Tải bản đầy đủ (.pdf) (67 trang)

Luận án Chuyên khoa cấp I: Đánh giá sự hài lòng của bệnh nhân nội trú và một số yếu tố liên quan tại Trung tâm Y tế huyện Nghĩa Đàn, tỉnh Nghệ An năm 2018

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (748.54 KB, 67 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y ­ DƯỢC

NGUYỄN VĂN HÒA

ĐÁNH GIÁ SỰ HÀI LÒNG CỦA BỆNH NHÂN 
NỘI TRÚ VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN 
TẠI TRUNG TÂM Y TẾ HUYỆN NGHĨA ĐÀN, 
TỈNH NGHỆ AN NĂM 2018

LUẬN ÁN CHUYÊN KHOA CẤP I


HUẾ ­ 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y ­ DƯỢC

NGUYỄN VĂN HÒA

ĐÁNH GIÁ SỰ HÀI LÒNG CỦA BỆNH NHÂN 
NỘI TRÚ VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN 


TẠI TRUNG TÂM Y TẾ HUYỆN NGHĨA ĐÀN, 
TỈNH NGHỆ AN NĂM 2018

LUẬN ÁN CHUYÊN KHOA CẤP I
Chuyên ngành: Y TẾ CÔNG CỘNG
Mã số:

Người hướng dẫn khoa học:
ThS.GVC. Nguyễn Văn Hòa


HUẾ ­ 2019


MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ, KÝ HIỆU VIẾT TẮT
BHYT

Bảo hiểm y tế

BV
BYT
CSHT
CSSK
CSVC
CSYT
DV
DVYT
KCB

KH
NB
NBNT
NVYT
SHL
STT
TTB
TTYT

Bệnh viện
Bộ Y tế
Cơ sở hạ tầng
Chăm sóc sức khỏe
Cơ sở vật chất
Cơ sở y tế
Dịch vụ
Dịch vụ y tế
Khám chữa bệnh
Khách hàng
Người bệnh
Người bệnh nội trú
Nhân viên y tế
Sự hài lòng
Số thứ tự
Trang thiết bị
Trung tâm Y tế


DANH MỤC CÁC BẢNG



ĐẶT VẤN ĐỀ
Dịch vụ y tế là một dịch vụ mà mọi người đều cần ở mọi lúc, mọi nơi trong suốt cả 
cuộc đời. Đó không chỉ  là sự  đòi hỏi của người dân mà còn là một yêu cầu sống còn và  
phát triển của mỗi cơ  sở  khám, chữa bệnh trong tiến trình phát triển với chủ  trương  
hướng tới tự chủ tài chính của các cơ sở khám, chữa bệnh mà Chính phủ đã đề ra, là mục  
tiêu và là động lực cho sự phát triển đi lên của mỗi đơn vị. Đối với lĩnh vực chăm sóc Y  
tế, có thể  nói chất lượng dịch vụ  chăm sóc y tế  của một cơ  sở  khám, chữa bệnh phụ 
thuộc vào các yếu tố, đó là: đội ngũ thầy thuốc, nhân viên Y tế; cơ sở vật chất, trang thiết  
bị và thái độ phục vụ. 
Hiện nay, mặc dù chất lượng chăm sóc sức khỏe người bệnh tại các Bệnh viện đã 
được nâng lên so  với  những năm trước đây,  nhưng  vẫn còn đó những tồn tại làm  ảnh 
hưởng đến chất lượng phục vụ người bệnh.  Vì vậy, không ngừng cải thiện chất lượng  
dịch vụ  Y tế  để  thu hút người bệnh là việc làm thường xuyên của mọi bệnh viện. Kết  
quả của sự cải thiện này được đánh giá bằng một số tiêu chí, trong đó có tiêu chí về mức 
độ hài lòng của người bệnh. 
Do đó việc khảo sát định kỳ  sự  hài lòng của người bệnh là một trong những biện  
pháp đánh giá chính xác mức độ cải thiện dịch vụ Y tế ở các Bệnh viện. Bộ Y tế đã triển 
khai xác định và công bố chỉ số hài lòng về sự phục vụ hành chính; chỉ số hài lòng về chất  
lượng Y tế công. Nhằm hạn chế những tồn tại, bất cập,  một số vi phạm đạo đức ngành 
Y đã gây bức xúc trong xã hội, làm ảnh hưởng đến danh dự, uy tín và giảm niềm tin của 
người bệnh đối với thầy thuốc…với bệnh viện. Bộ Y tế quy định Bệnh viện thực hiện  
lấy ý kiến thăm dò và đánh giá sự hài lòng của người bệnh, người nhà người bệnh, nhân 
viên Y tế một cách thường xuyên, ít nhất là 03 tháng một lần, làm cơ sở cho việc cải  tiến  
nâng cao chất lượng phục vụ người bệnh và sự hài lòng của nhân viên Y tế, bên cạnh  đó 
bộ công cụ đo lường sự hài lòng được xây  dựng với số lượng các chỉ số tương thích với 
từng nội dung và phù hợp với từng lĩnh vực dịch vụ  Y tế  công lập  mà các đơn vị  trong 
ngành Y tế hiện đang thực hiện [3], [4].  
Tại Việt Nam cũng đã có rất nhiều nghiên cứu về sự hài lòng của người bệnh được 
tiến hành theo tiêu chí của từng Bệnh viện và kết quả  cũng đa dạng, phụ  thuộc vào các  

yếu tố đánh giá của từng nghiên cứu. 


