Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

SKKN: Một vài giải pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp Một dân tộc thiểu số ở trường Tiểu học Võ Thị Sáu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (596.19 KB, 21 trang )

Một vài giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu

Phần thứ nhất:  MỞ ĐẦU
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Mục tiêu giáo dục hiện nay là đào tạo con người phát triển toàn diện về đạo  
đức, trí thức, sức khỏe, thẩm mỹ  và hình thành, bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất  
năng lực của công dân đáp ứng yêu cầu đổi mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ 
Tổ  quốc Việt Nam xã hội chủ  nghĩa. Việc giáo dục kỹ  năng sống cho học sinh là 
rất cần thiết phù hợp với mục tiêu giáo dục, nhằm góp phần đào tạo con người mới 
với đầy đủ các mặt “đức, trí, thể, mỹ” để học sinh được phát triển toàn diện. Cũng 
như Bác Hồ từng nói: “Có tài mà không có đức là vô dụng ­ Có đức mà không có tài  
làm việc gì cũng khó”. Chúng ta không chỉ phải dạy kiến thức cho học sinh mà quan  
trọng hơn hết là dạy người, dạy cách làm người, những con người đáp ứng đầy đủ 
những tố  chất hiện đại, năng động, hoạt bát, thích nghi tốt,  ứng phó nhanh trong 
mọi tình huống nhưng không đánh mất đi phẩm chất, đạo đức, giá trị  nhân văn tốt 
đẹp, bản sắc văn hóa của con người Việt Nam. 
Giáo dục kỹ  năng sống cho học sinh tiểu học nhằm đạt mục tiêu trang bị 
những kiến thức, giá trị, thái độ, kĩ năng phù hợp; tạo cơ  hội thuận lợi cho trẻ sử 
dụng quyền, bổn phận của mình và phát triển toàn diện về  thể  chất, trí tuệ, tinh 
thần, đạo đức. 
Một trong những tiêu chí được nêu trong Chỉ  thị  số  40/2008/CT BGDĐT, 
ngày 22 tháng 7 năm 2008 về việc phát động phong trào thi đua “Xây dựng trường 
học thân thiện học sinh tích cực” là  rèn luyện kỹ  năng sống cho học sinh.  Đây là 
một chủ  trương cần thiết và đúng đắn. Tuy nhiên, để  giáo dục kỹ  năng sống cho 
học sinh đạt hiệu quả  đòi hỏi nhiều yếu tố. Đặc biệt đối với học sinh lớp Một là 
lớp học đầu tiên của bậc Tiểu học. Các em vừa bước qua ngưỡng cửa của trường 
Mầm Non, vừa chuyển từ hoạt động vui chơi sang hoạt động học tập. Môi trường  
thay đổi, hoạt động thay đổi và kéo theo nhiều sự thay đổi lớn trong các em. Phần 
lớn các em chưa biết ứng xử với mọi người xung quanh, chưa biết tự tin trước đám 
đông, lúng túng khi gặp tình huống nguy hiểm. Bởi vậy việc giáo dục cho trẻ các kĩ 
năng tự phục vụ, tự quản, giao tiếp, hợp tác, tự học  là rất cần thiết. Các kĩ năng đó 


ta gọi tắt là kỹ năng sống.
Thực tế cho thấy toàn khối lớp Một trường Tiểu học Võ Thị Sáu có trên 96% 
là học sinh dân tộc thiểu số. Được Nhà nước, Đảng ủy, chính quyền địa phương,  
Phòng Giáo dục ­ Đào tạo và nhà trường quan tâm tạo điều kiện thuận lợi trong  
việc huy động các em đến trường để học tập. Đa số các em đã được học qua Mầm  
non, song do phong tục tập quán, trình độ  nhận thức của người dân chưa cao,   ít 
quan tâm đến việc giáo dục kỹ năng sống cho con em dẫn đến học sinh thiếu hụt 
hiểu biết về môi trường xung quanh, ứng xử cần thiết trong cuộc sống. Các em đến 
trường rụt rè, không biết giao tiếp, chưa biết tự  bảo vệ  mình. Một số  giáo viên  
chưa coi trọng việc giáo dục kỹ  năng sống cho học sinh. Việc giáo dục kỹ  năng 
sống cho học sinh còn qua loa đại khái mang tính chung chung.  Với mong muốn làm 
rõ vị trí vai trò của giáo viên trong công tác giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, thực 
trạng kỹ  năng sống của học sinh lớp Một. Trên cơ  sở  đó đề  ra một vài giải pháp  
nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp Một dân tộc thiểu số 
GV: Trần Thị Minh ­ Trường TH Võ Thị Sáu

1


Một vài giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu

ở Trường Tiểu học Võ Thị Sáu từ năm học 2016 – 2017, năm học 2017 – 2018. Đó  
là lí do tôi chọn đề tài “ Một vài giải pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh  
lớp Một dân tộc thiểu số ở trường Tiểu học Võ Thị Sáu”. 
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu đánh giá đúng thực trạng chất lượng kỹ năng sống của học sinh 
lớp Một dân tộc thiểu số trường Tiểu học Võ Thị Sáu thời gian qua; rút ra ưu điểm,  
hạn chế, nguyên nhân và nêu lên giải pháp chủ  yếu nâng cao chất lượng giáo dục 
kỹ năng sống cho học sinh trong thời gian tới. Giúp giáo viên nhận thức được vai trò 
và tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng sống, đưa ra giải pháp thực hiện nâng 

cao chất lượng kỹ năng sống cho học sinh.
Giúp học sinh có  khả  năng  ứng xử  trước các tình huống xảy ra trong cuộc 
sống như tự tin, tự phục vụ, mạnh giao tiếp và hợp tác, trung thực, có khả  năng tự 
giải quyết vấn đề, hiểu biết và chấp hành pháp luật,....  
Phần thứ hai: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ 
1. Các định nghĩa, khái niệm về kỹ năng sống

Kỹ năng là năng lực hay khả năng chuyên biệt của một cá nhân về một hoặc  
nhiều khía cạnh nào đó được sử dụng để  giải quyết tình huống hay công việc nào  
đó phát sinh trong cuộc sống.
Kỹ năng sống là những trải nghiệm có hiệu quả  nhất, giúp giải quyết hoặc  
đáp ứng các nhu cầu cụ thể trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của con người  
như  khả  năng  ứng xử  phù hợp với người khác, xã hội, khả  năng úng phó tích cực  
trước các tình huống của cuộc sống.  Kỹ  năng sống bao gồm cả  hành vi vận động 
của cơ thể và tư duy trong não bộ của con người như biến kiến thức thành thái độ,  
hành vi, thói quen tích cực. Kỹ năng sống có thể hình thành một cách tự nhiên, thông 
qua giáo dục hoặc rèn luyện của con người.
2. Quan niệm về kỹ năng sống

Cho đến nay có rất nhiều quan niệm khác nhau về kỹ năng sống. Mỗi quan  
niệm được diễn tả theo cách khác nhau:
Theo Tổ chức Văn hóa, Khoa học và giáo dục của Liên hợp quốc(UNESCO), 
kỹ  năng sống là năng lực cá nhân để  thực hiện đầy đủ  các chức năng và tham gia  
vào cuộc sống hằng ngày. 
Theo tổ chức Y tế thế giới (WHO), kỹ năng sống là những kĩ năng thiết thực 
mà con người cần để có cuộc sống an toàn, khỏe mạnh. Đó là những kĩ năng mang  
tính tâm lí xã hội và kĩ năng về  giao tiếp được vận dụng trong những tình huống  
hằng ngày để  tương tác một cách hiệu quả  với người khác và giải quyết có hiệu 
quả những vấn đề, những tình huống của cuộc sống hằng ngày.

Tuy diễn đạt về  kỹ  năng sống khác nhau nhưng giống nhau  ở  nội dung cơ 
bản đó là những cách thức ứng xử, xử lý các vấn đề nảy sinh trong cuộc sống một  
GV: Trần Thị Minh ­ Trường TH Võ Thị Sáu

2


Một vài giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu

cách linh hoạt, mềm dẻo, có hiệu quả. Từ  đó giúp con người xác lập được mối 
quan hệ tốt đẹp với mọi người xung quanh, hoàn thiện nhân cách của mình.
Một cách khác, có thể  tiếp cận khái niệm kỹ  năng sống qua 4 trụ  cột của  
giáo dục: Học để  biết, học để  khẳng định bản thân; Học để  chung sống, học để 
làm việc.  Kỹ năng sống có thể hiểu là kĩ năng làm việc, kĩ năng làm chủ bản thân,  
kĩ năng thích ứng và hòa nhập với cuộc sống.
Như chúng ta đã biết: "Tiểu học là nền thì lớp Một là móng". Móng và nền 

vững chắc thì công trình xây dựng (giáo dục) mới bền vững. Việc giáo dục kỹ năng 
sống cho học sinh được chú trọng hơn từ  khi Chỉ thị số 40/2008/CT BGDĐT, ngày  
22 tháng 7 năm 2008 về  việc phát động phong trào thi đua “Xây dựng trường học  
thân thiện học sinh tích cực” ra đời. Kế hoạch số 801/KH­BGDĐT ngày 04 tháng 11 
năm 2016 về việc triển khai thực hiện phòng, chống tai nạn, thương tích trẻ em giai  
đoạn 2016 – 2020 của ngành giáo dục. Hơn nữa ngay từ  đầu các năm học Phòng  
giáo dục­ Đào tạo có hướng dẫn kế  hoạch cụ  thể  về  nội dung giáo dục kỹ  năng 
sống cho học sinh.  Kỹ  năng sống là một bài học quan trọng, giúp học sinh tự  tin 
bước vào cuộc sống tương lai. Đặc biệt đối với trẻ  tiểu học, khi bắt đầu đi học  
cũng là lúc trẻ bắt đầu tiếp xúc với xã hội, rất cần hoàn thiện và phát triển các kỹ 
năng sống cho riêng mình. Chính những kỹ năng sống các em tiếp nhận được những 
năm đầu tiên đi học sẽ theo các em suốt cả cuộc sống sau này vì khi tham gia vào 
bất kỳ hoạt động nghề nghiệp nào phục vụ cho cuộc sống đều đòi hỏi ta phải thỏa  

