Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

SKKN: Một số biện pháp bồi dưỡng giáo viên khối chồi nâng cao chất lượng môn làm quen văn học tại trường mầm non Hoa Hồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (907.57 KB, 28 trang )

UBND HUYỆN KRÔNG ANA
TRƯỜNG MẦM NON HOA HỒNG

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
MỘT SỐ BIỆN PHÁP BỒI DƯỠNG GIÁO VIÊN KHỐI CHỒI NÂNG 
CAO CHẤT LƯỢNG MÔN LÀM QUEN VĂN HỌC TẠI 
TRƯỜNG MẦM NON HOA HỒNG
Lĩnh vực : Chuyên môn

           Họ và tên tác giả: Nguyễn Thị Ánh Tuyết
           Đơn vị : Trường Mầm non Hoa Hồng

1


MỤC LỤC 
Phần thứ nhất: Mở đầu
I. Đặt vấn đề:...................................................................................................3
1. Lý do chọn đề tài :..........................................................................................3
2. Đối tượng nghiên cứu:...................................................................................4
3. Phạm vi nghiên cứu:.......................................................................................4
II. Mục đích ( mục tiêu) nghiên cứu:.............................................................4
Phần thứ hai: Giải quyết vấn đề
I. Cơ sở lí luận của vấn đề:...........................................................................5
II. Thực trạng vấn đề nghiên cứu:................................................................6
III. Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề:..............................8
IV. Tính mới của giải pháp:………………....................................................19
V. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:....................................................21
Phần thứ ba: Kết luận, kiến nghị
I. Kết luận:........................................................................................................23


II. Kiến nghị:.....................................................................................................24

2


 Phần thứ nhất: MỞ ĐẦU
I. Đặt vấn đề
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên mở  đầu trong hệ  thống giáo 
dục quốc dân, và chiếm vị trí rất quan trọng. Giáo dục mầm non có nhiệm vụ 
xây dựng những cơ sở ban đầu, đặt nền móng cho việc hình thành nhân cách 
con người cho xã hội tương lai, vì đây là thời điểm mấu chốt và quan trọng 
nhất,  ở cái thời điểm ấy tất cả mọi việc đều bắt đầu: Bắt đầu học ăn, học  
nói, học ngủ, học chơi.... Mục đích của giáo dục chính là tạo nên những con 
người mới, con người phát triển toàn diện và hoàn thiện về  nhân cách đạo 
đức, trí tuệ. 
  Cho nên giáo dục mầm non đã góp phần không nhỏ vào việc giáo dục  
thế hệ trẻ. Đến trường Mầm non trẻ không chỉ được chăm sóc mà còn được  
giáo dục. Trách nhiệm nặng nề  và cao cả   ấy tất cả  thuộc về  cô giáo mầm 
non, chính giáo viên là người giúp trẻ làm quen với nhiều lĩnh vực khác nhau: 
Lĩnh vực phát triển nhận thức, ngôn ngữ, tình cảm ­ xã hội, thẩm mỹ. Tuy  
nhiên để  trẻ  thực hiện tốt các lĩnh vực khác thì ngôn ngữ  của trẻ  phải rõ 
ràng, rành mạch. Lĩnh vực phát triển  nào  cũng  chiếm  một  vị  trí  quan  trọng 
nhất định cho sự phát triển toàn diện của trẻ, tuy nhiên làm quen văn học là 
một môn học được trẻ mầm non rất yêu thích, hình thành  ở  trẻ những tình 
cảm đạo đức tốt đẹp, những cảm xúc thẩm mỹ, phát triển trí tưởng tượng 
như:   Lòng  yêu  thiên  nhiên, quê  hương,  đất nước, con  người…  lòng  kính 
trọng yêu thương gần gũi và giúp đỡ những người thân xung quanh trẻ như: 
ông bà, bố mẹ, cô giáo, anh chị em,... Thông qua hoạt động này trẻ  tái tạo và 
sáng tạo thêm những tình tiết của tác phẩm một cách hồn nhiên phù hợp với 

nội dung của tác phẩm. Thông qua sự  hiểu biết, trí tưởng tượng của trẻ.  
Đồng thời trẻ thể  hiện được bài thơ  diễn cảm, kể  lại chuyện sáng tạo phù  
hợp với các nhân vật trong câu chuyện một cách trọn vẹn.
Thông qua văn học giúp trẻ nhận biết được thế giới xung quanh và phát 
triển ngôn ngữ cho trẻ. Thực tế ở trường Mầm non Hoa Hồng, qua những lần  
thao giảng, dự  giờ, tôi nhận thấy khả  năng cảm thụ  văn học, ngôn ngữ  của 
trẻ còn nhiều hạn chế, trẻ đọc thơ chưa diễn cảm, kể chuyện chưa hay, tham  
gia đóng kịch chưa mạnh dạn, cách thể hiện vai diễn  chưa lôi cuốn, kết quả 
trẻ đạt tương đối thấp so với yêu cầu đề ra. Giáo viên thì chưa chủ động linh 
hoạt trong việc tổ chức các hoạt động đóng kịch cho trẻ, nếu có thì chủ  yếu 
là trong tiết học, còn trong các giờ chơi, các buổi sinh hoạt thì hầu như  chưa  
có. Chưa thực sự  đầu tư  vào công tác soạn giảng trẻ  và áp dụng công nghệ 
thông tin vào trong các tiết dạy còn hạn chế. Chưa có sự  chuẩn bị tốt về các  
3