Trung tâm Y tế Nghĩa Đàn là đơn vị thực hiện đồng thời hai chức năng là Khám chữa  
bệnh và Y học dự phòng. Hàng năm đơn vị tiếp nhận hơn 40.000 lượt khám bệnh và 6.000  
bệnh nhân điều trị  nội trú. Trung tâm đã triển khai nhiều hoạt động nhằm nâng cao chất 
lượng cung cấp dịch vụ  nhằm đáp  ứng tốt nhất sự  hài lòng của người bệnh. Tuy nhiên  
đến thời điểm hiện tại vẫn chưa có nghiên cứu nào đánh giá về  sự  hài lòng của người  
bệnh tới khám bệnh cũng như điều trị  nội trú. Được sự đồng ý của Ban Giám đốc Trung 
tâm, nhằm đưa ra những căn cứ để  tham mưu Ban Giám đốc Trung tâm Y tế  Nghĩa Đàn  
về công tác đảm bảo chất lượng, tiến độ đồng thời có kế hoạch cải tiến và nâng cao chất 
lượng nhằm cung ứng dịch vụ Y tế an toàn, chất lượng, hiệu quả và mang lại sự hài lòng  
cao nhất có thể cho NB phù hợp với tình hình Kinh Tế ­ Xã Hội trên địa bàn. Tôi tiến hành 
nghiên cứu đề tài: “Đánh giá sự hài lòng của bệnh nhân nội trú và một số yếu tố liên quan  
tại Trung tâm Y tế huyện Nghĩa Đàn, tỉnh Nghệ An năm 2018” với mục tiêu như  sau:
5.1.

Đán

h giá sự hài lòng của bệnh nhân nội trú tại Trung tâm Y tế  huyện Nghĩa Đàn, tỉnh Nghệ  
An năm 2018.
5.2.

Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến sự hài lòng của đối tượng nghiên cứu.


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1.  Một số khái niệm về sự hài lòng
Có nhiều quan điểm khác nhau về  sự  hài lòng của khách hàng, trong đó: Nhiều nhà 

nghiên cứu cho rằng SHL là sự khác biệt giữa kì vọng của khách hàng và cảm nhận thực 
tế  nhận được: Theo Fornell (1995) SHL hoặc sự thất vọng sau khi tiêu dùng, được định  
nghĩa như  là phản  ứng của khách hàng về  việc đánh giá bằng cảm nhận sự  khác nhau 
giữa kỳ vọng trước khi tiêu dùng với cảm nhận thực tế về sản phẩm sau khi tiêu dùng nó. 
Hoyer và MacInnis (2001) cho rằng SHL có thể  gắn liền với cảm giác chấp nhận, hạnh  
phúc, giúp đỡ, phấn khích, vui sướng. Theo Hansemark và Albinsson (2004), “SHL của  
khách hàng là một thái độ  tổng thể  của khách hàng đối với  một nhà cung cấp DV, hoặc  
một cảm xúc  phản  ứng  với  sự  khác  biệt  giữa  những  gì  khách  hàng  dự  đoán  trước  và 
những gì họ  tiếp nhận, đối với sự đáp ứng một số  nhu cầu,  mục  tiêu  hay mong muốn” 
[17]. Theo Zeithaml & Bitner (2000), SHL của khách hàng là sự  đánh giá của khách hàng 
về  một   sản phẩm hay một DV đã đáp  ứng được nhu cầu   và mong đợi của họ. Kotler  
(2000), định nghĩa: “SHL như  là một cảm giác hài lòng hoặc thất vọng của một người  
bằng kết quả của việc so sánh thực tế nhận được của sản phẩm (hay kết quả) trong mối 
liên hệ với những mong đợi của họ” [22].
Theo từ điển Việt Nam, hài lòng là sự vừa ý vì những yêu cầu đòi hỏi đã được đáp 
ứng đầy đủ. Từ khái niệm trên, để đáp ứng những yêu cầu của khách hàng một cách đầy 
đủ, thỏa mãn những nhu cầu của họ là việc làm không đơn giản. Người cung cấp dịch vụ 
phải không ngừng cải tiến, nâng cao chất lượng dịch vụ cũng như chất lượng hàng hóa để 
đáp ứng nhu cầu của người sử dụng. Hài lòng khách hàng là đánh giá của khách hàng về 
một sản phẩm hay dịch vụ đã đáp ứng được những nhu cầu và mong đợi của họ.
Sự  hài lòng của người bệnh là: “Đánh giá dựa trên sự  cảm nhận của  người  bệnh  
đối với việc chăm sóc y tế” Fitzpatrick cho rằng sự hài lòng của người bệnh xuất phát từ 
quan điểm tự  nhiên trong đó nhấn mạnh nhiều đến cảm xúc hơn là khía cạnh hữu hình. 
Cảm xúc của người bệnh được đánh giá là phương pháp nhận biết sự hài lòng của họ đối 
với dịch vụ y tế. Sự hài lòng của người bệnh là sự tích hợp giữa việc cảm nhận về chất  
lượng dịch vụ mà họ thực sự được nhận bởi kinh nghiệm sẵn có hay kỳ vọng của họ. Khi  
nhận được chất lượng dịch vụ  cao hơn kỳ vọng họ sẽ  hài lòng.
1.2.  Định nghĩa dịch vụ



Dịch vụ trong kinh tế học, được hiểu là những thứ tương tự như  hàng hóa nhưng là 
phi vật chất. Có những sản phẩm thiên về sản phẩm hữu hình và những sản phẩm thiên  
hẳn về  sản phẩm dịch vụ. Tuy nhiên, đa số  là những sản phẩm nằm trong khoảng giữa  
sản phẩm hàng hóa­dịch vu.
Các ngành dịch vụ có thể kể đến là:
­ Cung cấp điện, nước
­ Xây dựng (không kể sản xuất vật liệu xây dựng)
­ Thương mại
­ Tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, môi giới chứng khoán,...
­ Y tế, chăm sóc sức khỏe, chăm sóc trẻ em
­ Giáo dục, thư viện, bảo tàng
­ Du lịch, khách sạn, cho thuê nhà
­ Thông tin, bưu chính, internet
­ Giao thông, vận tải
­ Cung cấp năng lượng (không kể khai thác và sản xuất)
­ Giải trí, thể thao, đánh bạc, dịch vụ tình dục
­ Ăn uống
­ Các dịch vụ chuyên môn (tư vấn, pháp lý, thẩm mỹ, v.v...)
­ Quân sự
­ Cảnh sát
­ Các công việc quản lý nhà nước

