Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Hoạt động điều tra khám nghiệm hiện trường trong luật tố tụng hình sự việt nam (trên cơ sở nghiên cứu số liệu thực tiễn tại địa bàn tỉnh phú thọ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 90 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

NGUYN TH YN

HOạT ĐộNG ĐIềU TRA KHáM NGHIệM HIệN TRƯờNG
TRONG LUậT Tố TụNG HìNH Sự VIệT NAM
(Trên cơ sở nghiên cứu số liệu thực tiễn tại địa bàn tỉnh Phú Thọ)

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2015


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

NGUYN TH YN

HOạT ĐộNG ĐIềU TRA KHáM NGHIệM HIệN TRƯờNG
TRONG LUậT Tố TụNG HìNH Sự VIệT NAM
(Trên cơ sở nghiên cứu số liệu thực tiễn tại địa bàn tỉnh Phú Thọ)

Chuyờn ngnh: Lut hỡnh s v T tng hỡnh s
Mó s: 60 38 01 04

LUN VN THC S LUT HC

Cỏn b hng dn khoa hc: TS. Lấ LAN CHI

H NI - 2015




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Yến


MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG ĐIỀU
TRA KHÁM NGHIỆM HIỆN TRƯỜNG ....................................... 7
1.1.


Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của hoạt động điều tra khám
nghiệm hiện trường ............................................................................ 7

1.1.1. Khái niệm hoạt động điều tra khám nghiệm hiện trường .................... 7
1.1.2. Đặc điểm của hoạt động điều tra khám nghiệm hiện trường ............. 14
1.1.3. Ý nghĩa của hoạt động điều tra khám nghiệm hiện trường ................ 19
1.2.

Quy định về hoạt động điều tra khám nghiệm hiện trường
trong lịch sử pháp luật Việt Nam ..................................................... 21

1.2.1. Quy định về hoạt động điều tra khám nghiệm hiện trường trong
lịch sử pháp luật Việt Nam trước khi có BLTTHS năm 1988 .............. 21
1.2.2. Quy định về hoạt động điều tra khám nghiệm hiện trường trong
lịch sử pháp luật Việt Nam từ năm 1988 đến trước khi có
BLTTHS năm 2003 ............................................................................ 24
1.3.

Hoạt động điều tra khám nghiệm hiện trường theo quy định
của pháp luật tố tụng hình sự một số quốc gia trên thế giới ........ 29

1.3.1. Hoạt động điều tra khám nghiệm hiện trường theo quy định của
pháp luật tố tụng hình sự Nhật Bản .................................................... 29


1.3.2. Hoạt động điều tra khám nghiệm hiện trường theo quy định của
pháp luật tố tụng hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ................. 30
1.3.3. Hoạt động điều tra khám nghiệm hiện trường theo quy định của
pháp luật tố tụng hình sự Liên bang Nga ........................................... 32
1.3.4. Những vấn đề rút ra khi nghiên cứu các quy định về hoạt động

điều tra khám nghiệm hiện trường trong pháp luật tố tụng hình
sự của một số nước trên thế giới ........................................................ 35
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT
NAM NĂM 2003 VỀ HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA KHÁM
NGHIỆM HIỆN TRƯỜNG VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ THỌ ................................................ 37
2.1.

Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003 về
hoạt động điều tra khám nghiệm hiện trường .............................. 37

2.1.1. Chủ thể tham gia khám nghiệm hiện trường ...................................... 37
2.1.2. Nội dung khám nghiệm hiện trường .................................................. 43
2.2.

Thực tiễn áp dụng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003 về hoạt động điều tra khám nghiệm hiện trường trên
địa bàn tỉnh Phú Thọ. ...................................................................... 49

2.2.1.

Kết quả đạt được ................................................................................. 49

2.2.2. Các tồn tại hạn chế và nguyên nhân ................................................... 57
Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ CÁC GIẢI PHÁP
KHÁC NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA
KHÁM NGHIỆM HIỆN TRƯỜNG............................................... 63
3.1.

Hoàn thiện hệ thống pháp luật........................................................ 63


3.2.

Giải pháp về kiện toàn tổ chức, đào tạo bồi dưỡng nâng cao nhận
thức của các lực lượng tiến hành khám nghiệm hiện trường ............ 65

3.3.

Giải pháp về bổ sung phương tiện kỹ thuật hình sự hiện đại
cho công tác khám nghiệm hiện trường ......................................... 68


3.4.

Giải pháp về công tác bảo vệ hiện trường ..................................... 72

3.5.