đồ  dùng, dụng cụ  cho trẻ  tham gia đóng kịch làm cho hoạt động đóng kịch,  
biểu diễn không thu hút được sự  chú ý của trẻ. Sử  dụng đồ  dùng dạy học 
chưa có khoa học, dẫn đến giờ  học trẻ  ít tập trung chú ý hiệu quả  trên tiết 
học chưa cao.
Xuất phát từ  những yêu cầu cụ  thể  của văn học, cho nên dạy trẻ  làm  
quen với văn học không thể  thiếu trong chương trình giáo dục trẻ, và vai trò  
của cô giáo trong quá trình tổ  chức là rất quan trọng để  truyền đạt đến trẻ 
một cách hứng thú. Hầu hết giáo viên dạy lớp lá thì có sự  đầu tư  hơn  ở  các 
lớp dưới, giáo viên dạy lố 4­5 tuổi chưa chú trọng, chưa thật sự quan tâm đầu 
tư  vào các tiết dạy cho trẻ  làm quen với văn học. Chính vì thế  để  tổ  chức  
hoạt động làm quen văn học cho trẻ  4­5 tuổi đạt được những hiệu quả  tốt  
nhất, nên trong quá trình hoạt động chuyên môn tôi nghiên cứu, tìm ra “Một  
số  biện pháp bồi dưỡng giáo viên khối chồi nâng cao chất lượng môn làm  
quen văn học  tại trường mầm non Hoa Hồng”. Đề tài đã được tôi tiến hành 

nghiên cứu trong 2 năm,   nhưng các biện pháp đưa ra trong   sáng kiến kinh  
nghiệm trước chưa mang lại hiệu quả  như  mong muốn nên tôi tiếp tục lựa  
chọn để  đưa ra cá biện pháp, giải pháp thiết thực và mang lại hiệu quả  cao  
hơn.
2.  Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp bồi dưỡng giáo viên khối chồi nhằm nâng cao chất lượng  
môn làm quen văn học tại trường mầm non Hoa Hồng.
3. Phạm vi nghiên cứu
Khuôn khổ  nghiên cứu  :  Một số  biện pháp bồi dưỡng giáo viên khối 
chồi nâng cao chất lượng môn làm quen văn học tại trường mầm non Hoa  
Hồng.
Đối tượng khảo sát : Giáo viên khối chồi và trẻ  4­5 tuổi trường mầm 
non Hoa Hồng.
Thời gian : Bắt đầu từ tháng 09 năm 2017 đến tháng 05 năm 2019.
II.  Mục đích, mục tiêu nghiên cứu
Giúp giáo viên có nhiều kinh nghiệm, nhiều biện pháp, giải pháp hay 
trong quá trình tổ chức cho trẻ làm quen văn học tại lớp mình chủ nhiệm.
Giúp giáo viên xây dựng các kế  hoạch giáo dục linh hoạt, sáng tạo để 
nâng cao chất lượng chăm sóc và giáo dục môn làm quen văn học . Rèn luyện 
và phát triển ngôn ngữ  mạch lạc, phát triển khả  năng nghe, nói, hiểu ngôn 
ngữ  và hình  ảnh nội dung thông qua tác phẩm văn học, đồng thời phát huy  
được tính tích cực sáng tạo của trẻ.  Rèn kỹ năng đọc, kể diễn cảm cho trẻ 4­
5 tuổi ở các lớp đạt hiệu quả ngày càng cao.
Giáo viên biết cách vận dụng linh hoạt, sáng tạo các phương pháp giáo 
dục trẻ theo chương trình giáo dục mầm non mới đưa vào bài dạy và biết lựa 