Trong đó rõ ràng có ngành Y tế, chăm sóc sức khoẻ

1.3.  Khái niệm về chất lượng và chất lượng dịch vụ khám, chữa bệnh
1.3.1.1. Chất lượng 
Có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm chất lượng,  nó tùy thuộc vào việc họ đại 
diện cho ai trong hệ thống Y tế: từ góc độ NB hay từ góc độ NVYT hoặc góc độ Nhà quản  
lý, Theo đó:
Chất lượng ­ từ góc độ của NB hay KH ­ liên quan đến loại hình chăm sóc và tính hiệu  

quả của nó, có thể chú trọng hơn vào tính tiện ích như: thái độ thân thiện, được đối xử tôn 
trọng, sự thoải mái, sự sạch sẽ và sự sẵn có của nhiều dịch vụ phù hợp với túi tiền. Nếu  


nhìn từ  góc độ  NVYT hoặc cơ  sở  y tế  (CSYT) lại sẽ quan tâm nhiều hơn đến quy trình 
khoa học của chăm sóc y tế, khả năng chẩn đoán và điều trị một ca bệnh mà ít để ý đến tính  
tiện lợi và càng ít tập trung  vào khía cạnh “chăm sóc” [3].
Từ  góc độ  Nhà quản lý: họ  cho rằng chất lượng là sự  tiếp cận, hiệu lực, tính phù 
hợp, khả  năng có thể  chấp nhận được và hiệu quả  trong cung  ứng DV CSSK. Chi phí là  
yếu tố  quan trọng đối với nhà quản lý. Vì vậy, khi phải định nghĩa chất lượng là gì, cần 
phải tính     đến quan điểm khác nhau của từng đối tượng. Nếu dựa trên các quy trình, 
nhiệm vụ  và kỳ  vọng về  kết quả  thực hiện thì: “Chất lượng không có một cách ngẫu  
nhiên mà là kết quả của ý định quyết đoán, nỗ lực nghiêm túc, hướng đi thông minh và sự 
thực thi khéo léo” [3].
1.3.1.2. Khái niệm chất lượng dịch vụ khám, chữa bệnh
Chất lượng là mức độ  mà DVYT cung cấp cho cá nhân hoặc cộng đồng có thể  làm  
tăng khả  năng đạt được kết quả  về  sức khoẻ  mong đợi và phù hợp với kiến thức về 
chuyên môn hiện hành. 
Hiện nay, Quản lý chất lượng BV là xu hướng chung của các nước trên thế giới. Tại 
Việt Nam, BYT đang triển khai thực hiện bộ tiêu chí đánh giá chất lượng BV nhằm cải 
thiện chất lượng, cũng như hạn chế những rủi ro  trong điều trị tại các cơ sở KCB [8].
1.4.  Đánh giá chất lượng chăm sóc sức khỏe
Người bệnh hay “khách hàng” theo thuật ngữ của chiến lược tiếp thị hiện đại ngày  
càng quan tâm đến chất lượng dịch vụ CSSK, với 3 lý do là: ngày càng có nhiều phương 
pháp điều trị  bệnh khác nhau; số lượng người bệnh mắc  các  bệnh  mãn tính ngày càng 
nhiều và tổng chi phí cho CSSK ngày càng tăng. Mặc dù  vậy,  hệ  thống y tế  ở các quốc 
gia trên thế giới lại ít thay đổi để  đáp ứng với những nhu  cầu về chất lượng CSSK  ngày 
càng gia tăng của người bệnh.
Nhiều nghiên cứu về  quản lý chất lượng thông qua sự  hài lòng của khách  hàng là 
đối tượng chính để  đánh giá chất lượng các dịch vụ CSSK được cung cấp.  Vì bệnh nhân 

không thể  đánh giá được chất lượng chuyên môn do   ở vị trí người  nhận dịch vụ, người  
bệnh cho rằng đa số nhân viên y tế có trình độ  chuyên môn như nhau. Như vậy, có nhiều 
phương thức để  đánh giá chất lượng dịch vụ y tế, nhưng ngày nay, sự hài lòng của người 
bệnh là một nội dung quan trọng của chất lượng  bệnh viện [7].
Theo Donabedian có 3 nhóm tiêu chuẩn để đánh giá chất  lượng:


 Nhóm tiêu chuẩn cấu trúc: các tiêu chuẩn tổ chức, mô hình quản lý,   trang thiết bị, 

cơ sở vật chất cho chăm sóc.
 Nhóm tiêu chuẩn quy trình: các tiêu chuẩn thực hành nghề  nghiệp.
 Nhóm tiêu chuẩn kết quả: tình trạng sức khỏe của người bệnh, những lợi ích mà 

người bệnh nhận được từ dịch vụ chăm sóc y tế, sự hài lòng của người bệnh [19].
1.5.  Tổng quan về Quyết định số  6859/QĐ­BYT ngày 18/11/2016 của Bộ Y tế về 
việc ban hành nội dung kiểm tra, đánh giá chất lượng bệnh viện năm 2016.
Ngày 18/11/2016 Bộ  Y tế  ban hành Quyết định số  6859/QĐ­BYT về  việc Ban hành 
nội dung kiểm tra, đánh giá chất lượng bệnh viện năm 2016. Theo đó việc đánh giá sự hài 
lòng của người bệnh nội trú được quy định áp dụng theo Mẫu phiếu số 1 – Phụ lục 2 ban 
hành kèm theo Quyết định.  Nội dung các tiêu chí và bộ  chỉ  số  đo lường sự  hài lòng 
người bệnh: Bao gồm 5 nhóm chỉ số với những tiêu chí cụ thể như sau:
a) Nhóm chỉ số về tiếp cận:
­ Các sơ  đồ, biển báo chỉ  dẫn đường đến các khoa, phòng trong bệnh viện rõ ràng,  

dễ hiểu, dễ tìm.
­ Thời gian vào thăm người bệnh được thông báo rõ ràng.
­ Các khối nhà, cầu thang, buồng bệnh được đánh số rõ ràng, dễ tìm.
­ Các lối đi trong bệnh viện, hành lang bằng phẳng, dễ đi.
­ Người bệnh hỏi và gọi được nhân viên y tế khi cần thiết.