Giải pháp tăng cường sự phối hợp giữa các lực lượng tham gia
khám nghiệm hiện trường và với các lực lượng nghiệp vụ khác...... 74

KẾT LUẬN .................................................................................................... 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 79


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLTTHS:

Bộ luật Tố tụng hình sự


CQĐT:

Cơ quan điều tra

ĐTV:

Điều tra viên

KSV:

Kiểm sát viên


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu bảng

Tên bảng

Bảng 2.1: Thống kê vụ, việc khám nghiệm hiện trường (giai
đoạn từ năm 2010 đến năm 2014)
Bảng 2.2: Thống kê các vụ khám nghiệm hiện trường có người chết
(giai đoạn từ 2010 - 2014 trên địa bàn tỉnh Phú Thọ)

Trang


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài


Khám nghiệm hiện trường là một hoạt động tố tụng hình sự nhằm phát
hiện, xem xét, ghi nhận dấu vết của tội phạm, vật chứng để lại hiện trường.
Khám nghiệm hiện trường có ý nghĩa quan trọng trong việc làm sáng tỏ bản
chất của vụ án. Kết quả khám nghiệm hiện trường góp phần làm căn cứ để
khởi tố vụ án hình sự; làm cơ sở để nhận định tính chất, diễn biến vụ việc,
giúp các cơ quan có thẩm quyền nhận định phương thức, thủ đoạn gây án của
người phạm tội và xây dựng nhiều giả thuyết hình sự khác.
Khám nghiệm hiện trường thường được coi là hoạt động mở đầu và có
vai trò rất quan trọng, trong nhiều trường hợp là một trong những nhân tố
quyết định kết quả điều tra, khám phá tội phạm. Nếu không khám nghiệm
hoặc khám nghiệm không đúng yêu cầu sẽ có thể để lọt tội phạm hoặc dẫn
đến những nhận định sai lầm, làm oan người vô tội. Khám nghiệm hiện
trường tốt, giúp cho việc xác định phương hướng điều tra chính xác, khám
nghiệm hiện trường yếu hoặc sai sót thì làm cho quá trình điều tra vụ án khó
khăn, thậm chí bế tắc.
Trong khi đó, từ phương diện luật thực định, Bộ luật tố tụng hình sự
(BLTTHS) năm 2003 đã quy định về biện pháp điều tra khám nghiệm hiện
trường, tuy nhiên quy định này còn chưa đầy đủ, chủ thể tiến hành khám
nghiệm hiện trường theo quy định của BLTTHS còn có sự mâu thuẫn với các
văn bản pháp lý khác, gây ra những khó khăn nhất định cho thực tiễn khám
nghiệm hiện trường.
Trên thực tiễn, việc áp dụng biện pháp khám nghiệm hiện trường vẫn
còn tồn tại không ít những hạn chế, thiếu sót như: việc khám nghiệm không

1


theo đúng thủ tục, trình tự luật định, biên bản khám nghiệm ghi không đầy đủ,
bỏ sót các dấu vết quan trọng, tang vật chứng không bảo quản chặt chẽ... dẫn

đến xác định phương hướng điều tra và đường lối giải quyết vụ án không
đúng. Bên cạnh đó, sự phối hợp giữa các lực lượng tham gia khám nghiệm
hiện trường còn chưa chặt chẽ dẫn đến hiệu quả hoạt động khám nghiệm hiện
trường còn chưa cao.
Như vậy, có thể thấy còn rất nhiều bất cập trên cả hai phương diện lý
luận và thực tiễn hoạt động khám nghiệm hiện trường cần phải nghiên cứu.
Việc tiếp tục nghiên cứu quy định của pháp luật hình sự và thực tiễn áp dụng
trên địa bàn tỉnh Phú Thọ thấy được những thành tựu cũng như tồn tại thiếu
sót, trên cơ sở đó đưa ra những đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng
cao hiệu quả công tác khám nghiệm hiện trường trên thực tế. Chính vì vậy,
học viên lựa chọn vấn đề “Hoạt động điều tra khám nghiệm hiện trường
trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam (Trên cơ sở nghiên cứu số liệu thực
tiễn tại địa bàn tỉnh Phú Thọ” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong thời gian qua, ở một mức độ khác nhau đã có một số luận án tiến
sỹ, khóa luận tốt nghiệp đại học và một số bài viết trên tạp chí đã nghiên cứu
về khám nghiệm hiện trường, như:
Luận án tiến sỹ:
+ Hoạt động khám nghiệm hiện trường của lực lượng cảnh sát nhân
dân, Luận án tiến sỹ luật học, Hà Lương Tín, 2013. Luận án đi sâu nghiên cứu
những vấn đề lý luận, khảo sát thực trạng khám nghiệm hiện trường của lực
lượng cảnh sát nhân dân để thấy được những sai sót trong quá trình khám
nghiệm. Từ đó, đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả khám nghiệm hiện
trường. Luận án này tiếp cận hoạt động khám nghiệm hiện trường chủ yếu từ

2


phương diện hoạt động nghiệp vụ của Cảnh sát nhân dân, nghiên cứu hoạt
động khám nghiệm hiện trường theo chức năng của lực lượng Kỹ thuật hình

