Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

SKKN: Một số biện pháp quản lý chỉ đạo việc duy trì sĩ số học sinh dân tộc trường tiểu học Dray Sáp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (9.68 MB, 28 trang )

SKKN: Một số biện pháp quản lý chỉ đạo việc duy trì sĩ số học sinh dân tộc  
trường Tiểu học Dray Sáp

I. Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Trong bức thư  cuối cùng của Bác Hồ  gửi ngành Giáo dục và Đào tạo,  
ngày 15­10­1968, một lần nữa, Bác nêu rõ: "Giáo dục nhằm đào tạo những  
người kế tục sự nghiệp cách mạng to lớn của Ðảng và nhân dân ta, do đó các  
ngành, các cấp đảng và chính quyền địa phương phải thật sự quan tâm hơn nữa  
đến sự nghiệp này, phải chăm sóc nhà trường về mọi mặt, đẩy sự  nghiệp giáo  
dục của ta lên những bước phát triển mới". Trong Di chúc, Bác nhấn mạnh 
trách nhiệm của Ðảng đối với việc chăm sóc, giáo dục thế  hệ  trẻ: " Ðảng cần  
phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ  thành những  
người thừa kế xây dựng xã hội chủ nghĩa vừa "hồng" vừa "chuyên". Bồi dưỡng 
thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết.
Nhiệm vụ  của ngành Giáo dục và Đào tạo trong thời kì CNH ­ HĐH và 
hội nhập quốc tế vô cùng quan trọng đó là: “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực  
và bồi dưỡng nhân tài”. Vì vậy học sinh được xác định là đối tượng đặc biệt  
quan trọng trong hoạt động dạy ­ học của nhà trường. Vấn đề duy trì sĩ số học 
sinh trong nhà trường, đặc biệt là học sinh dân tộc là vấn đề  quan trọng được 
đặt ra không chỉ đối với nhà trường, với ngành giáo dục mà là vấn đề cần được 
sự quan tâm của toàn xã hội. 
Từ  khi được bổ  nhiệm làm công tác quản lí tại Trường tiểu học Dray  
Sáp, cùng với tập thể sư phạm nhà trường, tôi luôn trăn trở, suy nghĩ: Phải làm 
thế nào để duy trì sĩ số học sinh? Có duy trì được sĩ số học sinh dân tộc thì mới 
nâng cao được hiệu quả  giáo dục. Những học sinh thất học là mối nguy hiểm 
lớn cho xã hội, các em dễ dàng dính vào các tệ nạn xã hội, dễ dàng bị kẻ xấu lôi  
kéo, dụ  dỗ…Các em  sau này lớn lên nếu không học hành đầy đủ  liệu có tìm  
được một công việc ổn định, ít nhất cũng tự nuôi sống bản thân mà không phải  
phụ thuộc vào người khác.
Người dạy “Dù khó khăn đến đâu cũng phải tiếp tục thi đua dạy tốt và  


học tốt”. Trường Tiểu học Dray Sáp mà tôi đang công tác là nơi mà học sinh chủ 
yếu là đồng bào dân tộc thiểu số, chiếm gần 60% số học sinh của toàn trường , 
các em còn nhút nhát, rụt rè, ngại giao tiếp.  Bên cạnh đó vốn tiếng Việt của các 
em hạn chế, Các em chỉ nói tiếng Việt khi ở trường còn khi về với gia đình,  các 
em giao tiếp với bố mẹ, cộng đồng bằng tiếng mẹ đẻ.  Đó chính là nguyên nhân 
dẫn đến việc hình thành và phát triển kĩ năng sử  dụng tiếng Việt của các em  
gặp nhiều khó khăn, không nói thành thạo tiếng Việt là một trong những nguyên 
nhân làm cho các em ngại đến trường, đến lớp.
Đa số cha mẹ các em chủ yếu làm nông nên họ ít quan tâm đến việc học  
hành, việc giáo dục con cái ở nhà. Thậm chí nhiều phụ huynh khoán trắng việc 
         Người thực hiện:  Trần Thị Nguyệt – Trường TH Dray Sáp Trang 1


SKKN: Một số biện pháp quản lý chỉ đạo việc duy trì sĩ số học sinh dân tộc  
trường Tiểu học Dray Sáp

giáo dục cho nhà trường, không quan tâm, gần gũi con cái nên không phát hiện  
những biểu hiện tiêu cực trong các em, nhất là các em ham chơi, mê games  
thường xuyên trốn học. Bên cạnh đó một số em có hoàn cảnh đặc biệt như: chỉ 
có mẹ, không có bố hoặc có bố mà không có mẹ nên thiếu sự quản lý, giáo dục;  
một số em lớn tuổi, ngại đến lớp sợ các bạn trêu chọc, chỉ muốn ở nhà chăn bò, 
làm thuê kiếm tiền.
Bên cạnh đó, một số bộ phận giáo viên còn thiếu trách nhiệm, sợ khó, sợ 
khổ. Giáo viên  đến lớp chỉ biết dạy cho xong rồi về không quan tâm đến lí do 
vì sao hôm nay học sinh lại nghỉ  học, không gần gũi tìm hiểu tâm tư, nguyện  
vọng xem các em muốn gì? Cần gì? Các em nghĩ lâu ngày không đến vận động, 
cứ như vậy dần dần học sinh sẽ nghỉ học lâu ngày và không muốn đến lớp nữa.
Để  thực hiện tốt mục tiêu giáo dục, một trong những nhiệm vụ  quan 
trọng ngành đặt ra cho mỗi địa phương, mỗi đơn vị trường học chính là công tác 
đảm bảo duy trì sĩ số. Sự phối kết hợp tốt giữa nhà trường, gia đình và xã hội  là 

tiền đề  đảm bảo cho việc duy trì sĩ số học sinh nói chung và học sinh dân tộc 
nói riêng, góp phần nâng cao chất lượng dạy học của nhà trường.
Trong thực tiễn, việc vận dụng nhiều biện pháp nhằm duy trì sĩ số  đối 
với học sinh dân tộc đã được các cấp triển khai nhưng chưa có tính khả  thi, 
chưa mang lại hiệu quả thiết thực.  Ở một số trường trong địa bàn huyện, học  
sinh vẫn nghỉ học nhiều, tỷ lệ chuyên cần chưa cao.
Xuất phát từ  thực tế  trên,  là người quản lý các hoạt động chuyên môn 
trong nhà trường. Tôi nhận thấy nhà trường vẫn luôn giữ  vai trò chủ  đạo trong 
việc giúp các em yên tâm học tập, không trốn học, bỏ  học cũng như  vận động 
thuyết phục học sinh bỏ học trở lại trường và xem việc đến trường để học các 
môn học là mục tiêu của chính các em.  Với ý tưởng đã được trải nghiệm và 
thực tiễn kiểm chứng của bản thân, nên tôi chọn đề tài “Một số biện pháp quản  
lý chỉ đạo việc  duy trì sĩ số học sinh dân tộc trường tiểu học Dray Sáp”. Từ đó 
đề xuất một số biện pháp quản lý chỉ đạo việc duy trì sĩ số  học sinh dân tộc đã 
được áp dụng đạt hiệu quả tại đơn vị.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
a. Mục tiêu của đề tài
­ Xác định thực trạng về việc duy trì sĩ số học sinh dân tộc ở trường Tiểu 
học Dray Sáp.
­ Đưa ra một số biện pháp quản lý chỉ đạo nhằm duy trì sĩ số học sinh dân 
tộc của nhà trường.
b. Nhiệm vụ của đề tài
­ Nghiên cứu thực trạng về việc duy trì sĩ số học sinh dân tộc tại trường.
         Người thực hiện:  Trần Thị Nguyệt – Trường TH Dray Sáp Trang 2


SKKN: Một số biện pháp quản lý chỉ đạo việc duy trì sĩ số học sinh dân tộc  
trường Tiểu học Dray Sáp

­ Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về biện pháp quản lý chỉ đạo đối 

với việc duy trì sĩ số học sinh dân tộc.
­ Đề  xuất tổ  chức thực nghiệm một số  biện pháp quản lý chỉ  đạo việc 
duy trì sĩ số học sinh dân tộc (phân hiệu buôn Kuôp) trường Tiểu học Dray Sáp, 
góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường.
3. Đối tượng nghiên cứu 
Nghiên cứu trong khuôn khổ  một số  biện pháp quản lý chỉ  đạo việc duy 
trì sĩ số học sinh dân tộc (phân hiệu buôn Kuôp) trường Tiểu học Dray Sáp.
4. Giới hạn của đề tài
Giáo viên, học sinh trường Tiểu học Dray Sáp  ­  xã Dray Sáp  ­  huyện 
Krông Ana ­ tỉnh Đắk Lắk.
Thời gian nghiên cứu: Năm học 2016 ­ 2017.
5. Phương pháp nghiên cứu
­ Phương pháp nghiên cứu lý luận. 
­ Phương pháp trải nghiệm thực tiễn, điều tra, quan sát, phỏng vấn, đàm 
thoại, giao tiếp. 
­ Phương pháp thống kê, phân tích và tổng hợp.
II. Phần nội dung 
1. Cơ sở lý luận
Làm thế nào để duy trì sĩ số  học sinh dân tộc trong nhà trường? Làm thế 
nào để  thầy cô hằng ngày không phải đến trường rồi lại chạy xe đi tìm học  
sinh? Làm thế nào để nâng cao chất lượng giáo dục?...Đó là những trăn trở của 
tất cả những giáo viên giảng dạy  ở  vùng có phần đông là học sinh dân tộc nói 
chung và trường Tiểu học Dray Sáp nói riêng. Người thầy dạy để học sinh nắm 
được kiến thức đã khó, bởi vì vốn tiếng Việt của các em còn rất hạn chế nhưng 
việc duy trì sĩ số còn khó khăn hơn gấp nhiều lần.
Theo cô Nguyễn Thị  Thắm là một trong những giáo viên có thâm niên 
giảng dạy lâu năm nhất tại phân hiệu buôn Kuôp đã khẳng định: “Muốn có học  
sinh phải biết học sinh”. Điều đó có nghĩa là, giáo viên phải biết hoàn cảnh, 
điều kiện sinh hoạt, học tập của học sinh nếu muốn duy trì sĩ số và đảm bảo tỷ 
lệ chuyên cần.