4


chọn phương pháp giảng dạy, sáng tạo một cách phù hợp với lứa tuổi, giúp 

trẻ phát triển ngôn ngữ một cách trọn vẹn.
Bồi dưỡng giáo viên thường xuyên  và biết  đổi mới những phương 
pháp dạy học theo hướng mới  và bổ sung các phương tiện dạy học phù hợp  
với nội dung bài dạy theo từng chủ đề chủ điểm khác nhau.
Nhiệm vụ của đề tài:
Qua đề tài nghiên cứu, giúp cho giáo viên có định hướng phù hợp trong  
việc xây dựng kế hoạch giảng dạy và lựa chọn phương pháp hoạt động làm 
quen với văn học có hiệu quả, sát với thực tế  phù hợp với tình hình  địa 
phương, tình hình trường, lớp đang công tác.
Giúp giáo viên tim ra cac giai phap, biên phap đ
̀
́
̉
́
̣
́ ể  tạo được sự hứng thú, 
sáng tạo cho trẻ  trong môn làm quen văn học. Giúp trẻ  khả  năng đọc rõ lời, 
thể  hiện sự  khéo léo và phát triển trí tưởng tượng, óc quan sát, khả  năng tư 
duy độc lập trong suy nghĩ. Nói năng lưu loát, biết sử  dụng từ  chính xác khi  
giao tiếp. Góp phần mở rộng nhận thức, phát triển trí tuệ, giáo dục đạo đức, 
giáo dục thẩm mỹ, phát triển ngôn ngữ...Từ  đó trẻ  hứng thú khi kê chuyên,
̉
̣  
đoc th
̣ ơ.
Giúp trẻ  cảm nhận được cái hay, cái đẹp  của môi trường sống xung 
quanh trẻ, hình thành cho trẻ kĩ năng tiếp nhận tác phẩm văn học và thể hiện 
lại tác phẩm văn học một cách sáng tạo.
Vận dụng đề  tài nghiên cứu này sẽ  giúp giáo viên không còn thiếu tự 
tin trong việc đổi mới cách dạy, cách truyền tải kiến thức cho trẻ, cũng như 

cách vận dụng linh hoạt các biện pháp, phương pháp để  có kết quả  tốt nhất  
trong quá trình hình thành và phát triển tốt ngôn ngữ  cho trẻ và biết sử  dụng 
những thiết bị, đồ  dùng giảng dạy phù hợp để  trẻ  trãi nghiệp một cách tốt 
nhất.
II. Phần thứ hai: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lý luận của vấn đề
Mục tiêu chiến lược phát triển của Giáo dục mầm non từ  nay đến  
2020 đã đưa ra quan điểm xác định vị  trí của giáo dục mầm non đặt nền  
móng cho sự phát triển nhân cách thông qua hệ thống giáo dục quốc dân tạo 
tiền đề để phổ cập giáo dục tiểu học.
Đội ngũ giáo viên trong trường mầm non là lực lượng nòng cốt của sự 
nghiệp giáo dục mầm non, là yếu tố  chính quyết định chất lượng chăm sóc  
giáo dục trẻ  trong nhà trường. Cô giáo là người truyền thụ  những tri thức  
khoa học, sự  hiểu biết của môi trường thiên nhiên, môi trường xã hội đến 
với trẻ.
Hoạt động chuyên môn là nhiệm vụ  trọng tâm của nhà trường, chiếm 
hầu hết thời gian của năm học và khối lượng công việc của giáo viên có tầm  
quan trọng rất lớn trong nhà trường; quyết định phần lớn chất lượng chuyên 
môn  ở  nhà trường là bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên để  đáp  ứng nhu 
5


cầu cần thiết cho hoạt động  học tập của trẻ trong xã hội hiện đại đầy năng 
động và sáng tạo.
Trong trường mầm non môn làm quen văn học là một môn nghệ thuật 
ngôn từ, phản ánh đầy đủ  hiện thực khách quan bao la rộng lớn xung quanh  
trẻ. Điều này đòi hỏi đội ngũ giáo viên cần phải cố  gắng rất nhiều để  nắm  
bắt tích lũy kinh nghiệm chuyên môn thì mới thực hiện hoạt động dạy và học 
một cách tốt nhất. 
Văn học giúp cho trẻ hình thành và phát triển ngôn ngữ  mà ngôn ngữ là 