sự trên phạm vi toàn quốc.
Luận văn tốt nghiệp:
+ Khám nghiệm hiện trường, Khóa luận tốt nghiệp, Nông Văn Thượng,
2012. Luận văn nghiên cứu các vấn đề lý luận về khám nghiệm hiện trường
và thực tiễn công tác khám nghiệm hiện trường tại Việt Nam. Khẳng định tầm
quan trọng của khám nghiệm hiện trường trong điều tra hình sự. Bên cạnh đó,
đề cập tới những hạn chế, từ đó đưa ra những giải pháp nhằm phát huy hơn
nữa vai trò của khám nghiệm hiện trường.
+ Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động khám nghiệm hiện trường
các vụ tai nạn giao thông trên địa bàn quận Cầu Giấy - thành phố Hà Nội,
Khóa luận tốt nghiệp, Nông Thị Anh Thơ, 2012. Luận văn nghiên cứu các vấn
đề lý luận và thực tiễn hoạt động khám nghiệm hiện trường các vụ tai nạn
giao thông trên địa bàn quận Cầu Giấy để thấy những tồn tại, hạn chế. Từ đó,
đưa ra những giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động khám nghiệm hiện
trường các vụ tai nạn giao thông.
Một số bài viết trên các tạp chí chuyên ngành của các tác giả:
+ Nguyễn Thị Thu Hằng, “Kiến nghị sửa đổi, bổ sung Điều 150 về
khám nghiệm hiện trường”, Tạp chí kiểm sát, (số 9/2010, tr. 37-38, 48).
+ Ngô Sỹ Hiền, “Cần nhận thức đúng đắn quy định của Bộ luật tố tụng
hình sự về khám nghiệm hiện trường”, Tạp chí kiểm sát, (tháng 10/2007, tr. 3-5).
+ Nguyễn Thanh Mai, “Hoàn thiện các quy định của pháp luật về khám
nghiệm hiện trường”, Tạp chí nhà nước và pháp luật, (số 4/2007, tr. 71-73, 77).
+ Nguyễn Văn Nhật, “Khám nghiệm hiện trường trong hoạt động điều
tra hình sự”, Tạp chí kiểm sát, (số 7/2005, tr.31-32).

3


Ngoài ra, còn một số bài viết khác của các học giả có đề cập đến vấn đề
này. Các công trình nghiên cứu trên cho thấy, việc nghiên cứu về khám

nghiệm hiện trường ở Việt Nam trong thời gian qua đã được quan tâm và đạt
được những thành tựu nhất định. Tuy nhiên, chưa có công trình nào đi sâu
nghiên cứu hoạt động khám nghiệm hiện trường là một biện pháp điều tra
theo tố tụng hình sự Việt Nam ở cấp độ một luận văn thạc sỹ luật học.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu: nghiên cứu luận văn nhằm làm sáng tỏ các vấn
đề lý luận về hoạt động điều tra khám nghiệm hiện trường với tư cách một
biện pháp điều tra theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và
thực tiễn thực hiện hoạt động này tại tỉnh Phú Thọ, từ đó đưa ra những giải
pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao chất lượng hoạt động điều tra
khám nghiệm hiện trường.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Luận văn xây dựng khái niệm hoạt động điều tra khám nghiệm hiện
trường, đưa ra đặc điểm, ý nghĩa của hoạt động này.
+ Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật tố tụng hình sự của
một số quốc gia trên thế giới về hoạt động khám nghiệm hiện trường.
+ Luận văn nghiên cứu các quy định về khám nghiệm hiện trường trong
lịch sử pháp luật tố tụng hình sự ở nước ta.
+ Luận văn nghiên cứu các quy định của luật thực định về hoạt động
điều tra khám nghiệm hiện trường
+ Luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng luật tố tụng hình sự Việt Nam
trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
+ Nghiên cứu, đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao
chất lượng hoạt động điều tra khám nghiệm hiện trường.

4


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: đề tài nghiên cứu hoạt động khám nghiệm

hiện trường với tư cách là một biện pháp điều tra theo quy định của pháp luật
tố tụng hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
* Phạm vi nghiên cứu: đề tài chỉ tập trung vào những vấn đề liên
quan đến hoạt động điều tra khám nghiệm hiện trường trong pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam, có sự tìm hiểu, so sánh với pháp luật tố tụng hình
sự của một số nước trên thế giới. Đề tài khảo sát, nghiên cứu thực trạng
công tác khám nghiệm hiện trường trên địa bàn tỉnh Phú Thọ trong thời
gian từ 2009 đến 2014.
5. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật lịch
sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước
và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về chính sách TTHS.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các
phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật tố tụng hình sự như:
phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương
pháp diễn dịch; phương pháp quy nạp; phương pháp thống kê, điều tra xã hội
học để tổng hợp các tri thức khoa học về luật TTHS và luận chứng các vấn đề
tương ứng được nghiên cứu trong luận văn.
6. Ý nghĩa của luận văn
- Xây dựng, bổ sung nhằm hoàn thiện những nghiên cứu lý luận về hoạt
động điều tra khám nghiệm hiện trường.
- Đánh giá thực tiễn các quy định về khám nghiệm hiện trường từ số liệu
trên địa bàn tỉnh Phú Thọ, chỉ ra nguyên nhân của các thành công, hạn chế.

5


- Đưa ra giải pháp về hoàn thiện pháp luật và các giải pháp về tổ chức
thực hiện để góp phần nâng cao chất lượng hoạt động điều tra khám nghiệm
hiện trường.

