Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp chỉ đạo phụ đạo học sinh yếu kém ở lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (579.1 KB, 21 trang )

sở giáo dục và đào tạo thanh hoá
phòng giáo dục và đào tạo thọ xuân
--------------------------


G D

Một số biện pháp chỉ đạo phụ đạo
học sinh yếu kém ở lớp 5

Tác giả: Mai Thị Oanh
Chức vụ: Hiệu trởng
Đơn vị: Trờng Tiểu học Xuân Bái -Thọ
Xuân
Môn: Quản lí

1


Th¸ng 4 nĂm 2011
                             PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lí do chọn đề tài: Thực hiện lời dạy của Bác:
" Vì lợi ích mười năm trồng cây
Vì lợi ích trăm năm trồng người".
Lời dạy đó vẫn sống mãi với thời gian và vẫn luôn là điều tâm đắc  
đối với giáo viên chúng ta. Bởi vì giáo dục luôn là nền móng vững chắc cho 
những mầm non của đất nước vươn lên, cho những em học sinh thân yêu 
của chúng ta có đủ hành trang sẵn sàng bước vào thế kỷ mới ­Thế kỷ khởi 
đầu bằng nền Công nghiệp hoá ­ Hiện đại hoá... Và đó cũng là nguồn nhân  
lực chủ đạo trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.Chúng ta có thể 
khẳng định nguồn nhân lực là yếu tố  cơ  bản và quyết định cho sự  phát  


triển đất nước,trong đó giáo dục và đào tạo được coi là cơ  sở  cho sự  phát 
triển bền vững đó. Để  nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực thì 
việc cần thiết phải làm là " nâng cao chất lượng giáo dục". Việc nâng cao  
chất lượng giáo dục là nhiệm vụ  chính trị  trọng tâm mà toàn ngành giáo 
dục phải chăm lo. Như chúng ta đã được biết, bậc học Tiểu học là bậc học 
nền tảng. Mục tiêu của giáo dục Tiểu học là nâng cao chất lượng giáo dục  
toàn diện. Giáo dục Tiểu học nhằm hình thành cho học sinh những cơ  sở 
ban đầu cho sự cơ bản góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam  
xã hội chủ  nghĩa, bước đầu xây dựng tư  cách trách nhiệm của công dân,  
chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học Trung học cơ sở.
Năm học 2010­2011, thực hiện chủ đề  năm học" Đổi mới công tác  
quản lí, nâng cao chất lượng giáo dục".  Các nhà trường tiếp tục thực 
hiện tốt các cuộc vận động" Hai không" với 4 nội dung :" Nói không với 
tiêu cực trong thi cử  và bện thành tích trong giáo dục, nói không với vi 
phạm đạo đức nhà giáo và để học sinh ngồi nhầm lớp". Thế nhưng để đạt 
hiệu quả cao không dễ chút nào, khi trong thực tế một số lớp học bao giờ 
cũng có sự  chênh lệch trình độ  tiếp thu của học sinh và nhất là học sinh 
yếu kém thì kết quả  là một gánh nặng. Gánh nặng đó khiến các em khó  
vượt qua để theo kịp với các bạn trong lớp. Vậy làm sao để thúc đẩy động 
cơ học tập của học sinh yếu kém ở Tiểu học nói chung, ở  lớp 5 nói riêng. 
Đó chính là vấn đề  mà chúng ta đặt ra và cần có hướng giải quyết. Như 
vậy với tỉ lệ học sinh yếu kém ở bậc Tiểu học nói chung, ở lớp 5 nói riêng 
như thế nào thì làm sao có thể là nền móng, là cơ sở để các em học tiếp lên  
Trung học cơ sở?

2


Là quản lí của một trường Tiểu học, tôi luôn băn khoăn trản trở tìm 
tòi nghiên cứu những giải pháp để  hạn chế  học sinh yếu kém, đặc biệt là 

học sinh yếu kém ở lớp 5. Chính vì vậy mà tôi đã chọn đề tài:
"Một số biện pháp chỉ đạo phụ đạo học sinh yếu kém ở lớp 5"
II. Thực trạng:
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ  dạy và học, nhà trường đã gặp  
những thuận lợi và khó khăn như sau:
1. Thuận lợi:
1.1. Địa phương: 
          Địa phương Xuân Bái là một trong những địa phương quan tâm nhiều  
đến công tác giáo dục. Trong những năm gần đây đời sống kinh tế văn hoá 
giáo dục của nhân dân được phát triển, nhận thức có nhiều chuyển biến 
tốt, con em đi học đã được phụ  huynh quan tâm hơn. Các cấp uỷ  Đảng,  
chính quyền địa phương   luôn quan tâm đến công tác giáo dục của nhà 
trường.
1.2. Nhà trường:
 ­ Đối với học sinh lớp 5 là lớp cuối cấp của bậc Tiểu học nên ý thức động  
cơ  của học sinh lớp 5 có thể tiếp nhận sự giúp đỡ  trong học tập từ  nhiều 
phía. Từ  đó giúp các em học sinh yếu giảm bớt phần nào khó khăn trong 
học tập.
 ­ Đội ngũ giáo viên nói chung và của khối lớp 5 nói riêng đại đa số  là trẻ 
khỏe nhiệt tình, tâm huyết với nghề  và có năng lực chuyên môn. Số  giáo 
viên có trình độ trên chuẩn cao: 4/4 đạt trên chuẩn(100%).
 Nhà trường luôn nhận được sự chỉ đạo sát sao của Phòng giáo dục, Chi bộ 
trường.
2. Khó khăn:
 ­ Xuân Bái là một xã nằm phía tây huyện Thọ Xuân, địa bàn dân cư rộng,  
một bộ  phận học sinh đi lại khó khăn( Khu Xuân Tân giáp Thường Xuân 
cách   trường   4­5   km).   Những   hôm   trời   mưa   đường   lầy   lội   nên   các   em  
thường đi học chậm giờ thậm chí các em phải nghỉ học.
 
­ Trình độ dân trí không đều, điều kiện kinh tế của nhân dân còn nhiều khó 

khăn. Địa phương là một điểm nóng của tệ  nạn ma tuý nên  ảnh hưởng 
nhiều đến công tác giáo dục nói chung và giáo dục Tiểu học nói riêng. Một 
bộ phận phụ huynh chưa quan tâm đến việc học tập của con em mình, còn  
phó mặc cho nhà trường.

3


­ Cơ sở  vật chất của nhà trường tuy đã có sự  đầu tư  hàng năm , song vẫn  
chưa đủ  để  đáp  ứng được nhu cầu của việc dạy và học: Phòng học, ánh 
sáng chưa đủ, bàn ghế  ... nên đã  ảnh hưởng không nhỏ  đến việc học tập  
của học sinh.
Trong những năm gần đây chất lượng đại trà có phần được cải thiện song  
tỉ lệ học sinh yếu kém của nhà trường nói chung, của khối 5 nói riêng vẫn  
còn cao với yêu cầu chung.
3. Kết quả điều tra khảo sát thực tiễn học sinh yếu kém ở lớp 5:
   
 Qua thực tiễn chỉ  đạo việc giảng dạy, kết quả  khảo sát chất lượng đầu 
năm, kết hợp với nhận xét của từng giáo viên chủ  nhiệm, bản thân nhận 
thấy rằng: Tỉ lệ học sinh  yếu kém của khối 5 còn khá cao, cụ thể như sau:
Tổng số  học sinh khối  Số HS học lực yếu
5
SL
TL
101
13
12,8