phương tiện giao tiếp của trẻ. Dạy trẻ  làm quen văn học giúp trẻ  biết yêu 
quý cái đẹp, yêu quê hương, đất nước, con người.   Trẻ  em không có điều 
kiện để tiếp xúc nhiều với cuộc sống một cách trực tiếp do đó kinh nghiệm 
sống của các em còn ít, trong khi đó văn học là một loại hình nghệ thuật miêu 
tả sao chép lại hiện thực cuộc sống thu nhỏ của trẻ. Khi trẻ em tiếp xúc với 
văn học đó cũng là lúc trẻ đến với cuộc sống một cách gián tiếp là lúc  trẻ bắt 
đầu  tư  duy, trí tưởng tượng sức sáng tạo của trẻ  được khởi động và phát  
triển ngay từ nhứng năm đầu đời ở trường mầm non. 
Để  những tác phẩm văn học nghệ  thuật tác động sâu sắc và gây  ấn 
tượng mạnh mẽ  đến trẻ, làm cho trẻ  hứng thú, thì việc chuẩn bị  kĩ lưỡng 
trước khi đến lớp của giáo viên là rất quan trọng và cần thiết. Giáo viên cần 
phân tích và xác định nội dung tư  tưởng  của tác phẩm, đây là nhiệm vụ  của 
người giáo viên mầm non giáo dục trẻ  qua tính cách các nhân vật trong câu 
chuyện, bài  thơ  và  xác   định các hình thức  đọc,  kể  diễn cảm, tìm tòi các 
phương pháp dạy học hay nhất, làm sao giúp trẻ  nhớ  được sắc thái cơ  bản 
trong giọng kể, ngữ điệu, giọng điệu, lời nói của các nhân vật, từ đó giúp trẻ 
nhận ra ngôn ngữ, ngữ  điệu của các nhân vật. Từ đó giúp trẻ  mẫu giáo phát 
triển ngôn ngữ một cách hệ thống. Vì vậy cần chú trọng phát triển toàn diện 
về ngôn ngữ cho trẻ và văn học chính là phương tiện giúp trẻ hình thành  khả 
năng phát triển ngôn ngữ, văn học đưa trẻ đến với những cái đẹp trong ngôn 
ngữ, phát huy được tính tích cực và làm giàu vốn từ cho trẻ.Vì vậy  là một cán 
bộ  quản lý phụ  trách chuyên môn của trường mầm non Hoa Hồng tôi nhận  
thấy được tầm quan trọng trong việc chăm sóc – giáo dục trẻ mầm non, thấy  
được vai trò và nhiệm vụ  của người giáo viên trong việc phát triển những 
mầm non tương lai của đất nước. Tôi đề ra kế hoạch cần phải làm tốt công  
tác bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên trong nhà trường nói chung và bồi  
dưỡng nâng cao chất lượng môn làm quen văn học nói riêng.
II.Thực trạng vấn đề 
­ Ưu điểm: 
Đa số giáo viên nắm vững nội dung, phương pháp và chương trình dạy 

của từng lứa tuổi. Một số  giáo viên đã nắm bắt kịp chương trình giáo dục 
mầm non mới. Các giáo viên đã trao đổi kinh nghiệm trong giảng dạy cho  
đồng nghiệp, giáo viên đã biết cách lồng ghép môn làm quen văn học vào các 
môn học khác một cách hợp lý. Một số giáo viên đã cho trẻ làm quen văn học 
6


ở mọi lúc mọi nơi bằng nhiều hình thức khác nhau. Trẻ biết kể chuyện, đọc 
thơ theo hướng dẫn của cô giáo.
­ Hạn chế: 
Giáo viên chưa vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào tiết dạy. Chưa thể 
hiện được nhu cầu dạy học lấy trẻ làm trung tâm, cô chỉ là người hướng dẫn.  
Giáo viên chưa biết tận dụng được đồ  dùng đồ  chơi sẵn có để  tổ  chức hoạt  
động cho trẻ làm quen văn học dẫn đến hiệu quả chưa cao.  Chuẩn bị đồ dùng 
phục vụ  cho môn làm quen văn học chưa phong phú, đa dạng để  thu hút sự 
chú ý của trẻ, chưa thực sự chú ý phát huy tính tích cực ở  trẻ. Chưa tạo môi 
trường hoạt động văn học cho trẻ .Việc sử dụng công nghệ thông tin vào bài 
giảng còn hạn chế, nếu có thì còn sơ sài, chưa có sự đầu tư.
Giáo viên chưa có sự sáng tạo trong chuyển thể từ chuyện kể sang kịch  
bảng sân khấu, không tạo ra được kịch tính, sự  kiện, sự  biến. Bên cạnh đó 
vẫn còn một số  giáo viên cảm nhận các tác phẩm văn học thơ  chuyện còn 
hạn chế.
Chưa khai thác môi trường xung quanh ngay trong lớp để  vận dụng 
hoặc giáo dục cho trẻ . Các thủ thuật đọc kể, chưa bộc lộ cảm xúc hấp dẫn  
cuốn   hút   trẻ   vào   tiết   học.   Một   số   cháu   đến   lớp   còn   sử   dụng   tiếng   địa 
phương, nói ngọng, nói lắp..  và một số cháu là người đồng bào dân tộc thiểu 
số mới ra lớp lần đầu nên còn hạn chế kỹ năng nghe, đọc, nói ...nên trẻ  vẫn  
còn bỡ ngỡ chưa mạnh dạn trong khi cảm nhận và thể hiện các tác phẩm văn 
học, khả năng giao tiếp còn nhút nhát, tiếp cận tiếng Việt còn hạn chế.
Tổng số giáo viên toàn trường là 15 giáo viên, trong đó số giáo viên dạy  

khối chồi là 6 giáo viên.
* Kết quả giao viên đã đ
́
ạt được: 

Kêt qua 
́
̉
NÔI DUNG
̣

Đạt

Chưa đạt

Số GV

Tỉ lệ %

Số GV

Tỉ lệ %

Xây dựng kế  hoạch giáo dục phù hợp, 
linh hoạt, sáng tạo.

3/6

50


3/6

50

Các phương tiện dạy học hấp dẫn. Sử 
dụng đồ dùng đẹp,  khoa học, sáng tạo.

4/6

66

2/6

14

Xây dựng môi trường hoạt động cho trẻ 
phong phú, hấp dẫn kích thích trẻ  hoạt 
động.