7. Cấu trúc của luận văn
Cấu trúc luận văn gồm ba phần: phần mở đầu, phần nội dung và phần
kết luận.
Phần nội dung, gồm ba chương:
- Chương 1: Một số vấn đề lý luận về hoạt động điều tra khám nghiệm
hiện trường.
- Chương 2: Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm
2003 về hoạt động điều tra khám nghiệm hiện trường và thực tiễn áp dụng
trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và các giải pháp khác nâng cao hiệu
quả hoạt động điều tra khám nghiệm hiện trường.

6


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG
ĐIỀU TRA KHÁM NGHIỆM HIỆN TRƯỜNG

1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của hoạt động điều tra khám
nghiệm hiện trường
1.1.1. Khái niệm hoạt động điều tra khám nghiệm hiện trường
Hiện trường là một thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh
vực khác nhau của đời sống xã hội. Theo Từ điển Tiếng Việt, hiện trường “là
nơi diễn ra sự việc hay hoạt động thực tế” [19, tr. 207]. Đây là khái niệm có
tính khái quát chung nhất cho các loại hiện trường. Nội hàm của quan niệm
này đã chỉ rõ thuộc tính cơ bản của hiện trường. Đó là:
- Thứ nhất, hiện trường là “nơi”, đó là sự tồn tại của một địa điểm trong
không gian xác định, ở đó xảy ra một sự việc, hiện tượng và sự việc hiện
tượng đó được kéo dài trong một khoảng thời gian nhất định.

- Thứ hai, hiện trường có sự việc xảy ra, những sự việc này mang tính
chất bất kỳ, ngẫu nhiên. Điều này có nghĩa là mỗi sự việc, hiện tượng, quá trình
nào đó xảy ra trong hiện thực khách quan thì đều phải có hiện trường, thể hiện
rõ quy luật mỗi sự việc, hiện tượng hay quá trình nào đó xảy ra trong hiện thực
khách quan đều để lại hiện trường. Vì vậy, trong đời sống xã hội, thuật ngữ
“hiện trường” được sử dụng khá phổ biến trong nhiều lĩnh vực khác nhau.
Trong điều tra hình sự nói riêng cũng như trong tố tụng hình sự nói chung,
nhận thức một cách đúng đắn và đầy đủ khái niệm “hiện trường” có ý nghĩa
quan trọng trong công tác giải quyết vụ án hình sự và phòng ngừa tội phạm.
Thuật ngữ “Hiện trường” đã được sử dụng trong một số tài liệu, công

7


trình khoa học như các giáo trình, luận án, luận văn... gắn với hoạt động điều
tra khám nghiệm hiện trường. Tuy nhiên, xung quanh khái niệm này còn
tương đối nhiều ý kiến khác nhau.
Theo Từ điển Bách khoa Công an nhân dân Việt Nam: “Hiện trường,
nơi diễn ra sự việc hay hay hoạt động thực tế” [4]. Nội dung của khái niệm
này chưa chỉ ra được sự việc cụ thể, do đó không xác định được đâu là hiện
trường chủ đạo, đâu là hiện trường chính để tiến hành khám nghiệm thu thập
dấu vết vật chứng, sự việc khi "diễn ra" là một chuỗi các hành vi khác nhau,
kéo dài trong những khoảng thời gian khác nhau và tồn tại trong những không
gian cũng khác nhau và khái niệm này cũng rơi vào trạng thái: những sự việc
mang tính bất kỳ và những hoạt động thực tế mang tính bất kỳ.
Giáo trình Bảo vệ và khám nghiệm hiện trường, năm 2004 của Học
viện Cảnh sát nhân dân nêu quan điểm: “Hiện trường là nơi xảy ra vụ việc
mang tính hình sự” [12, tr.15]. Khái niệm này được các tác giả phân tích,
kế thừa các khái niệm trước đó để đưa ra khái niệm tương đối hoàn chỉnh
về hiện trường.

Trong cuốn sách “Khoa học hình sự”, tập 3, năm 2012 của Học viện
Cảnh sát nhân dân, các tác giả cho rằng: “Hiện trường là nơi xảy ra, nơi phát
hiện sự việc mang tính hình sự” [20, tr.25]. Một số công trình, tài liệu khác
cũng ghi nhận cách định nghĩa tương tự về hiện trường. Tuy nhiên, định nghĩa
trên vẫn chưa thực sự hoàn chỉnh, chưa khái quát hết được bản chất của hiện
trường nên có thể dẫn đến những cách hiểu còn phiếm diện, thiếu chính xác.
Hiện trường theo quan điểm của Giáo trình khoa học điều tra hình sự
của Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2014 là: “nơi xảy ra, nơi phát hiện các
vụ phạm tội hoặc vụ việc mang tính hình sự” [31, tr.63]. Chúng tôi cũng đồng
thuận với quan điểm trên và cho rằng: “Hiện trường trong điều tra hình sự là

