sự. Trong đó đã xây dựng được khái niệm phối hợp, chế ước giữa CQĐT và
VKS và làm sáng tỏ cơ sở lý luận về mối quan hệ giữa CQĐT và VKS trong từng
chế định tố tụng hình sự. Luận án đã khái quát sự hình thành hoạt động giám sát ở
nước ta qua các thời kỳ phong kiến, thuộc địa Pháp và quá trình hoàn thiện mối
quan hệ giữa CQĐT và VKS trong tố tụng hình sự trước khi có BLTTHS đầu tiên ở
nước ta đến nay. Tác giả xác định mối quan hệ giữa CQĐT và VKS trong hoạt động
điều tra là mối quan hệ phối hợp và chế ước từ khi phát hiện tội phạm đến khi kết
thúc điều tra vụ án hình sự. Đồng thời, từ những luận cứ lý luận và thực tiễn thu
được trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm nâng
cao hiệu quả mối quan hệ giữa CQĐT và VKS trong tố tụng hình sự Việt Nam.
- PGS.TS. Phạm Hồng Cử, chủ nhiệm đề tài khoa học cấp bộ (năm 2004), Hà
Nội. Với đề tài “Tội phạm giết người và công tác phòng ngừa, đấu tranh tại các
tỉnh, thành phố phía Nam - Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp” [9], đã phản ánh
rõ thực trạng, phân tích đánh giá các nguyên nhân điều kiện của tội phạm giết người
tại các tỉnh, thành phía Nam - khu vực có điều kiện địa lý, dân cư, tình hình chính
18


trị xã hội, phong tục tập quán có điểm khác biệt với địa bàn trong cả nước; phác họa

bức tranh toàn cảnh về công tác phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm giết người và
đề xuất các giải pháp có cơ sở khoa học, có tính khả thi nâng cao hiệu quả công tác
phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm giết người.
- Vũ Việt Hùng chủ nhiệm chuyên đề (năm 2010), Hà Nội. “Một số kinh
nghiệm trong công tác THQCT, kiểm sát điều tra các vụ án giết người” [38], đã
tổng kết những ưu điểm và hạn chế tồn tại thông qua công tác thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của ngành Kiểm sát đối hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các vụ án giết
người. Chuyên đề cũng đưa ra một số dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội phạm giết
người, phân biệt tội giết người với một số tội có dấu hiệu pháp lý như tội giết người
thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử có nhầm lẫn trong việc định tội danh. Thêm vào
đó, chuyên đề cũng tổng kết bài học kinh nghiệm để góp phần cho hoạt động điều
tra, truy tố, xét xử kịp thời, đúng pháp luật, tránh làm oan người vô tội và bỏ lọt tội
phạm, hạn chế thấp nhất tình trạng phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc điều tra
lại, góp phần nâng cao tác dụng giáo dục và phòng ngừa tội phạm.
- Vũ Việt Hùng, chủ nhiệm (2011), Hà Nội. Với đề tài: “Thực trạng và giải
pháp nâng cao chất lượng hoạt động kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám
nghiệm tử thi trong giải quyết các vụ việc xâm phạm trật tự xã hội” [39]. Chuyên đề
đã xác định vai trò nòng cốt của Cơ quan CSĐT, cùng với đó là vai trò vô cùng
quan trọng của VKSND trong việc kiểm tra và giám sát các hoạt động của CSĐT;
tổng kết các vụ án có vi phạm trong công tác khám nghiệm hiện trường, khám
nghiệm tử thi và phân tích những nguyên nhân, điều kiện của các vi phạm đó. Đồng
thời, chuyên đề cũng tổng hợp những vấn đề lí luận cơ bản cũng như trình tự và các
yêu cầu pháp luật đặt ra đối với công tác khám nghiệm hiện trường. Trên cơ sở đó
đề xuất một số giải pháp góp phần làm giảm thiểu những hạn chế và nâng cao hiệu
quả của công tác khám nghiệm hiện trường trong thời gian tới, đáp ứng yêu cầu
thực tiễn đang đặt ra. Mục đích cuối cùng là góp phần đưa những nhận thức về
khám nghiệm hiện trường cũng như kỹ thuật hình sự lên đúng vị trí của nó, phục vụ
đắc lực cho CQĐT có kết luận đúng người, đúng tội.

19



1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án và những vấn đề
luận án tiếp tục nghiên cứu và giải quyết
1.3.1. Những vấn đề liên quan đến luận án đã được giải quyết
1.3.1.1. Đánh giá tình hình nghiên cứu nước ngoài
Trong các công trình nghiên cứu ở nước ngoài đã tiếp cận đa chiều, phong phú
về vai trò của Cơ quan công tố trong hoạt động THQCT trong hoạt động điều tra.
Cho dù ở các nước thuộc truyền thống pháp luật theo hệ tố tụng nào thì cơ quan
THQCT cũng đều có chức năng quan trọng trong tố tụng hình sự là buộc tội người
phạm tội. Mức độ tác động của Cơ quan công tố ở công tác THQCT trong hoạt
động điều tra các vụ án hình sự ở mỗi quốc gia có sự khác nhau. Có nước Viện
công tố có vai trò quan trọng ngay từ khi khởi tố, điều tra, có nước vai trò của Viện
công tố chủ yếu ở giai đoạn xét xử; có nước như Cộng hòa Pháp, phạm vi THQCT
lại được mở rộng hơn, hoạt động điều tra các vụ án hình sự trực thuộc quản lý và
chỉ đạo trực tiếp của Cơ quan công tố; hoặc có các quốc gia, hoạt động điều tra
tương đối độc lập, có toàn quyền quyết định các hoạt động điều tra trong quá trình
điều tra và Cơ quan công tố sẽ quyết định kết quả điều tra sau khi kết thúc điều tra
chuyển hồ sơ sang VKS để truy tố hoặc miễn tố. Bên cạnh đó, có các quốc gia kết
hợp hai hoạt động điều tra và THQCT song song với nhau, phối hợp và chế ước lẫn
nhau. Tổng hợp việc nghiên cứu các công trình khoa học trên, có thể khẳng định
rằng các quốc gia trên thế giới đều xác định sự cần thiết phải có hoạt động THQCT
trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự. Đây có thể coi là mối quan hệ phối hợp
và chế ước giữa hai cơ quan, trong đó có mối quan hệ chế ước một chiều của Cơ
quan công tố. Tuy nhiên, các công trình trên chưa tập trung nghiên cứu chuyên sâu
vào việc THQCT trong điều tra các tội giết người, mà các công trình nghiên cứu chỉ
đi sâu vào phân tích tội phạm nói chung và tội danh giết người nói riêng ở một số
khía cạnh cụ thể dưới góc độ của luật hình sự, xã hội học, tội phạm học trên quan
điểm nhận định của các cá nhân hay mang tính đặc thù của mỗi vùng lãnh thổ, mỗi
quốc gia. Vì vậy, cách nhìn nhận cũng thiếu đi tính toàn diện. Mặt khác, có rất ít

nghiên cứu đi sâu vào đề tài THQCT trong điều tra các tội giết người. Điều này cho
thấy đây là một đề tài mới và việc tiến hành nghiên cứu một cách đầy đủ hơn, toàn
diện hơn về đề tài này có thể phục vụ cho công tác THQCT trong điều tra các tội
giết người trên cả nước có hiệu quả và kinh nghiệm cho Việt Nam, vì khi nghiên
cứu mô hình tố tụng của các nước có hệ thống pháp luật truyền thống khác nhau,
đối chiếu với quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, tác giả thấy rằng mô
20


×