b) Nhóm chỉ số về Sự minh bạch thông tin và thủ tục khám bệnh, điều trị:
­ Quy trình, thủ tục nhập viện rõ ràng, công khai, thuận tiện.
­ Được phổ biến về nội quy và những thông tin cần thiết khi nằm viện rõ ràng, đầy 

đủ.
­ Được giải thích về  tình trạng bệnh, phương pháp và thời gian dự  kiến điều trị  rõ  

ràng, đầy đủ.
­ Được giải thích, tư  vấn trước khi yêu cầu làm các xét nghiệm, thăm dò, kỹ  thuật  

cao rõ ràng, đầy đủ.
­ Được công khai và cập nhật thông tin về dùng thuốc và chi phí điều trị.

c) Nhóm chỉ số về Cơ sở vật chất và phương tiện phục vụ người bệnh:
­ Buồng bệnh nằm điều trị  khang trang, sạch sẽ, có đầy đủ  các thiết bị  điều chỉnh  

nhiệt độ phù hợp như quạt, máy sưởi, hoặc điều hòa.


­ Giường bệnh, ga, gối đầy đủ  cho mỗi người một giường, an toàn, chắc chắn, sử 

dụng tốt.
­ Nhà vệ sinh, nhà tắm thuận tiện, sạch sẽ, sử dụng tốt.
­ Được bảo đảm an toàn, an ninh, trật tự, phòng ngừa trộm cắp, yên tâm khi nằm viện.
­ Được cung cấp quần áo đầy đủ, sạch sẽ.
­ Được cung cấp đầy đủ nước uống nóng, lạnh.
­ Được bảo đảm sự riêng tư khi nằm viện như thay quần áo, khám bệnh, đi vệ  sinh  

tại giường… có rèm che, vách ngăn hoặc nằm riêng.
­ Căng ­ tin bệnh viện phục vụ  ăn uống và nhu cầu sinh hoạt thiết yếu đầy đủ  và  


chất lượng.
­ Môi trường trong khuôn viên bệnh viện xanh, sạch, đẹp.

d) Nhóm chỉ số về Thái độ ứng xử, năng lực chuyên môn của nhân viên y tế:
­ Bác sỹ, điều dưỡng có lời nói, thái độ, giao tiếp đúng mực.
­ Nhân viên phục vụ  (hộ  lý, bảo vệ, kế  toán…) có lời nói, thái độ, giao tiếp đúng 

mực.
­ Được nhân viên y tế tôn trọng, đối xử công bằng, quan tâm, giúp đỡ.
­ Bác sỹ, điều dưỡng hợp tác tốt và xử lý công việc thành thạo, kịp thời.
­ Được bác sỹ thăm khám, động viên tại phòng điều trị.
­ Được tư vấn chế độ ăn, vận động, theo dõi và phòng ngừa biến chứng.
­ Nhân viên y tế không có biểu hiện gợi ý bồi dưỡng.

e) Nhóm chỉ số về kết quả cung cấp dịch vụ:
­ Cấp phát thuốc và hướng dẫn sử dụng thuốc đầy đủ, chất lượng.
­ Trang thiết bị, vật tư y tế đầy đủ, hiện đại, đáp ứng nguyện vọng.
­ Kết quả điều trị đáp ứng được nguyện vọng.
­ Ông/Bà đánh giá mức độ tin tưởng về chất lượng dịch vụ y tế.
­ Ông/Bà đánh giá mức độ hài lòng về giá cả dịch vụ y tế.

1.6.  Một số yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của người bệnh
1.6.1. Mô hình chỉ số hài lòng khách hàng các quốc gia Châu Âu:



1.6.2.

Các yếu tố chính ảnh hưởng đến sự hài lòng của khách hàng


Bảng 1.. Các yếu tố chính ảnh hưởng đến sự hài lòng của khách hàng
1. Phương tiện hữu hình 

Thể hiện bên ngoài của cơ sở vật chất, thiết bị, công 

    (Tangible)
2. Độ tin cậy 

cụ truyền thông
Thể hiện khả năng đáng tin cậy và chính xác khi thực 

    (Reliability)
3. Mức độ đáp ứng 

hiện dịch vụ
Thể hiện cung cấp dịch vụ kịp thời và sẵn lòng giúp đỡ 

    (Responsiveness)
4. Sự đảm bảo 

khách hàng
Thể hiện trình độ chuyên môn và sự lịch lãm của nhân 

    (Assurance)
5. Sự cảm thông 

viên, tạo niềm tin tưởng cho khách hàng
Thể hiện sự ân cần , quan tâm đến từng cá nhân khách 


    (Empathy)

hàng
  

1.6.3.

 ( Theo Parasuraman, Zeithaml, Berry, 1991)
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của bệnh nhân trong Y tế

Sự hài lòng của người bệnh phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố bao gồm: Quy trình đón 
tiếp, kỹ  năng giao tiếp, tinh thần thái độ  phục vụ tốt. Khám, chuẩn đoán và điều trị, làm 
xét nghiệm và trả xét nghiệm kịp  thời, cung cấp thuốc đủ, sử dụng thuốc an toàn và hợp 
lý. Chăm sóc  tận  tình, hướng dẫn chu đáo ­ Cơ sở vật chất , trang thiết bị hiện đại, môi 
trường bệnh viện sạch ­ an toàn. Thu kinh phí đúng chế độ chính sách, thanh toán kịp thời. 
Phát  triển  các  dịch  vụ  khác  tạo  điều  kiện  thuận  lợi  nhất  cho  người  bệnh [9]. 
Sự  hài lòng của người bệnh không chỉ  phụ  thuộc vào chất lượng dịch vụ  mà   còn 
phụ  thuộc vào sự  mong đợi của họ  và có thể  bị   ảnh hưởng bởi nhiều  yếu tố, việc tìm 
hiểu những yếu tố  ảnh hưởng đến sự hài lòng của người bệnh là rất quan trọng cho các 
nhà cung cấp dịch vụ. Trên thế giới tại Việt Nam có nhiều mô hình khác nhau để đánh giá 
sự hài lòng của người được nhiều tác giả sử dụng dưới đây:
a. Mô hình SERVQUAL