Số HS học lực kém
SL

TL
2
1,9

         Với tỉ lệ 14,7% học sinh yếu kém quả là một con số đáng lo ngại mà 
nhà trường đang phải đối mặt và quan tâm nhiều. Vậy làm thế nào để hạn 
chế  tỉ  lệ  học sinh yếu kém đến mức thấp nhất nhằm góp phần nâng cao  
chất lượng giáo dục toàn diện của nhà trường? Để trả  lời câu hỏi đó việc 
tìm ra nguyên nhân dẫn đến  tình trạng học sinh yếu kém là hết sức quan  
trọng chính vì vậy mà tôi đã tìm hiểu, điều tra và rút ra một số nguyên nhân 
đó là:
4. Nguyên nhân dẫn đến học sinh có học lực yếu kém:
* Về phía học sinh:
 ­ Học sinh chưa nhận thức được động cơ và mục đích học tập. Ham chơi,  
lười học, thái độ  học tập không đúng. Một bộ  phận học sinh có sức khoẻ 
yếu và điều kiện ọc tập khó khăn.
­ Một số học sinh đã bị hổng kiến thức từ lớp dưới nên việc tiếp cận nắm 
tri thức mới thật sự là vất vả đối với các em. Đặc biệt có những học sinh  
học lớp 5 mà đọc chưa thông, viết chưa thạo nói gì đến việc tiếp thu bài 
mới ...
­ Tình trạng học sinh đi học chưa chuyên cần, thường hay nghỉ học khi trời 
mưa vẫn còn. Chính vì vậy mà không nắm được kiến thức của buổi học 
hôm đó dẫn đến không tiếp thu được bài của ngày hôm sau, nhiều lần như 
vậy ắt lực học sẽ yếu kém.

4


­ Nhiều học sinh còn chưa mạnh dạn trong các hoạt động, không linh hoạt, 
thiếu sáng tạo ... là lí do các em không được tiếp xúc với môi trường bên  

ngoài, không được tham gia các hoạt động tập thể, thiếu hiểu biết thông 
qua các thông tin đại chúng ...
* Về phía nhà trường:
­ Công tác quản lý của Ban giám hiệu nhà trường chưa sâu sát, thiếu sự 
kiểm tra trong việc đánh giá dẫn đến tình trạng học sinh yếu kém mà không 
có biện pháp giúp đỡ.
­ Tổ chuyên môn chưa có kế hoạch cụ thể trong việc phụ đạo học sinh yếu 
kém, thiếu sự  kiểm tra đôn đốc. Chưa xây dựng được việc sinh hoạt tổ 
chuyên môn dưới dạng chuyên đề" Nâng cao chất ượng học sinh yếu kém".
­ Nguyên nhân học sinh học yếu không phải hoàn toàn là ở học sinh mà một  
phần  ảnh hưởng không nhỏ  là  ở  người giáo viên,Thầy hay thì mới có trò 
giỏi. Ngày nay, để có thể thực hiện tốt công tác giảng dạy thì đòi hỏi giáo  
viên phải không ngừng học tập nâng cao trình độ  chuyên môn nghiệp vụ. 
Tuy nhiên  ở  đây không phải giáo viên nào có trình độ  học vấn cao, tốt 
nghiệp giỏi thì sẽ  giảng dạy tốt mà  ở  đây giáo viên phải biết lựa chọn 
phương pháp dạy học nào là phù hợp với từng đối tượng học sinh và từng 
nội dung kiến thức.Qua quá trình công tác bản thân tôi nhận thấy, vẫn còn 
một bộ phận nhỏ giáo viên chưa chú ý quan sát đến các đối tượng học sinh, 
đặc biệt là học sinh yếu chưa trú trọng đến đổi mới phương pháp để  nâng  
cao chất lượng, chưa đánh giá được chất lượng đến những học sinh có khó 
khăn trong học tập, chưa đề ra được các biện pháp có hiệu quả để giúp đỡ 
học sinh.
* Về phía địa phương­ phụ huynh:
­ Một số gia đình phụ huynh chưa theo dõi thường xuyên đến việc học tập 
của con, còn phó mặc việc giáo dục con cái cho nhà trường. Một số  gia  
đình có điều kiện kinh tế  quá khó khăn, hoàn cảnh phức tạp nên đã  ảnh 
hưởng rất lớn đến việc học của học sinh.
­ Các đoàn thể, đoàn thanh niên, Hội khuyến học ... của xã tuy có hoạt động  
song hiệu quả  chưa cao, chưa thúc đẩy được phong trào dạy và học  ở  địa 
phương nói chung và ở nhà trường nói riêng.

­ Cơ sở  vật chất của nhà trường chưa đáp ứng được nhu cầu dạy và học: 
Phòng học thiếu ánh sáng, thiếu về  số  lượng( 16 phòng/ 20 lớp) kéo theo 
bàn ghế không đúng kích cỡ.

5


Từ  những nguyên nhân trên, tôi đã suy nghĩ, tìm tòi, đúc rút kinh nghiệm 
trong quá trình công tác và mạnh dạn đưa ra một số biện pháp chỉ đạo việc 
phụ đạo HS yếu kém ở lớp 5 mà tôi áp dụng như sau:

              PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Một số giải pháp thực hiện:
1. Bồi dưỡng nhận thức, nâng cao tình thần tự giác tích cực cho giáo viên.
2. Rà soát, phân loại đối tượng ­ xác định nguyên nhân học yếu: Giao khoán 
chất lượng học sinh yếu kém.
3. Tổ chức họp phụ huynh học sinh.
4. Thành lập lớp học riêng cho học sinh yếu kém.
5. Xây dựng môi trường học tập thân thiện
6. Nâng cao kinh nghiệm phụ đạo học sinh yếu kém cho giáo viên.
7. Tăng cường công tác kiểm tra đánh giá.
8. Tập trung chỉ đạo việc bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên.
9. Tăng cường các hoạt động ngoài giờ lên lớp.
II. Một số  giải pháp ­ Biện pháp chỉ  đạo việc phụ  đạo học sinh yếu  
kém lớp 5 trong 2 năm học 2009­2010; 2010­2011.
Trong hai năm học vừa qua, việc chỉ đạo phụ đạo học sinh yếu kém 
của nhà trường đã có nhiều đổi mới và có kết quả  khá khả  quan, cụ  thể 
như sau:
1. Bồi dưỡng nhận thức nâng cao tinh thần tự  giác tích cực cho giáo 
viên:

Xây dựng tinh thần trách nhiệm về  đạo đức nghề  nghiệp cho giáo 
viên, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên là khâu then chốt để nâng cao chất lượng 
dạy và học vì thế  đây là việc làm thường xuyên và liên tục. Để  làm tốt 
công tác này Ban giám hiệu nhà trường đánh giá đúng chất lượng đội ngũ 
giáo viên của mình, Chỉ  ra được đội ngũ của mình non về  mặt nào, có  
những khả  năng đặc biệt nào để  từ  đó có kế  hoạch bồi dưỡng và bố  trí 
giáo viên cho thích hợp. Ngay từ  đầu năm học chúng tôi đã triển khai đầy 
đủ  các Công văn, chỉ thị, các cuộc vận động của ngành, kế  hoạch của nhà 
trường về  thực hiện nhiệm vụ  của năm học. Từ  đó họ  xác định rõ được 
việc phụ đạo học sinh yếu kém là một trong những nhiệm vụ trọng tâm và 
là trách nhiệm của bản thân.