mãn những kĩ năng tương  ứng. Nếu ngay từ  lớp Một, các em có được những kĩ 
năng tốt, cuộc sống sau này sẽ rộng mở với các em hơn. Giáo dục kỹ năng sống là  
giúp trẻ  biết làm chủ  bản thân, có ý thức kỷ  luật,  ứng xử  thân thiện, hợp tác,  tự 
phục vụ, tự  bảo vệ  bản thân,  kĩ năng hoạt động xã hội, phòng ngừa tai nạn giao 
thông, tai nạn thương tích, đuối nước, các tệ nạn xã hội và biết cách ứng phó trước 
những tình huống khó khăn trong cuộc sống hàng ngày. Rèn cách sống có trách 
nhiệm với bản thân, gia đình, đảm bảo mục tiêu giáo dục kỹ  năng sống cho học 
sinh trong cộng đồng, mở  ra cơ hội, hướng suy nghĩ tích cực, tự tin, tự  quyết định  
và lựa chọn những hành vi đúng đắn. Đây là việc làm hết sức quan trọng  ảnh  
hưởng đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách của trẻ. 
Việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp Một dân tộc thiểu số lại càng 
cần thiết bởi hầu hết các em chưa có khả  năng: Tự  phục vụ, tự  quản; Giao tiếp, 
hợp tác; Tự học và giải quyết vấn đề; Chăm học, chăm làm, tích cực tham gia hoạt 
động xã hội;  Tự  tin, tự  chịu trách nhiệm;  Trung thực, kỷ  luật, đoàn kết;  Yêu gia 
đình, bạn bè và những người khác.  Bên cạnh đó cần trang bị  cho học sịnh các kĩ 
năng cần thiết cho cuộc sống hiện nay  như đề phòng hỏa hoạn, đuối nước, tự bảo 
vệ bản thân, phòng tránh bị xâm hại, tai nạn giao thông, tai nạn thương tích,...
      

II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ
1. Thuận lợi

Đảng ủy, chính quyền địa phương thuộc xã Ea Bông và Phòng Giáo dục­ Đào 
tạo là đơn vị  thường xuyên thể  hiện sự  quan tâm đặc biệt đến công tác giáo dục 
trong nhà trường. Các cơ quan ban ngành đoàn thể tại địa phương cũng đã thể hiện 
GV: Trần Thị Minh ­ Trường TH Võ Thị Sáu

3



Một vài giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu

sự quan tâm đến chất lượng giáo dục và đặc biệt là việc huy động học sinh  đúng 6 
tuổi ra lớp. Các em học sinh có cùng một độ  tuổi, ham hiểu biết, ham học hỏi, tò 
mò và thích sáng tạo, thích tự khẳng định mình. Đa số phụ  huynh học sinh đều sử 
dụng điện thoại di động nên giáo viên chủ nhiệm có thể liên lạc trao đổi bất cứ lúc 
nào. 
2. Khó khăn
Trường tiểu học Võ Thị  Sáu là một trường thuộc vùng khó khăn có ba phân 
hiệu cách xa nhau từ 2 km đến 5 km. Số học sinh dân tộc thiểu số chiếm trên 97%. 
Trình độ  dân trí còn thấp, cuộc sống của người dân còn gặp nhiều khó khăn. Đội 
ngũ giáo viên trong tổ  chưa đồng đều, số  giáo viên người dân tộc thiểu số  chiếm  
33,3%,  kinh nghiệm giảng dạy còn hạn chế. Chất lượng giáo dục hàng năm còn  
thấp, tỉ lệ học sinh có kỹ năng sống chưa cao. 
Năm học 2016 – 2017, khối lớp 1 có 137 em chia thành 5 lớp, trong đó học  
sinh dân tộc thiểu số chiếm 95,6%,  năm học 2017 – 2018 cũng có 5 lớp với tổng số 
110 em, số học sinh dân tộc thiểu số chiếm 96,4%. Toàn khối có 02 em mẹ là công 
chức, còn lại là con nhà nông. Bố mẹ không có nghề ổn định, mải lo việc mưu sinh  
ít quan tâm đến việc giáo dục con em. Phần lớn trẻ chưa được gia đình bồi dưỡng  
vốn kinh nghiệm giao tiếp nên các em rất nhút nhát. Mặc dù đã được học qua lớp 
Mầm non 5 tuổi song trong thực tế các em còn gặp rất nhiều khó khăn trong giao 
tiếp, thiếu tự tin, chưa có kĩ năng tự quản, tự bảo vệ bản thân, vẫn còn xảy ra tình  
trạng đuối nước vì lí do một số em hay nghỉ học đến ngày nghiệm thu bàn giao lớp  
mới đến trường. Các em lại không có cơ hội giao tiếp bằng tiếng phổ thông, không  
được thực hành trong suốt thời gian nghỉ hè. Số học sinh không chịu vào lớp khi mẹ 
đưa đến lớp còn nhiều. Cô hỏi chỉ  gật và lắc đầu hoặc “ơ”, “hở”. Nhiều em còn 
chưa biết nói lời thưa gửi thể  hiện lễ  phép. Gọi lên bảng không chịu lên, không  
dám giơ  tay phát biểu xây dựng bài. Cuộc sống của làng xóm và gia đình còn  ảnh 
hưởng nhiều đến việc hình thành kĩ năng của trẻ. Khả năng ghi nhớ  còn hạn chế,  
các em chưa biết cách ứng xử đơn giản nhất với cô giáo và bạn. Nhiều em chưa nói 

được cụ thể họ tên mình, họ tên bố mẹ, chưa phân biệt được anh em trong nhà với 
anh em họ. Do không được quan tâm chu đáo và giáo dục tận tình nên trong con mắt  
ngây thơ của các em đâu đâu cũng yên bình, trong khi cuộc sống hiện đại xô bồ với 
vô vàn nguy hiểm luôn rình rập các em ở mọi lúc, mọi nơi.
Trong chương trình, lượng kiến thức mà các em phải học tập  và hoàn thành 
trên lớp khá nhiều nên không còn nhiều thời gian cho  giáo dục kỹ  năng sống. Các 
em chưa  có nhiều điều kiện để  giao tiếp với mọi người nên chưa thật sự  tự  tin,  
mạnh dạn bộc lộ bản thân trước đám đông, trước bạn bè và thầy cô giáo cũng như 
ngoài xã hội. Cũng chính từ  đó, các em chưa đủ  khả  năng vượt qua các tình huống 
rủi ro trong cuộc sống. Thực tế trong giảng dạy và làm công tác chủ nhiệm lớp , tôi 
thấy việc giáo dục kỹ  năng sống cho học sinh còn khá nhiều bỡ  ngỡ  về  nội dung 
giáo dục, phạm vi giáo dục mà chỉ  hiểu đến đâu làm đến đấy, kế  hoạch chưa cụ 
thể, rõ ràng nên chưa có được sự phối hợp nhiệt tình của cha mẹ học sinh. Công tác 
kiểm tra đánh giá việc thực hiện kế  hoạch còn mang tính chất chung chung, biện 
pháp động viên, khen thưởng chưa kịp thời . 95% học sinh khi vào lớp Một rất rụt  
rè, chưa biết giao tiếp,  ứng xử, chưa có các kĩ năng thích nghi, hợp tác, chưa biết  
GV: Trần Thị Minh ­ Trường TH Võ Thị Sáu

4


Một vài giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu

ứng phó, tự bảo vệ mình khi có tình huống xảy ra. Nguyên nhân trực tiếp khiến học  
sinh gặp khó khăn trong xử lí với tình huống thực của cuộc sống là do sự giáo dục  
của gia đình và nhà trường, sự  phức tạp của xã hội hiện nay. Giáo viên và người  
lớn chưa thật coi trọng việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.  Việc rèn kỹ năng sống 
qua các môn học, tiết sinh hoạt lớp, hoạt động giáo dục, vui chơi còn chưa được 
chú trọng. Công tác tuyên truyền cho các bậc cha mẹ  thực hiện giáo dục kỹ  năng 
sống cho các em chưa nhiều.  Trước những khó khăn và tính cấp thiết đó tôi luôn 

trăn trở  làm thế  nào giúp các em có được các kĩ năng cơ  bản để  vận dụng trong  
cuộc sống. Kết quả khảo sát đầu các năm học như sau:. 
Năm học

Kĩ năng Kĩ năng giao tiếp, tự nhận thức, bảo vệ bản thân

TS HS

Biết   nói   năng   lễ  Bạo dạn trong giao  Ngại giao tiếp,  Tự  nhận thức, bảo vệ 
phép   
tiếp 
trầm lặng, nhút nhát bản thân
SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

2016 ­  2017


137

79

59,8

52

37,9

85

62,0

62

42,3

 2017 ­  2018

110

70

63,6

40

36,4


70

63,6

65

59,1

Năm học

Kĩ năng hợp tác, tự quản, tự học

TSHS

kĩ năng tốt

có kĩ năng

chưa có kĩ năng

SL

%

SL

%

SL


%

2016 ­  2017

137

5

3,6

53

38,7

79

57,7

2017 ­  2018

110

4

3,6

38

34,6


68

61,8

Kĩ năng tham gia giao thông, phòng chống tai nạn thương tích
Năm học

kĩ năng tốt

TSHS

có kĩ năng

chưa có kĩ năng

SL

%

SL

%

SL

%

2016 ­  2017

137


6

4,3

76

55,5

55

40,2

2017 ­  2018

110

5

4,5

59

53,7

46

41,8

Từ tình hình thực tế trên cho thấy tỉ lệ học sinh phát triển toàn diện là rất ít. 