Năm 1988, Parasuraman đã đưa ra mô hình có tên là SERVQUAL dùng để  đánh giá  
cảm nhận của khách hàng về  chất lượng dịch vụ  với 5 đặc tính về  chất lượng dịch vụ 
sau:


Phương tiện hữu hình (TANGIGLE):


­ Mặt tiền sáng rõ, bắt mắt;
­ Bảng hiệu ấn tượng;
­ Chỗ để xe được sắp xếp hợp lý;


­ Trang phục nhân viên thanh lịch, gọn gàng;
­ Phòng sạch đẹp, thân thiện;
­ Trang trí nội thất gần gủi, ấm cúng;
­ Dịch vụ giải trí TV, sân chơi trẻ em;
­ Không có mùi bệnh viện;
­ Trang thiết bị hiện đại, đồng bộ, đầy đủ, khác biệt với các PK khác;
­ Thời gian làm việc hợp lý;
­ Hình ảnh LOGO được nhận diện ở nhiều nơi.


Độ tin cậy (RELIABILITY):

­ Phí khám hợp lý;
­ Phí xét nghiệm hợp lý;
­ Phí chẩn đoán hình ảnh hợp lý;
­ Hóa đơn chính xác;
­ Thông tin sức khỏe được bảo mật hoàn toàn;
­ Tin tưởng vào thông tin truyền đạt;
­ Tin tưởng vào chính sách dành cho khách hàng thân thuộc.


Mức độ đáp ứng (RESPONSIVENESS):

­ Đặt hẹn đơn giản, dễ dàng;
­ Khám đúng giờ hẹn;

­ Thời gian tư vấn và khám bệnh hợp lý;
­ Tư vấn rõ ràng, nhiệt tình, sâu sát;
­ Qui trình khám bệnh rõ ràng, công bằng, hợp lý;
­ Thái độ tôn trọng, thân thiện, gần gũi;
­ Nhiệt tình hỗ trợ, giúp đỡ khách hàng về thủ tục giấy tờ, hành chánh;
­ Đa dạng về hình thức thanh toán.


Sự đảm bảo (ASSURANCE):

­ Nhân viên lễ tân, thư ký y khoa có kiến thức tư vấn khách hàng;
­ Bác sĩ tư vấn bệnh lý cho khách hàng rõ ràng;
­ Nhân viên phòng khám tạo thái độ yên tâm cho khách hàng;
­ An toàn khi tiêm chích, lấy máu;
­ An toàn khi thực hiện thủ thuật;
­ Đúng hẹn với khách hàng;


­ Nhắc hẹn đều đặn, đúng ngày.


Sự cảm thông (EMPATHY):

­

Phục vụ khách hàng nhiệt tình;

­

Quan tâm đến mong muốn của khách hàng;


­

Chủ động quan tâm đến những khó khăn của khách hàng (bấm thang máy hộ, 

di chuyển bằng xe lăn,…);
­

Xây dựng các chươ ng trình hỗ  tr ợ khách hàng hợ p lý (Membership, Gi ảm 

giá,…).
b.

Mô hình SERVPERF
Mô hình SERVPERF (Crononand Talor. 1992) được phát triển dựa trên nền 

tảng của mô hình SERVPERF nhưng đo lường chất lượng dịch vụ thực hiện được 
(perfomance­based)   chư   không   phải   là   khoảng   cách   giữa   chất   lượng   kỳ   vọng 
(expectation) và chất lượng cảm nhận (perception) Bộ thang đo SERVPERF  cũng 
sử  dụng các mục tương tự  như  phản hồi về cảm nhận của khách hàng trong mô  
hình SERVPERF nhưng bỏ qua phản hồi về kỳ vọng.
c.

Mô hình CSI
Mô hình CSI: Mô hình chỉ số hài lòng của khách hàng  (Customer  Satisfaction  

Index­CSI) bao gồm các nhân tố (biến). Mổi nhân tố được cấu thành từ nhiều yếu 
tố cụ thể đặc trưng của sản phẩm hoặc dịch vụ , sự hài lòng khách hàng được định 
nghĩa như là một sự đánh giá toàn diện về sự sử dụng một dịch vụ hoặc hoạt động 
sau bán của doanh nghiệp và đây chính là điểm cốt lõi của mô hình CSI.

Xung quanh biến số  này là hệ  thống các quan hệ  nhân quả  xuất phát từ 
những biến  số khởi tạo như sự mong đợi (expectations) của khách hàng. Hình ảnh 
doanh nghiệp và sản phẩm, chất lượng cảm nhận (perceved quality) và giá trị cảm  
nhận (perceved value) về  sản phẩm hoặc dịch vụ  kèm theo đến các biến số  kết  
quả  của sự  hài lòng như  sự  trung thành (customer loyalty) hay sự  than phiền của  
khách hàng (customer complaints). Mô hình này ra  đời tại Thụy  Điển (Swedish 
Customer Satisfaction Barometer – SCSB) nhằm thiết lập ch ỉ số hài lòng của khách 
hàng đối với việc mua và tiêu dùng sản phẩm – dịch vụ nội địa. Trong những năm 
sau đó, chỉ số này được phát triển và ứng dụng rộng rãi tại các nước phát triển như 


Mỹ  ­ ACSI, Na Uy – NCSI. Đan Mạch – DCSI và các quốc gia EU – ECSI  (1998)  
trong các lĩnh vực  khác nhau.
Mô hình FSQ và TSQ

d.

Mô hình FSQ và TSQ: Theo mô hình này, chất lượng dịch vụ  được xem xét  
dựa trên hai tiêu chí là chất lượng chức năng (FSQ: Functional Service Quality) và  
chất lượng kỹ thuật (TSQ: Technical Service Quality) và chất lượng dịch vụ bị tác 
động mạnh mẽ bởi hình ảnh đơn vị cung cấp dịch vụ, sản phẩm (Corporate Image)  
(Gronroos. 1984).
1.6.4.
1.6.4.1.