6


Xác định công tác phụ đạo học sinh yếu kém là cả một quá trình cực 
kì nan giản, không đơn thuần chỉ bằng trách nhiệm  mà đòi hỏi còn phải có 
lòng nhiệt tình, tinh thần tự  giác tích cực trong công tác. Chính vì thế  mà 
ngay từ cán bộ quản lí phải thực sự gương mẫu trong công tác chỉ đạo của  
mình. Vì vậy Ban giám hiệu ­Thầy cô giáo luôn là tấm gương sáng cho học 
sinh noi theo.
Trường Tiểu học Xuân Bái nơi tôi công tác còn thiếu phòng học để 
phục vụ  cho dạy 10 buổi/ tuần. Vì vậy, chúng tôi phải dạy thêm cho học 
sinh yếu kém vào thứ 7 nên Ban giám hiệu phải vận động giáo viên hi sinh 
ngày nghỉ để đi làm công tác "từ  thiện" nghĩa là dạy không thu một khoản  
lệ phí gì. Để thấm nhuần tư tưởng và trách nhiệm  của giáo viên trong việc  
nâng cao chất lượng đại trà, chúng tôi tổ chức họp Chi bộ, ban giám hiệu, 
các tổ trưởng chuyên môn đã thông tư tưởng đến từng đồng chí Đảng viên 
bởi vì họ  là những người đi đầu trong mọi hoạt động, là lực lượng nòng 
cốt của nhà trường. Họ sẽ là những người đầu tiên có trách nhiệm cao nhất 

trong việc dạy học đồng thời có nhiệm vụ tuyên truyền, vận động sâu rộng  
đến mọi quần chúng.
Từ những việc làm trên, nhận thức của Giáo viên đã được nâng lên rõ rệt.  
Mọi người đã tích cực, tự giác làm việc một cách hết mình vì học sinh thân  
yêu tất cả  đều xuất phát từ  lòng yêu thương học sinh. Cụ  thể  100% giáo 
viên đã tình nguyện dạy học sinh yếu kém vào 2 buổi trong tuần trong đó 
có ngày thứ 7.
2. Chỉ  đạo rà soát phân loại đối tượng, xác định nguyên nhân, giao 
khoán chất lượng học sinh yếu kém:
*  Thực hiện nhiệm vụ năm học cùng với sự chỉ  đạo của PGD & ĐT Thọ 
Xuân ngay từ đầu năm học BGH đã chỉ đạo cho giáo viên các lớp tiến hành 
kiểm tra viết  ở  2 môn Toán và Tiếng Việt, từ  kết quả  kiểm tra phân loại  
của học lực học sinh, xác định học sinh thuộc loại yếu và kém. Từ đó:
So sánh kết quả  khảo sát chất lượng đầu năm với kết quả  xếp loại học  
lực cuối năm, các chỉ số tỉ lệ tăng hay giảm sút?
  *     Bước tiếp theo tìm ra nguyên nhân học sinh học tập yếu kém. Việc 
quan trọng nhất của vấn đề là  cần xác định rõ nguyên nhân  dẫn đến tình 
trạng học sinh học yếu. Có thể  khẳng định giáo viên chủ  nhiệm là người  
nắm bắt tốt nhất điều kiện học tập cũng như  trình độ  thực tế  của học 
sinh, vì vậy tôi đã tiến hành thu thông tin từ giáo viên. Chẳng hạn danh sách 
học sinh yếu kém mà tôi đã yêu cầu giáo viên lập như sau:

7


                                              Danh sách học sinh yếu kém lớp 5...

Tổng số học sinh yếu kếm ....
Học yếu 
môn


TT

Họ và tên HS

1
2

Nguyễn Thị An
Lê Văn Bình

Lý do học yếu

Toá
n

T. 
Việt

X
  X

  X

Ý 
thứ Sức 

kho
học  ẻ
tập

X

ĐK 
học 
tập 
khó 
khăn

GĐ 
chưa  Lý 
quan  do 
tâm khác

Đánh 
giá sự 
tiến bộ 
sau mỗi 
lần 
kiểm 
tra

X

         Dựa trên danh sách này, sau mỗi lần thi định kỳ  hoặc kiểm tra chất  
lượng học sinh yếu kém giáo viên nhận xét về sự  tiến bộ của từng em để 
BGH nắm được và có hướng chỉ đạo kịp thời.
* Tổ chức giao khoán chất lượng học sinh yếu kém: Trên cơ sở khảo sát và  
điều kiện thực tế của giáo viên, học sinh chúng tôi giao khoán chất lượng  
học sinh yếu kém cho từng giáo viên chủ nhiệm như sau:


Lớ
p
5A
5B
5C
5D

Số HS học lực 
yếu kém đầu 
năm học 2010­
2011
3
4
4
4

Số học sinh yếu kém 
cuối HKI
Yếu
Kém
1
2
2
1

0
0
0
1


Số học sinh yếu kém 
cuối HKII
Yếu
Kém
0
0
0
0

0
0
0
0

       Qua việc giao khoán chất lượng học sinh cụ thể đến từng giáo viên thì 
mỗi giáo viên đã có ý thức trách nhiệm cao hơn trong công tác dạy học nói 
chung và việc phụ đạo học sinh yếu kém nói riêng.
3. Tổ chức họp phụ huynh học sinh có học lực yếu kém:
Một trong những lực lượng góp phần thành công trong công tác phụ 
đạo học sinh yếu kém của nhà trường đó là phụ  huynh. Chính vì thế  mà  
ngay sau khi phân loại học sinh, chúng tôi tổ chức họp phụ huynh để thông 
báo tình hình và bàn biện pháp phối hợp giúp đỡ  học sinh vươn lên trong  
học tập, thành phần của buổi họp  này gồm:

8


Đại diện chính quyền địa phương, ban đại diện cha mẹ  học sinh ,Giáo 
viên, phụ  huynh học sinh toàn trường cùng tham dự  để  các tổ  chức này  
phối hợp với chúng tôi hoàn thành tốt nhiệm vụ.

Điều rất khó khăn và hay mắc phải là một bộ phận phụ huynh có con 
học yếu kém thường hay vắng mặt, không tham gia họp. Chính vì thế công  
tác mời họp cũng cần lưu ý, chúng tôi phải nhờ  Ban đại diện cha mẹ  học 
sinh đến từng nhà để động viên trước khi cuộc họp diễn ra. Trong nội dung  
họp vấn đề  đầu tiên chúng tôi đề  cập đến đó là" Nâng cao nhận thức cho 
phụ  huynh'', bằng cách: Nêu lên tầm quan trọng của việc học, tác hại khó 
khăn của việc học yếu đối với học sinh, gia đình và nhà trường. Sau đó  
thông báo cho phụ  huynh biết kế  hoạch, biện pháp tổ  chức phụ  đạo học  
sinh yếu kém để phụ huynh nắm bắt được. Từ đó bàn với phụ huynh cách 
phối hợp giữa gia đình và nhà trường.
4. Thành lập lớp học riêng cho học sinh yếu kém:
 