8


khái niệm chỉ địa điểm phát sinh, phát hiện các vụ phạm tội hoặc các vụ việc
mang tính hình sự”. Khái niệm này bao hàm các nội dung:
Thứ nhất, hình thức tồn tại của hiện trường với tư cách là một địa điểm
cụ thể có một khoảng không gian xác định. Hiện trường gồm hai loại địa điểm
đó là nơi xảy ra và nơi phát hiện ra vụ phạm tội hoặc vụ việc mang tính hình
sự, cụ thể:
- Nơi xảy ra vụ việc là nơi mà quá trình diễn biến của các vụ phạm tội
hay vụ việc mang tính hình sự đã để lại những dấu vết, vật chứng trên đó. Nơi
xảy ra vụ việc có thể là: nơi chuẩn bị, nơi tiến hành, nơi che giấu hành vi
phạm tội
- Nơi phát hiện vụ việc có thể chính là nơi xảy ra tội phạm hay các vụ
việc mang tính hình sự hoặc không là nơi xảy ra nhưng có thể là nơi tìm thấy
được các dấu vết, vật chứng có liên quan đến vụ việc đó. Trong trường hợp
nơi phát hiện vụ việc khác nơi xảy ra vụ việc, đó có thể là:
+ Nơi phát hiện ra dấu vết trong vụ phạm tội hoặc vụ việc mang tính
hình sự.

+ Nơi phát hiện ra công cụ, phương tiện phạm tội.
+ Nơi bắt giữ tội phạm đang trên đường vận chuyển: tức là hành vi
được quy định trong cấu thành tội phạm đã hoàn thành rồi nhưng trên đường
lưu thông vận chuyển thì bị phát hiện, bắt giữ.
Thứ hai, hiện tượng vật chất xảy ra trong không gian hiện trường là
các vụ phạm tội hoặc những vụ việc mang tính hình sự. “Vụ việc có tính
hình sự là những vụ việc xâm hại đến khách thể do luật hình sự bảo vệ
nhưng do chưa đủ thông tin nên chưa xác định được các yếu tố cấu thành
tội phạm” [31, tr. 63-64].

9


Trong thực tế, hiện trường rất đa dạng, hiện trường có nhiều loại khác
nhau, được phân loại theo các tiêu chí phổ biến sau:
- Căn cứ vào địa điểm xảy ra vụ việc, hiện trường được chia thành
các loại:
+ Hiện trường trong nhà. Đó là hiện trường được che chắn hay bao bọc
xung quanh bởi các loại vải, phông bạt, mái che, tường nhà... (có mái che
chắn bên trên hay được bao bọc xung quanh).
+ Hiện trường ngoài trời. Đó là hiện trường không được che chắn, bảo
vệ bởi bất cứ một loại mái che nào.
+ Hiện trường kết hợp giữa trong nhà và ngoài trời.
+ Hiện trường trên các phương tiện giao thông.
- Căn cứ vào nội dung và tính chất của vụ việc xảy ra. Các vụ phạm tội
hoặc vụ việc có tính hình sự xảy ra ở các hiện trường khác nhau có thể có nội
dung và tính chất khác nhau. Vì vậy, dựa vào căn cứ này để chia hiện trường
thành nhiều loại, phù hợp với nội dung và tính chất của vụ việc đã diễn ra và
để lại dấu vết ở đó như: hiện trường có người chết, hiện trường trộm, hiện
trường súng đạn, hiện trường cháy nổ - sự cố kỹ thuật, hiện trường tai nạn

giao thông.v.v...
- Căn cứ vào diễn biến của sự việc xảy ra: Một hiện trường có thể được
quy tụ lại ở một địa điểm, nhưng cũng có thể có nhiều địa điểm khác nhau, đó
chính là những bộ phận của hiện trường. Số lượng những bộ phận của hiện
trường nhiều hay ít phần lớn phụ thuộc vào diễn biến hành vi của kẻ phạm tội,
do đó được chia thành: nơi chuẩn bị thực hiện hành vi phạm tội, nơi thực hiện
hành vi phạm tội, nơi che giấu hành vi phạm tội.
- Căn cứ vào tình trạng của hiện trường mà chia hiện trường thành hai
loại: hiện trường còn nguyên vẹn và hiện trường đã bị xáo trộn.

10


+ Hiện trường còn nguyên vẹn là hiện trường từ khi phát hiện triển khai
công tác bảo vệ đến khi khám nghiệm các dấu vết vật chứng chưa bị thay đổi,
xáo trộn (hiểu theo nghĩa tương đối), do đó chưa ảnh hưởng tới dấu vết về độ
chính xác và đầy đủ.
+ Hiện trường bị xáo trộn là hiện trường từ khi phát hiện triển khai công
tác bảo vệ đến khi khám nghiệm, các dấu vết, vật chứng đã bị biến đổi, mất
mát. Nguyên nhân của sự xáo trộn là do sự tác động của tự nhiên, sinh vật, con
người... dẫn đến những thông tin thu thập được tại hiện trường bị sai lệch.
Khám nghiệm hiện trường là biện pháp điều tra có vai trò đặc biệt quan
trọng trong việc phát hiện, thu thập chứng cứ, tài liệu dấu vết, vật chứng tại
nơi xảy ra sự việc phạm tội hoặc nơi phát hiện tội phạm. Khám nghiệm hiện
trường đã được quy định trong pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới và là
đối tượng nghiên cứu trong khoa học điều tra hình sự cũng như khoa học luật
tố tụng hình sự. Cụ thể:
Khám nghiệm hiện trường được tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau và
có nhiều quan điểm khác nhau:
Từ điển Bách khoa Công an nhân dân Việt Nam xác định khám nghiệm

hiện trường là:
Hoạt động thu thập thông tin liên quan đến vụ, việc đó xảy ra
hoặc nơi phát hiện tội phạm. Đó là quá trình sử dụng các kiến thức
khoa học - kỹ thuật, có sự hỗ trợ của các phương tiện nghiệp vụ, nhằm
phát hiện, thu thập thông tin, dấu vết, vật chứng của tội phạm hoặc
nghi có liên quan đến tội phạm để xác định có hay không có tội phạm
xảy ra và làm sáng tỏ các tình tiết có ý nghĩa đối với vụ án [4].
Theo cách lý giải trên, khám nghiệm hiện trường chỉ là hoạt động thu
thập thông tin để làm rõ sự việc xảy ra.