Các yếu tố liên quan đến sự hài lòng của người bệnh

Khả năng tiếp cận

Là khả  năng người bệnh và người nhà tìm và hiểu được cấu trúc bệnh  

viện qua hệ  thống sơ  dồ  và hện thống biển báo, hướng dẫn, qua đó người  
bệnh có thể tự tiếp cận được các dịch vụ một cách dễ dàng và thuận lợi.
1.6.4.2. Sự minh bạch thông tin và thủ tục khám bệnh, điều trị

Thông tin là yếu tố  cần thiết để  chuyển tải tri thức và yêu cầu cũng như 
giới thiệu cho người bệnh về  các dịch vụ  của bệnh viện có thể  cung  ứng, 
thông tin còn thể  hiện sự  tôn trọng quyền được biết của người bệnh vè thủ 
tục, quy trình khám chữa bệnh mà họ  cần phải hợp tác. Thông tin bao gồm các 
chỉ dẫn, thông tin về tình trạng bệnh, thông tin sử dụng thuốc, thông tin  về chi 
phí khám chữa bệnh. Tất cả các thông tin trên  cần được minh  bạch  với người  
bệnh.
1.6.4.3. Cơ sở vật chất và phương tiện phục vụ người bệnh

Bao gồm nhà cửa, buồng bệnh sạch sẽ, khang trang; nhà vệ  sinh thuận 
tiện, sạch sẽ, dễ  dang sử  dụng; giường, chăn, màn, gối, nệm đầy đủ, mỗi  
người một giường; cung cấp nước uống và sinh hoạt; bảo đẩm kín đáo riêng 
tư. Ngoài ra còn cần đảm bảo an ninh, an toàn cho người bệnh, môi trường 
khuôn viên xanh­sạch­đẹp; bệnh viện có căng­tin cung cấp các nhu yếu phẩm  
cho đời sống.
1.6.4.4. Thái độ ứng xử, năng lực chuyên môn của nhân viên y tế


Bao gồm lời nói và cử chỉ, thái độ của đội ngũ nhân viên y tế từ bác sĩ đến  
điều dưỡng, hộ  lý. Người bệnh được tôn trọng, được giúp đơc với thái độ  ân 
cần. Người bệnh được giải thích và động viên về  tình hình bệnh tật và không 
bị vòi vĩnh, gợi ý nhận quà hay tiền bồi dưỡng.
1.6.4.5. Kết quả cung cấp dịch vụ

Cấp phát thuốc và hướng dẫn sử  dụng thuốc đầy đủ, chất lượng trang  
thiết bị, vật tư y tế đầy đủ, hiện đại, đáp ứng nguyện vọng.

Kết quả  điều trị  đáp  ứng được nguyện vọng; mức độ  tin tưởng về  chất  
lượng dịch vụ y tế; mức độ hài lòng về giá cả dịch vụ y tế.
1.7.

Đánh giá chung
Là tỷ  lệ  người hài lòng chung về  dịch vụ  của bệnh viện, tỷ  lệ  này tính  

bằng phần trăm.
1.8.

Khả năng quay trở lại
Là khả năng bệnh nhân có lựa chọn dịch vụ bệnh viện lần sau hay  không.

1.9.

Thang điểm đánh giá sự hài lòng của người bệnh theo Bộ Y tế [30]
Khi đo lường sự thỏa mãn, sự hài lòng của bệnh nhân, những nhà quản  lý  

bệnh viện thường đồng nhất hai khái niệm chất lượng dịch vụ của bệnh viện  
và sự  thõa mãn nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân. Tuy nhiên đối với nhà 
nghiên cứu thì sự thõa mãn nhu cầu của người bệnh mang ý nghĩa rộng hơn rất  
nhiều. Chất lượng dịch vụ bệnh viện chỉ tập trung vào các thành phần cụ  thể 
của dịch vụ  khám chữa bệnh, trong khi đó, sự  thõa mãn của bệnh nhân là một  
khái niệm tổng quát, nói lên sự  hài lòng của họ  khi thõa mãn nhu cầu khám  
chữa bệnh.
Trong nghiên cứu này, sự thỏa mãn của người bệnh được đo bằng mức độ 
hài lòng tổng quát của người bệnh đối với dịch vụ khám chữa bệnh.
Chúng tôi sử dụng thang điểm Likert, được nhiều tác giả  khác ưa chuộng 
để nghiên cứu phân chia mức độ hài lòng của người bệnh.



Likert là một thang điểm xếp hạng được xây dựng trên cách xác đinh và 
lựa chọn vấn đề ưu tiên bằng cách cho điểm vấn đề, mức độ hài lòng càng cao  
thì điểm càng cao.
Thang Likert gồm một câu hỏi đóng với 5 mức độ lựa chọn:

­ Mức 1: Rất hài lòng, rất tốt, rất đồng ý
­ Mức II; Hài lòng, tốt, đồng ý.
­ Mức III: Chấp nhận được.


­ Mức IV: không hài lòng, không tốt, không đồng ý
­ Mức V: Rất không hài lòng, không tốt, không đồng ý.
Hai giá trị hài lòng và không hài lòng còn được chia ra thành 2 mức 
độ:
+ Hài lòng bao gồm: rất hài lòng, hài lòng và chấp nhận được
+ Không hài lòng bao gốm không hài lòng và rất không hài lòng
Đánh giá hài lòng chung một người bệnh khi có tổng số điểm từ 31 x 
4=124 trở lên và không hài lòng khi thấp hơn 124 điểm.
1.10.