4/6

66

2/6

14

7



Khai   thác   các   phương   tiện   dạy   học, 
ĐDĐC có hiệu quả.

3/6

50

3/6

50

* Kết quả trẻ đã đạt được :
NÔI DUNG
̣

KẾT QUẢ
Trẻ đạt %

Trẻ chưa đạt %

Trẻ  hứng thú trong tiết làm quen văn 
học.

36%

64%

Khả năng đọc, kể diễn cảm.

40%


60%

Mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp.

42%

58%

Kỹ năng kể chuyện sáng tạo.

35%

65%

­ Nguyên nhân chủ quan:
Trình độ  nắm bắt của mỗi giáo viên chưa có sự  đồng đều . Giáo viên 
chưa chủ  động linh hoạt, sáng tạo trong việc tổ  chức cho trẻ  làm quen văn  
học, các hoạt động chưa có sự nhịp nhàng, còn áp đặt.
Việc áp dụng công nghệ  thông tin vào trong các tiết dạy làm quen văn 
học còn hạn chế.
Qua việc tổ chức dự giờ, thao giảng bản thân tôi nhận thấy rằng giáo 
viên chưa mạnh dạn trong việc đổi mới, cũng như  chưa có sự linh hoạt, sáng 
tạo  dẫn đến các tiết học vẫn  còn rập khuôn máy móc, cứng nhắc. Vì vậy 
chưa phát huy hết khả  năng của trẻ  trong quá trình hoạt động làm quen văn  
học, môt sô giao viên con h
̣ ́ ́
̀ ạn chế vê ki năng tô ch
̀ ̃
̉ ức cac hoat đông lung tung

́
̣
̣
́
́  
khi xử  lý tình huống. Giáo viên trong quá trình lên lớp  nói  nhiều chưa phát 
huy được tính tích cực chủ động của trẻ. Giáo viên còn sử dụng giáo cụ trực 
quan chưa phù hợp, chưa khoa học  nên chưa thực sự  cuôn hut tre trong các
́
́ ̉
 
hoạt động kể chuyện dẫn đến tiết dạy chưa đạt hiệu quả cao.
­ Nguyên nhân khách quan:
Trường hiện tại có 3 điểm, các điểm trường cách nhau khá xa. Cơ  sở 
vật chất hầu như  chưa đảm bảo cho chương trình giáo dục mầm non hiện 
nay; đô dung dung cu phuc vu cho các ho
̀ ̀
̣
̣
̣
̣
ạt động làm quen văn học chưa thật 
sự đầy đủ. Hầu hết khi biểu diễn các tác phẩm văn học còn thiếu các yếu tố 
phụ  trợ  như: Âm thanh, cảnh trí, trang phục… làm cho hoạt động đóng kịch, 
biểu diễn không thu hút được sự chú ý của trẻ. Đô dung, đ
̀ ̀
ồ chơi phục vụ cho 
hoạt động con đ
̀ ơn điêu, màu s
̣

ắc chưa hấp dẫn nên không cuôn hut tre trong
́ ́ ̉
 
các hoạt động làm quen văn học. 
8


Hai phân hiệu buôn K62 và phân hiệu buôn Cuê đa số  học sinh là con 
em đồng bào dân tộc Êđê khả  năng nhận thức của trẻ  không đồng đều, trẻ 
phát âm và nói tiếng Việt chưa rõ trẻ còn rụt rè, nhút nhát. Bên cạnh đó vẫn  
có một số  gia đình do hoàn cảnh quá khó khăn, phải lo cho cuộc sống hằng  
ngày nên còn thiếu sự chăm sóc và giáo dục của cả bố lẫn mẹ nên ngôn ngữ 
của nhiều cháu vẫn chưa phát triển hết, một số  cha mẹ  học sinh nhận thức  
về tầm quan trọng của việc rèn luyện các kĩ năng cần thiết để  chuẩn bị  cho  
trẻ vào học lớp một chưa cao, ngại giao tiếp phát âm tiếng Việt. Vì vậy nên  
tôi thấy cần phải nghiên cứu  tìm ra được các giải pháp, biện pháp để  khắc 
phục những tồn tại trong quá trình giảng dạy của giáo viên nhằm đạt được  
kết quả tốt hơn, làm cho trẻ hứng thú, chú ý vào các hoạt động làm quen văn 
học hơn trước.
Từ  đó bản thân tôi nhận thấy cần phải có định hướng giúp giáo viên 
thay đổi các biện pháp giảng dạy trước đây như  đầu tư  hơn nữa vào việc 
nâng cao các phương pháp, hình thức cho trẻ  làm quen với các tác phẩm văn 
học, chú trọng nhiều đến việc đọc, kể  diễn cảm và dạy trẻ  kể  lại chuyện, 
kể  sáng tạo dưới nhiều hình thức đa dạng và phong phú, dạy trẻ  đóng kịch. 
Qua những việc làm đó đã có những bước đầu góp phần cho sự  thành công  
trong công tác dạy trẻ  làm quen với các tác phẩm văn học và trẻ  đã có thể 
nắm được nội dung và thể hiện được một số tác phẩm văn học quen thuộc và 
kể diễn cảm một số câu chuyện gần gũi với trẻ.
Hướng tới thực hiện  chuyên đề  giáo dục“  Xây dựng môi trường lấy 
trẻ làm trung tâm” nên bản thân tôi luôn nghiên cứu, tìm tòi những biện pháp,  