Đa số các em còn thiếu các kĩ năng cơ bản trong cuộc sống hằng ngày như kĩ năng  
tự nhận thức, rụt rè khi giao tiếp, ứng xử chưa có văn hóa. T ôi thiết nghĩ nếu trẻ có 
khả năng giao tiếp tốt sẽ tạo điều kiện cho các em học tốt môn học cũng như tham  
gia các hoạt động do trường, đội tổ  chức. Chính vì thế  tôi đã đưa ra các giải pháp 
cụ thể như xác định nội dung và phạm vi giáo dục kĩ năng sống. Tìm hiểu tình hình 
thực tế. Qua đó xây dựng kế hoạch giáo dục kỹ năng sống thông qua các môn học. 
Rèn kĩ năng. Phối hợp giữa nhà trường­ gia đinh và xã hội. Tăng cường công tác  
kiểm tra đánh giá thi đua khen thưởng. 
III. CÁC GIẢI PHÁP ĐàTIẾN HÀNH ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
   

Thứ nhất: Xác định nội dung và phạm vi giáo dục kĩ năng sống 

GV: Trần Thị Minh ­ Trường TH Võ Thị Sáu

5


Một vài giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu

Để  nâng dần kỹ  năng sống cho học sinh,  ngoài việc phai cân s
̉
̀ ự  hêt s
́ ưc n
́ ỗ 
lực của thầy  và trò,  con rât cân co s
̀ ́ ̀ ́ ự  lãnh đạo của  Ban giám hiệu nhà trường và 
chính quyền địa phương,  chủ  trương xã hội hoá giáo dục trong việc xây dựng và  
phát triển là yếu tố  vô cùng quan trọng. Nó vừa đáp  ứng yêu cầu trước mắt vừa 
mang tính chiến lược lâu dài trong sự  phát triển bền vững. Điều 12 luật Giáo dục 

năm 2005 đã qui định rõ về  xã hội hoá sự  nghiệp giáo dục: “.... Mọi tổ  chức, gia  
đình và công dân có trách nhiệm chăm lo sự  nghiệp giáo dục, phối hợp với nhà 
trường thực hiện mục tiêu giáo dục, xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh và an 
toàn”. Xuất phát từ các nguyên nhân trên, hàng năm, trong quá trình giảng dạy,  viêc̣  
đâu tiên ma tôi làm đó là 
̀
̀
xác định rõ những nội dung kỹ năng sống (những bài học)  
cần giáo dục cho học sinh và phạm vi giáo dục, cụ  thể như sau : Rèn thói quen tốt 
trong học tập chú ý nghe giảng, sắp xếp sách vở  gọn gàng, giáo dục  ở  tất cả  các 
môn học. Biết chuẩn bị đồ  dùng học tập, kiểm tra, nhắc nhở khi bắt đầu mỗi tiết 
học, mỗi môn học. Biết cách sắp xếp, có thói quen giữ  gìn sách vở, dụng cụ học 
tập và bàn ghế ngăn nắp, gọn gàng hướng dẫn ngay từ những buổi học đầu tiên vào 
lớp 1 và thường xuyên nhắc nhở.  Có tư thế ngồi học đúng cho học sinh đọc đồng  
thanh tư  thế  ngồi viết trước khi viết bài và uốn nắn thường xuyên. Rèn thói quen 
vệ sinh hằng ngày, biết được các thói quen tốt, không tốt để giữ vệ sinh hằng ngày 
giáo dục vào các tiết lao động vệ sinh đầu buổi học , kiểm tra, nhắc nhở vào các tiết 
sinh hoạt tập thể  cuối tuần.  Rèn thói quen tự  tin, mạnh dạn, hợp tác khi giao tiếp 
rèn luyện trong các tiết học như  Đạo đức, Tự  nhiên xã hội. Tự  tin khi nói chuyện 
với thầy cô giáo, bạn bè và người thân rèn luyện khi đến trường, trong các tiết học  
Tiếng Việt và khi gặp gỡ mọi người. Biết cách tự bày tỏ mong muốn của của mình 
cho người khác hiểu rèn ngay từ những ngày đầu vào lớp 1.  Có ý thức tập trung để 
học tốt như biết tự  rèn và thực hành kĩ năng tập trung học tập tốt rèn trong tất cả 
các tiết học. Hiểu được sự  cần thiết và biết cách đặt câu hỏi rèn trong tất cả  các 
tiết học.Hiểu được sự cần thiết và có thói quen đi học chuyên cần giáo dục ngay từ 
những ngày đầu vào lớp 1 và thường xuyên nhắc nhở vào tiết sinh hoạt tập thể.  Tự 
tin, hòa nhập với môi trường mới, với bạn bè, thầy cô hướng dẫn động viên ngay  
từ những buổi tựu trường đầu tiên. Hiểu được hiệu quả và rèn luyện thói quen phát 
biểu xây dựng bài động viên, khuyến khích trong tất cả  các tiết học. Hiểu được ý 
nghĩa và tự  giác trả  lại của rơi cho người đánh rơi rèn luyện thường xuyên, hằng 

ngày trong lớp học và đặc biệt là trong giờ chơi.  Hiểu được ích lợi và có thói quen 
đi học đúng giờ  thông báo giờ  vào học, tan trường ngay từ những buổi tựu trường  
đầu tiên, thường xuyên nhắc nhở, giúp đỡ  trong suốt năm học. Hiểu được ích lợi 
của người bạn tốt và biết ứng xử tốt với bạn bè, chia nhóm học tập trong tất cả các 
môn học. Giáo dục lòng yêu trường lớp, kể được những điều em thích ở trường lớp 
như  trang trí lớp học đẹp mắt, thân thiện, có tên trường và những nội dung liên  
quan đến trường, thể hiện hành động yêu quý trường lớp  hướng dẫn và nhắc nhở 
trong suốt năm học. 
Ngoài các nội dung đã nêu  ở  trên, hằng năm, tùy vào tình hình thực tế   ở  địa 
phương, tôi còn lồng ghép một số kĩ năng phòng đuối nước, hỏa hoạn, biết tự bảo  
vệ  mình và thực hiện an toàn giao thông cho học sinh  ở  mọi lúc, mọi nơi.  Bởi vì 
theo tôi, học sinh lớp Một còn quá nhỏ dại và phụ thuộc nhiều vào bố mẹ, thầy cô  
như đến trường hay tan học các em cần có người đưa đón. Nhưng bên cạnh đó đa  
số phụ huynh đều làm nông nghiệp, điều kiện kinh tế còn khó khăn, thiếu thốn nên 
GV: Trần Thị Minh ­ Trường TH Võ Thị Sáu

6


Một vài giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu

có những hôm không thể  đưa đón con. Ngoài ra còn phải kể  đến một số  ít phụ 
huynh có điều kiện đã trang bị cho con những vật dụng, trang sức đắt tiền thu hút 
sự  chú ý của kẻ  xấu. Chưa kể  đến an toàn giao thông hay các tệ  nạn xã hội khác  
luôn rình rập, đe dọa các em mỗi ngày. Những nội dung này có thể  nói là tôi luôn 
nhắc nhở hằng ngày, hằng giờ.
Thứ hai: Tìm hiểu tình hình thực tế
Sau khi nhận lớp, việc đầu tiên cần làm của giáo viên là  ổn định lớp, tìm 
hiểu tâm lí học sinh ở lứa tuổi vào lớp Một. Đây là bước ngoặt lớn của trẻ thơ. Môi  
trường học tập thay đổi một cách cơ  bản: trẻ  phải tập trung chú ý trong thời gian  

liên tục từ 30 – 35 phút. Nhu cầu nhận thức chuyển từ hiếu kì, tò mò sang tính hiểu  
biết, hứng thú khám phá. Trẻ  bắt đầu kiềm chế  dần tính hiếu động, bột phát để 
chuyển thành tính kỷ  luật, nề  nếp, chấp hành nội quy học tập. Tính nhạy và sức 
bền vững, tính khéo léo các thao tác của đôi bàn tay để  tập viết được phát triển  
nhanh. Tất cả những điều đó đều là thử thách đối với trẻ, muốn trẻ vượt qua được 
tốt những thử thách đó thì giáo viên phải tạo sự gần gũi với học sinh ngay từ buổi  
đầu nhận lớp. Giáo viên động viên khuyến khích các em chia sẻ, hòa đồng với nhau 
thì ngay chính giáo viên phải coi các em như những người bạn, thường xuyên tiếp  
xúc, chủ  động trò chuyện để  các em có thể  cởi mở, bớt nhút nhát, dễ  nói chuyện 
với cô. Khi thấy các em xưng hô “mày – tao”, giáo viên phải nhắc nhở  chỉnh sửa 
cách xưng hô cho phù hợp bằng “mình – bạn”, giải quyết công bằng những mâu  
thuẫn xảy ra giữa các em học sinh trong lớp. Thường xuyên nhắc nhở  các em giơ 
tay khi phát biểu, không chen ngang khi giáo viên nói, khi nói phải “thưa cô”, không 
đùa giỡn trong lớp, không tự  ý ra khỏi chỗ, không quay ngang quay dọc. Giáo viên 
đưa ra những kí hiệu chung cho cả  lớp thực hiện thay vì lời nói để  tạo thói quen 
cho các em: 
+ Học sinh lấy bảng con “Gõ vào góc bảng 1 cái”
+ Ngồi khoanh tay“ gõ vào chữ o”
+ Lớp ồn ghi dấu “ –” ở góc bảng
+ Lớp học tốt ghi dấu “+” ở góc bảng 
Gia đình là nơi các em sinh sống hằng ngày. Vì vậy, thông qua cha mẹ  học  
sinh giáo viên tìm hiểu để nắm bắt xem  ở nhà các em thường có thói quen gì, cách 
ứng xử  như  thế  nào, đã biết tự  bảo vệ  bản thân hay chưa, đã khi nào các em có  
hành vi chưa tốt không.  Qua đó, giáo viên nắm bắt và phân loại từng nhóm đối 
tượng học sinh.
Thứ ba. Giáo dục kỹ năng sống thông qua các môn học
Việc hình thành kỹ  năng sống cho học sinh không phải ngày một ngày hai,  
cũng không phải tự nhiên sinh ra là có mà phải trải qua thời gian rèn dũa. Khi vào  
lớp Một, chúng ta không chỉ dạy cho các em học chữ mà còn dạy các kĩ năng cơ bản 
trong cuộc sống như tự tin, tự chịu trách nhiệm, tự  ra quyết định, phòng chống tai  

nạn thương tích,... Thực hiện Công văn số  159/ PGDĐT – GDTH V/v Hướng dẫn 
thực hiện kế hoạch giáo dục kỹ năng sống cho HS tiểu học. Ngay từ đầu năm học, 
chúng tôi họp tổ  xây dựng kế  hoạch dạy lồng ghép giáo dục kỹ  năng sống trong 
GV: Trần Thị Minh ­ Trường TH Võ Thị Sáu

7


Một vài giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu

mỗi môn học. Làm sao giáo viên phải giúp các em hiểu thế nào là  kỹ năng, kỹ năng 
sống và tại sao phải giáo dục kỹ năng sống, tác hại của việc chưa có kỹ năng sống. 
Từ đó các em nhận biết vai trò của việc học tập kỹ năng sống.
   