11


Giáo trình “Bảo vệ và khám nghiệm hiện trường”, Học viện Cảnh sát
nhân dân, năm 2004 xác định: “Khám nghiệm hiện trường là một hoạt động điều
tra tố tụng hình sự nhằm nghiên cứu, đánh giá dấu vết, vật chứng và những tin
tức, tài liệu tại hiện trường phục vụ điều tra và xử lý tội phạm” [12, tr.40]. Khái
niệm về khám nghiệm hiện trường trong giáo đề cập đến tính căn cứ pháp lý
của hoạt động này (được quy định trong BLTTHS). Tuy nhiên quá trình khám
nghiệm hiện trường không chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu, đánh giá dấu vết
vật chứng cũng như các tin tức tài liệu khác tại hiện trường, bởi lẽ có những
dấu vết vật chứng không thể tiến hành nghiên cứu, xem xét, đánh giá ngay tại
hiện trường được, mà phải nghiên cứu, đánh giá sau đó. Vì vậy, công tác thu
lượm dấu vết vật chứng, bảo quản dấu vết vật chứng là một trong những công
tác quan trọng của hoạt động điều tra tại hiện trường.
Cuốn “Khoa học hình sự”, tập 3 của Nhà xuất bản Công an nhân dân,
năm 2012 cho rằng:
Khám nghiệm hiện trường là hoạt động điều tra Tố tụng hình
sự tiến hành tại nơi xảy ra, nơi phát hiện sự việc mang tính hình sự
nhằm phát hiện, ghi nhận, thu lượm, bảo quản, đánh giá dấu vết vật

chứng và làm sáng tỏ các tình tiết có ý nghĩa, phục vụ quá trình
điều tra, xử lý vụ việc mang tính hình sự [20, tr.55].
Như vậy, theo cách hiểu trong trong cuốn giáo trình của Học viện Cảnh
sát nhân dân và Sách “Khoa học hình sự”, tập 3, Nhà xuất bản Công an nhân
dân thì khám nghiệm hiện trường là một hoạt động điều tra tố tụng hình sự, đã
nhấn mạnh đến tính pháp lý của hoạt động khám nghiệm hiện trường cũng
như mục đích của khám nghiệm hiện trường theo hai cách hiểu trên là phục
vụ quá trình điều tra, xử lý tội phạm.
Giáo trình Khoa học điều tra hình sự của trường Đại học Luật Hà
Nội và Giáo trình Tố tụng hình sự của Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội

12


đã đưa ra những cách hiểu khá đầy đủ và chính xác về biện pháp khám
nghiệm hiện trường.
Giáo trình Khoa học điều tra hình sự, năm 2014 của trường Đại học Luật
Hà Nội đưa ra khái niệm khám nghiệm hiện trường như sau: “Khám nghiệm
hiện trường là biện pháp điều tra được tiến hành tại hiện trường nhằm phát
hiện, ghi nhận, thu lượm, bảo quản, nghiên cứu, đánh giá dấu vết, vật chứng
của các vụ phạm tội hoặc các vụ việc có tính hình sự xảy ra” [31, tr.71].
Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam của Khoa luật Đại học quốc
gia Hà Nội, Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2013 có viết về
khám nghiệm hiện trường như sau: "Khám nghiệm hiện trường là biện pháp
điều tra thu thập chứng cứ thông qua việc xem xét, phát hiện, thu thập những
chứng cứ, tài liệu dấu vết phạm tội tại nơi xảy ra sự việc phạm tội hoặc nơi
phát hiện tội phạm" [16, tr.345].
Hai khái niệm trên đã khẳng định được khám nghiệm hiện trường là
một biện pháp điều tra, đồng thời nhấn mạnh bản chất của khám nghiệm hiện
trường là phát hiện, ghi nhận, thu lượm, bảo quản và đánh giá dấu vết, vật

chứng, đồ vật, tài liệu tại hiện trường cũng như chỉ ra được mục đích của
khám nghiệm hiện trường. Tuy nhiên, hai khái niệm này vẫn chưa thể hiện
một cách rõ nét về căn cứ, trình tự, thủ tục tiến hành hoạt động khám nghiệm
hiện trường của các cơ quan có thẩm quyền.
Trên thực tế, hoạt động điều tra khám nghiệm hiện trường là một hoạt
động có tính đặc thù. Đây là một trong những hoạt động điều tra ban đầu của
Cơ quan điều tra (CQĐT) và là một hoạt động điều tra tố tụng theo quy định
của BLTTHS. Hơn nữa, hoạt động khám nghiệm hiện trường chỉ là một trong
những hoạt động của CQĐT tiến hành sử dụng phương tiện kỹ thuật, các
phương pháp khoa học, các chiến thuật khám nghiệm một cách phù hợp với