phương tiện dạy học  phù hợp nhằm hướng dẫn giáo viên xây dựng môi 
trường   học   tập   phong   phú,   sáng   tạo   trong   và   ngoài   lớp   học   bằng   nhiều  
nguyên vật liệu có sẵn  ở   địa phương, qua  đó trẻ  sẽ   được vui chơi, trải  
nghiệm và học tập trong chính môi trường đó. 
III. Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề
Đây là một chuyên đề  lớn, không kém phần quan trọng trong chương  
trình Giáo dục mầm non, nên khi thực hiện chuyên đề giáo viên nghiên cứu kĩ 
càng tài liệu biết chuyển tải được tư tưởng cảm xúc của tác giả và nội dung  
tác phẩm thông qua hình thức nghệ thuật hấp dẫn, phong phú. Qua đó giúp trẻ 
phát huy được tính tích cực cá nhân ­ tự tin ­ độc lập ­ sáng tạo ­ hình thành tư 
duy­ khả năng ghi nhớ có chủ đích.
Giúp giáo viên xây dựng kế  hoạch giáo dục sát với tình hình của lớp,  
nắm vững kiến thức chuyên môn. Biết vận dụng các phương pháp, nội dung 
phù hợp theo từng chủ  đề  của các tác phẩm văn học. Giáo viên có khả  năng  
phân tích nội dung, nghệ thuật ngôn từ của từng tác phẩm để truyền thụ kiến 
thức cho trẻ chính xác, và sống động nhất.
Khai thác, sử dụng đồ  dùng, thiết bị dạy học một cách khoa học và có 
hiệu quả . Xây dựng môi trường văn học ở lớp phải hấp dẫn, thu hút trẻ tìm 
hiểu.
9


Đưa các giải pháp, biện pháp, cách thức tổ chức cho trẻ hoạt động sao  
cho đạt hiệu quả  nhất, vừa duy trì được hứng thú của trẻ  vừa giúp trẻ  tiếp  
thu kiến thức một cách nhẹ nhàng và thoải mái. Dưới sự hướng dẫn của giáo 
viên sẽ  hình thành và phát triển khả  năng ghi nhớ  và biểu diễn lại các tác  
phẩm văn học.
Thông qua các môn học khác giáo viên hướng dẫn trẻ  nhận thức rõ 
ràng, chính xác ngôn ngữ và khả năng cảm thụ văn học thông qua các bài thơ, 
câu chuyện được lồng ghép trong các tiết học. Giup tr

́ ẻ tham gia vào các hoạt 
động tích cực hơn. Trẻ  hiểu được nội dung tác phẩm, khám phá được thế 
giới xung quanh.
Việc tổ chức hoạt động cho trẻ làm quen văn học không đơn thuần là  
đọc  một bài thơ, kể  một câu chuyện mà  ở  đó giáo viên truyền tải cho trẻ 
những hiểu biết về cuộc sống muôn màu, với nhiều màu sắc thú vị, qua đó 
trẻ cảm nhận những tình cảm yêu thương, ghét, sợ …. , từng bước cung cấp 
cho trẻ những khái niệm mới và kinh nghiệm sống sau này.  
* Giải pháp 1: Xây dựng kế hoạch bồi dưỡng chuyên môn đầu năm cho  
giáo viên khối chồi.
­ Biện pháp 1 : Xây dựng kế hoạch chuyên môn 
Kết hợp với tổ khối l ập kế hoạch bồi dưỡng chuyên môn ngay từ đầu 
năm học, cụ  thể  theo năm học, từng tháng, học kỳ, chủ  đề, từng thời điểm 
một cách phù hợp tạo điều kiện cho giáo viên tham gia. Xây dựng kế hoạch 
tổ  chức các buổi chuyên đề, hội giảng, thao giảng nhằm giúp giáo viên học 
hỏi kinh nghiệm lẫn nhau để  nâng cao trình độ  chuyên môn. Các giáo viên 
tham gia giảng dạy và dự giờ chéo lẫn nhau.
Hướng dẫn tổ khối lập kế hoạch họp chuyên môn trong tổ và họp đánh 
giá sau mỗi tiết dạy để rút kinh nghiệm, trao đổi, thảo luận  về mục tiêu, nội 
dung, phương pháp của  môn  làm quen văn học để  các giáo viên trong khối 
nắm vững hơn về phương pháp và hình thức tổ chức hoạt động làm quen văn 
học cho trẻ sinh động hơn, và giúp trẻ hứng thú trong  giờ học .
­ Biện pháp 2: Tập huấn chuyên môn đầu năm
Lựa chọn những giáo viên  cốt cán, tham gia  học hỏi tiếp cận về  cái 
mới, có kinh nghiệm, có khả  năng truyền đạt và xử  lý tình huống sư  phạm 
một cách linh hoạt, sáng tạo… đi tập huấn các buổi chuyên đề do phòng giáo 
dục hoặc cụm chuyên môn tổ chức, dự giờ học tập kinh nghiệm ở các trường 
bạn trong tỉnh, huyện để học tập rút kinh nghiệm và tiếp thu  những vấn đề 
mới và về triển khai lại trong tổ để cùng nhau học hỏi.
Bên cạnh đó để nắm được khả năng giảng dạy giáo viên và khả  năng 