Trên cơ sở các văn bản chỉ đạo của các cấp nhà trường đã chỉ đạo các bộ 
phận xây dựng kế hoạch cụ thể cho mỗi lĩnh vực sát với tình hình thực tế  của 
đơn vị, triển khai, tổ  chức thực hiện nghiêm túc. Nhà trường khi xây dựng kế 
hoạch đầu năm học, mục tiêu duy trì sĩ số  được nhà trường quan tâm hàng đầu 
         Người thực hiện:  Trần Thị Nguyệt – Trường TH Dray Sáp Trang 3


SKKN: Một số biện pháp quản lý chỉ đạo việc duy trì sĩ số học sinh dân tộc  
trường Tiểu học Dray Sáp

vì học sinh có tham gia học tập chuyên cần thì mới nâng được chất lượng dạy  
và học.
Trong những năm qua nhà trường nhận được sự quan tâm của Đảng, Nhà  
nước, Chính phủ như: Hỗ trợ chế độ chính sách cho học sinh vùng đồng bào dân 
tộc; đầu tư xây dựng cơ  sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho dạy và học, tổ 
chức tập huấn nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ  quản lý, giáo viên…cùng 
với đó là sự đổi mới mạnh mẽ trong công tác quản lí chỉ đạo: Tổ chức dạy học 
theo chuẩn kiến thức, kĩ năng và định hướng phát triển năng lực học sinh; điều 
chỉnh nội dung dạy học phù hợp đặc điểm tâm sinh lí học sinh tiểu học; tăng 
cường giáo dục đạo đức, giáo dục kĩ năng sống cho học sinh... Đa số  giáo viên 
tích cực trong việc đổi mới phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm;  
phù hợp với môn, lớp mình phụ trách tạo ra giờ học sôi nổi, thu hút các em đến 
trường.
Bên cạnh những kết quả đạt được, nhà trường vẫn còn nhiều băn khoăn, 
trăn trở như: Ở một số lớp còn có một số học sinh đi học chưa chuyên cần, chất 
lượng giáo dục thấp, tỷ lệ học sinh chưa hoàn thành các môn học còn cao. 
Hằng năm UBND huyện Krông Ana cùng với Phòng giáo dục và Đào tạo 
huyện tổ  chức mở  hội nghị  bàn về  vấn đề  duy trì sĩ số  học sinh, nhìn nhận  
thẳng thắn trước những nguyên nhân khiến học sinh nghỉ  học để  từ  đó đưa ra  
những giải pháp thiết thực với sự vào cuộc của tất cả các ban ngành, đoàn thể, 

chính quyền địa phương. Đây là một việc làm hết sức có ý nghĩa trước khi năm 
học mới gần kề.
Trong các buổi hội nghị, đã có rất nhiều ý kiến bàn cãi, có nhiều giải pháp 
được cho là mang lại hiệu quả được đưa ra n hưng liệu rằng có bao nhiêu đơn vị 
đã tổ  chức thực hiện tốt công tác duy trì sĩ số   HSDT? nói thêm về  vấn đề  này, 
thầy Võ Văn Bình (Tổ  khối trưởng khối 4) bày tỏ: “Chúng tôi vẫn thường nói  
đùa nhưng rất thật với nhau rằng : “không trò đố  thầy làm nên”. Phải chăng ở 
những vùng có đông học sinh dân tộc thiểu số  nói chung và trường Tiểu học 
Dray Sáp nói riêng, nếu học trò không đến trường chuyên cần, tệ hơn là bỏ học 
thì đây chính là thất bại của người thầy.
Do đó, để làm tốt công tác duy trì sĩ số học sinh,từng bước nâng cao chất  
lượng  dạy  ­  học, chúng ta không phải là cứ  nhồi nhét kiến thức cho học sinh 
bằng cách bắt học sinh phải học nhiều, học thêm… mà phải hiểu rằng sự ham 
thích học tập ở học sinh chủ yếu hình thành thông qua các hoạt động dạy học và 
vui chơi ở trường. Vì vậy để thu hút học sinh đến trường, nhà trường phải luôn  
tạo một bầu không khí, một môi trường học tập thật thân thiện để mỗi học sinh 
thấy vui thích khi đến trường. 
Bên cạnh đó là sự  phối kết hợp chặt chẽ, cùng chung tay vào cuộc giữa  
nhà trường, cha mẹ học sinh, các ban ngành, đoàn thể chính quyền địa phương.
         Người thực hiện:  Trần Thị Nguyệt – Trường TH Dray Sáp Trang 4


SKKN: Một số biện pháp quản lý chỉ đạo việc duy trì sĩ số học sinh dân tộc  
trường Tiểu học Dray Sáp

Duy trì sĩ số sinh dân tộc tại đơn vị mà tôi đang công tác là một hoạt động 
mang tính lâu dài, đòi hỏi người lãnh đạo phải linh hoạt, sáng tạo, nhạy bén, có 
niềm tin trong quá trình chỉ đạo tổ chức thực hiện. Xác định nhiệm vụ duy trì sĩ 
số  học sinh là nhiệm vụ chính trị hàng đầu, do đó tập thể sư phạm nhà trường 
luôn nỗ lực hết mình để các em thấy được tấm lòng của thầy cô mà  vui vẻ đến 

trường, chăm chỉ  học tập, để các em xem trường, lớp như ngôi nhà thứ  hai của 
mình. 
2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu
Trường tiểu học Dray Sáp có rất nhiều ưu thế để đẩy mạnh công tác duy  
trì sĩ số, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện đối với học sinh, đặc biệt là 
học sinh dân tộc như:
Nhờ  sự chỉ đạo sát sao của Phòng giáo dục và Đào tạo, sự  quan tâm của  
chính quyền địa phương, đặc biệt là cấp ủy, ban tự quản thôn Anna, buôn Kuôp 
và sự vào cuộc mạnh mẽ của Ban đại diện cha mẹ học sinh nhà trường.
Ban giám hiệu năng động, nhạy bén, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách 
nhiệm, luôn tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên, nhân viên tham gia các lớp  
bồi dưỡng để  nâng cao trình độ  chuyên môn, nghiệp vụ. Bên cạnh đó đội ngũ  
giáo viên đoàn kết,quan tâm giúp đỡ  lẫn nhau trong công việc cũng như  trong  
cuộc sống hàng ngày.
Đội ngũ GV phần lớn là lực lượng trẻ, năng động, nhiệt tình, tâm huyết, 
trình độ chuyên môn được đào tạo đạt chuẩn và trên chuẩn.
Bản thân tôi có kinh nghiệm trong công tác vận động học sinh dân tộc  
thiểu số; có hiểu biết về phong tục, tập quán của đồng bào dân tộc, có vốn kiến  
thức cơ bản về tiếng dân tộc.
Một số cha mẹ học sinh quan tâm đến việc học tập của con em. 
Cơ sở vật chất, trang thiết bị, đồ dùng dạy học cơ bản đảm bảo phục vụ 
cho công tác dạy và học. Học sinh dân tộc thiểu số có đầy đủ sách vở, đồ dùng 
học tập.
Tỷ  lệ  bình quân học sinh/lớp thấp so với mặt bằng chung của huyện  
(Trung bình 20 HS/ lớp) nên có nhiều thuận lợi trong công tác duy trì sĩ số, nâng 
cao hiệu quả và chất lượng giáo dục.
Bên cạnh những thuận lợi nêu trên thì công tác duy trì sĩ số  học sinh dân 
tộc tại trường Tiểu học Dray Sáp còn gặp không ít khó khăn:
Trường đóng trên địa bàn xã khó khăn, điểm lẻ  cách điểm chính gần 10  
cây số. Địa bàn dân cư  rộng, đường sá đi lại mặc dù đang được cải tạo, nâng  

cấp nhưng việc đi lại vẫn còn nhiều khó khăn.