Chúng ta đều biết, ngôn ngữ  là công cụ  của tư  duy và giao tiếp. Việc giáo  
dục; lời nói giao tiếp từ xưa đã được ông cha ta rất coi trọng:               
“ Học ăn, học nói, học gói, học mở ”
                    “ Lời nói không mất tiền mua, 
                    Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”
Để  đánh giá một con người chúng ta cần phải có sự  thử  thách qua giao tiếp 
hàng ngày với họ: “Chim khôn thử tiếng, người ngoan thử lời”. Mặt khác việc giao  
tiếp, ứng xử khéo léo cũng giúp chúng ta thành công về nhiều lĩnh vực; “Khéo bán, 
khéo mua cũng thua người khéo nói”. Với trẻ  em, lứa tuổi đang hình thành nhân 
cách, ngay từ khi các em còn rất nhỏ, chúng ta đã rất chú trọng: “Trẻ lên ba, cả nhà  
học nói”. Bởi vậy ngành giáo dục đào tạo nói chung và ngành giáo dục tiểu học nói  
riêng đã được xã hội trao cho trọng trách đáng tự  hào là giáo dục trẻ  em ngay từ 
những ngày đầu bước chân tới trường. Từ bao đời nay, việc giáo dục ở nhà trường  
đã áp dụng phương châm “Tiên học lễ, hậu học văn”. Dạy tiếng Việt không có 
nghĩa là chỉ  dạy các em kỹ  năng đọc, viết, nghe, nói mà dạy các em biết sử  dụng 
những lời nói biểu cảm trong giao tiếp là một mảng vô cùng quan trọng. Một người 

đọc thông, viết thạo tất cả các loại văn bản, song khi giao tiếp lại để lại ấn tượng 
xấu, không gây được mối thiện cảm đối với mỗi người thì con người đó có khả 
năng sống và làm việc có hiệu quả  không.  Ở  môn Tiếng Việt, tất cả  các bài tập 
đọc đều có phần luyện nói theo chủ đề như: Bé và bạn bè; Mai sau khôn lớn; Vâng 
lời cha mẹ; Giúp đỡ cha mẹ; Nghề nghiệp của cha mẹ; Những người bạn tốt; Sức  
khỏe là vốn quý nhất. Các tình huống giao tiếp cụ  thể  được lồng ghép trong quá  
trình dạy học, tôi chỉ gợi mở sau đó cho các em tự nói một cách tự  nhiên hoàn toàn 
không gò bó áp đặt. Tôi thường xuyên tổ  chức cho trẻ  luyện nói theo nhóm nhằm 
mục đích giúp tất cả các em có thể giao tiếp trực tiếp với nhau. Khuyến khích các 
em còn nhút nhát nói nhiều hơn, bước đầu là nói một, hai câu ngắn sau đó dần dần  
các em nói nhiều câu hơn. Sau thời gian quen dần, tôi định hướng cho các em cách 
hỏi lẫn nhau để kiểm tra thông tin cũng như khích lệ bạn. 
Ví dụ: Khi dạy luyện nói chủ đề: Bé tự giới thiệu bài 41: iêu, yêu, sách giáo 
khoa Tiếng Việt lớp 1, tập 1 trang 85, tôi đưa ra nội dung: Em hãy làm quen với bạn 
bằng cách tự giới thiệu. Mở đầu cô giáo tự giới thiệu mình với lớp, sau đó tổ  chức 
cho các em đứng thành vòng tròn tự giới thiệu về tên và sở thích của mình. Lúc đầu  
các em rất ái ngại không tự tin khi nói về mình nhưng tôi nhắc nhở những điều cần 
chú ý trong khi giao tiếp, cộng thêm một môi trường hòa đồng, thân thiện các em đã 
thực hiện rất tốt, không còn những cái nhìn ái ngại. Thay vào đó là những cánh tay  
tự  tin cùng câu nói ngắn gọn “Mình tên là .., mình học  ở…, mình thích và không 
thích điều gì, mình rất vui khi được làm quen với bạn”. Trong bài 48: in, un trang 99, 
các em biết đi học muộn làm  ảnh hưởng đến các bạn, cô giáo và chính bản thân 
mình, từ  đó nhận lỗi và nói lời xin lỗi. Với chủ đề  luyện nói Giúp đỡ  cha mẹ  bài 
88: ip, up trang 13. Các em thực hành hỏi đáp về  những việc mình đã giúp đỡ  cha  
mẹ. Qua chủ đề luyện nói không những tạo cơ hội cho các em mạnh dạn giao tiếp 
GV: Trần Thị Minh ­ Trường TH Võ Thị Sáu

8



Một vài giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu

trước tập thể  mà còn yêu lao động, tự  giác, chăm làm với những câu nói rõ ràng  
như: Tôi giúp mẹ quét nhà. Tôi thấy vui vì đã làm cho mẹ đỡ  vất vả. Từ đó có thói 
quen tham gia lao động không lười nhác. Hay chủ  đề  luyện nói Nghề  nghiệp của  
cha mẹ bài 89: iêp, ươp. Các em hiểu được giá trị của nghề nghiệp, trân trọng nghề 
mà cha mẹ mình đang làm, nói lên việc cần làm để  ước mơ  của mình trở  thành sự 
thật.
Trong khi dạy Tập đọc hoạt động nói câu có tiếng chứa vần đã học cũng có 
tác dụng rất lớn. Dù đó không phải là giao tiếp trong tình huống cụ thể  và mỗi em 
chỉ  nói một câu nhưng nó giữ  vai trò rèn luyện cho học sinh nói đủ  câu, diễn đạt  
tường minh và dẫn đến nói câu hay. Khi đó, chúng ta có thể kịp thời điều chỉnh ngay 
những lỗi đặt câu của các em. Rõ ràng qua các hình thức tổ  chức như  trên các em 
thường tỏ ra rất hào hứng được nói cho bạn mình nghe và nói to, rõ ràng, mạch lạc. 
Dạy đạo đức là dạy học sinh những hành vi ứng xử  phù hợp với các chuẩn  
mực đạo đức xã hội và quyền trẻ  em trong các tình huống đơn giản cụ  thể  của  
cuộc sống hằng ngày. Nội dung của môn học đạo đức kết hợp giữa giáo dục quyền 
với giáo dục trách nhiệm bổn phận của học sinh. Hơn nữa môn đạo đức không chỉ 
giáo dục bổn phận, trách nhiệm của học sinh đối với gia đình, nhà trường, xã hội và 
môi trường tự  nhiên, mà còn giáo dục trách nhiệm của các em đối với chính bản  
thân mình. Việc bồi dưỡng hình thành cho các em những phẩm chất đạo đức không 
phải là một bài mẫu có sẵn, áp đặt, khuôn mẫu để  học sinh thực hiện theo. Mà 
nhiệm vụ của môn học đạo đức lớp Một là giúp các em nắm được những điều sơ 
đẳng của phép  ứng xử, chuẩn mực hành vi đạo đức trong cuộc sống hằng ngày. 
Qua mỗi bài dạy các em nắm được nội dung và ý nghĩa của chuẩn mực hành vi đạo  
đức trong các hoạt động. Dạy học đạo đức phải là quá trình giáo viên tổ  chức, 
hướng dẫn học sinh hoạt động, phát huy vốn kinh nghiệm, thói quen đạo đức, tự 
khám phá và xác định các kỹ năng sống cần rèn luyện.
Ví dụ  bài 1. Em là học sinh lớp Một, vở  bài tập đạo đức lớp 1 trang 2, học  
sinh biết quyền được đi học của mình, rèn kĩ năng tự giới thiệu họ tên, kĩ năng giao 

tiếp trong cuộc sống. Cụ  thể  khi tổ  chức trò chơi: Vòng tròn giới thiệu, giáo viên 
chia mỗi nhóm 5 em, phổ biến cách chơi, cho học sinh thực hiện. Với trò chơi này  
các em đã tự  tin mạnh dạn trước tập thể, biết lắng nghe, có ý thức kỉ  luật và nói 
mạch lạc như: Mình tên là Y Ra Him Niê, nhà mình ở buôn Dham, năm nay mình 6 
tuổi. Còn mình tên là H’ Trăm Niê, mình cùng tuổi với các bạn, nhà mình  ở  buôn 
Dham, mình rất vui khi được làm quen với các bạn. Bài 2. Gọn gàng sạch sẽ, rèn  kĩ 
năng biết ăn mặc gọn gàng sạch sẽ, biết giữ vệ sinh cá nhân đầu tóc quần áo gọn 
gàng trong mọi lúc mọi nơi. Giáo viên quy định cách xếp đồ  dùng sách vở  trong  
ngăn bàn, chỗ  treo cặp  rõ ràng, cụ  thể, vị  trí treo mũ. Giáo viên phân công các tổ 
trưởng theo dõi kiểm tra, cuối mỗi giờ học nhận xét tuyên dương những em đã thực 
hiện tốt. Giáo viên giúp đỡ động viên những em còn lúng túng chưa thật gọn gàng.  
Dần dần hành vi trở thành thói quen gọn gàng đối với các em. Khi dạy bài Gia đình 
em, thông qua tiểu phẩm Chuyện của bạn Long, học sinh biết nhận xét về việc làm  
của bạn Long, dự đoán việc sẽ xảy ra với bạn Long để  từ đó liên hệ với bản thân  
và ra quyết định cho việc làm của mình. Đến hoạt động 2, các em nói lên được sự 
quan tâm của bố  mẹ với mình, từ  đó phải làm gì để  đáp lại tình cảm của cha mẹ,  
qua đây rèn kĩ năng ứng xử. Bài 11. Đi bộ đúng quy định, sau khi quan sát tranh, trao  
GV: Trần Thị Minh ­ Trường TH Võ Thị Sáu

9


Một vài giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu

đổi thảo luận các em nêu được quy định đối với người đi bộ   ở  đường nông thôn,  
đường phố và hậu quả của việc đi bộ không đúng quy định. Từ  đó phân biệt được 
những hành vi đi bộ  đúng quy định và sai quy định. Liên hệ  bản thân và nhắc nhở 
bạn mình đi bộ đúng quy định phù hợp với điều kiện giao thông địa phương. Ở bài 
này rèn kĩ năng an toàn khi đi bộ, kĩ năng phê phán đánh giá hành vi đi bộ  không 
đúng quy định. Khi dạy bài Chào hỏi và tạm biệt tuần 28, 29, rèn kĩ năng giao tiếp, 