Việc phụ  đạo học sinh yếu kém nếu chỉ  thực hiện trong những giờ 
học chính khoá thì chưa đủ, không mang lại hiệu quả cao bởi vì lượng thời  
gian dành cho các em là quá ít. Chính vì vậy mà chúng tôi đã cho học sinh  
yếu kém của cả khối 5 để  lập thành một lớp học riêng, tạo điều kiện để 
các em có cơ  hội được học tập và đáp  ứng yêu cầu cơ  bản của chương  
trình Tiểu học trên cơ  sở  dạy các môn học xoay quanh môn cơ  bản là 
Tiếng việt và Toán
( chú trọng các kĩ năng đọc, viết, tính toán). Đối với lớp học này nhà truờng 
sẽ không thu một khoản lệ phí gì bởi vì hầu hết gia đình học sinh đều rất  
nghèo, nếu thu tiền thì chắc chắn các em sẽ không đi học. Việc phân công 
giáo viên dạy lớp này cũng cần được quan tâm vì không ai cũng có thể dạy 
được mà phải là người có trình độ chuyên môn vững vàng, có kinh nghiệm 
phụ đạo học sinh yếu kém và đặc biệt có tinh thần trách nhiệm cao, nhiệt  
tình tâm huyết với nghề. Vì vậy tôi đã chọn cử 2 giáo viên khối 5 đó là Cô 
Hà Thị Lan môn Tiếng Việt, Thầy Đào Nguyên Thành dạy Toán.
Thời gian học: Nhà trường tổ chức dạy thêm 2 buổi/ tuần( vào thứ 4, 
thứ  7 trừ  những buổi học tăng buổi). Nội dung dạy bám sát chương trình 
Tiểu học, chương trình lớp 5 và đặc biệt là bổ  sung những kiến thức, kĩ  

năng mà các em còn đang yếu, còn thiếu với mong muốn học sinh hổng 
kiến thức chỗ nào thì dạy chỗ đó để các em theo kịp chương trình. Đối với 
giáo viên dạy cần lên kế  hoạch và soạn giáo án để  BGH kiểm tra 1 lần/  
tuần. Giáo viên cần có sổ  theo dõi học sinh đi học chuyên cần, nhận xét 
chung về  mức độ  nắm kiến thức của học sinh trong buổi học hôm đó để 
BGH theo dõi. Trong số  học sinh khối 5 có 5 em hay nghỉ  học vì gia đình 

9


quá nghèo, không có sách vở quần áo. Nhà trường đã tổ chức các hoạt động 
giáo dục đạo đức, giáo dục tinh thần" tương thân tương ái", tặng vở, sách 
giáo khoa cũ, tặng áo cho bạn bè, phân công học sinh khá giỏi kèm cặp, 
giúp đỡ học sinh yếu kém, gần gũi động viên và chia sẻ kịp thời với những  
học sinh có hoàn cảnh gia đình khó khăn. Ngoài ra nhà trường đã miễn,  
giảm các khoản đóng góp đầu năm học.
5.Xây dựng môi trường học tập thân thiện:
  
Sự  thân thiện của giáo viên là điều kiện cần để  những biện pháp dạy học 
đạt hiệu quả  cao. Thông qua cử  chỉ, lời nói, ánh mắt, nụ  cười...Giáo viên 
tạo sự gần gũi, cảm giác an toàn nơi học sinh để các em bày tỏ những khó  
khăn trong học tập, trong cuộc sống của bản thân mình.
  Giáo viên luôn tạo cho bầu không khí lớp học thoải mái,nhẹ nhàng, không 
đánh mắng hoặc dùng lời thiếu tôn trọng với các em, đừng để cho học sinh 
cảm thấy sợ  giáo viên mà hãy làm cho học sinh thương yêu và tôn trọng 
mình.
  Bên cạnh đó, giáo viên phải là người đem lại cho các em những phản hồi 
tích cực. Ví dụ như giáo viên nên thay chê bai bằng khen ngợi, giáo viên tìm 
những việc mà các em hoàn thành dù chỉ  là những việc nhỏ  để  khen ngợi 
các em. Hoặc có thể dùng các phiếu thưởng có in các lời khen phù hợp với  

từng việc làm của các em như: "Biết giúp đỡ  người khác", " Thái độ  nhiệt 
tình và tích cực"...
6. Nâng cao kinh nghiệm phụ đạo học sinh yếu kém cho giáo viên:
Để  nâng cao kinh nghiệm phụ  đạo học sinh yếu kém cho giáo viên  
khối 5 tôi đã tổ  chức buổi" Hội thảo về việc phụ đạo học sinh yếu kém" 
dưới sự chỉ đạo của BGH, cách tổ chức buổi hội thảo như sau:
Bước 1: Tôi yêu cầu từng giáo viên trong khối đưa ra các nguyên nhân, biện 
pháp phụ đạo học sinh yếu mà mình đã áp dụng trong quá trình giảng dạy.
Bước 2: Sau khi giáo viên đã đưa ra những nguyên nhân dẫn đến học sinh  
có học lực yếu kém và giải pháp thực hiện của bản thân BGH chốt lại các 
biện pháp tối  ưu và nêu định hướng ( cơ  bản nhất) để  phụ  đạp học sinh  
yếu kém lớp 5. Cụ thể:
6.1. Đối với học sinh có kĩ năng đọc yếu:
Tạo điều kiện cho các em được đọc nhiều trong giờ tập đọc, thường 
xuyên sửa sai kịp thời cho các em luyện đọc lại từ sai nhiều lần. Trước hết  
cho học sinh luyện đọc câu ( trường hợp học sinh đọc quá yếu thì giáo viên 

10


phải cho học sinh đánh vần) sau đó luyện đọc đoạn. Các giờ  học khác thì 
dành cho các em được đọc nhiều, thực hành nhiều và thường xuyên được 
rèn kĩ năng đọc một cách liên tục mà không tốn nhiều thời gian. Giáo viên 
động viên học sinh mượn sách ở Thư viện ( truyện thiếu nhi) để dành thời 
gian các em thể hiện giọng của mình ( 15 phút đầu giờ). Giáo viên đánh giá  
sự tiến bộ của các em sau mỗi tuần đọc, làm được điều này ta sẽ thúc đẩy  
các em say mê rèn đọc.
Khi các em đã đọc đúng thì giáo viên tổ  chức cho các em luyện đọc 
trôi chảy trong nhóm. Giúp học sinh mở rộng vốn từ và hiểu nghĩa từ  qua  
việc đọc bài từ đó giúp các em hiểu nội dung bài học.

6.2 Đối với học sinh yếu về kỹ năng viết và trình bày kém:
Thực tế  cho thấy, những học sinh yếu thường là viết xấu, không 
biết cách trình bày, vở bẩn, sai lỗi chính tả nhiều ... Về chữ viết giáo viên 
phải cho học sinh viết  lại: chữ cái thường, chữ cái hoa giáo viên phải theo  
dõi học sinh từng nét, thậm chí từ điểm đặt bút, điếm kết thúc, độ cao con  
chữ, rèn thế chữ ổn định. Tổ chức cho các em ôn lại âm vần. Sau đó luyện  
viết từ câu, đoạn.
  ­ Về lỗi chính tả cũng phải chú ý đến việc viết hoa đúng quy tắc viết g,  
gh, k, c, q phân biệt r, d, gi, s, x, thanh hỏi, thanh ngã.
Bên   cạnh   đó   cũng   phải   chú   ý   đến   việc   viết   hoa   đúng   quy   tắc 
( thường thì học sinh yếu viết hoa rất tuỳ  tiện) nên cần lồng ghép ôn lại  
quy tắc viết hoa đúng tên người, tên địa danh đã học lớp dưới.
 