Tình hình nghiên cứu trên Thế  giới và Việt nam về  sự  hài lòng 

của người bệnh nội trú
1.10.1.Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Ở  các nước phương Tây, việc làm hài lòng khách hàng là để  thu hút nhiều 
bệnh nhân đến với bệnh viện hơn [16]. Đa số  bệnh viện là bệnh viện tư nhân nên  
họ  rất xem trọng vấn đề  hài lòng của bệnh nhân [21]. Tại nước Anh, để  cải thiện  
sự cạnh tranh giữa bệnh viện công và bệnh viện tư, hệ thống Y tế quốc gia Anh đã  
thực hiện việc cung cấp các dịch vụ  thật sự  mang tính quốc gia, những dịch vụ 

chăm sóc sức khỏe  ở  đây không mất tiền kể  cả  công lẫn tư,  ở  bệnh viện nào có  
đông bệnh nhâ đến khám thì nhà nước sẽ trả tiền cho bệnh viện đó nhiều hơn theo 
số bệnh nhân.
Nghiên cứu của Haya R. Rubin năm 1987 tại Mỹ là một nghiên cứu có qui mô  
lớn, khảo sát khá chi tiết về  các khâu trong quá trình nằm viện của bệnh nhân. 
Nghiên cứu này đã được tiến hành ở 10 bệnh viện mang các đặc điểm khác nhau về 
địa lý, về  quy mô tổ  chức. Kết quả  nghiên cứu cho thấy tỉ  lệ bệnh nhâ trả  lời hài 
lòng khá cao.


Năm 1988  ở  Châu Âu, một nhóm các nhà nghiên cứu đã tiến hành công trình  
nghiên cứu “Xác định mức độ  hài lòng của khách hàng trong công tác chăm sóc sức 
khỏe ban đầu” ở nhiều hệ thống Y tế khác nhau. Nghiên cứu này tập trung tại 4 quốc  
gia, chủ  yếu tập trung vào các thành phố  lớn là: Cantebury (Anh), Moscow (Nga),  
Belgrade (Nam Tư), Ioannian (Hy Lạp) trong thời gian 2 năm 1988­1989. Nội dung 
nghiên cứu xoay quanh vấn đề nhận xét của bệnh nhân về bác sĩ. Với cỡ mẫu 2489 
bệnh nhân, kết quả cho thấy tỉ lệ hài lòng của các đối tượng nghiên cứu đối với sự 
phục vụ  của bác sĩ   gia đình tại các thành phố  nói trên là: Cantebury (Anh) 95%,  
Moscow (Nga) 62%, Belgrade (Nam Tư) 85%, Ioannian (Hy Lạp) 87%.
Trong nghiên cứu của tác giả  Cermel.S và Halvey.J năm 1999 trên 198 bệnh  
nhân trong bệnh viện công và 198 bệnh nhân trong bệnh viện tư. Kết quả  nghiên  
cứu cho thấy tỉ lệ hài lòng lần lượt là 87% và 74%.
Tác giả Ny Net cùng với Santhat Sermsri, Jiraporn Chompikul nghiên cứu SHL  
của 236 bệnh nhân với các DVYT tại BV cộng  đồng Wangmamyen kết quả  là: 
Điểm số trung bình là SHL của bệnh nhân là 4,2 và 23,3% số bệnh nhân đều rất hài 
lòng với các DVYT. Số bệnh nhân đã rất hài lòng với sự sẵn có của các nguồn lực Y 
tế  (37,3%); môi trường vật lý (36,9%), và cách giao tiếp của các nhà cung cấp DV  
(30,9%); chất lượng chăm sóc (24,1%); chi phí Y tế  (14,8%), và khả  năng tiếp cận  
(13,9%) [23].
Nghiên cứu của tác giả  Nguyễn Bích Lưu, trên 175 bệnh nhân xuất viện tại 

Khoa Ngoại, bệnh viện Banpong, tỉnh Ratchaburi, Thái Lan cho thấy có 51% bệnh  
nhân rất hài lòng với những hoạt động chăm sóc. Những yếu tố liên quan đến sự hài 
lòng bao gồm: tuổi, giới, thời gian nằm viện, mức độ  đánh giá điều kiện chăm sóc, 
trình độ  chuyên môn của CBYT, mức độ  được cung cấp các thông tin Y tế  và giáo 
dục sức khỏe [11].


Với những nghiên cứu khác nhau, ở các khu vực khác nhau, dựa trên những  mô 
hình đánh giá và các bộ  công cụ  khác nhau, phạm vi nghiên cứu cách tiếp cận các 
vấn đề liên quan cũng khác nhau tại các BV khác nhau và trên những đối tượng khác 
nhau của nhiều nước khác nhau trên thế  giới   có  thể  đưa ra những kết quả  không 
thống nhất, nhưng đã phần nào đưa ra được bức tranh tổng thể  giúp các nhà cung  
cấp DVYT có cái nhìn toàn diện hơn, quan tâm đến chất lượng DV  mà mình cung 
cấp, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của BV.
1.10.2.Tình hình nghiên cứu tại Việt Nam
Ở Việt Nam cũng đã có rất nhiều nghiên cứu đánh giá SHL của KH nhằm đánh  
giá và đưa ra các giải pháp góp phần nâng cao chất lượng DVYT tại các BV. Nghiên 
cứu của Nguyễn Đức Thành về  sự  hài lòng của người bệnh nội trú tại các bệnh 
viện tỉnh Hòa Bình năm 2006, trên bệnh nhân cho thấy yếu tố thời  gian  chờ đợi có  
điểm trung bình từ  3,84 ­ 3,95, khía cạnh tương tác với nhân  viên  có điểm trung  
bình hài lòng là 3,47 ­ 3,86. Yếu tố cơ sở vật chất, trang thiết bị có điểm trung bình 
thấp nhất từ 2,67 ­ 3,61. Về trình độ học vấn, thu nhập của người bệnh càng cao thì  
mức độ  hài lòng càng thấp. Trong khi đó, kết quả  nghiên cứu không có mối liên  
quan có ý nghĩa thống kê giữa tuổi, giới, tình trạng hôn nhân [13].
Nghiên cứu của Lê Nữ  Thanh Uyên, Trương Phi Hùng về  “Mức độ  hài lòng 
của bệnh nhân về phục vụ Y tế tại bệnh viện Bến Lức, tỉnh Long An, năm 2005”. 
Chỉ  ra kết quả  như  sau: 90% bệnh nhân hài lòng chung về  toàn bệnh viện;  94,5% 
hài lòng khâu khám bệnh, theo dõi và điều trị; 91,8% hài lòng khâu chăm sóc điều 
dưỡng; 74,5% hài lòng khâu phục vụ  ăn uống; 61,8% hài lòng khâu vệ  sinh; 60,9%  
hài lòng khâu phòng lưu bệnh [14].