ứng xử  với mọi người, biết chào hỏi khi gặp gỡ  và tạm biệt khi chia tay.  Cụ  thể 
biết chào cô khi đến lớp, khi ra về  biết chào tạm biệt. Qua các giờ  học giáo viên  
chú ý nhắc nhở các em thực hành hành vi đã học. Ví dụ trong các giờ học, học sinh  
chưa có cử  chỉ thể  hiện đúng hành vi đạo đức như: Đưa sách vở  cho cô đưa bằng  
một tay không biết nói lời ''thưa'', ''gửi''. Giáo viên sửa lại hành vi đúng cho các em  
thể hiện lễ phép với thầy cô giáo và người lớn: Em đưa lại bằng hai tay và nói thưa 
cô em nộp bài ạ.
Bên cạnh các môn học Toán, Tiếng Việt, Đạo đức, môn Tự  nhiên và Xã hội 
cung cấp cho trẻ những kiến thức cơ bản ban đầu về các sự vật, hiện tượng trong 
tự nhiên, xã hội và các mối quan hệ của con người xảy ra xung quanh, trang bị cho  
các em những kiến thức cơ bản của bậc học góp phần bồi dưỡng nhân cách toàn  
diện cho trẻ. Vậy làm thế  nào để  trẻ  có các kĩ năng cơ  bản vận dụng trong cuộc  
sống hằng ngày. Đây chính là kết quả của quá trình giáo dục. Chính vì thế trong các  
bài học, giáo viên lựa chọn tổ chức cho các em thực hành ngay, thông qua việc thực  
hành giúp các em bước đầu có kĩ năng. Ví dụ với bài 5: Vệ sinh thân thể, sách giáo 
khoa Tự nhiên và Xã hội lớp 1 trang 14, giáo viên cho các em quan sát tranh trao đổi 
với nhau về  nội dung trong tranh để  nắm được các việc nên và không nên làm để 
giữ vệ sinh thân thể. Biết vì sao phải tắm rửa, thay quần áo sạch sẽ và không nên 
tắm chung với trâu bò, những việc cần làm để giữ chân, tay sạch sẽ như cắt móng 
tay, rửa chân, rửa tay bằng nước sạch. Sau đó cho các em liên hệ việc đã làm để giữ 
vệ  sinh thân thể  rồi thực hành. Qua bài học rèn kĩ năng tự  phục vụ  bản thân. Hay 
khi dạy bài 8: Ăn uống hằng ngày, trang 18, giáo viên cho học sinh quan sát tranh 
thảo luận nêu lên các loại thức ăn cần thiết cho các bữa ăn trong ngày, vì sao phải  
ăn đủ  các loại thức ăn đó, sau đó kể  về  bữa ăn của gia đình mình. Cuối cùng tổ 
chức trò chơi “đi chợ”. Mỗi đội cử một bạn đi chợ, nhiệm vụ của bạn là mua đầy 
đủ các loại thức ăn đảm bảo các chất đạm, chất béo, vi ta min, khoáng,… theo quy  
định. Sau khi đi chợ, các em phải nói được vì sao trong một bữa ăn cần đảm bảo các 
chất dinh dưỡng. Từ đó các em biết được vì sao cần ăn uống đầy đủ hằng ngày để 
mau lớn, khỏe mạnh, biết ăn nhiều loại thức ăn và uống đủ nước. Ở bài này rèn  kĩ 
năng làm chủ bản thân, phát triển kĩ năng tư duy. Đối với bài 9: Hoạt động và nghỉ 

ngơi, các em nắm được tác dụng của một số hoạt động nghỉ ngơi đúng cách có lợi  
cho sức khỏe từ đó biết sắp xếp thời gian biểu để học tập và vui chơi cho phù hợp.  
Ở hoạt động 1, giáo viên cho học sinh kể về hoạt động mà mình đã làm hoặc chơi 
cùng với bạn, thông qua đó giáo dục kĩ năng tìm kiếm và xử  lí. Sang hoạt động 3,  
các em được đóng vai về các hoạt động làm việc, nghỉ ngơi, đứng ngồi đúng tư thế. 
Thông qua trò chơi đóng vai giáo dục kĩ năng quan sát phân tích, kĩ năng tự  nhận 
thức, phát triển kĩ năng giao tiếp cho các em.  Ở  bài 10: Ôn tập con người và sức  
khỏe, để khắc sâu kiến thức cơ bản về các bộ phận bên ngoài và các giác quan của  
cơ thể, giáo viên chia lớp thành ba đội, phổ biến luật chơi, quy đinh thời gian, tiến 
hành cho các em chơi trò chơi “Ai gọi tên các bộ  phận bên ngoài cơ  thể  nhanh 
GV: Trần Thị Minh ­ Trường TH Võ Thị Sáu

10


Một vài giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu

nhất?”, hết thời gian, đội nào nói được đầy đủ  tên các bộ  phận bên ngoài của cơ 
thể trước thì đội đó thắng cuộc. Thông qua trò chơi rèn cho các em kĩ năng hợp tác, 
mạnh dạn trước tập thể. Từ đó có ý thức tự giác thực hiện nếp sống hợp vệ sinh,  
khắc phục những hành vi có hại cho sức khỏe và nêu được việc thường làm vào các 
buổi trong ngày để giữ vệ sinh thân thể hằng ngày. Việc giúp các em có kĩ năng xử 
lí những tình huống khi có tai nạn thương tích cũng rất quan trọng. Bởi khi ở nhà có  
những lúc các em sử dụng dao để gọt quả hoặc đến gần bếp lửa không may bị đứt  
tay, bị bỏng. Qua bài 14: An toàn khi ở nhà, trong hoạt động 1, tôi cho các em thảo 
luận nhóm giúp các em có kĩ năng ra quyết định nên hay không nên làm gì để phòng  
tránh đứt tay chân, bỏng, điện giật, kĩ năng tự  bảo vệ,  ứng phó với các tình huống 
khi  ở  nhà, phát triển kĩ năng giao tiếp thông qua tham gia các hoạt động học tập.  
Hoạt động 2, các em được đóng vai xử  lí tình huống khi có tai nạn như: Cầm dao  
nhọn cắt quả bị chảy máu, trông em giúp mẹ nhưng em đến gần bếp lửa. Các nhóm 

sẽ thảo luận sau đó lên thể hiện, những em còn lại quan sát và có nhận xét đối với 
những tình huống mà các bạn mình vừa xử lí để rút ra kĩ năng cấp cứu khi có những  
trường hợp xấu xảy ra. 
Nói tóm lại ngoài việc rèn luyện đạo đức, học tập tốt thì rèn luyện sức khỏe  
tốt cho học sinh là điều phải được chú ý, giáo dục kĩ năng sống chỉ thành công khi 
các em có ý thức, thái độ với mọi người trong gia đình; hòa đồng với bạn bè; tự tin  
khi nói chuyện, nhạy bén khi xử lí tình huống, dám đương đầu với thử  thách vượt 
qua khó khăn để đạt được mục tiêu và chịu trách nhiệm về việc làm của bản thân. 
Hiệu quả của việc giáo dục kỹ năng sống không thể nhìn thấy ngay lập tức và quá  
trình giáo dục rèn kỹ  năng sống là một quá trình suốt đời.  Mức độ  nhận thức của 
học sinh lớp 1 vốn rất đơn giản, chưa bền vững và rất dễ thay đổi. Bởi vậy nên ta 
hãy bắt đầu từ cái nhìn thấy, nghe thấy, từ ví dụ cụ thể, gần gũi với cuộc sốn g, sau 
đó nâng lên tầm “lý thuyết chung” để “khái quát” và “kết luận”.
Thứ tư: Rèn kĩ năng
Trong giờ  học,  cần rèn cho các em những kĩ năng  như  có tư  thế  ngồi học 
đúng, chú ý nghe giảng, vệ sinh hằng ngày ngay từ những việc làm nhỏ nhất, trong 
phạm vi nhỏ  nhất như gia đình, lớp học. Sau mỗi bài học, môn học, giáo viên cho  
các em liên hệ thực tế bằng những câu hỏi Em đã làm gì? Sẽ làm gì? và đưa ra các 
tình huống cụ thể để học sinh mình trải nghiệm.  Các em thích tham gia vào một số 
hoạt động xã hội mang tính tập thể  (đôi khi tham gia tích cực hơn cả  trong gia  
đình). Đặc biệt là các em muốn thừa nhận mình là người lớn, muốn được nhiều  
người biết đến mình. Hãy cho các em cơ  hội làm người lớn, được đóng vai “thầy 
giáo”, “cha mẹ”. Hãy cho các em những trọng trách lớn: làm lớp trưởng, tổ trưởng,  
nhóm trưởng, đội trưởng để  các em được khẳng định bản thân. Kỹ  năng sống sẽ 
hình thành một cách tự nhiên và hiệu quả trong những môi trường hoạt động cụ thể 
chứ không từ  những bài giảng trên lớp. Chỉ từ  những bài giảng, các em không thể 
tự hình thành kỹ năng sống cho mình mà chỉ có thể hình dung chung về nó. Vì vậy, 
khi cho các em được sắm vai để trải nghiệm đó là
cách giáo dục tốt nhất. Từ  làm đến hiểu, hãy cho học sinh được chơi, được tham 
gia, rồi các em sẽ hiểu. Cái hiểu như thế sâu sắc và nhớ lâu hơn.