 ­ Về cách trình bày: Luyện cho học sinh biết cách trình bày đoạn văn, đoạn 
thơ, cách trình bày một trang vở ...cách bọc vở, giữ vở sạch ...
6.3 Đối với nhóm học sinh viết văn kém:
Như  chúng ta đã biết đối với những học sinh yếu, kém thường thì  
viết văn cũng kém.
Nguyên nhân:
        ­  Nhận dạng thể loại kém.
        ­ Học sinh quá nghèo nàn về vốn từ, không biết sử dụng những từ ngữ 
có tác dụng gợi tả, gợi cảm diễn đạt vụng về ( thường chỉ dùng những câu 
kể).
        ­ Không biết sử dụng dấu câu: có những bài văn chỉ sử  dụng dăm ba 
câu sơ sài, thậm chỉ cả một bài văn chẳng dùng dấu câu nào.
Để  rèn kĩ năng viết văn tôi đã đưa ra một biện pháp tiêu biểu cho  
giáo viên tham khảo như sau:

11



Ví dụ: Tả  hình dáng và những nét tốt của một bạn trong lớp em  được 
nhiều người quý mến ( Tiếng việt 5 Tập 1 Tang 94).
Bước 1: Hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề bài.
Giáo viên yêu cầu học sinh tìm hiểu đề bài qua hệ thống câu hỏi của  
giáo viên như: Thể  loại gì? Đối tương? Trọng tâm ... từ  đó giúp các em  
nắm chắc thể loại không lạc sang thể loại khác.
Bước 2: Hướng dẫn học sinh tìm từ, chọn từ để phục vụ cho việc đặt câu.
Giáo viên yều cầu học sinh tìm những từ ngữ thường dùng để tả:
         ­ Hình dáng: Thấp, dỏng cao, hơi đậm ...
       ­ Khuôn mặt: Tròn, vuông chữ điền, trái xoan ...
       ­ Các nét trên khuôn mặt: * Vầng tráng: Rộng, vuông vắn ...
        * Mũi: Dọc dừa, thẳng, cao ...
        * Đôi môi: Đỏ thắm, hình quả tim ...
        * Mắt: đen lay láy như mắt bồ câu, đen như hạt nhãn ...
Bước 3: Hướng dẫn học sinh cách đặt câu văn tả:
Ở bước này giáo viên phải chỉ cho học sinh hiểu rõ câu văn tả  khác  
câu văn kể.
Câu văn tả: Giàu hình  ảnh, diễn tả  ý phong phú, sinh động được sử  dụng  
các biện pháp ví von, so sánh mạch lạc. Từ đó hướng dẫn học sinh đặt câu  
văn tả.
Ví dụ : Câu văn kể: "Ban Lan có mái tóc đen, dài." chuyển thành câu  
văn tả: " Ban Lan có mái tóc đen, mượt mà, óng  ả, luôn được cặp gọn  
gàng."
Sau đó giáo viên cho học sinh thực hành viết câu văn tả dựa trên một 
số câu văn kể đã cho sẵn và trên cơ sở các rừ ngữ đã đượcn chọn ở trên.
Bước 4: Hướng dẫn học sinh cách liên kết câu trong đoạn văn:
Với đề bài trên ở phần thân bài cần phải tả hai đặc điểm: Hình dáng 
tình tình.
Về  hình dáng: Gồm những câu văn tả  bao quát ( dang dấp, tuổi, cách đi 

đứng, cách ăn mặc ... ) Sau đó là những câu văn tả chi tiết các bộ phận của 
người được sắp xếp một cách hợp lí, ngẫu nhiên theo cách cảm nhận của  
mình thường là tả  các bộ  phận trên khuôn mặt trước như: Khuôn mặt, đôi 

12


mắt, vầng trán, nước da, mái tóc ... tất cả các ý đó đều nhằm minh hoạ cho 
hình dáng đẹp hay xấu. Đó chính là sự  liên kết chủ đề ( Hình dáng) không  
có những câu, ý xa đề, lạc đề và thừa.
Bước 5: Hướng dẫn học sinh cách dùng dấu câu trong đoạn văn.
Để  câu văn rõ ý, mạch lạc, làm cho đoạn văn đạt yêu cầu về  nội 
dung và hình thức cần dùng dấu câu đúng chỗ  hợp lí. Như  vậy giáo viên 
cần cho học sinh nhớ lại: Dấu chấm là dấu hiệu liên kết một ý trọn vẹn, 
khi diễn đạt hết ý dùng dấu chấm. Dấu phẩy thường đặt  ở  trong câu để 
tách các bộ  phận  ở  trong câu như: Giữa thành phần phụ  và thành phần 
chính của câu hoặc  ở  giữa các vế  câu ghép. Giáo viên lưu ý thêm đối với 
một số  dấu câu khác và tác dụng của nó ( dấu chấm hỏi, dấu chấm than,  
dấu ngoặc kép, dấu gạch ngang ...)
6.4. Đối với nhóm học sinh yếu về kĩ năng tính toán:
Ở  lớp 5, kĩ năng tính toán chủ  yếu dựa vào kĩ năng tính toán  ở  các 
lớp dưới ( từ lớp 1 ­>4). Do vậy, miốn hình thành kĩ năng tính toán cho học  
sinh lớp 5 thì việc ôn luyện cho các em thành thạo về  các phép tính  ở  lớp 
dưới là rất cần thiết. Vào những buổi học tăng giờ, giáo viên ôn lại các kĩ 
năng tính toán cho học sinh bằng cách ra những bài tập đơn giản về chia số 
tự nhiên( học sinh ở trường tôi yếu nhiều về phép chia), trên cơ sở làm các 
bài tập, Thầy củng cố lại cách chia. Để  học sinh ghi nhớ  cách chia và trở 
thành" đường mòn" trong đầu các em, giáo viên nên ra nhiều bài tập để các 
em thực hành. Sau khi học sinh đã làm được các bài toán đơn giản thì giáo 
viên phải ra các bài khó hơn theo mức độ  tăng dần. Chẳng hạn: Đầu tiên 

đưa ra các phép chia dễ, đó là chia cho số có một chữ số. Sau khi học sinh  
đã thực hiện được chia cho số  có một chữ  số  rồi, giáo viên cho học sinh 
thực hiện chia cho số  có hai chữ  số, tương tự như  thế đến chia cho số  có  
ba chữ số ...
Khi dạy về phép chia, tôi đặc bịêt lưu ý giáo viên tập trung vào dạy  
cho học sinh cách  ước lượng thương, bởi vì học sinh yếu thường vướng 
nhất trong phép chia là cách  ước lượng thương. Lưu ý phải chú ý rèn cho 
học sinh cách trình bày của phép chia, bởi vì các em có học lực yếu thì 
thường rất kém trong cách trình bày. Chẳng hạn như học sinh thường mắc  
như  sau: Số  bị  chia, số  chia, thương thường không cân với dấu của phép 
chia, các chữ số của các hàng hạ xuống để tìm số dư của từng lượt  chia là 
không thẳng hàng, thẳng cột. Nếu học sinh không thực hiện tốt phần chia  
các số tự nhiên thì các phép chia về số thập phân các em sẽ rất lúng túng.
6.5. Đối với nhóm học sinh yếu về kĩ năng giải toán có lời văn:

13


Trên tinh thần"học sinh yếu về kĩ năng nào thì bồi dưỡng kĩ năng 
đó" nên đối với nhóm này tôi cũng yêu cầu giáo viên đưa ra các bài toán 
giải từ  đơn giản đến phức tạp, chú ý đến các dạng toán điển hình đã học  
từ  lớp 3,4 như: Rút về  đơn vị, gấp lên một số  lần, tìm hai số  khi biết 
tổng( hiệu) và tỉ số của hai số đó, tìm số trung bình cộng ... Bởi vì đối với 
những dạng toán này học sinh thường quên cách giải, mà đã là quên cách 
giải
 
rồi
 
thì"bó
 

tay
" luôn. Chính vì thế mà cần phải cho học sinh nắm lại bản chất, cách giải  
của các dạng toán đó, sau đó cho các em thực hành luyện nhiều lần.
6.6 Đối với các giờ dạy trên lớp:
      