cảm thụ văn học của trẻ. Vào đầu năm học, tôi lập kế hoạch khảo sát, từ đó 
phân loại trình độ  năng lực của từng giáo viên và sự  tiếp thu của từng trẻ để 
có biện pháp bồi dưỡng phù hợp qua việc khảo sát chất lượng đầu năm.

10


Có kế  hoạch dự  giờ, chuyên đề  thao giảng tiết dạy mẫu cụ  thể  cho 
giáo viên có cơ hội được học hỏi lẫn nhau.
Lên kế hoạch làm đồ dùng đồ chơi chủ yếu là làm rối, mô hình để sử 
dụng cho các tiết học như : Thơ, kể chuyện, đồng dao, ca dao...sẽ  giúp giáo 
viên sáng tạo hơn, đồ  dùng dạy học phong phú, đa dạng, giúp tiết học có 
hiệu quả, không gây nhàm chán cho trẻ.
* Giải pháp 2: Phát huy vai trò chỉ đạo của tổ trưởng chuyên môn
­ Biện pháp 1:
Chỉ  đạo tổ  chuyên môn điều hành tổ  chức, hoạt động của tổ  theo kế 
hoạch giáo dục, phân phối chương trình môn học của Bộ  Giáo dục và Đào  
tạo và kế  hoạch năm học của nhà trường; Tổ  chức bồi dưỡng chuyên môn 
cho giáo viên trong tổ;  Đánh giá, xếp loại và đề  xuất khen thưởng, kỉ  luật 
giáo viên thuộc tổ mình quản lý. 
Chỉ đạo tổ chuyên môn xây dựng Kế hoạch giáo dục bám sát nội dung  
của từng chủ  đề, đưa ra các dự  kiến về đề  tài của các môn học đặc biệt là  
môn làm quen văn học cho từng chủ đề trong năm học, hướng dẫn giáo viên 
dự kiến  đồ dùng dạy học cần phải chuẩn bị cho từng môn học .
  Xây   dựng   Kế   hoạch   cụ   thể   dạy   chuyên   đề,   thao   giảng,   dự   giờ,  
thường xuyên lên các tiết mẫu cho giáo viên tham gia dự giờ học tập.
­ Biện pháp 2:
 Xây dựng Kế hoạch cụ thể về sử dụng đồ dùng dạy học, thiết bị dạy 
học phong phú, đa dạng, mang tính mở, kích thích trẻ  tham gia hoạt động;  
Hướng dẫn xây dựng và quản lý việc kế  hoạch cá nhân, soạn giảng của tổ 

viên (kế  hoạch cá nhân dạy chuyên đề, thao giảng; soạn giáo án theo phân 
phối chương trình, chuẩn kiến thức, kĩ năng và chương trình khung theo từng  
độ tuổi, thảo luận các bài soạn khó; viết sáng kiến kinh nghiệm về nâng cao 
chất lượng dạy học, đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra đánh 
giá,...)
Tổ chức bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên trong tổ, giáo 
viên mới tuyển dụng (đổi mới phương pháp dạy học; đổi mới kiểm tra, đánh 
giá; dạy học theo chuẩn kiến thức kĩ năng; sử dụng đồ dùng dạy học, thiết bị 
dạy học, ứng dụng CNTT trong dạy học góp phần đổi mới phương pháp dạy 
học, phương pháp kiểm tra, đánh giá).   Dự  giờ  giáo viên trong tổ  theo quy  
định (4 tiết/giáo viên/năm học); Các hoạt động khác (đánh giá, xếp loại giáo 
viên; đề  xuất khen thưởng, kỉ  luật giáo viên...). Việc này đỏi hỏi tổ  trưởng 
chuyên môn phải nắm thật rõ về tổ viên của mình về ưu điểm hạn chế trong  
việc thực hiện nhiệm vụ giảng dạy được phân công.
* Giải pháp 3: Hướng dẫn giáo viên dùng các thủ thuật trong giờ học
­ Biện pháp 1: Dẫn dắt vào tiết học