GV: Trần Thị Minh ­ Trường TH Võ Thị Sáu

11


Một vài giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu

Ví dụ: Mỗi lần thảo luận nhóm, tôi lại cho các em bầu nhóm trưởng, các em 
thay nhau tập điều khiển nhóm mình hoạt động, có như vậy mới tạo cơ hội để các  
em mạnh dạn tự tin.
Vào giờ  chơi, tôi  tổ  chức cho các em đọc  những  mẩu truyện tranh về  giáo 
dục kỹ  năng sống. Lúc đó thấy các em rất hào hứng. Khi các em xếp hàng ra về, 
không bao giờ tôi quên dặn các em đi đúng phần đường của mình hoặc nhớ đội mũ 
bảo hiểm khi ngồi trên xe máy, và nhớ kể cô nghe những hoạt động con làm ở nhà 
vào sáng hôm sau. Học sinh lớp một mà, các em sẽ  kể  hết những gì xảy ra  ở  gia  
đình và chúng ta phải biết rằng khi trẻ  kể  mọi chuyện với mình là chúng đã đặt  
niềm tin tuyệt đối vào ta. Khi đó công tác giáo dục sẽ thuận lợi hơn nhiều.
Với học sinh lớp Một, chẳng gì bằng những thứ  mà hằng ngày các em nhìn  
thấy, nghe thấy sẽ có hiệu quả hơn là những lời nói xáo rỗng. Bằng hình ảnh, các  
em sẽ dễ dàng hình dung ra những việc mình nên làm và không nên làm. Bởi vì thế,  
ngay những buổi tựu trường đầu năm học, hay những tiết sinh hoạt lớp các em lại 
cùng cô giáo trang trí lớp học của mình. Đặc biệt học sinh lớp Một có một điểm  
chung là  ưa hoạt động, thích làm việc nhưng lại mau chán. Tôi luôn cùng các em 
quét lớp, nhặt rác, nhổ cỏ, rửa tay, chỉ các em cách đi vệ sinh và giữ gìn vệ sinh. Khi  
có giáo viên cùng làm, các em làm việc nghiêm túc hơn, tự giác hơn và rất có hiệu 
quả. Bởi thế trước mắt các em, tôi luôn là người chị, người mẹ hơn là một cô giáo. 
Tôi luôn lắng nghe những tâm tư tình cảm của các em để từ đó có hướng giáo dục 
tốt nhất. Người ta thường nói: “Gieo suy nghĩ gặt hành động. Gieo hành động gặt 
thói quen. Gieo thói quen gặt tính cách. Gieo tính cách gặt số phận”. Vào những tiết 

sinh hoạt tập thể, ngoài việc nhận xét, nhắc nhở các hoạt động học tập trong tuần,  
tôi luôn dành phần lớn thời gian để các em sinh hoạt tập thể như: ca hát, đóng kịch,  
các trò chơi hay các cuộc triển lãm nho nhỏ, kiểm tra vệ sinh cá nhân hay đồ  dùng  
học tập. Qua đó rèn cho học sinh các kĩ năng như vệ sinh cá nhân, kĩ năng giao tiếp,
… 
Có thể nói tất cả những cử chỉ, hành động của chúng ta trong con mắt trẻ thơ 
luôn là khuôn mẫu. Vì thế  người giáo viên phải luôn mẫu mực trong mọi cử  chỉ,  
hành động, lời nói, phải nghiêm minh, công bằng khách quan trong đánh giá học 
sinh. Giáo viên cần gương mẫu về  mọi mặt như:   về  trang phục và thời gian làm 
việc; về  chào hỏi, xưng hô, xã giao, khi tiếp đón khách, tiếp dân, ứng xử  trong sử 
dụng điện thoại, ứng xử  trong liên hoan,  ứng xử  đối với những bất đồng, mâu 
thuẫn, ứng xử trong công bố, tiếp nhận thông tin.
Ví dụ:  Khi chuẩn bị bước vào hội thi “Viết chữ đẹp cho giáo viên Tiểu học  
cấp huyện”, trường tôi có tổ  chức thi lựa chọn những giáo viên xuất sắc để  tham 
gia. Hằng ngày trên lớp, vào giờ ra chơi tôi thường luyện viết bảng. Khi luyện viết,  
tôi thường gọt phấn để  viết chữ  có nét thanh nét đậm. Thế  rồi, bẵng đi một thời 
gian, vào các buổi dạy tôi thường thấy  ở  lớp có nhiều bụi phấn. Ban đầu tôi rất  
ngạc nhiên, nhưng sau một hồi hỏi han, tôi phát hiện học trò đã dùng kéo gọt phấn  
để  luyện viết bảng con. Lúc đó, tôi đã hiểu, có những thứ  tôi không cần dạy mà 
học trò vẫn học được từ tôi.
  Như chúng ta đã biết ở học sinh lớp 1, các em tham gia các hoạt động học  
tập dưới hình thức: "Chơi mà học, học mà chơi". Không có cách giáo dục nào hiệu  
GV: Trần Thị Minh ­ Trường TH Võ Thị Sáu

12


Một vài giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu

quả hơn là tổ chức các trò chơi học tập. Khi tham gia trò chơi, các em sẽ cảm thấy 

hứng thú, thoải mái, phát huy tính độc lập, khả năng tư duy sáng tạo, sự nhanh trí và 
cả  tinh thần tập thể.  Có rất nhiều  trò chơi có thể  sử  dụng để  giáo dục kỹ  năng 
sống cho học sinh lớp Một  như  Ai nhanh ai đúng. Ở trò chơi này giáo viên đưa ra 
một số  câu hỏi hoặc tình huống về  bài học, về  trường lớp, gia đình cho học sinh  
chọn đáp án đúng, sai hoặc câu trả  lời phù hợp. Trò chơi sẽ  rèn kĩ năng  phát biểu 
xây dựng bài, yêu trường lớp. Trò chơi Đi theo tín hiệu giao thông thường tổ  chức 
vào các tiết sinh hoạt tập thể hoặc ngoài giờ lên lớp, ở ngoài sân trường, giáo viên  
có thể  cho các em đứng thành hàng, hai tay của em đứng sau đưa lên hai vai em 
đứng trước làm thành một đoàn tàu và quy ước: tay đưa ngang đèn xanh được quyền  
đi nhanh, tay đưa cao lên đầu đèn đỏ phải dừng lại, tay đưa chéo đèn vàng đi chậm 
lại. Qua đây sẽ rèn cho các em kĩ năng an toàn giao thông. Với các bài học, các tình 
huống trong cuộc sống như bạn bè rủ  nhau đi chơi xa, đi tắm suối, hoặc người lạ 
dụ dỗ, giáo viên có thể tổ chức trò chơi “đóng vai”. Lúc này, các em tha hồ sáng tạo  
về lời thoại, cách xử lý tình huống, thái độ, hành vi, qua đó sẽ giáo dục các em một 
cách hiệu quả  về  kĩ năng phòng chống đuối nước, tự  bảo vệ  bản thân. Hoặc với 
bất kỳ một nội dung bài học nào ta cũng có thể tổ chức trò chơi “đối đáp” với nhau 
dưới hình thức thi đua theo nhóm. Cụ thể khi dạy học bài “Âm b” (Tiếng Việt lớp 
1, tập 1), giáo viên chia lớp thanh hai đội chơi, một đội mang tên bà ba, đội kia mang 
tên bà bảy. Hai bên sẽ nói câu có chữ đầu là chữ “ B” và cuối câu là tên của đội kia.  
Đội này nói trước thì đội kia đáp và người lại. Đội nào bí không nói được là đội đó 
thua. Thí dụ: Đội 1 nói  Bà ba buồn bà bảy, đội 2 đối lại Bà bảy bán bà ba. Hay Bà 
ba bu bà bảy ­ Bà bảy bạn bà ba. Trò chơi sẽ luyện cho các em kĩ năng mạnh dạn, 
hợp tác trong giao tiếp, tự tin, hòa nhập với môi trường mới, với bạn bè, thầy cô.
Hàng tháng, vào tiết hoạt động tập thể cuối cùng, tôi thường tổ chức cho các 
em thi đua theo chủ đề “Em là hướng dẫn viên du lịch” hoặc thi ca hát, diễn kịch để 
các em có nhiều cơ hội được biết về bạn bè trong lớp cũng như hoạt động của địa 
phương, làng xóm. Các em có cơ hội được thể hiện mình trước tập thể. Qua đó rèn 
cho các em kĩ năng mạnh dạn, tự tin.
Ngoài các hoạt động nêu trên, vào cuối mỗi đợt thi đua hay cuối mỗi kỳ học,  
nếu có điều kiện là giáo viên lại cho các em tham gia các chiến dịch như  vệ  sinh 

môi trường, với hoạt động này ta có thể  tổ  chức cho các em cùng dọn vệ  sinh khu  
nhà vệ sinh hay sau lớp học  để  các em có điều kiện tham gia, trải nghiệm và nâng 
dần các kỹ năng sống cần thiết cho bản thân.
Thứ  năm. Phối hợp giữa nhà trường ­ gia đinh và xã hội. Tăng cường  
công tác kiểm tra đánh giá thi đua khen thưởng
Việc giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện các phẩm chất và năng lực nhằm giúp 
trẻ phát triển nhân cách một cách toàn diện là một quá trình lâu dài liên tục, diễn ra  
ở  nhiều môi trường khác nhau, liên quan rất nhiều đến các mối quan hệ  xã hội  
phức tạp. Vì thế, việc giáo dục kỹ  năng sống luôn luôn đòi hỏi sự  phối hợp, kết 
hợp chặt chẽ của nhiều lực lượng xã hội nhất là đòi hỏi sự quan tâm đúng cách của 
nhà trường, gia đình và mọi người trong xã hội. Mỗi môi trường đều mang vai trò 
riêng nhất định; gia đình là tế  bào của xã hội, là nền tảng của mỗi quốc gia và là 
chỗ dựa vững chắc về mặt tinh thần, đồng thời cũng là kim chỉ nam để tránh những 
GV: Trần Thị Minh ­ Trường TH Võ Thị Sáu