Tỉ lệ học sinh yếu kém tăng hay giảm là phụ  thuộc rất nhiều vào giờ  dạy  
trên lớp của giáo viên. Trong thực tế, một số giáo viên đã bỏ quên học sinh 
yếu kém, nhất là những giờ  thao giảng hoặc các giờ  dạy có đồng nghiệp 
dự. Sở dĩ như vậy là vì họ sợ rằng nếu gọi học sinh đó trả  lời hay làm bài 
tập sẽ mất rất nhiều thời gian dẫn đến bị cháy giáo án hoặc không trúng ý 
của cô. Đây là một vấn dề  hết sức nguy hiểm vì học sinh đã yếu rồi lại 
còn yếu hơn, đã chán học rồi còn chán học hơn dẫn đến tình trạng học sinh 
bỏ học.
Như chúng ta đã biết, Bộ Giáo dục đã quy định đối với giờ dạy trên 
lớp là: Dạy học sát đến từng đối tượng để làm sao học sinh yếu kém không  
để  bên ngoài giờ  học đồng thời phát huy hết khả  năng, năng lực của học  
sinh khá giỏi. Như vậy, để thực hiện chủ trương đó cùng với góp phần hạn 
chế  tỉ  lệ  học sinh yếu kém thì trong giờ  dạy trên lớp giáo viên thực hiện 
theo các yêu cầu sau: Tạo cơ  hội, điều kiện cho học sinh yếu kém được 
làm việc, được học tập nhiều như: Dành những câu hỏi dễ, bài tập dễ cho 
các em trả lời. Khi các em trả lời được hoặc làm được thì phải khen ngợi,  
động viên, khích lệ kịp thời. Nếu các em không trả lời, không làm được thì  
nhờ em khác trả lời thay rồi yêu cầu em đó nhắc lại. Tuyệt đối không được  
phê bình, cáu gắt các em, nếu có gì không đúng chỉ  là nhắc nhở, chỉ  bảo 
nhẹ  nhàng. Đối với phần bài tập  ở  trên lớp thì không yêu cầu các em đó 
phải hoàn thành hết mà chỉ  cần làm một nửa hoặc một phần ba số  lượng 
bài tập, đảm bảo yêu cầu tối thiểu về kiến thức, kĩ năng của tiết học đó là  
được.
         Ví dụ: Bài" Nhân một số thập phân với một số tự nhiên" SGK Toán 5 

Trang 55.
* Đối với phần bài mới: Giáo viên nên dành những câu hỏi dễ  cho 
học sinh yếu trả  lời như: Muốn tính chu vi hình tam giác ta làm thế  nào?

14


( có thể  học sinh yếu chỉ  trả  lời: Lấy số  đo độ  dài ba cạnh cộng lại với 
nhau hoặc lấy số đo dộ dài một cạnh nhân với 3) hoặc không trả lời được 
thì yêu cầu em khác trả lời rồi em đó nhắc lại. Hay đến phần chuyển thành 
nhân hai số tự nhiên thì yêu cầu học sinh yếu nêu kết quả( 1,2 x 3 = ? ­> 12  
x 3 = 36). Hoặc sau bước hình thành quy tắc nhân thì cho các em cầm sách 
đọc quy tắc ... Làm như vậy thì học sinh yếu vừa được tham gia học tập có 
cơ hội được củng cố được các kĩ năng mà các em còn yếu.
* Đối với phần thực hành: Phần luyện tập của tiết này có 3 bài, 
trong đó bài 1 là rèn kĩ năng nhân số thập phân với số tự nhiên thì giáo viên 
chỉ  yêu cầu các em hoàn thành bài tập 1 là được. Tuỳ  thuộc vào mức độ 
yếu của từng em mà giáo viên gợi ý cho các em đó làm tiếp bài tập 2. Trong 
tiết học buổi 2, giáo viên cần xây dựng các bài tập tương tự  để  củng cố 
kiến thức cho học sinh.
* Đối với việc chấm bài: Việc chấm bài thường xuyên cho các em 
cũng  rất quan trọng. Bởi vì, qua chấm bài giáo viên sẽ biết được học sinh  
hiểu bài đến đâu, đạt đến trình độ nào. Hơn nữa, tâm lí học sinh tiểu học là  
thích được chấm bài, càng thích hơn khi các em được điểm cao và được cô  
giáo khen. Vì vậy, trong các buổi học giáo viên nên thường xuyên chấm bài 
và đặc biệt là thường xuyên hơn ở các em yếu kém. Việc chấm bài cho các  
em có học lực yếu cũng cần phải có thêm "nghệ  thuật" nghĩa là giáo viên  
có thể  hướng dẫn cho học sinh làm rồi chấm bài hoặc nên "lựa" những  
hôm nào các em làm được bài thì chấm. Nhiều lần như  vậy hoặc được 
điểm dần đân cao lên kèm với lời động viên khích lệ kịp thời của giáo viên 

thì chắc chắn rằng các em sẽ hứng thú học tập hơn và tiến bộ rõ rệt.
6.7 Dự đoán trước những kiến thức, kĩ năng mà học sinh thấy khó và 
hay bị nhầm.
Trong thực tế  cuộc sống, bất kì làm một công việc gì nếu đầu tư,  
suy nghĩ và dự  đoán trước những tình huống, khó khăn để  có hướng giải  
quyết, khắc phục thì công việc đó sẽ đạt kết quả cao hơn. Chính vì thế mà  
trong quá trình giảng dạy tôi đã yêu cầu giáo viên khối 5 dự  đoán trước  
những đơn vị  kiến thức khó hoặc hay bị  nhầm để  tìm ra biện pháp khắc 
phục. Việc làm này được tổ chức  vào các buổi sinh hoạt chuyên môn, sau  
2­4 tuần thì lại có nội dung này.
      Ví dụ: Trong môn Toán : Trước khi học sinh học phần" Chia số thập  
phân" giáo viên cần cho học sinh ôn lại bảng cửa chương( bảng nhân, chia)  
em nào cũng phải thuộc làu làu, ôn lại về cách chia số tự nhiên vào các buổi 
học tăng giờ. Hoặc là sau khi học về các phép tính đối với số thập phân thì 
các em yếu thường hay nhầm lẫn cách chia một số  thập phân cho một số 

15


tự nhiên, chia số tự nhiên cho số thập phân. Lấy phép dư của phép chia hay 
bị nhầm ... Ngoài ra còn có những dạng quá khó đối với các em đó là: Toán  
tỉ số  phần trăm, chuyển động đều, giải toán về  tỉ  lệ ... Với cách làm trên,  
theo như giáo viên báo lại, số lượng học sinh hiểu bài nói chung, học sinh 
yếu nói riêng sau khi học các bài học đó cao hơn, tạo cho thầy dạy đỡ  vất 
vả và nhẹ nhàng hơn
      Trong quá trình giảng dạy cần kết hợp các biện pháp nêu gương, khen  
ngợi ... Xây dựng lớp có nề  nếp tốt, học sinh tự  giác, tích cực trong học 
tập, thường xuyên kiểm tra chặt chẽ  việc học  ở lớp cũng như   ở  nhà của 
học sinh. Có thể xây dựng "tổ học tập" trong lớp, nghĩa là: Giáo viên chọn  
ra 2­3 học sinh giỏi của lớp lập thành" tổ học tập". Ban cán sự lớp và học 