         Người thực hiện:  Trần Thị Nguyệt – Trường TH Dray Sáp Trang 5


SKKN: Một số biện pháp quản lý chỉ đạo việc duy trì sĩ số học sinh dân tộc  
trường Tiểu học Dray Sáp

Trình độ  giáo viên không đồng đều, một số  giáo viên chậm đổi mới,  còn 
hạn chế về kiến thức, kỹ năng sư phạm, kỹ năng xử lý tình huống; thiếu nhạy 
bén trong việc sử dụng phương pháp, hình thức tổ chức dạy học...khả năng diễn 
thuyết khi đi vận động, tuyên truyền tới CMHS chưa thực sự thuyết phục.
Trình độ công nghệ thông tin của một số giáo viên (giáo viên lớn tuổi) còn 
nhiều hạn chế, gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận phần mềm hệ  thống  
quản lý thông tin trường học VnEdu.
Một số  giáo viên được phân công giảng dạy tại phân hiệu buôn Kuôp 
chưa sử dụng thành thạo tiếng của đồng bào dân tộc nơi đây (Dân tộc M’nông; 
Êđê) nên ảnh hưởng nhiều tới quan hệ, giao tiếp.
Học sinh đồng bào dân tộc tại chỗ chiếm gần 60%, đa số các em còn nhút 
nhát, rụt rè, ngại giao tiếp; việc tiếp thu bài còn nhiều hạn chế, học trước, quên 
sau; một số  học sinh kỹ năng đọc còn chậm, còn có học sinh viết được nhưng  
đọc còn phải đánh vần (một số học sinh lớp 2, lớp 3).
Ngôn ngữ  bất đồng, vốn tiếng Việt của các em còn hạn chế, hàng ngày 
các em giao tiếp với bố mẹ, cộng đồng bằng tiếng mẹ đẻ. Đó chính là nguyên 
nhân chính dẫn đến việc hình thành và phát triển kĩ năng sử  dụng Tiếng Việt  
của các em gặp nhiều khó khăn.
Trình độ  dân trí thấp, đa số  cha mẹ các em đều làm nông, điều kiện kinh 
tế còn nhiều khó khăn nên chưa thật sự quan tâm, chăm lo, nhắc nhở các em đến  
trường, thường bắt con em ở nhà chăn bò, lên nương, làm rẫy, trông em, nhất là 
vào mùa vụ.

Công tác tuyên truyền , vận động học sinh, CMHS; sự  phối kết hợp với  
các tổ chức chính quyền, đoàn thể ở thôn, buôn chưa hiệu quả. Họ còn phó mặc  
cho nhà trường, coi đó là trách nhiệm của nhà trường phải làm.
Trang thiết bị, cơ sở vật chất còn thiếu thốn, chưa đáp ứng yêu cầu dạy 
học hai buổi/ngày.
Việc tổ  chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ  lên lớp, giao lưu, tuyên 
truyền... nhằm thu hút trẻ đến trường còn tổ chức hời hợt mang tính hình thức,  
chưa chú trọng đến hiệu quả, chưa được quan tâm đúng mức.
Các thực trạng nói trên bắt nguồn từ các nguyên nhân sau:
*Nguyên nhân chủ quan: 
Đội ngũ giáo viên còn nhiều hạn chế  trong việc sử dụng ngôn ngữ   ở địa  
phương (đồng bào dân tộc M’nông, Êđê). Phong tục tập quán, lối sống, thói 
quen sinh hoạt đã hình thành từ lâu đời, muốn thay đổi được những vấn đề trên 
là một việc không dễ  dàng. Do đó học sinh không thích đến trường học tập,  
ngại giao tiếp với giáo viên một phần bắt nguồn từ nguyên nhân trên.
         Người thực hiện:  Trần Thị Nguyệt – Trường TH Dray Sáp Trang 6


SKKN: Một số biện pháp quản lý chỉ đạo việc duy trì sĩ số học sinh dân tộc  
trường Tiểu học Dray Sáp

Một số  giáo viên không có chí tiến thủ, chậm đổi mới phương pháp dạy 
học, chỉ đến lớp dạy hết tiết, hết buổi rồi về, chưa thật sự phát huy hết vai trò, 
trách nhiệm của một người giáo viên, chưa gần gũi nắm bắt tâm lí xem các em 
cần gì? Mong muốn điều gì? nên  chưa có được hiệu quả  tốt nhất   trong việc 
nâng cao chất lượng dạy ­ học, từ đó học sinh không hứng thú học tập, dẫn đến 
chán học, bỏ học.
Việc luân chuyển giáo viên giảng dạy giữa hai điểm trường theo định kì 
hai năm (cứ  hai năm dạy  ở  phân hiệu buôn Kuôp thì lại chuyển ra ngoài điểm 
chính dạy). Đây là một biện pháp tích cực, đảm bảo sự  công bằng cho giáo 

viên.Tuy nhiên việc tổ  chức luân chuyển giáo viên còn mang tính cứng nhắc, 
chưa có tính kế  thừa. Nhà trường chưa chú trọng trong phân công chuyên môn  
phải giữ lại một số  giáo viên có tiếng nói, uy tín tốt giảng dạy lâu năm ở  một 
điểm trường để cùng phối hợp tuyên truyền, vận động các ban ngành, đoàn thể 
cùng chung tay với nhà trường trong việc duy trì sĩ số học sinh.
Một bộ  phận giáo viên chủ  nhiệm lớp, giáo viên dạy thay kể  cả  một số 
giáo viên bộ môn chưa thực sự có tinh thần trách nhiệm. Họ thường có tâm lí sợ 
phải vào dạy ở điểm trường buôn Kuôp, chưa xác định rõ vai trò nhiệm vụ của  
bản thân trong công tác duy trì sĩ số học sinh, thiếu nhạy bén, chưa có biện pháp  
phù hợp để ngăn chặn các vấn đề phát sinh xảy ra trong quá trình giảng dạy.
Cơ  sở  vật chất tại phân hiệu buôn Kuôp còn thiếu phòng học (thiếu  03 
phòng học) nên chưa đủ điều kiện về cơ sở vật chất để  đảm bảo tổ  chức dạy  
học hai buổi/). Hệ  thống tường rào hư  hỏng, công trình vệ  sinh xuống cấp, 
thiếu nguồn nước sạch phục vụ nhu cầu thiết yếu cho giáo viên, học sinh. Một  
số hộ chăn nuôi làm chuồng dê, chuồng gà sát ngay trường học, mùi hôi thối của 
phân gia súc, gia cầm bốc lên gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. 
Bản thân một số em không ý thức được tầm quan trọng của việc học. Các  
em coi việc đi học như  là một nhiệm vụ bắt buộc phải đi, thích thì các em lên  
lớp, không thích thì các em  ở  nhà đi chơi, có khi vẫn lên trường nhưng không  
vào lớp học, thấy thầy cô ra là chạy trốn, đi lang thang ở bên ngoài hoặc vào khu 
du lịch Thác Dray Nu để đi xin tiền khách du lịch, lượm vỏ lon bia bán lấy tiền 
tiêu xài. 
Vai trò lãnh, chỉ đạo của cấp  ủy Đảng, chính quyền địa phương chưa đủ 
mạnh, quyết tâm chưa cao, sự  phối hợp với nhà trường chưa thường xuyên, 
chưa có những biện pháp triệt để  nhằm ngăn chặn tình trạng học sinh không 
đến trường, đi học chưa chuyên cần.
Các tổ  chức đoàn thể  chưa thực sự  vào cuộc, thiếu sự  hợp tác nên việc  
tuyên truyền vận động nhân dân chưa kịp thời, chưa thật sự hiệu quả. Một số 
gia đình học sinh khi đến vận động thì hứa mai sẽ cho con em đi học nhưng rồi  


         Người thực hiện:  Trần Thị Nguyệt – Trường TH Dray Sáp Trang 7


SKKN: Một số biện pháp quản lý chỉ đạo việc duy trì sĩ số học sinh dân tộc  
trường Tiểu học Dray Sáp

đâu lại vào đấy, học sinh nghỉ vẫn cứ nghỉ, hiện tượng này xảy ra thường xuyên  
như cơm bữa nhưng chưa có biện pháp xử lý triệt để.
Trong các cuộc họp hội đồng, các buổi sinh hoạt chuyên môn vấn đề duy 
trì sĩ số  học sinh mặc dù được đề  cập nhiều nhưng một số  biện pháp chỉ  đạo  
chưa cụ thể, chưa xử lý thật hiệu quả sau kiểm tra.
*Về nguyên nhân khách quan

Trường TH Dray Sáp nằm địa bàn vô cùng khó khăn, phức tạp. Trường có 
hai điểm trường (điểm chính đặt tại thôn An Na, điểm lẻ  đặt tại buôn Kuôp).  
Cách xa nhau gần 10 km nhưng chỉ một điểm lẻ được hưởng chế độ ưu đãi theo  
Nghị định116/NĐ – CP; đường sá đi lại mặc dù đã được nhà nước đầu tư nâng 
cấp nhưng vẫn còn nhiều khó khăn. Vào mùa nắng bụi bặm, vào mùa mưa thì 
đường trơn trượt, lầy lội. 
Học sinh đồng bào dân tộc chiếm gần 60%, các em còn nhút nhát, rụt rè, 
ngại giao tiếp. Ngôn ngữ  bất đồng, vốn tiếng Việt của các em còn hạn chế, 
hàng ngày các em giao tiếp với bố mẹ, cộng đồng bằng tiếng mẹ  đẻ  nên việc  
tiếp thu bài còn chậm , học trước, quên sau; một số  học sinh kỹ  năng đọc còn  
chậm, còn có học sinh viết được nhưng đọc còn yếu, còn phải đánh vần từng 
chữ, tiếp thu kiến thức còn chậm dẫn đến chán học rồi bỏ học. 
Một số  gia đình phụ  huynh có hoàn cảnh khó khăn về  kinh tế, lại đông 
con, đất sản xuất ít, không màu mỡ  do không có tiền đầu tư. Cuối năm mất 
mùa, nợ nần họ nên việc học hành đối với con không được quan tâm nhiều. Một  
số  CMHS bắt con ở nhà chăn bò, làm rẫy  phụ giúp gia đình đặc biệt là vào mùa 
vụ. 