13


Một vài giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu

nhận thức lệch lạc từ phía học sinh. Nhà trường là môi trường giáo dục không chỉ 
phát triển về  kiến thức mà còn phải truyền tải cho học sinh những giá trị  chuẩn  
mực của xã hội, những kĩ năng cơ  bản  để  các em trở  thành những con người trí 
thức thực sự có đời sống tinh thần phong phú bên cạnh cuộc sống gia đình. Còn xã  
hội là môi trường thực tế, giúp trẻ hoàn thiện một số kỹ năng sống, chi phối một 
phần rất lớn trong suy nghĩ và hành động của  các em. Giống như  chiếc kiềng ba 
chân, đơn giản, vững chắc và không thể thiếu bất kì chân nào. 
Ngay từ đầu năm học, giáo viên xây dựng kế hoạch rèn luyện cho các em lớp 
mình phụ trách và triển khai ngay trong buổi họp phụ huynh học sinh đầu năm học.  
Tại buổi họp, giáo viên và cha mẹ học sinh trao đổi biện pháp phối hợp trong việc  

giáo dục kỹ năng sống cho các em. Đồng thời khen thưởng kịp thời động viên các  
em có động cơ tốt trong việc duy trì thực hiện. Hằng ngày giáo viên theo dõi em nào 
có biểu hiện tốt, em nào còn chưa thực hiện tốt ghi vào sổ tay. Cuối mỗi buổi học  
dành thời gian để  động viên, nhắc nhở  các em kịp thời. Trong tiết sinh hoạt cuối  
tuần cho các em bình chọn những bạn thực hiện tốt sẽ được thưởng một bông hoa.  
Cứ như vậy, các em thi đua nhau “nói lời hay, làm việc tốt” và cuối tuần nào cũng 
có rất nhiều em được bông hoa niềm vui.  
Gia đình có vai trò và tác động vô cùng quan trọng, là trọng tâm của hoạt 
động kết hợp. Gia đình là nơi trẻ được sinh ra, lớn lên và hình thành nhân cách của 
mình.  Ảnh hưởng giáo dục của gia đình đến với trẻ  là đầu tiên và sớm nhất. Giáo 
dục con cái trong gia đình không phải chỉ là việc riêng tư của bố mẹ, mà còn là trách  
nhiệm đạo đức và nghĩa vụ  công dân của những người làm cha mẹ. Nó được xác  
định trong nhiều văn bản pháp luật ở  nước ta hiện nay như trong Hiến pháp, Luật  
Hôn nhân và gia đình, Luật Bảo vệ chăm sóc trẻ em, gắn với quan hệ máu mủ ruột 
thịt và tình yêu thương sâu sắc của ông bà, cha mẹ với con cái nên giáo dục gia đình 
mang tính xúc cảm mạnh mẽ, có khả năng cảm hóa lớn nhất. Đây là một trong các 
yếu tố  không thể  thiếu trong ba yếu tố  để  thực hiện công tác giáo dục học sinh.  
Thực tế nhiều cha mẹ vì quá yêu thương, bao bọc làm hết tất cả mọi việc cho con  
em mà không biết rằng điều đó vô tình dẫn đến việc trẻ  thiếu hụt kỹ  năng sống,  
không biết cách tự phục vụ bản thân, đôi khi việc giáo dục kỹ năng sống cũng chưa  
được phụ huynh học sinh quan tâm đúng mức điều này khiến các em gặp phải khó 
khăn khi trưởng thành. Vì vậy trong các buổi họp phụ huynh học sinh lớp, họp phụ 
huynh học sinh trường cùng với việc triển khai các nội dung khác thì nhà trường  
đặc biệt chú ý đến vấn đề phối hợp để giáo dục kỹ năng sống cho các em. Có thể 
nói rằng gia đình là cái nôi giáo dục tối quan trọng để hình thành kỹ năng sống cho 
các em. Một số  nội dung nhà trường trao đổi, phối hợp để  phụ  huynh thực hiện 
như: Cô giáo, cha mẹ  luôn khuyến khích các em nói lên quan điểm của mình, nói 
chuyện với các thành viên trong lớp, trong gia đình về  cảm giác và về  những lựa  
chọn của mình, cần giúp các em hiểu rằng nên có thông số để theo đó mà lựa chọn 
cố gắng không chỉ trích các quyết định của các em. Việc này sẽ hình thành kĩ năng 

tự kiểm soát bản thân, rèn tính tự tin cho các em khi tham gia các hoạt động và các  
buổi thảo luận tại trường sau này. Cô giáo, cha mẹ giúp các em phát triển sở thích, 
yêu thích của mình và đảm bảo rằng người lớn có thể cung cấp thêm phương tiện 
để  các em thực hiện ý thích đó. Ví dụ: Mỗi em có một sở  thích khác nhau, em thì  
thích học Toán, em thì thích học Tiếng Việt, ngoài ra các em còn thích học vẽ, học  
GV: Trần Thị Minh ­ Trường TH Võ Thị Sáu

14


Một vài giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu

hát. Ngoài giờ học, chúng ta có thể tạo điều kiện cho các em được tham gia các hội  
thi như  Hội diễn văn nghệ, thi vẽ  tranh. Vì vậy, phụ  huynh cần trang bị  thêm bút  
màu, giấy vẽ, còn cô giáo tổ  chức cho các em múa hát, dã ngoại  ở  địa phương.  
Hướng dẫn cho các em cách lưu giữ  các bức tranh để  tạo thành một bộ  sưu tập  
tranh vẽ hoặc triển lãm tranh ở góc nhỏ trong nhà, trong lớp. Từ đó giúp các em có 
đủ tự tin biểu diễn trên sân khấu hay tham gia vào buổi triển lãm tranh do Liên đội 
tổ chức. Chính vì vậy mà trong buổi biểu diễn văn nghệ chào mừng ngày 20/11 do 
nhà trường tổ  chức, các em đã mạnh dạn tự  tin biểu diễn thành công hai tiết mục  
múa, hát song ca trên sân khấu đạt 01 giải nhì, 01 giải ba. Khi  ở  nhà, cha mẹ  cần  
dạy các em những nghi thức văn hóa trong ăn uống, biết cách sử dụng các đồ  dùng 
ăn uống. Cụ thể như cho các em được làm quen với những đồ dùng, vật dụng khác  
nhau (bộ  đồ  bếp, bộ  đồ  ăn, bộ  đồ  uống). Dạy nếp sống sạch sẽ, gọn gàng đây là 
một thói quen nề nếp, sự sắp đặt ngăn nắp, ngay ngắn những đồ  dùng, vật dụng, 
thái độ  ăn uống từ  tốn không vội vã, không khí cởi mở, thoải mái và đầm  ấm, 
những cuộc trao đổi nhẹ nhàng, dễ chịu, tất cả những yếu tố trên sẽ giúp các em có 
thói quen tốt để  hình thành kĩ năng tự  phục vụ  và ý nghĩa hơn là kỹ  năng sống tự 
lập sau này. Bằng những câu hỏi: Con đã chào mẹ chưa? Hãy kể cho mẹ nghe, hôm  
nay con đã làm được việc gì tốt?, không những rèn cho các em ứng xử  lễ phép mà  

còn rèn tính trung thực, kỉ luật. Bên cạnh đó cần phối hợp với địa phương tổ  chức  
cho học sinh tham gia tích cực vào các hoạt động văn hóa xã hội như : đền ơn đáp  
nghĩa, xây dựng gia đình văn hóa mới nhằm góp phần cải tạo môi trường gia đình  
và xã hội.
       Ví dụ: Em Y Thinh Mlô thường xuyên đi học muộn, sách vở dụng cụ học tập 
không đầy đủ, ăn mặc luôm thuộm, hôi hám. Thấy vậy, tôi đã đến trực tiếp gia đình 
gặp mẹ của em trao đổi tác hại của việc giữ vệ sinh thân thể, đi học muộn và thiếu  
đồ  dùng học tập. Thứ  nhất, em không thể  tiếp thu được bài khi các bạn đã học 
được một lượng kiến thức em mới tới lớp, bên cạnh đó còn ảnh hưởng đến cả lớp. 
Thứ hai, em thiếu kĩ năng tự phục vụ bản thân không gọn gàng sạch sẽ, ảnh hưởng  
đến sức khỏe. Vì vậy, cha mẹ  hãy cùng giáo viên nhắc nhở  em cần sắp xếp ngăn 
nắp góc học tập, đi học đúng giờ không la cà dọc đường, soạn sách vở đồ dùng học  
tập, vệ sinh thân thể ăn mặc gọn gàng trước khi đến lớp. Một thời gian sau, em đến 
lớp đúng giờ, có đủ  đồ  dùng học tập và vệ  sinh thân thể  gọn gàng, sạch sẽ  hơn.  
Còn em Y Kian Bkrông, một học sinh khó khăn đặc biệt. Em chưa biết nói tiếng 
phổ thông, khi cô giáo hỏi em chỉ “ơ”, “hở” rồi nhìn cô không nói gì. Cô cho gì cũng 
chỉ  nhận bằng một tay, không nói lời xin hoặc cảm  ơn. Với trường hợp này, giáo  
viên phải dùng những kí hiệu để  hướng dẫn như  gật đầu, lắc đầu, rồi nói “ dạ, 
vâng” và đưa hai tay nhận khi được cho quà sau đó nói lời “xin, cảm  ơn”. Cứ như 
vậy dần dần em cũng đã biết trả lời khi cô hỏi, khi cô phát vở đã biết dùng hai tay  
để nhận. Khi được cho bánh kẹo, đã nói được “em xin cô, cảm ơn cô”. 
Tóm lại, sự phối hợp chặt chẽ ba môi trường giáo dục là sự thống nhất trong  
nhận thức cũng như  trong hoạt động giáo dục cùng một hướng, một mục  đích, 
đồng tâm tạo sức mạnh kích thích, thúc đẩy quá trình phát triển nhân cách của trẻ. 
Nó là một nguyên tắc cơ bản. 
IV. TÍNH MỚI CỦA GIẢI PHÁP 
GV: Trần Thị Minh ­ Trường TH Võ Thị Sáu

15



Một vài giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu

Đánh giá được một số mặt trong hoàn cảnh sống tác động tới kỹ năng sống  
và thực trạng giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp Một dân tộc thiểu số.
Giúp người giáo viên hiểu tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ  năng sống  
cho học sinh. Từ đó xác định nội dung và phạm vi giáo dục kỹ năng sống: dạy các 
em những kĩ năng gì? ….dạy như thế nào? Dạy trong phạm vi nào?.......
Tìm ra một số  biện pháp tích cực, tối  ưu góp phần nâng cao sự  hình thành, 
giáo dục kỹ  năng sống cho học sinh lớp Một, để  từ  đó các em ý thức được giá trị 
của bản thân trong mối quan hệ  xã hội, hiểu biết về  thể  chất, tinh thần của bản  
thân mình, có hành vi, thói quen  ứng xử  có văn hóa, hiểu biết và chấp hành pháp  
luật… và có đủ  khả  năng tự  chủ, độc lập, tự  tin trong giao tiếp và khi giải quyết  
công việc. Trang bị  cho các em vốn tự  tin ban đầu, những kĩ năng cần thiết làm 
hành trang bước vào đời. Góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học  
sinh nói riêng và nâng cao chất lượng cuộc sống nói chung.
V. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN 
   