sinh khá giỏi là lực lượng quan trọng trong việc giúp đỡ học sinh yếu kém. 
Việc kiểm tra, giúp đỡ  của bạn bè sẽ  giúp học sinh yếu kém đỡ  sự  tự  ti,  
mặc cảm. Giáo viên cần có kế hoạch nhiệm vụ cụ thể cho từng thành viên,  
như: Nhắc nhở  bạn học tập  ở  nhà, học nhóm, kiểm tra bài cũ của bạn  
trước khi vào học, gợi ý cho bạn cách làm bài ... Để  làm tốt vấn đề  này  
giáo viên chủ nhiệm cần làm cho cả lớp thấy đây là việc làm rất cần thiết,  
thể hiện tinh thần đoàn kết, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ trong học tập. Cuối 
tuần cần có sự đánh giá, rút kinh nghiệm. Song không phải vì có tổ học tập 
mà giáo viên giao phó hết cho tổ, mà người thầy vẫn là người đóng vai trò 
chủ  đạo còn tổ  học tập chỉ phụ giúp với thầy. Thường xuyên liên lạc với 
phụ huynh học sinh để trao đổi tình hình học tập của các em ...
       Sau khi chốt những biện pháp phụ đạo học sinh yếu kém ở trên, tôi lưu  
ý giáo viên rằng đây là những  định hướng cơ  bản, còn trong quá trình 
giảng dạy giáo viên cũng phải tìm tòi thêm, kết hợp, vận dụng một cách 
linh hoạt, mềm dẻo  sao cho phù hợp với đối tượng học sinh của lớp  
mình, phù hợp với từng điều kiện, hoàn cảnh để đem lại kết quả cao nhất.
        Qua biện pháp làm trên, bản thân nhận thấy rằng giáo viên đã được 
trang bị một số kĩ năng, biện pháp cơ  bản, tạo cho học sinh có niềm tin, ý 
chí hơn trong công tác phụ đạo học sinh yếu kém.
7. Tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm và điều 
chỉnh:
Công tác kiểm tra, đánh giá là cực kì quan trọng trong quá trình quản  
lí. bản thân thiết nghĩ rằng công tác quản lí mà không có kiểm tra thì xem 
như  quản lí xuông, quản lí mang tính chất hình thức. Qua việc kiểm tra­ 
đánh giá mới giúp cho người quản lí nắm bắt được thực trạng của việc  
dạy­ học và từ  đó giúp cho họ  có thể  điều chỉnh kế  hoạch, tìm giải pháp 
phù hợp hơn. Còn đối với người giáo viên sẽ biết điều chỉnh cách dạy của 

16



mình và cách học của học sinh sao cho kết quả tốt. Không những thế  mà  
thông qua kiểm tra sẽ tạo cho giáo viên, học sinh có ý thức tự giác, tích cực  
trong công việc. Kiểm tra giờ dạy trên lớp của giáo viên là việc mà tôi làm 
thường xuyên. Đồng thời kiểm tra vở  của những học sinh yếu kém 1 lần 
/tuần, nhận xét, rút kinh nghiệm sau các kì thi định kì hoặc kiểm tra chất 
lượng học sinh yếu đến từng giáo viên. Kiểm tra đánh giá học sinh theo  
chuẩn kiến thức kĩ năng các môn học. Thực hiện kiểm tra đánh giá chất  
lượng giáo dục ngày càng thực chất. Tổ  chức coi, chấm nghiêm túc, kiên  
quyết không để  xảy ra tình trạng tiêu cực, bệnh thành tích trong kiểm tra, 
đánh giá học sinh.
Đối với lớp học sinh yếu, cứ 1 tháng tôi lại yêu cầu giáo viên ra đề 
kiểm tra hoặc có lần BGH ra đề  cho các em làm để  theo dõi tình hình 
chuyển biến của lớp như  thế  nào. Đề  ra theo mức độ  tăng dần về  kiến  
thức, kĩ năng cơ bản. Khi kiểm tra, tôi yêu cầu giáo viên khác coi, chấm bài 
dưới sự  giám sát của BGH . Sau mỗi lần kiểm tra đều ghi điểm từng em  
vào danh sách đã lập để chúng tôi tiện theo dõi việc dạy của giáo viên, việc  
học của học sinh. Kiểm tra giáo án phụ đạo học sinh yếu kém 1 lần/ tuần,  
sau kiểm tra Ban giám hiệu bổ  sung, góp ý ngay để  giáo viên có sự  điều  
chỉnh kịp thời.
8. Tập trung chỉ  đạo công tác bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ  cho  
giáo viên:
Ban giám hiệu đã xác định rõ rằng: Giáo viên quyết định đến chất 
lượng giáo dục, có thầy giỏi mới có trò giỏi, có thầy giỏi mới hạn chế 
được học sinh yếu kém. Chính vì vậy, để nâng cao chất lượng giảng dạy, 
ngoài những việc thông thường như: Thao giảng góp ý giời dạy, kiến tập  
và các buổi hội thảo thì các buổi sinh hoạt chuyên môn được chúng tôi đặc 
biệt quan tâm, nhất là về nội dung sinh hoạt. Để có tình hướng có vấn đề 
từ  thực tế  giảng dạy của giáo viên, nội dung sinh hoạt chuyên môn hàng  
tuần trước tin chúng tôi yêu cầu khối tự thống nhất các nội dung chính của 

buổi sinh hoạt ngay từ buổi họp của tuần trước, từ những việc rất nhỏ mà  
trong thực tế  giảng dạy các đồng chí đang" vướng" như: Việc thực hiện 
chương trình, việc vận dụng phương pháp, việc kèm cặp học sinh ... Các 
nội dung này đều được Ban giám hiệu thống nhất. Ngoài ra, chúng tôi còn  
chủ  động nghiên cứu đưa ra các nội dung để  giáo viên trao đổi như: Biện  
pháp để  nâng cao chất lượng đại trà, phụ  đạo học sinh yếu kém, phương  
pháp vận động học sinh đi học đều, phương pháp bồi dưỡng học sinh yếu  
về chữ viết, xây dựng các tiết dạy khó, cách viết sáng kiến kinh nghiệm ...  
hoặc sau kiểm tra định kì, tổ chức cho giáo viên rút kinh nghiệm ( học sinh  

17


còn yếu những mặt nào? nguyên nhân yếu? biện pháp bồi dưỡng trong thời 
gian tới). Xác định việc xây dựng tinh thần trách nhiệm về  đạo đức nghề 
nghiệp cho giáo viên, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên là khâu then chốt để 
nâng cao chất lượng dạy học vì thế  đây là việc làm thường xuyên và liên 
tục đối với trường chúng tôi. Để  làm được vấn đề  này BGH nhà trường  
cần đánh giá đúng chất lượng đội ngũ giáo viên của mình, chỉ  ra được đội 
ngũ giáo viên của mình còn non về  mặt nào, có những khả  năng đặc biệt  
nào để từ đó có kế hoặch bồi dưỡng và bố trí công tác cho phù hợp. Bố trí  
giáo viên đứng lớp cần phù hợp theo năng lực của từng người và không nên 
chỉ  bố  trí giáo viên trong nhiều năm liền chỉ  dạy một lớp, một đối tượng 
học sinh.
          Qua những việc làm trên, bản thân nhận thấy rằng đội ngũ khối 5 đã 
có chuyển biến rõ rệt về chuyên môn, nghiệp vụ, cụ thể  kết quả đạt như 
sau: Khối 5 có 2 đồng chí có giờ  dạy giỏi cấp Huyện, 2 đồng chí có giờ 
dạy giỏi cấp trường.
9. Tăng cường các hoạt động ngoài giờ lên lớp:
Như  chúng ta đã biết, tâm lí lứa tuổi học sinh tiểu học là thích vui  