Những năm gần đây tình trạng học sinh bỏ  học không còn diễn ra nhiều 
như  những năm học  trước, nhưng hiện tượng nghỉ  học cách nhật, đặc biệt là 
vào mùa vụ hay các dịp lễ tết vẫn luôn xảy ra. Là người làm công tác quản lý,  
tôi hiểu rõ vấn đề cấp bách của công tác duy trì sĩ số. Học sinh bỏ học, bỏ tiết  
sẽ không lĩnh hội được kiến thức một cách đầy đủ, do đó ảnh hưởng rất lớn 
đến việc nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường.
Trước thực trạng đó, người quản lý phải hiểu rõ và phải xác định cho  
mình một trách nhiệm lớn lao nặng nề  và phải biết vận dụng sáng tạo, linh 
hoạt các biện pháp trong quản lý giáo dục; người quản lý còn phải thật sự tâm 
huyết, phải nêu cao tinh thần, ý thức trách nhiệm, gương mẫu đi đầu trong mọi  
hoạt động chuyên môn của nhà trường mà chú trọng là công tác quản lý chỉ đạo 
việc duy trì sĩ số  học sinh để  nâng cao chất lượng dạy  ­ học, hoàn thành xuất 
sắc mọi nhiệm vụ được giao.

         Người thực hiện:  Trần Thị Nguyệt – Trường TH Dray Sáp Trang 8


SKKN: Một số biện pháp quản lý chỉ đạo việc duy trì sĩ số học sinh dân tộc  
trường Tiểu học Dray Sáp

3. Nội dung và hình thức của giải pháp
a. Mục tiêu của giải pháp
Trong khuôn khổ đề tài này, bản thân đặt ra những mục tiêu như sau:
­ Thực hiện công tác tuyển sinh vào lớp 1; duy trì sĩ số học sinh dân tộc.
­ Chú trọng tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc.
­ Xây dựng một đội ngũ nhà giáo thực sự  có tinh thần yêu nghề, tận tụy 
với công việc. 
­ Giáo viên làm công tác phổ cập thường xuyên trao đổi và nắm bắt thông 
tin từ Ban cán sự của các lớp và giáo viên chủ nhiệm.
­   Sự   phối   hợp,   liên   lạc   thường   xuyên   giữa   Giáo   viên   chủ   nhiệm   với 

CMHS để nắm tình hình đối với từng học sinh để có hướng xử lý kịp thời.
­ Sự phối hợp tốt giữa Tổng phụ trách Đội ­ Giáo viên chủ nhiệm ­ BGH 
nhà trường trong việc xây dựng các hoạt động NGLL để  thu hút học sinh đến  
trường.
­ Phối hợp với cấp  ủy  Đảng, chính quyền địa phương, đoàn thể  thôn  
buôn.
­ Thực hiện nghiêm túc việc bàn giao chất lượng.
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp
tộc:

Thứ nhất : Chỉ đạo công tác tuyển sinh vào lớp 1, duy trì sĩ số học sinh dân 

Ngay từ  trong hè, giáo viên làm công tác phổ  cập phải liên hệ  với 
trường mẫu giáo trong địa bàn để  nắm danh sách trẻ  5 tuổi sẽ  vào lớp 1  
trong năm học mới để  kịp thời huy động tất cả  các em đến trường.  Nhà 
trường lập danh sách Hội đồng tuyển sinh gửi PGD ra quyết định, xây dựng kế 
hoạch tuyển sinh của trường và trình Phòng GD&ĐT phê duyệt. 
Báo cáo với UBND xã Dray Sáp để phối hợp với ban tự quản thôn An Na,  
buôn Kuôp và các đoàn thể trên điạ bàn cùng thực hiện.

Tổ chức điều tra, thống kê số liệu học sinh đầu năm, nắm danh sách 
học sinh học tại địa bàn và học sinh có hộ  khẩu trong xã đến học tại các 
trường bạn. Nhà trường tuyệt đối không tuyển học sinh nhập học trái 
tuyến nếu không có ý kiến chỉ đạo của Phòng giáo dục.
Ngay từ đầu năm học mới, tôi cũng chỉ đạo giáo viên được phân công  
làm công tác phổ  cập của trường phối hợp chặt chẽ  với giáo viên chủ 
nhiệm các lớp để nắm tình hình các em có nguy cơ bỏ học ở các năm học  
         Người thực hiện:  Trần Thị Nguyệt – Trường TH Dray Sáp Trang 9



SKKN: Một số biện pháp quản lý chỉ đạo việc duy trì sĩ số học sinh dân tộc  
trường Tiểu học Dray Sáp

trước, lập danh sách các đối tượng lười học, vắng học thường xuyên, có 
nguy cơ bỏ học xác định nguyên nhân, nắm bắt hoàn cảnh để  theo dõi, có 
các giải pháp xử lý kịp thời.
Ví dụ: Lớp 3C do thầy Nguyễn Hoài Nam chủ  nhiệm có 02 em thường  
xuyên nghỉ học trong năm học trước là em: Y’Nisa Niê; Y Viết Êban. Qua nắm 
bắt tình hình do giáo viên báo lại, tôi đã phân công cho cô Nguyễn Thị Kim Anh 
là giáo viên phụ trách công tác phổ cập của trường phối hợp với thầy Nam đến  
nhà học sinh tìm hiểu nguyên nhân, có biện pháp hỗ  trợ  kịp thời để  vận động  
các em đến lớp.
Nhà trường xây dựng kế hoạch chi tiết, cụ thể chỉ đạo giáo viên, các bộ 
phận trong nhà trường từng bước khắc phục khó khăn để vận động học sinh đi 
học chuyên cần.
Nhà trường làm tương đối tốt công tác xã hội hoá giáo dục cải tạo cơ sở 
vật chất, trang thiết bị, đồ dùng dạy học cơ bản đảm bảo phục vụ cho công tác 
dạy và học. Tham mưu đầu tư cải tạo cơ sở vật chất, cảnh quang xây dựng  

môi trường học tập thân thiện, thu hút các em đến trường.

Thứ hai: Chỉ đạo tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc:
Có thể thấy, không như học sinh người Kinh, trước khi đến trường đa số 
học sinh người dân tộc thiểu số chưa thể sử dụng được tiếng Việt. Một số học 
sinh khi vào học  ở  các lớp mẫu giáo mới có được vốn kiến thức ban đầu về 
tiếng Việt, qua giao tiếp các em biết sử dụng được những mẫu hội thoại ngắn, 
những kỹ năng cơ bản như nghe, nói, đọc…nhưng vì nhiều lý do những kỹ năng  
cơ bản đó dần dần mai một và đã không theo các em bước vào lớp 1.
Trong sinh hoạt gia đình, cộng đồng các em học sinh chỉ  sử  dụng tiếng  
mẹ đẻ nên khi bước ra thế  giới bên ngoài, vào môi trường giáo dục phổ  thông, 

tiếng Việt trở  thành ngôn ngữ  thứ  hai của các em. Đến trường, đến lớp là các  
em bước đến môi trường sinh hoạt hoàn toàn xa lạ, tâm lý rụt rè, e sợ  luôn 
thường trực đã làm giảm tốc độ  tiếp thu và hứng thú học tập.   Đây là nguyên 
nhân chính dẫn đến việc học sinh không muốn đến trường hoặc ngại giao tiếp 
khi đến lớp, từ  đó các em dễ  tự  ti trước bạn bè và thầy cô...Việc cung cấp kĩ  
năng sử  dụng tiếng Việt nhằm giúp các em tự  tin hơn vào bản thân để  từng 
bước chiếm lĩnh kiến thức bằng chính khả năng của mình, khi các em có đủ  tự 
tin trong giao tiếp và học tập thì các em sẽ tự giác đến trường, thích đến trường. 
Để  thực hiện tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc đạt hiệu quả,  
nhà trường đã thực hiện chỉ đạo một số nội dung như:
Nhà trường xây dựng kế hoạch, triển khai, chỉ đạo, hướng dẫn giáo viên 
thực hiện việc dạy tăng cường tiếng Việt cho HSDT ngay từ đầu năm học, thể 
hiện ở giáo án và trong từng tiết dạy của giáo viên.
         Người thực hiện:  Trần Thị Nguyệt – Trường TH Dray Sáp Trang 10


SKKN: Một số biện pháp quản lý chỉ đạo việc duy trì sĩ số học sinh dân tộc  
trường Tiểu học Dray Sáp

Ví dụ: Chỉ đạo việc chuẩn bị Tiếng Việt cho trẻ trước khi vào lớp 1 (sau  
khi tuyển sinh); tăng thời lượng môn Tiếng Việt lớp 1  ở phân hiệu buôn Kuôp  
từ  350 tiết lên 500 tiết theo cách tổ  chức dạy học 2 buổi/ngày; điều chỉnh thời  
lượng dạy học các môn học khác  để  tập trung  ưu tiên  dạy hai môn Tiếng  
Việt,Toán. Mặc dù còn thiếu 03phòng học nhưng nhà trường đã linh động sắp 
xếp phân công chuyên môn để ưu tiên tăng buổi đối với khối lớp 1 và khối lớp 5 
ở buôn Kuôp lên 8 buổi/ tuần.
Thành lập tổ tư vấn về tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc.
Chỉ đạo chú trọng tăng cường tiếng Việt cho học sinh thông qua các môn  
học, bài học, các tiết sinh hoạt tập thể, hoạt động NGLL, tăng cường luyện  
nói ;chú trọng phần luyện viết cho học sinh; tổ chức giao lưu tiếng Việt, các trò 

chơi, múa hát, tiểu phẩm đơn giản với các tình huống phù hợp với thực tế trong  
cuộc sống hàng ngày. Tổ chức phương pháp học theo nhóm, đóng vai trong phân 
môn tập đọc, kể chuyện, tập làm văn....tạo cơ hội cho các em bày tỏ ý kiến của 
mình, giúp các em mạnh dạn, tự  tin trước tập thể. Khuyến khích học sinh  ở 
trường cũng như về nhà giao tiếp bằng tiếng Việt.
Ví dụ: Trong tiết kể chuyện, giáo viên có thể  tổ  chức cho học sinh đóng  
vai các nhân vật trong câu chuyện để  các em thêm mạnh dạn, tự  tin. Tiết sinh 
hoạt tập thể sau khi đánh giá hoạt động tuần qua của lớp, triển khai kế hoạch  
tuần tới, giáo viên có thể  tổ  chức cho học sinh chơi một số  trò chơi hoặc tổ 
chức thi múa hát cá nhân, tập thể, diễn kịch...học sinh cùng nhau giao lưu để 
tăng cường tiếng Việt cho các em.