13


điều kiện của hiện trường để tìm, thu dấu vết, vật chứng và những tin tức, tài
liệu có liên quan đến sự việc xảy ra một cách có hiệu quả nhất. Vì vậy, khám
nghiệm hiện trường là một biện pháp của điều tra hình sự đồng thời là hoạt
động điều tra của tố tụng hình sự. Việc tiếp cận khám nghiệm hiện trường ở
hai giác độ khác nhau này thì sẽ dẫn đến có những cách hiểu khác nhau. Có
những người chỉ tiếp cận thuần túy ở giác độ điều tra hình sự.
Ở giác độ luật tố tụng hình sự, theo tác giả, khám nghiệm hiện trường
cần được hiểu đầy đủ là: “một hoạt động điều tra trong tố tụng hình sự do các
cơ quan có thẩm quyền tiến hành tại hiện trường, nhằm phát hiện, ghi nhận,
thu lượm, bảo quản và đánh giá dấu vết, vật chứng của các vụ phạm tội hoặc
vụ việc có tính chất hình sự đã xảy ra”.
1.1.2. Đặc điểm của hoạt động điều tra khám nghiệm hiện trường
- Ho¹t ®éng ®iÒu tra khám nghiệm hiện trường là mét hoạt động điều
tra theo quy định của luật tố tụng hình sự nên phải tuân thủ các yêu cầu về
thẩm quyền, căn cứ, trình tự, thủ tục theo quy định của luật tố tụng hình sự.
Ho¹t ®éng ®iÒu tra khám nghiệm hiện trường là một hoạt động tố tụng

hình sự nhằm phát hiện, xem xét, ghi nhận dấu vết của tội phạm, vật chứng để
lại hiện trường. Ho¹t ®éng nµy có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc làm
sáng tỏ bản chất của vụ án, lµm tèt sẽ giúp công tác điều tra có định hướng
đúng đắn trong quá trình giải quyết vụ án, giúp các cơ quan tiến hành tố tụng
đánh giá chứng cứ một cách khách quan.
Ho¹t ®éng ®iÒu tra khám nghiệm hiện trường có ý nghĩa rất quan trọng
trong việc phát hiện tội phạm, không khám nghiệm hoặc khám nghiệm không
đúng thủ tục sẽ để lọt tội phạm hoặc dẫn đến những nhận định sai lầm, làm
oan người vô tội, không đảm bảo tính hợp pháp cho các nguồn chứng cứ thu
thập tại hiện trường. Bởi vậy, hoạt động điều tra khám nghiệm hiện trường

14


cần phải tiến hành theo quy định của luật tố tụng hình sự để thu thập tài liệu,
chứng cứ chứng minh, làm rõ hành vi phạm tội và người thực hiện hành vi
phạm tội ngay tại hiện trường, thực hiện nguyên tắc pháp chế xã hội chủ
nghĩa trong tố tụng hình sự.
- Ho¹t ®éng ®iÒu tra kh¸m nghiệm hiện trường là biện pháp điều tra tích
hợp các lực lượng, các phương pháp, phương tiện kỹ thuật để phát hiện, ghi
nhận, bảo quản và đánh giá các dấu vết, tài liệu, vật chứng tại hiện trường.
Mục đích của hoạt động điều tra khám nghiệm hiện trường là nhằm
phát hiện, ghi nhận, thu lượm, bảo quản và đánh giá dấu vết, vật chứng tại
hiện trường. Quá trình này đòi hỏi việc tiến hành khám nghiệm có sự tham
gia của nhiều lực lượng như: lực lượng kỹ thuật hình sự; lực lượng phòng
cháy và chữa cháy; lực lượng pháp y; các nhà chuyên môn được trưng tập,
người chứng kiến, Kiểm sát viên (KSV), Điều tra viên (ĐTV), cán bộ bảo
vệ hiện trường... bị can, người bị hại, người làm chứng có thể tham dự việc
khám nghiệm.
Khi tiến hành khám nghiệm hiện trường, các chủ thể tiến hành khám

nghiệm sử dụng các phương tiện kỹ thuật vào quá trình phát hiện, ghi nhận,
thu thập, bảo quản và đánh giá các dấu vết, vật chứng, tài liệu tại hiện trường.
Trong đó, chủ yếu là quá trình sử dụng các chiến thuật, phương pháp, phương
tiện kỹ thuật vào quá trình phát hiện, ghi nhận, thu lượm, bảo quản và đánh
giá dấu vết, vật chứng, tài liệu tại hiện trường. Vì vậy, với tính chất là một
biện pháp điều tra hình sự, khám nghiệm hiện trường đòi hỏi chủ thể tiến
hành khám nghiệm hiện trường phải có kiến thức vững vàng về pháp luật, có
kinh nghiệm, có am hiểu về nghiệp vụ điều tra, đặc biệt phải có nghiệp vụ
chuyên sâu về kỹ thuật hình sự.
Quá trình khám nghiệm hiện trường phải thật tỷ mỉ, thận trọng, thu