Năm 2013, tác giả Hồ  Nhật Bạch đã nghiên cứu SHL của 260  bệnh nhân nội  
trú đối với chất lượng DV KCB của các BV tại thành phố Long Xuyên kết quả đánh  


giá các thành phần chất lượng DV KCB tại các BV (Năng lực phục vụ, tình cảm và 
phương tiện hữu hình) đều ở mức trung bình nằm trong khoản từ 3,23 đến 3,40 [1]. 
Nghiên cứu của tác giả  Nguyễn Thị  Ly tại Hải Dương cho   thấy  điểm trung 
bình các mục về bác sỹ đạt cao: Thái độ của bác sĩ là 4,07; hướng dẫn điều trị và sử 
dụng thuốc là 4,13 và giải thích về tình trạng bệnh tật là 4,21 [12]. 
Kết quả  nghiên cứu của tác giả  Trương Thị  Bích Ngọc nhằm “ Đánh giá sự 
hài lòng của người bệnh nội trú về  dịch vụ khám chữa bệnh tại một số  khoa  của 
bệnh viện Đa khoa Đồng Tháp năm 2011” trên 426 người bệnh, cho thấy 50,7%  
người bệnh hài lòng với yếu tố thời gian chờ đợi; 31,7% với yếu tố thông tin, 77,0%  
với cơ sở vật chất, 71,1% với yếu tố nhu cầu. Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê  
giữa sự  hài lòng chung đối với dịch vụ  KCB như: Thu nhập, nghề nghiệp, tuổi và 
khu vực sống. Nhưng không có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa sự  hài lòng  
chung đối với dịch vụ KCB như: Giới, tình trạng hôn nhân, trình độ  học vấn, nhân 
khẩu, đối tượng BHYT.
Nghiên cứu khác của Phùng Thị  Hồng Hà và cộng sự năm 2012 nghiên cứu 204 
bệnh nhân tại BV Việt Nam­ Cu ba Đồng Hới­ Quảng Bình, kết quả cho thấy có 5/7 
chỉ tiêu (điểm trung bình từ 3,03 đến 3,34) cá biệt có 2 chỉ tiêu là bác sỹ khám bệnh tận  
tình và cung cấp đầy đủ thông tin, điểm bình quân là 2,71 và 2,86 [10]. 
Trong nghiên cứu của Nguyền Thị  Minh Phương năm 2013  ở  100 bệnh nhân  
nội trú tại BV da liễu Trung  ương kết quả có 62% Bệnh nhân nội trú hài lòng với 
việc điều dưỡng  về việc giới thiệu bản thân mỗi khi tiếp xúc với người bệnh; 67%  
Bệnh nhân nội trú hài lòng với với hoạt động công khai thuốc của điều dưỡng, 61%  
bệnh nhân hài lòng với việc điều dưỡng tư vấn kiến thức về bệnh, cách theo dõi và  
chăm sóc bệnh của bệnh nhân khi ra viện; mức độ  hài lòng ở  khu vự  thành thị  với  
các kỹ năng giao tiếp của điều dưỡng thấp hơn so với khu vực nông thôn và miền  
núi [15].



1.11. Đặc điểm Trung tâm Y tế huyện Nghĩa Đàn
1.11.1.Thông tin chung
Huyện Nghĩa Đàn là một huyện miền núi thuộc khu vực Tây Bắc của tỉnh 
Nghệ  An, là đơn vị  hành chính được thành lập từ  tháng 4/2008. Với Dân số  là 
137.873 nhân khẩu với tổng số hộ là 29.708. Trong đó có 9.019 hô/ 42.073 nhân kh
̣
ẩu  
là đồng bào các dân tộc thiểu số  chiếm 21,4%; Co 1.765 hô/19.790 nhân khâu thuôc
́
̣
̉
̣  
đông bao công giao chi
̀
̀
́
ếm 8,9%; Có 21,8% nhân khẩu thuộc diện đói nghèo. 
TTYT huyện Nghĩa Đàn được thành lập theo Quyết định số  504/QĐ­UBND 
ngày 02/02/2010 của  Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ  An. Trung tâm Y tế  Nghĩa Đàn là  
đơn vị thực hiện đồng thời cả hai chức năng là Y học dự phòng và Khám chữa bệnh  
với quy mô 90 Giường bệnh Kế hoạch (Thực kê 194 Giường bệnh).
Hệ  thống tổ  chức được phân bổ  gồm 10 Khoa và 04 Phòng chức năng, trong  
đó:
­ 04 Phòng chức năng gồm: Phòng Tổ  chức hành chính và Quản trị; Phòng Tài 
chính – Kế toán; Phòng Kế hoạch tổng hợp; Phòng Điều dưỡng và Kiểm soát Nhiễm  
khuẩn.
­   03   Khoa   Dự   phòng   gồm:   Khoa   Kiểm   soát   dịch   bệnh;   Khoa   ATVS   Thực  
phẩm; Khoa Y tế công cộng.

­ 05 Khoa Lâm sàng gồm: Khoa Khám bệnh và TTGCSK; Khoa Hồi sức cấp  
cứu – Nhi; Khoa Nội ­ Lây ­ Đông Y và PHCN; Khoa Ngoại – 3 chuyên khoa; Khoa 
Sản – Phụ khoa.
­ Khoa Cận lâm sàng và Khoa Dược – trang thiết bị Y tế.
Theo đó bệnh nhân được điều trị nội trú tại 04 Khoa Lâm sàng: Khoa Hồi sức  
cấp cứu – Nhi; Khoa Nội ­ Lây ­ Đông Y và PHCN; Khoa Ngoại – 3 chuyên khoa;  
Khoa Sản – Phụ khoa.
1.11.2.

Kết quả hoạt động Khám chữa bệnh trong năm 2017

Trong năm 2017, tổng số bệnh nhân điều trị nội trú là 7.235 bệnh nhân. Kết 
quả theo các Khoa cụ thể như sau:


×