Học sinh tham gia giao lưu văn nghệ

         Người thực hiện:  Trần Thị Nguyệt – Trường TH Dray Sáp Trang 11


SKKN: Một số biện pháp quản lý chỉ đạo việc duy trì sĩ số học sinh dân tộc  
trường Tiểu học Dray Sáp

Tham gia sinh hoạt cụm chuyên môn để  học hỏi, chia sẻ  kinh nghiệm. 
Sinh hoạt chuyên môn trong nhà trường chú trọng tổ  chức các chuyên đề  mang 
tính chuyên sâu như: Tăng cường tiếng Việt cho dân tộc thiểu số; Giúp học sinh  
học tốt môn tiếng Việt... sự góp ý trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm  của giáo viên 
đã giúp nhà trường từng bước  tháo gỡ  những vướng mắc trong quá trình dạy 
học, nâng cao chất lượng giáo dục cho HSDT. 

Sinh hoạt chuyên môn dự giờ thăm lớp
Chỉ đạo giáo viên tích cực đổi mới phương pháp dạy học phù hợp với đối 
tượng học sinh từng lớp; chú trọng dạy học theo phân hóa đối tượng học sinh; 

tận dụng tối đa kênh hình và đồ  dùng tự  làm, sẵn có để  sử  dụng trong giảng  
dạy. Tạo ra giờ  học sôi nổi, thân thiện thu hút các em đến trường và tự  giác  
tham gia vào các hoạt động, để các em cảm thấy “Mỗi ngày đến trường là một  
ngày vui”.

Thứ  ba:  Xây dựng một đội ngũ nhà giáo thực sự  có tinh thần yêu 
nghề, tận tụy với công việc:
Là một Phó hiệu trưởng được phân công phụ trách các hoạt động chuyên 
môn trong nhà trường, tôi luôn mong muốn tất cả  cán bộ  giáo viên trong nhà 
trường phải cùng có ý thức hợp tác, phối hợp đồng bộ trong các hoạt động bằng  
tất cả  lòng yêu nghề, yêu công việc và tinh thần trách nhiệm, tận tâm, tận lực  
với nghề  và hết lòng với học sinh. Trong đó vai trò của người  giáo viên chủ 
nhiệm là quan trọng nhất vì:“Giáo viên chủ  nhiệm chính là những người cha,  
người mẹ thứ hai của học sinh”, phải luôn quan tâm sâu sát, biết rõ hoàn cảnh 

         Người thực hiện:  Trần Thị Nguyệt – Trường TH Dray Sáp Trang 12


SKKN: Một số biện pháp quản lý chỉ đạo việc duy trì sĩ số học sinh dân tộc  
trường Tiểu học Dray Sáp

từng em để  kịp thời động viên, giúp đỡ. Tại trường Tiểu học Dray Sáp, nhiều 
năm qua công tác chủ nhiệm đã phát huy tối đa hiệu quả.
Đầu năm học, sau khi phân công giáo viên chủ  nhiệm. Tôi chỉ  đạo tất cả 
các giáo viên tiến hành phân loại học sinh theo từng nhóm đối tượng để  có sự 
quan tâm đúng mức, công bằng. Trong đó, phải đặc biệt quan tâm đến những em 
có hoàn cảnh kém may mắn như mồ côi, tàn tật bởi với các em, sự gần gũi của 
thầy­ cô giáo chính là niềm an  ủi lớn, giúp các em có động lực đến trường để 
học tập.
Ví dụ: Trường hợp em Y Ngọc Êban học lớp 2B, gia đình có hai anh em 

đều bị mù, kinh tế rất khó khăn; em H’Un Niê học lớp 3B bị não úng thủy, em  
còn bị  câm điếc bẩm sinh. Dưới sự  quan tâm, động viên ân cần của giáo viên 
chủ  nhiệm là cô Lê Thị  Thu ­ giáo viên chủ  nhiệm lớp 2B; cô Trần Thị  Thùy 
Linh giáo viên chủ nhiệm lớp 3B, một người là cô giáo có thâm niên giảng dạy  
lâu năm ở phân hiệu buôn Kuôp, một người là giáo viên trẻ mới ra trường nhưng 
rất tâm huyết và tình yêu thương học sinh, các cô đã tiếp thêm động lực cho các  
em đến trường. 
Khi học sinh bị đau hay vắng học không có lý do, tôi chỉ đạo thầy cô sắp  
xếp đến nhà thăm nom, hỏi han và động viên các em kịp thời, vận động để học  
sinh đến trường tham gia học tập trong thời gian sớm nhất. Cô Hiền là  giáo viên 
chủ nhiệm lớp 5C đã bày tỏ: “Tôi nghĩ, chỉ cần giáo viên chủ nhiệm coi mỗi học  
trò như  là một người thân trong gia đình thì chắc chắn sẽ  làm tốt vai trò của  
mình”.
Ví dụ: Em Y Do Niê học sinh lớp 4B, bị tai nạn gãy xương đùi, nhà em rất  
nghèo, cơm không đủ  ăn. Sau khi nắm bắt được tình hình, tôi đã chỉ  đạo Tổng 
phụ trách đội huy động học sinh đóng góp được 10 ki­lô­gam gạo để hỗ trợ cho 
gia đình em. Cô Lộc Thị Xoan là giáo viên chủ nhiệm cũng trích từ quỹ lớp ra số 
tiền 100.000 đồng để đến nhà thăm hỏi, động viên em. Món quà tuy nhỏ nhưng 
qua đó thấy được sự  quan tâm, hỗ  trợ  kịp thời của giáo viên sẽ  là nguồn động 
lực cho em vượt qua khó khăn để tiếp tục đến trường.
Một vấn đề  mà giáo viên cần phải lưu ý: Học sinh của chúng ta đang  ở 
lứa tuổi rất nhạy cảm cho nên người giáo viên phải hết sức thương yêu, tôn  
trọng, gần gũi, ân cần, bao dung với thái độ  nhẹ  nhàng nhưng nghiêm khắc 
trong việc giáo dục các em. Nhiều giáo viên của chúng ta bây giờ vẫn còn dùng 
những lời lẽ  nặng lời, thậm chí xúc phạm học sinh khi các em mắc lỗi. Trong 
công tác vận động, tôi đã tiếp xúc với một số  học sinh bỏ  học chỉ vì giáo viên 
nặng lời phê phán, chê trách các em, dẫn đến các em tự ái không muốn đến lớp 
nữa. Khi nắm bắt được thông tin trên, tôi đã nhắc nhở những giáo viên vi phạm  
và chấn chỉnh kịp thời. 


         Người thực hiện:  Trần Thị Nguyệt – Trường TH Dray Sáp Trang 13


SKKN: Một số biện pháp quản lý chỉ đạo việc duy trì sĩ số học sinh dân tộc  
trường Tiểu học Dray Sáp

Tôi chỉ đạo giáo viên cần phải quan tâm đặc biệt đến những học sinh có 
biểu hiện lơ là, sa sút trong học tập, kết hợp cùng gia đình tìm nguyên nhân và  
kịp  thời  bồi   dưỡng  kiến  thức.  Chỉ   đạo  tất  cả   giáo  viên  chú  trọng   đổi  mới 
phương pháp dạy học với mục đích là nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, 
góp phần giảm tỷ  lệ  học sinh chưa hoàn thành, giải quyết triệt để  tình trạng 
học sinh “ngồi nhầm lớp” từ đó sẽ giảm nguy cơ học sinh bỏ học. 
Chỉ  đạo giáo viên chủ  nhiệm phối hợp chặt chẽ  với các giáo viên dạy 
thay, giáo viên dạy các môn chuyên trong việc duy trì sĩ số đối với lớp mà mình 
tham gia giảng dạy. 
Ví dụ: Trường hợp em Y Kơ Niê, học sinh lớp 5B do thầy Dương Quang  
Hùng chủ  nhiệm. Y Kơ là một học sinh lớn tuổi, lại cao to nhất trong lớp, các 
bạn trường xuyên trêu chọc nên em cảm thấy ngại mỗi khi đến lớp, thường  
xuyên nghỉ  học. Đối với trường hợp học sinh này, tôi đã chỉ  đạo giáo viên chủ 
nhiệm cùng phối hợp với thầy Đỗ Ngọc Trìu là giáo viên dạy thay; thầy Thành, 
cô Quyên, cô Ngân…là giáo viên dạy các môn chuyên cùng xuống nhà vận động  
Y Kơ vượt qua mặc cảm đi học chuyên cần.