15


thập đầy đủ dấu vết có tại hiện trường, đặc biệt là hiện trường những vụ giết
người, các vụ tai nạn giao thông đường bộ, đường thủy, các vụ cháy nổ… Do
đó, khi tiến hành khám nghiệm hiện trường thì cần phải tiến hành theo một kế
hoạch đã được xây dựng khoa học, phù hợp đối với từng hiện trường cụ thể,
dưới sự chỉ đạo thống nhất của người chủ trì tiến hành khám nghiệm và có sự
phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng tiến hành khám nghiệm. Có như vậy,
mới đảm bảo cho quá trình khám nghiệm hiện trường đạt hiệu quả cao nhất,
có thể hạn chế được mức thấp nhất thiếu sót và sơ xuất trong quá trình khám
nghiệm hiện trường. Quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát (VKS) và CQĐT,
giữa KSV và ĐTV trong công tác khám nghiệm hiện trường là rất quan trọng.
Nếu phối hợp chặt chẽ, kịp thời trong việc thu thập dấu vết, chứng cứ sẽ phục
vụ tốt nhất cho việc chứng minh tội phạm.
Phương pháp khám nghiệm hiện trường là cách thức tiến hành hoạt
động phát hiện, thu lượm dấu vết, vật chứng để lại trên hiện trường của các vụ
án hình sự. Khi khám nghiệm hiện trường có thể sử dụng một số phương pháp
như: phương pháp khám nghiệm hiện trường theo khu vực (phương pháp chia

ô), phương pháp khám nghiệm hiện trường dựa vào phương thức gây án đã
được nhận định, phương pháp khám nghiệm theo hình xoáy ốc từ ngoài vào
trung tâm hoặc từ trung tâm ra ngoài, phương pháp khám nghiệm theo đường
song song, phương pháp khám nghiệm theo cách cuốn chiếu. Có thể sử dụng
riêng rẽ từng phương pháp khám nghiệm cụ thể, song cũng có thể sử dụng
nhiều phương pháp khám nghiệm cụ thể cho một hiện trường. Việc sử dụng
riêng rẽ hay tổng hợp các phương pháp khám nghiệm cụ thể là tùy thuộc vào
từng hiện trường cụ thể; phụ thuộc vào những dụng cụ, phương tiện và lực
lượng khám nghiệm cụ thể để quyết định cho phù hợp, đảm bảo sự tối ưu cho
công tác khám nghiệm.
Khi sử dụng các phương pháp, chiến thuật để tiến hành khám nghiệm

16


hiện trường thì cần phối hợp với các hoạt động điều tra tại hiện trường, sử
dụng cách thức, biện pháp điều tra khác nhau như: truy tìm dấu vết nóng, lấy
lời khai, sinh cung, quan sát, hỏi, đo đạc... Ví dụ: muốn thu thập dấu vết tội
phạm khi thực hiện hoạt động khám nghiệm hiện trường thì phải dùng những
thủ thuật, phương pháp nhận thức như quan sát, kết hợp với đo đạc, so sánh,
thí nghiệm để phát hiện và ghi nhận và thu giữ những thông tin phản ánh
trong các dấu hiệu vật lý của địa điểm, đồ vật và tài liệu.
Các dấu vết, tài liệu, vật chứng tại hiện trường tồn tại dưới nhiều dạng
khác nhau, bị tác động, chi phối bởi các quy luật của hóa học, vật lý...và
chúng luôn biến đổi theo thời gian. Vì vậy, đòi hỏi phải có sự hỗ trợ của các
phương tiện kỹ thuật chuyên dùng và phương pháp, chiến thuật phù hợp. Nếu
không có các phương tiện kỹ thuật chuyên dùng phù hợp thì sẽ có những dấu
vết, vật chứng, tài liệu không thể phát hiện, thu lượm, bảo quản, đánh giá
được. Các phương tiện kỹ thuật chuyên dùng trong hoạt động ®iÒu tra khám
nghiệm hiện trường như: va ly khám nghiệm, máy ảnh, bột hóa chất, các

nguồn sáng, các phương tiện để thu lượm, bảo quản dấu vết, vật chứng là
không thể thiếu.
- Ho¹t ®éng ®iÒu tra khám nghiệm hiện trường được xếp vào nhóm các
hoạt động điều tra ban đầu nên phải tiến hành kịp thời, khẩn trương, nhanh
chóng, kể cả khi chưa có quyết định khởi tố vụ án.
Những dấu vết, tài liệu, vật chứng hình thành và tồn tại ở hiện trường
rất phong phú, đa dạng và chúng rất dễ bị biến đổi theo thời gian. Các dấu vết,
tài liệu, vật chứng này do chịu sự chi phối của nhiều yếu tố nên dễ dàng bị
biến đổi và mất đi. Những dấu vết, vật chứng này có vai trò rất quan trọng.
Những dấu vết hình sự phản ánh những thông tin có giá trị nhất định, giúp
cho việc xác định mối quan hệ của nó với những hoạt động cụ thể trong quá

17


×