Với các giải pháp trên, tôi thấy học sinh có sự chuyển biến rõ rệt về kỹ năng 
sống. Các em luôn tự tin trước tập thể, chuẩn bị và tham gia các hoạt động giáo dục 
do nhà trường đề  ra một cách tốt nhất. Và đặc biệt hơn nữa, khi ra đường, khi về 
gia đình và địa phương chúng đều tự tin,  mạnh dạn trong giao tiếp, tính trung thực 
đoàn kết cao hơn, bình tĩnh vượt qua những khó khăn trở ngại trong cuộc sống như 
khi ra về không có người đưa đón các em vẫn thực hiện đúng luật giao thông và về 
nhà an toàn, không để người lạ dụ dỗ, nhớ số điện thoại của cô giáo và bố mẹ. 
Kết quả cụ thể vào cuối các năm học như sau:
Tỉ  lệ  học sinh đọc thông viết thạo và nắm được các phép tính cộng, trừ 
không nhớ trong phạm vi 100, các kiến thức về môi trường xung quanh như cơ thể 
con người, gia đình, nhà  ở, lớp học và cuộc sống xung quanh tăng dần. Năm học  
2016 – 2017, hoàn thành chương trình lớp học131/137 em đạt tỉ lệ 95,6%. Năm học 

2017 – 2018 có 106/110 em hoàn thành chương trình lớp học đạt tỉ lệ 96,4% 
   
Tỉ  lệ  học sinh có  các kỹ  năng tự  phục vụ, tự  quản, giao tiếp, hợp tác, tự 
học, biết chấp hành an toàn giao thông tăng dần. 
Năm học

TS HS

Kĩ năng giao tiếp, tự nhận thức, bảo vệ bản thân
Biết   nói   năng   lễ  Bạo dạn trong giao  Ngại giao tiếp,  Tự  nhận thức, bảo vệ 
phép   
tiếp 
trầm lặng, nhút nhát bản thân: 
SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

2016 ­  2017


137

127

92,7

125

91,2

12

8,8

126

92,0

 2017 ­  2018

110

13

11,8

103

93,6


7

6,4

104

94,5

Kĩ năng hợp tác, tự quản, tự học
Năm học
2016 ­  2017

TSHS
137

kĩ năng tốt

chưa có kĩ năng

có kĩ năng

SL

%

SL

%


SL

%

12

8,7

114

83,2

11

10,0

GV: Trần Thị Minh ­ Trường TH Võ Thị Sáu

16


Một vài giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu
2017 ­  2018

110

10

9,1


92

83,6

8

7,3

Kĩ năng tham gia giao thông, phòng chống tai nạn thương tích
Năm học

kĩ năng tốt

TSHS

có kĩ năng

chưa có kĩ năng

SL

%

SL

%

SL

%


2016 ­  2017

137

13

9,4

111

81,1

13

9,5

2017 ­  2018

110

11

10,0

90

81,8

9


8,2

Thành tích đạt được trong các hội thi như sau:
Năm học 2016 – 2017

Năm học 2017­ 2018

­ Thi chữ  viết đẹp cấp trường đạt 15  ­ Thi chữ viết đẹp cấp trường đạt 20 em  
em trong đó 01 giải nhất, 01 giải nhỉ, 01   tham  gia   trong   đó   01giải  nhất,   01  giải 
giải ba, 01 giải khuyến khích.
nhì, 02 giải ba, 03 giải khuyến khích.
­   Thi   chữ   viết   đẹp   cấp   huyện   được  ­ 01 giải nhì, 03 giải khuyến khích Hội 
công nhận 4/4 em dự thi.
thi trang trí lớp học thân thiện.
­ Giải nhì Hội thi kéo co.

­ 01 giải nhất, 01 giải ba Hội thi trò chơi 
dân gian.
­ Giải nhất Hội thi “Đố vui hoc tập”

Đề tài tiếp tục thực hiện có hiệu quả trong năm học 2018 – 2019. 
Phần thứ ba: KẾT LUẬN
I. KẾT LUẬN  
Trẻ  em là tương lai của đất nước, là hạnh phúc của mỗi gia đình. Chúng ta 
hãy trang bị cho các em một hệ thống tri thức cơ bản, vững chắc để  các em tự  tin 
bước vào thời đại mới ­ thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Và ở thời  
đại của các em thì vấn đề kỹ năng sống là vô cùng quan trọng và cấp thiết.
   
Trong giáo dục Tiểu học, việc giáo dục kỹ  năng sống cho học sinh là điều 

hết sức cần thiết, nó góp phần hình thành đạo đức, nhân cách của các em sau này.
Đối với giáo viên, việc giáo dục  kỹ  năng sống  cho học sinh lại càng có ý 
nghĩa quan trọng hơn bởi khi cùng các em tham gia các hoạt động như  nhặt rác, 
trồng cây,  chúng ta đã hòa vào cùng tuổi thơ của các em, tạo được môi trường gần  
gũi, thân thiện giữa thầy và trò. Từ đó, kết quả giáo dục toàn diện sẽ được nâng lên  
cao hơn nhất mức có thể. Đó cũng chính là một trong những nhiệm vụ của các năm 
học. 
GV: Trần Thị Minh ­ Trường TH Võ Thị Sáu

17


Một vài giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu

Với mục tiêu nâng cao kỹ năng sống cho học sinh lớp Một dân tộc thiểu số ở 
trường tiểu học Võ Thị  Sáu nhằm khắc phục những khó khăn trong việc giáo dục,  
từng bước nâng cao chất lượng giáo dục cho học sinh. Sau khi nghiên cứu và thực 
hiện các giải pháp trên cho thấy kỹ năng sống của các em được nâng lên rõ rệt. Học  
sinh có khả năng tự bảo vệ bản thân, mạnh dạn trong giao tiếp, biết ứng xử và giải  
quyết tình huống trong cuộc sống, giảm tỉ lệ học sinh hư hỏng. Phát huy tích cực,  
tự tin, chủ động, trách nhiệm, đoàn kết hứng thú học tập và giao tiếp. Biết sử dụng 
kỹ năng sống vào cuộc sống hàng ngày. Phát huy được tính năng động sáng tạo của 
giáo viên. Rõ ràng qua cách làm này, tôi thấy kết quả  giáo dục của học sinh ngày 
càng tiến bộ rõ rệt. Tạo điều kiện để học sinh phát huy tối đa những khả năng vốn 
có của mình trong học tập, trong cuộc sống.
II. KIẾN NGHỊ
   

­ Về phía nhà trường


        Thường xuyên tổ  chức các cuộc thi theo chủ đề  “Em là hướng dẫn viên du 
lịch”, “Phát thanh măng non” cho học sinh và các buổi sinh hoạt chuyên đề về giáo  
dục kỹ năng sống để bồi dưỡng và nâng cao trình độ cho giáo viên. 
   

­ Về giáo viên

   
Có lòng yêu nghề, mến trẻ, tận tâm với nghề  nghiệp và hết lòng nhiệt tình 
với học sinh. Sự  hiểu biết tâm sinh lý học sinh, hoàn cảnh sống của mỗi học sinh 
cộng với sự vận dụng khéo léo các phương pháp giáo dục.
   
lý.

Nắm được đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi của học sinh khối lớp mình quản 

   
Xác định được nhiệm vụ năm học và mục tiêu giáo dục học sinh ngay từ đầu  
năm học.
   
Luôn tạo sự thân thiện, gần gũi giữa thầy và trò để  học sinh mạnh dạn thể 
hiện khả năng của bản thân. Tạo cho các em cảm giác tự tin ở mọi lúc, mọi nơi.
   
Phối hợp với cha mẹ  học sinh, thường xuyên bồi dưỡng kỹ  năng sống cho  
các em thông qua trải nghiệm thực tế  nhằm giúp các em hiểu thêm, hiểu sâu sắc  
hơn về thế giới xung quanh để các em luôn có những kĩ năng tốt để thể hiện mình 
là những chủ nhân tương lai của đất nước.
   

­ Về phía phụ huynh học sinh


   
Tự học tập, nghiên cứu để nâng cao hiểu biết về  kỹ năng sống của học sinh 
Tiểu học nói chung và học sinh lớp 1 nói riêng.
   

Quan tâm hơn đến việc giáo dục con em mình.

   

Phối hợp chặt chẽ với giáo viên để kết quả giáo dục ngày một tốt hơn.
Ea Bông, ngày 25 /03/ 2019

                                                                                                Người viết

GV: Trần Thị Minh ­ Trường TH Võ Thị Sáu

18


Một vài giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu

                                                                                              Tr ần Th ị Minh

ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
 CẤP TRƯỜNG
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
                         (Ký tên, đóng dấu)

ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM CẤP 
HUYỆN
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
GV: Trần Thị Minh ­ Trường TH Võ Thị Sáu

19


Một vài giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu

……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
                         (Ký tên, đóng dấu)

TÀI LIỆU THAM KHẢO
STT


Tên tài liệu

Tác giả

1

Chỉ thị số 40/2008/CT BGDĐT về việc phát động 
phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân 
thiện học sinh tích cực”.

BGDĐT

2

Kế hoạch số 801/KH­BGDĐT ngày 04 tháng 11 
năm 2016 về việc triển khai thực hiện phòng 
chống tai nạn, thương tích trẻ em giai đoạn 2016 – 
2020 của ngành giáo dục.

BGDĐT

3

Công văn số 159/ PGDĐT – GDTH V/v Hướng 
dẫn thực hiện kế hoạch giáo dục kỹ năng sống 
cho HS tiểu học.

4


Điều   12  Luật   Giáo   dục   số   38/2005/QH11   ngày 
14/6/2005 của Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ 
nghĩa Việt Nam khóa XI về  ban hành Luật Giáo 
dục luật 

5

Số 61/BC­PGDĐT ngày 03 tháng 10 năm 2016  về 
GV: Trần Thị Minh ­ Trường TH Võ Thị Sáu

20

PGDĐT – GDTH

QH11

Phòng Giáo dục và 


Một vài giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu

báo cáo tổng kết năm học 2015 – 2016, triển khai 
nhiệm vụ năm học 2016 – 2017 cấp tiểu học.  1.2, 

tr.11 ,
Công văn số: 24/HD­PGDĐT /PGDĐT – GDTH 
ngày 18 tháng 9 năm 2017 về việc hướng dẫn thực 
hiện nhiệm vụ năm học 2017 – 2018, 
Số: 25/HD­PGDĐT ngày  24   tháng 9 năm 2018 
năm học 2018 ­ 2019 của Phòng Giáo dục và Đào 

tạo.

GV: Trần Thị Minh ­ Trường TH Võ Thị Sáu

21

Đào tạo Krông Ana



×