 

 
Ban giám hiệu cùng với giáo viên đến nhà vận động học sinh đi học

Ngoài ra còn chỉ đạo sự phối hợp chặt chẽ giữa giáo viên chủ nhiệm với  
các tổ chức đoàn thể trong nhà trường: Công đoàn, Đoàn Thanh niên, Đội thiếu 

niên cùng chung tay vào cuộc vận động học sinh nghỉ học ra lớp.
Thực hiện kí cam kết giữa các giáo viên trong nhà trường với Hiệu trưởng 
về việc duy trì sĩ số học sinh.

         Người thực hiện:  Trần Thị Nguyệt – Trường TH Dray Sáp Trang 14


SKKN: Một số biện pháp quản lý chỉ đạo việc duy trì sĩ số học sinh dân tộc  
trường Tiểu học Dray Sáp

Vào cuối năm học nhà trường luôn khuyến khích, khen thưởng những giáo 
viên duy trì tốt sĩ số học sinh, đồng thời cũng thẳng thắn đấu tranh, góp ý, nhắc 
nhở nếu có giáo viên có thái độ chủ quan, không có tinh thần trách nhiệm trong  
công tác duy trì sĩ số và một số công tác khác.
Thứ  tư: Chỉ  đạo giáo viên phụ trách công tác phổ  cập thường xuyên trao 
đổi và nắm bắt thông tin từ Ban cán sự của các lớp và giáo viên chủ nhiệm:
Ban cán sự  lớp chính là một tổ  chức trực tiếp theo dõi và lãnh đạo lớp  
được giáo viên chủ  nhiệm cùng cả  lớp tín nhiệm đề  cử. Do đó giáo viên làm 
công tác phổ cập của trường phải thường xuyên trao đổi, phối kết hợp với Ban  
cán sự  của các lớp và giáo viên chủ  nhiệm để  theo dõi tình hình của từng lớp, 
kịp thời nắm bắt những thông tin của các lớp để  đề  ra biện pháp và xử  lý kịp 
thời khi có vấn đề xảy ra.
Ví dụ: Bạn H’Linh Hlong học lớp 1C, hôm nay không đến lớp học mà ở 
nhà đi chơi. Ban cán sự  lớp nắm bắt tình hình, sau đó báo cáo với GVCN hoặc  
giáo viên dạy thay, các giáo viên dạy môn chuyên (nếu buổi học đó có tiết môn 
chuyên), để các giáo viên nắm bắt kịp thời, phối hợp với giáo viên làm công tác  
phổ  cập xuống nhà học sinh tìm hiểu nguyên nhân và vận động học sinh đến  
lớp. 
Thứ  năm: Chỉ  đạo Giáo viên chủ  nhiệm phải phối hợp, liên lạc thường  
xuyên với CMHS để nắm tình hình học sinh đối với từng học sinh  để có hướng 

xử lý kịp thời:
Sự buông lỏng giáo dục của gia đình là nguyên nhân chủ yếu làm cho học 
sinh lơ là học tập. Sự lơ là, lười biếng học tập kéo dài sẽ  làm học sinh bị  mất  
căn bản do lỗ hổng kiến thức lâu ngày dẫn kết quả học tập nhanh chóng giảm 
sút, các em chán nản bỏ học. Chính vì thế, vai trò của gia đình là vô cùng quan 
trọng trong việc quản lý, giáo dục con em. Nhưng vẫn còn nhiều gia đình mãi lo 
làm ăn kiếm tiền, không quan tâm đến việc học tập của con em, họ  phó mặc  
hết cho nhà trường. Một số  CMHS quan niệm:  “Thích thì đi học, còn không  
thích thì ở nhà phụ giúp gia đình”.

Ví dụ: Trường hợp các học sinh: H’Zina Hlong  (Lớp  2B),  H’Ninh 
Hlong (lớp 5B); Y Sáo Hlong (lớp 5C), là ba anh em trong một gia đình. Gia 
đình em có tất cả  10 anh chị  em, Cả  ba thế hệ sống trong một ngôi nhà chật 
hẹp. Gia đình đông con nên bố  mẹ chỉ  lo làm rẫy để  các em có bữa cơm trắng 
với cá khô là may lắm rồi. Bản thân tôi trực tiếp đi vận động cùng với giáo viên 
chủ  nhiệm, chứng kiến những gì diễn ra trước mắt bản thân tôi cảm thấy xót 
xa. Có em học lớp 6 đã nghỉ  học lấy chồng một nách hai con nhỏ; còn  H’Zina 
Hlong (Lớp 2B), H’Ninh Hlong (lớp 5B), các em thường trốn học vào thác Dray 
Nur ­ khu du lịch gần đó để xin tiền, xin đồ ăn của khách du lịch hay nhặt vỏ lon  
         Người thực hiện:  Trần Thị Nguyệt – Trường TH Dray Sáp Trang 15


SKKN: Một số biện pháp quản lý chỉ đạo việc duy trì sĩ số học sinh dân tộc  
trường Tiểu học Dray Sáp

bia về  bán kiếm tiền. Nhìn những khuôn mặt ngây thơ, lem luốc mà lòng tôi 
quặn thắt.

 
Học sinh trốn học ở nhà chơi hoặc vào Thác nhặt lon bia

Với bậc CMHS này, chúng ta phải thật khéo léo cải thiện dần tư  tưởng  
để họ  thấy được sự  quan trọng của việc học và có trách nhiệm hơn trong việc  
cùng nhà trường quản lí, giáo dục con em mình học tập tốt. Giáo viên chủ 
nhiệm lớp phải trực tiếp liên lạc với CMHS để trao đổi thông tin, nắm bắt tình  
hình; thông báo mời CMHS dự  họp đầy đủ  các cuộc họp để  phối hợp tuyên 
truyền, vận động.
Muốn   vận   động   được   CMHS,   muốn   CMHS   cùng   chung   tay   với   nhà 
trường thì hơn ai hết yêu cầu giáo viên phải am hiểu phong tục, tập quán và đặc 
điểm tâm lí của đồng bào dân tộc. Cần tìm hiểu kĩ và vận động những cá nhân  
có uy tín trong cộng đồng chung tay với nhà trường  nhất là những trường hợp 

các em học sinh cá biệt, thường xuyên trốn học để phối hợp giáo dục.

Thứ sáu: Chỉ đạo phối hợp tốt giữa Tổng phụ trách Đội ­ Giáo viên chủ 

nhiệm ­ Nhà trường trong việc xây dựng các hoạt động NGLL để  thu hút học  
sinh đến trường:
Chỉ   đạo   Tổng   phụ   trách   Đội  tham   mưu  với  nhà   trường  xây   dựng  kế 
hoạch phối hợp với giáo viên chủ  nhiệm, xây dựng kế  hoạch hoạt động ngoài  
giờ  lên lớp. Thông qua các tiết Sinh hoạt tập thể    nội dung các hoạt động chủ 
         Người thực hiện:  Trần Thị Nguyệt – Trường TH Dray Sáp Trang 16


SKKN: Một số biện pháp quản lý chỉ đạo việc duy trì sĩ số học sinh dân tộc  
trường Tiểu học Dray Sáp

yếu tập trung vào việc tổ chức cho học sinh chơi các trò chơi dân gian, trò chơi  
tập thể, văn nghệ, sinh hoạt Sao...Qua đó lồng ghép tuyên truyền,vận động học 
sinh đi học chuyên cần; giáo dục các chuẩn mực đạo đức, kĩ năng sống, nhận 
thức xã hội cho học sinh.


Chuẩn bị chào cờ đầu tuần (Phân hiệu buôn Kuôp)
Các hoạt động trên phải được tổ  chức đan xen trong quá trình dạy học,  
trong các tiết học một cách hợp lý sao cho phong phú, sinh động và hấp dẫn để 
giảm bớt mệt mỏi, căng thẳng cho học sinh sau những giờ học tập căng thẳng. 
Bên cạnh đó còn thực hiện một số  phong trào như: phong trào giúp bạn  
vượt khó, phong trào cùng nhau đi học, phong trào đôi bạn cùng tiến…vận động 
học sinh tích cực tham gia để  giúp học sinh có ý thức và thái độ  tốt hơn trong  
học tập.
Ví dụ: Tổng phụ  trách Đội đã huy động học sinh  ở  điểm trường chính 
quyên góp áo trắng tặng cho các bạn học sinh dân tộc  ở  phân hiệu buôn Kuôp;  
hỗ  trợ  gạo cho một số  học sinh có hoàn cảnh khó khăn; thành lập câu lạc bộ 
cùng nhau đến lớp mỗi ngày; trích một phần nhỏ kinh phí từ nguồn quỹ đội để 
động viên khen thưởng cho một số học sinh vượt khó vươn lên trong học tập.
         Người thực hiện:  Trần Thị Nguyệt – Trường TH Dray Sáp Trang 17


SKKN: Một số biện pháp quản lý chỉ đạo việc duy trì sĩ số học sinh dân tộc  
trường Tiểu học Dray Sáp

Ban Giám hiệu nhà trường luôn làm tốt công tác phối hợp, kết nghĩa với 
các trường vùng thuận lợi; các đơn vị  doanh nghiệp đóng chân trên địa bàn để 
học sinh nhận được sự  hỗ  trợ  tối đa. Số  học sinh được tặng xe đạp, dụng cụ 
học tập, quần áo để đến trường ngày càng nhiều và có chất lượng.