chơi," học mà chơi, chơi mà học", thông qua chơi để mà học. Hơn nữa, tư 
duy của các em đặc biệt là các em khối 5 đang phát triển, nhân cách dần 
dần được hình thành nên rất thích tìm tòi, khám phá, bắt chước những điều 
mới lạ. Mặt khác, học sinh yếu kém hầu hết là ngại học (nói đúng hơn là 
không có nhu cầu học), ngại đến trường, thường xuyên nghỉ  học, nhất là 
ngững ngày trời mưa. Mà nghỉ  học ngày nào là hổng kiến thức của ngày  
hôm đó nên đấy cũng chính là nguyên nhân dẫn đến học sinh có học lực 
yếu kém. Chính vì vậy mà tôi đã yêu cầu giáo viên khối 5 tăng cường cho 
học sinh tham gia các hoạt động ngoài giờ do các đoàn thể trong nhà trường 
tổ  chức như: Đội, Sao, Đoàn TN ... Ngoài ra, chúng tôi còn yêu cầu giáo  
viên tổ chức các cuộc thi dưới hình thức " sân chơi " để gây hứng thú học 
tập cho các em đồng thời qua đó củng cố  được kiến thức đã học trong  
chương trình. Cụ  thể: Đã tổ  chức cho học sinh tham gia sân chơi" Rung  
chuông vàng". Tôi đã yêu cầu giáo viên soạn nội dung chương trình có 
những câu hỏi dễ phù hợp với trình độ của các em. Ví dụ: Trong hệ thống 
câu hỏi của chương trình có những câu hỏi đơn giản như sau:
                1. Số 0,008 đọc là:
                               A. Không phẩy tám
                               B.  Không phảy không tám
                               C.  Không phẩy không không tám
                               D.  Không phẩy tám không
               2. Điền từ còn thiếu vào chỗ chấm:

18


                               Muốn sang thì bắc ....
                          Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy.
Khi học sinh yếu kém tham gia chơi, tôi yêu cầu giáo viên khối 5 theo dõi  
ghi lại những em mà trả  lời được nhiều câu hỏi nhất trong số  các em yếu 

để đến khi tổng kết cuộc chơi khen ngợi, động viên các em bằng một phần  
quà nhỏ như 1 cái bút hoặc 1 quyển vở.
Thông qua hoạt động ngoài giờ, chúng tôi  nhận thấy rằng: Học sinh vừa 
được củng cố nội dung kiến thức đã học vừa tạo cho các em vui vẻ, phấn 
khởi, thay đổi không khí để tiếp tục học các môn học khác, mạnh dạn hơn 
trong các hoạt động tập thể và đặc biệt là tạo tâm lí thích được đến trường  
( kể cả học sinh yếu).
III/ Kết quả đạt được:
Qua quá trình áp dụng các biện pháp sát thực, khả  thi chúng với sự 
nhiệt tình, linh hoạt, sáng tạo của đội ngũ giáo viên khối 5 nên trong 2 năm 
học 2009­2010; 2010­2011 nhà trường đã đạt được kết quả  khá khả  quan.  
Cụ thể như Sau:
( Có đối chứng với năm học 2008­2009 và vào cùng thời điểm )
   
  Kết quả cuối học kỳ I 
Năm học
2008­2009
2009­2010
2010­2011

Tổng số HS khối 
5
103
97
101

HS có HL yếu
SL
TL
7

6,7
6
6,2
5
5,0

HS có HL kém
SL
TL
3
2,9
2
 2,1
1
1,0

HS có HL yếu
SL
TL
5
4,8
3
3,1
2
2,0

HS có HL kém
SL
TL
2

1,9
1
  1,03
0
0

 Kết quả cuối năm học 
Năm học
2008­2009
2009­2010
2010­2011

Tổng số HS khối 
5
103
97
101

PHẦN III: KẾT LUẬN

19


     
      I/ Kết luận:
            Từ những giải pháp tôi đã trình bày  ở  trên, áp dụng vào thực tiễn  
trường Tiểu học nơi tôi công tác đã góp phần nâng cao chất lượng dạy và 
học đạt hiệu quả  cao hơn so với những năm học trước. Trường luôn đạt 
danh hiệu
"Tập thể  lao động tiên tiến" và " Tập thể  lao động xuất sắc ". Để  đạt 

được   những   thành   tích   đó,   việc   nâng   cao   chất   lượng   đại   trà   trong   nhà 
trường nói chung phụ đạo học sinh yếu kém và nhất là chất lượng học sinh 
cuối cấp nói riêng là một việc làm cần thiết đòi hỏi mỗi giáo viên, mỗi  
người quản lí phải  tâm huyết với nghề. Thực sự yêu nghề  mến trẻ, có ý  
trí vươn lên, biết vận dụng linh hoạt, đổi mới, sáng tạo trong chuyên môn 
cũng như  công tác lãnh chỉ  đạo. Đồng thời không ngừng tự  học, tự  bồi  
dưỡng để  nâng cao trình độ  nghiệp vụ. Có như  vậy mới thực hiện tốt 
được mục tiêu giáo dục" Đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất 
nước".
     II/ Bài học kinh nghiệm:
         Qua nghiên cứu và áp dụng các biện pháp chỉ đạo việc phụ đạo học 
sinh yếu kém  ở  nhà trường, bản thân đã rút ra được bài học kinh nghiệm  
thiết thực và bổ ích sau:
        1. Để việc phụ đạo học sinh yếu kém đạt kết quả tốt trước hết người  
quản lí cũng như người giáo viên phải nhiệt tình, tự giác, tích cực làm việc  
bằng cả tình thương và trách nhiệm của mình, luôn là tấm gương sáng cho 
giáo viên và học sinh noi theo.
        
        2. Trong công việc, người quản lí phải năng động, sáng tạo tìm ra các  
giải pháp để  chỉ  đạo giáo viên dạy và học đạt kết quả  cao hơn. Để  thực  
hiện được điều đó cần phải nghiên cứu nội dung chương trình, nguyên 
nhân dẫn đến chất lượng  học sinh yếu kém và điều kiện thực tế việc phụ 
đạo học sinh yếu kém của giáo viên.
         3. Không ngừng nâng cao nghiệp vụ  chuyên môn nói chung và kinh 
nghiệm phụ  đạo học sinh yếu kém cho giáo viên nói riêng. Tăng cường  
công tác kiểm tra­ đánh giá học sinh giáo viên, tạo sự tự giác, tích cực trong  
công việc.
 

       4. Thường xuyên tổ  chức các hoạt động ngoài giờ  lên lớp để  thu hút 

học sinh thích được đến trường và đặc biệt là tạo cho các em được giao 
tiếp trong môi trường lứa tuổi.

20


        5. Phải biết phối hợp giáo dục giữa nhà trường, gia đình và xã hội, 
tranh thủ các điều kiện, huy động tốt các nguồn lực từ phía phụ huynh, địa  
phương nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện trong nhà trường.
       Trên đây là một số biện pháp tôi đã và đang tiếp tục thực hiện chỉ đạo 
việc phụ đạo học sinh yếu kém ở trường Tiểu học. Trong quá trình nghiên 
cứu và thực hiện đề tài này, bản thân tôi đã cố gắng hết sức. Song do điều 
kiện khả  năng và thời gian có hạn nên không tránh khỏi những thiếu sót. 
Tôi rất mang được sự  giúp đỡ  và đóng góp ý kiến của hội đồng khoa học 
các cấp và các bạn đồng nghiệp để đề tài được hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
                                          Thọ Xuân, ngày 5 / 4 /2011
                                         Người viết

21



×