    Huyện đoàn tặng xe đạp cho học sinh nghèo vượt khó vươn lên trong học tập
Ví dụ: Tổ chức giao lưu học sinh dân tộc thiểu số  tại điểm trường buôn 
Kuôp; vận động các đơn vị  đóng   trên địa bàn thôn buôn như: Công ty du lịch  
Đặng Lê; khu du lịch thác Dray Nur, Công ty Mõ hóa chất...tặng quà cho học 
sinh co hoàn cảnh khó khăn vào các ngày lễ  tết như: ngày Quốc tế  thiếu nhi  

(1/6); Rằm trung thu, Tết Nguyên đán. Phối hợp với Đoàn thanh niên buôn Kuôp  
tổ chức cắt tóc cho học sinh, tổ chức các buổi lao động vệ sinh khuôn viên sạch  
sẽ.

         Người thực hiện:  Trần Thị Nguyệt – Trường TH Dray Sáp Trang 18


SKKN: Một số biện pháp quản lý chỉ đạo việc duy trì sĩ số học sinh dân tộc  
trường Tiểu học Dray Sáp

Phối hợp với Đoàn thanh niên buôn Kuôp tổ chức cắt tóc cho học sinh

Lao động vệ sinh khuôn viên trường
Thứ  bảy: Phối hợp chặt chẽ với cấp  ủy Đảng, chính quyền địa phương, 
các tổ đoàn thể thôn buôn:
         Người thực hiện:  Trần Thị Nguyệt – Trường TH Dray Sáp Trang 19


SKKN: Một số biện pháp quản lý chỉ đạo việc duy trì sĩ số học sinh dân tộc  
trường Tiểu học Dray Sáp

Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ, có chiều sâu giữa nhà trường, gia đình 
và xã hội cùng chăm lo sự nghiệp giáo dục. Cụ thể là giữa Ban giám hiệu, giáo  
viên chủ  nhiệm, cha mẹ  học sinh , chính quyền, đoàn thể  địa phương để  theo 
dõi, quản lý những học sinh có biểu hiện sa sút về  học tập hoặc vi phạm nội  
quy, tham gia vào các tệ nạn xã hội…để  có biện pháp ngăn ngừa, giáo dục kịp  
thời.
Ví  dụ:  Em  Y’Viết   Niê, học  sinh  lớp  3C  là học  sinh  cá biệt,  lớn  tuổi 
thường xuyên nghỉ học, tụ tập bạn bè để uống rượu, chạy xe…Nhà trường phối 
kết hợp với Ban tự quản, Buôn trưởng, Đoàn thanh niên ở  buôn Kuôp cùng với 

giáo viên chủ nhiệm đến nhà vận động, khuyên bảo để  em hiểu và không trốn 
học để tham gia tụ tập nữa.Thậm chí có một vài trường hợp chúng tôi phải nhờ 
đến lực lượng công an xã can thiệp, đe dọa để các em sợ, từ đó bỏ  thói hư, đua 
đòi theo chúng bạn.
Sự  phối hợp của nhà trường với chính quyền địa phương và các tổ  chức  
đoàn thể tích cực, thường xuyên nhằm tuyên truyền cho các bậc CMHS về tầm  
quan trọng của việc học tập, giáo dục học sinh tránh xa các tệ nạn xã hội cùng 
các loại hình giải trí không lành mạnh, nhắc nhở con em đi học chuyên cần, học 
tập nghiêm túc.
Đặc biệt điểm trường buôn Kuôp, đồng bào chủ yếu là tôn giáo theo đạo 
Tin lành ­ Một hình thức tôn giáo luôn được Đảng và nhà nước ta quan tâm hàng 
đầu. Vào dịp Noel, BGH nhà trường đến điểm nhóm  ở  buôn Kuôp để  chúc  
mừng giáng sinh. Thông qua điểm nhóm Tin lành nhà trường nhờ  người đứng 
đầu điểm nhóm tuyên truyền, phổ biến pháp luật,vận động bà con giáo dân cho 
con  đi học chuyên cần. Dạy dỗ và giáo dục con em sống tốt đời đẹp đạo.
Thứ tám: Chỉ đạo thực hiện nghiêm túc việc bàn giao chất lượng:
Qua công tác bàn giao chất lượng giúp giáo viên bàn giao và giáo viên 
nhận bàn giao nắm được chất lượng thực tế của lớp mình phụ trách, qua đó xây 
dựng kế hoạch giảng dạy cho năm học sau. 
Ví dụ: Năm học 2016­2017, các lớp thông qua hình thức bàn giao chất 
lượng từ lớp dưới lên lớp trên, các giáo viên nhận bàn giao đã có được những số 
liệu sát thực về  chất lượng, tránh tình trạng chạy theo bệnh thành tích, góp  
phần không nhỏ trong việc duy trì tốt sĩ số học sinh, nâng cao được chất lượng  
dạy ­ học.
c. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp
Các giải pháp, biện pháp nêu trên có mối liên hệ chặt chẽ, khăng khít với  
nhau và không thể  tách rời, điều đó được thể  hiện trong việc xây dựng kế 
hoạch chỉ  đạo của người quản lý. Thực tế  cho thấy giải pháp này hỗ  trợ  cho  
giải pháp khác, thành công của việc làm này góp phần dẫn đến thành công của 
         Người thực hiện:  Trần Thị Nguyệt – Trường TH Dray Sáp Trang 20



SKKN: Một số biện pháp quản lý chỉ đạo việc duy trì sĩ số học sinh dân tộc  
trường Tiểu học Dray Sáp

việc làm khác. Vì vậy, không nên tách rời thực hiện từng giải pháp một mà luôn 
phải thực hiện đồng bộ, phối hợp nhịp nhàng xuyên suốt trong cả năm học. Nếu 
như một giải pháp hay nhưng sử dụng không đúng thời điểm, không có sự  phối  
hợp nhịp nhàng thì không phát huy được tính tích cực thậm chí còn phản tác 
dụng.
d. Kết quả  khảo nghiệm, giá trị  khoa học của vấn đề  nghiên cứu, phạm vi và 
hiệu quả ứng dụng
Qua khảo nghiệm tại trường tiểu học Dray Sáp từ tháng 9 năm 2016 đến 
hết tháng 5 năm 2017.Trong thời gian qua nghiên cứu và áp dụng đề tài đã mang 
lại hiệu quả đáng kể ở trường Tiểu học Dray Sáp như sau:
STT

NỘI DUNG

TRƯỚC KHI ÁP 
DỤNG

SAU KHI ÁP DỤNG

01

Học   sinh   nghỉ   học 
thường   xuyên;   đến  Xảy   ra   thường   xuyên 
trường   nhưng   không  hầu hết  ở  các lớp trong 
vào   học.   GV   phải   đi  phân hiệu buôn Kuôp

tìm, chở đến lớp.

Thi thoảng vẫn xảy ra 
nhưng   ở   một   số   lớp, 
một vài học sinh vắng 
học khi vào mùa vụ  để 
phụ giúp gia đình.

02

Phần   lớn   giáo   viên 
trong nhà trường đã có 
Trách  nhiệm  của  một  Một số giáo viên còn hời 
ý thức trách nhiệm cao, 
số   giáo   viên   về   việc  hợt,   không   mấy   quan 
có   sự   phối   hợp   chặt 
duy trì sĩ số.
tâm.
chẽ  giữa các giáo viên 
với nhau.

03

Phối kết hợp, liên lạc 
thường xuyên với cha 
mẹ  học sinh đảm bảo 
tỷ lệ chuyên cần.

CMHS   không   quan   tâm 
xem   đó   là   trách   nhiệm 

của   giáo   viên,   nhà 
trường.

Phần   lớn   CMHS   đã 
phối   hợp   với   nhà 
trường   trong   việc   duy 
trì sĩ số học sinh.

04

Phối hợp chưa chặt chẽ, 
Phối hợp chặt chẽ với 
chưa,   xây   dựng   kế 
các   tổ   chức   đoàn   thể 
hoạch còn mang tính đối 
trong nhà trường.
phó.

Các   tổ   chức   đoàn   thể 
trong   nhà   trường   đã 
phát   huy   hết   vai   trò, 
trách nhiệm của mình.

05

Phối   hợp   với   cấp   ủy 
Đảng, chính quyền địa 
phương.

Tích   cực,   thường 

xuyên,   có  tinh   thần 
trách nhiệm cao.

06

…………………..

Chưa tích cực, thường 
xuyên.

         Người thực hiện:  Trần Thị Nguyệt – Trường TH Dray Sáp Trang 21


SKKN: Một số biện pháp quản lý chỉ đạo việc duy trì sĩ số học sinh dân tộc  
trường Tiểu học Dray Sáp

­ Đội ngũ giáo viên: Đa số  giáo viên đã có sự  chuyển biến tích cực trong 
nhận thức và tư  tưởng, có tinh thần trách nhiệm cao trong   việc thực hiện nề 
nếp dạy và học đặc biệt là trong việc duy trì sĩ số học sinh dân tộc.
­ Học sinh: Yêu thích học tập, gắn bó với trường lớp hơn, thích được đến 
lớp mỗi ngày.
­ CMHS:  Sự đồng tình ủng hộ phối hợp của hội CMHS, các bậc CMHS 
với nhà trường trong việc đảm bảo duy trì sĩ số học sinh.  
Trong những năm học vừa qua, nhà trường đã làm tốt công tác duy trì sĩ số 
học sinh nói chung, học sinh dân tộc nói riêng. Nhờ làm tốt công tác duy trì sĩ số 
mà chất lượng mũi nhọn đã có bước đột phá và khởi sắc đáng được ghi nhận.  
Chất lượng đại trà cũng có chuyển biến tốt. Kỹ  năng sống của học sinh đã có 
tiến bộ rõ rệt, các em không còn nhút nhát, rụt rè mà luôn tự tin trong học tập và  
vui chơi. Qua đó đã tạo ra những chuyển biến sâu sắc về nhận thức về hành vi 
của học sinh: Học sinh ngoan, đi học chuyên cần, không nghỉ  học.  Góp phần 

nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Cụ thể:  
* Chất lượng học sinh toàn trường:
Năm học

TSHS

2016 ­ 
2017

HTT

HT

CHT

SL

TL

SL

TL

SL

TL

Cuối kì I

297


30

10,1%

250

84,2%

17

5,7

Cuối năm

297

44

14, 8%

246

82, 8%

07

2,4

 * Chất lượng học sinh dân tộc:

Năm học

TSHS

  2016 ­ 
2017

G.CHÚ

 

HTT

HT

CHT

SL

TL

SL

TL

SL

TL

Cuối kì I


170

6

3,5

157

92,4

7

4,1

Cuối năm

170

12

7,1

152

89,4

06

3,5


G.CHÚ

* Năng lực cuối học kì I :
Năng lực

T.Số

Tốt

Đạt

CCG

         Người thực hiện:  Trần Thị Nguyệt – Trường TH Dray Sáp Trang 22


SKKN: Một số biện pháp quản lý chỉ đạo việc duy trì sĩ số học sinh dân tộc  
trường Tiểu học Dray Sáp

SL

Tỉ lệ 
(%)

SL

Tỉ lệ 
(%)


SL

Tỉ 
lệ 
(%)

Tự phục vụ

297

81

27,3

216

72,7

0

0

Hợp tác

297

70

23,6


227

76,4

0

0

Tự   học,   giải   quyết 
vấn đề

297

75

25,3

222

74,7

0

0

  * Năng lực cuối năm:  
Tốt

Đạt


CCG

T.S


SL

Tỉ lệ 
(%)

SL

Tỉ lệ 
(%)

SL

Tỉ lệ 
(%)

Tự phục vụ

297

82

27,6

215


72,4

0

0

Hợp tác

297

75

25,3

222

74,7

0

0

Tự  học, giải quyết vấn  297
đề

80

27

217


73

0

0

Năng lực

* Phẩm chất cuối học kì I: 
Tốt
Phẩm chất

T.Số

SL

Đạt

Tỉ lệ

SL

(%)

CCG

Tỉ lệ

SL


(%)

Tỉ lệ
(%)

Chăm học, chăm làm

297

75

25,3

222

74,7

0

0

Tự tin, trách nhiệm

297

75

25,3


222

74,7

0

0

Trung thực, kỉ luật

297

76

25,6

221

74,4

0

0

Đoàn kết, yêu thương

297

80


27

217

73

0

0

* Phẩm chất cuối năm:
Phẩm chất

T.Số

Tốt

Đạt

CCG

         Người thực hiện:  Trần Thị Nguyệt – Trường TH Dray Sáp Trang 23


SKKN: Một số biện pháp quản lý chỉ đạo việc duy trì sĩ số học sinh dân tộc  
trường Tiểu học Dray Sáp

SL

Tỉ lệ


SL

(%)

Tỉ lệ

SL

(%)

Tỉ lệ
(%)

Chăm học, chăm làm

297

81

27,3

216

72,7

0

0


Tự tin, trách nhiệm

297

81

27,3

216

72,7

0

0

Trung thực, kỉ luật

297

79

26.6

218

73.4

0


0

Đoàn kết, yêu thương

297

82

27.6

215

72.4

0

0

Tỷ lệ hoàn thành chương trình tiểu học: 53/53, tỉ lệ: 100%
Lãnh đạo nhà trường đã làm tốt công tác phối kết hợp, chú trọng xây dựng 
khối đoàn kết nội bộ, tích cực đổi mới công tác quản lý và phương pháp giảng 
dạy. Làm tốt công tác duy trì sĩ số, đến thời điểm hiện tại nhà trường  không có  
học sinh bỏ học.
Đa số  giáo viên đã có sự  chuyển biến tích cực từ  nhận thức đến hành 
động, có tinh thần trách nhiệm trong công việc. Đã  khơi dậy và phát huy hiệu 
quả năng lực, sở trường của một số giáo viên trong công tác bồi dưỡng các hội  
thi, phong trào đội đã đi lên mạnh mẽ.
Tham gia đầy đủ các phong trào do các cấp tổ chức  đều được công nhận 
và đạt giải.
* Về cơ sở vật chất: Mặc dù trường còn thiếu 03 phòng học tại phân hiệu 

buôn Kuôp, các phòng chức năng, thư viện, y tế,... nhưng vì chất lượng học sinh  
nhà trường vẫn linh động sắp xếp tổ  chức dạy học từ  7  ­ 8 buổi/tuần. Cơ  sở 
vật chất và cảnh quan nhà trường đã có một diện mạo mới. Đó cũng một trong  
những điều kiện để  nhà trường thực hiện tốt việc duy trì sĩ số  học sinh, góp 
phần nâng cao chất lượng dạy­ học.
* Các hoạt động khác: Quyên góp được một số  áo trắng  ở  điểm chính 
tặng cho các em học sinh đồng bào dân tộc tại phân hiệu. Nuôi heo đất, gây quỹ 
tặng  06 suất quà cho học sinh nghèo vượt khó (Phân hiệu buôn Kuôp).
Với kết quả khảo nghiệm đạt được như trên, bản thân tôi tin tưởng rằng 
các biện pháp, giải pháp  đưa vào áp dụng tại trường tiểu học Dray Sáp – Một 
trường   còn nhiều khó khăn nhưng  bước đầu đã thu được những kết quả  hết  
sức khả quan. Là  người quản lí, tôi mong rằng giá trị khoa học của vấn đề  đã 
nghiên cứu và sẽ  tiếp tục nghiên cứu để  các giải pháp, biện pháp được điều 
chỉnh và bổ sung hoàn thiện hơn nữa, nhằm duy trì tốt sĩ số học sinh nói chung, 

         Người thực hiện:  Trần Thị Nguyệt – Trường TH Dray Sáp Trang 24


SKKN: Một số biện pháp quản lý chỉ đạo việc duy trì sĩ số học sinh dân tộc  
trường Tiểu học Dray Sáp

học sinh dân tộc nói riêng, đưa chất lượng giáo dục của nhà trường ngày càng đi  
lên. 
III. Phần kết luận, kiến nghị
1. Kết luận
Muốn duy trì được sĩ số  học sinh dân tộc người cán bộ  quản lý, người  
giáo viên cần phải có tâm đối với học sinh,  phải nắm rõ hoàn cảnh từng học 
sinh để có các biện pháp hỗ trợ kịp thời. Đối với học sinh có biểu hiện muốn bỏ 
học cần báo cáo kịp thời với lãnh đạo xã, lãnh đạo phòng GD&ĐT để  nhận sự 
chỉ đạo đúng đắn và kịp thời. 

Sử  dụng các biện pháp giáo dục tích cực, biện pháp vận động phù hợp 
đưa học sinh tiếp tục đến trường, giúp các em tự  tin, có thái độ  học tập tốt là 
cách làm của nhà trường. Phải thường xuyên phối kết hợp với các ban, ngành, 
đoàn thể  trong việc tuyên truyền, vận động học sinh, tạo nên sự  thống nhất  
chung trong quan điểm chỉ đạo. Như lời ông Vũ Xuân Tiện ­ Bí thư Đảng ủy xã 
Dray Sáp đã khẳng định: “Xã hội không thể khoán trắng việc giáo dục cho nhà  
trường vì vấn đề  này nằm trong chuỗi liên kết gia đình ­ nhà trường ­ xã hội”. 
Bên cạnh đó nhà trường cũng cần lưu ý xây dựng thông tin hai chiều giữa gia  
đình và nhà trường; phụ huynh và giáo viên chủ  nhiệm để  cùng có trách nhiệm 
trong nắm bắt tình hình học sinh.
Bản thân lựa chọn đề tài nghiên cứu này, tuy đây không phải là đề tài mới 
nhưng bởi vì việc duy trì sĩ số  học sinh dân tộc vẫn luôn là một câu chuyện  
không có hồi kết, một nút thắt khó mở, một nhiệm vụ  thường xuyên, lâu dài 
nhưng nó góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng giáo dục của nhà 
trường. Cho nên dù có đứng  ở  cương vị  nào thì trách nhiệm của chúng ta đều 
phải quan tâm thực hiện nghiêm túc vấn đề  này, phải vận dụng sáng tạo, linh  
hoạt, đưa ra nhiều giải pháp mang lại hiệu quả thiết thực.
 Trường Tiểu học Dray Sáp, có 15 lớp học với tổng số 297 học sinh, mỗi 
ngày đến lớp chúng tôi thấy học sinh ngồi gần kín chỗ. Đây là một minh chứng 
rõ ràng rằng công tác duy trì sĩ số học sinh đang được đội ngũ cán bộ, giáo viên  
quan tâm sâu sát. Chất lượng giáo dục đang từng bước được nâng lên chính là 
một món quà ý nghĩa mà các em học sinh dành tặng những người gieo chữ nơi  
đây.

         Người thực hiện:  Trần Thị Nguyệt – Trường TH Dray Sáp Trang 25


×