11


Trẻ mầm non việc học của trẻ thông qua các trò chơi, qua các trò chơi  
mang hình thức học giúp trẻ dễ tiếp thu và hứng thú tham gia vào hoạt động  
hơn. Giáo viên hiểu được tâm lí của trẻ để  lựa chọn những phương pháp tổ 
chức thích hợp, sáng tạo, linh hoạt.  Ở  mỗi tiết dạy giáo viên phải biết sử 
dụng các thủ thuật, hình thức tổ chức khác nhau, gây cho trẻ sự mới lạ. Đặt 
những câu hỏi cho trẻ  phải mang tính chất mở  để  trẻ  được phát huy khả 
năng tư  duy từ  đó trẻ  tích cực tham gia hoạt động. Qua đó trẻ  được khẳng 
định bản thân, trẻ mạnh dạn trong giao tiếp.
          Mở đầu vào câu chuyện, bài thơ  giáo viên cần phải có thủ  thuật dẫn  
dắt thu hút sự  chú ý trẻ  để  trẻ  tập trung vào nội dung mà giáo viên muốn 

truyền đạt cho trẻ. 
        Ví dụ : Câu chuyện “ Qủa bầu tiên” giáo viên đưa quả bầu ra và đố trẻ 
quả bầu này có trong câu chuyện nào và sau đó cô dẫn dắt : Để biết được đó 
có phải là quả bầu bình thường không ? cô mời các bạn lắng nghe câu chuyện 
“Qủa bầu tiên” nhé ! Bằng cách thủ thuật khác nhau giáo viên có thể lựa chọn  
cách vào bài hay, hấp dẫn để lôi cuốn trẻ vào bài dạy.
Khi lên một tiết dạy trẻ kể chuyện, đọc thơ  việc đầu tiên là giáo viên 
phải chuẩn bị  đồ dùng dạy học, đẹp, phong phú, đa dạng và đặc biệt là phải  
có sự  mới lạ. Ví dụ  như: mô hình đa chiều, rối tay, sân khấu, phù hợp theo 
nội dung bài thơ, câu chuyện, giọng kể  nhẹ  nhàng, truyền cảm gây sự  lôi 
cuốn của trẻ. Bên cạnh đó giáo viên luôn chú ý đến mức độ  nhận thức trẻ 
lớp mình, từ đó sử dụng hệ thống câu hỏi từ đơn giản đến phức tạp phù hợp 
với khả năng trẻ lớp mình nhằm phát triển tính tích cực ở trẻ.
 Khi đàm thoại với trẻ về bài thơ, câu chuyện hệ thống câu hỏi phải có 
tính logic, phải thực hiện từ dễ đến khó, từ câu hỏi đơn giản dến phức tạp, 
giúp trẻ nhớ được tên bài thơ, câu chuyện tên tác giả, hiểu nội dung bài thơ 
và qua đó trẻ rút ra bài học gì. Từ đó trẻ biết được các nhân vật tốt xấu, nhân 
vật đại diện cho cái xấu, nhân vật nào đại diện cho chính nghĩa. Mục đích  
chính của việc đàm thoại là giúp trẻ  hiểu sâu nội dung bài thơ, câu chuyện,  
giúp trẻ nhớ lâu hơn, phát triển tư duy, trí tưởng tượng phong phú cho trẻ.
 Ví dụ: Khi đàm thoại nội dung câu chuyện, bài thơ giáo viên tổ  chức 
thành nhiều hình thức khác nhau như trò chơi “ ô của bí ẩn”  cho trẻ chọn ô 
cửa và trả lời câu hỏi, sau mỗi câu trả lời, cô tặng quà cho đội có nhiều câu 
trả lời đúng nhất, tuyên dương khích lệ trẻ kịp thời…
Khi cho trẻ kể chuyện sáng tạo giáo viên chuẩn bị tranh ảnh đẹp mắt, 
hoặc có thể  chuẩn bị  rối tay theo nhân vật để  trẻ  kể  chuyện sáng tạo theo  
tranh hoặc rối theo sự lựa chọn của trẻ.
Ví dụ: Đề tài truyện “Chú dê đen”. Giáo viên chuẩn bị hình ảnh, video 
câu chuyện, rối tay theo nhân vật, chó sói, dê đen, dê trắng, trẻ  có thể  kể 
chuyện sáng tạo với tranh hoặc rối hoặc mô hình theo sở thích của trẻ. phải  

đảm bảo để  trẻ  có một không khí thoải mái tự  tin để  trẻ  phát huy hết khả 

12


năng sáng tạo và óc tư duy của mình, cô có thể trợ giúp bằng những gợi ý khi  
trẻ lúng túng.
Để phát huy hết khả năng sáng tạo của trẻ giáo viên khuyến khích để 
trẻ mạnh dạn đặt tên sáng tạo cho câu chuyện. Gợi ý để trẻ đặt tên phù hợp  
với nội dung của câu chuyện, khi tự mình đặt cho câu chuyện ấy một cái tên 
mới là trẻ đã biết tư duy, từ đó làm giàu thêm vốn từ và phát triển được ngôn 
ngữ cho trẻ. Cô khuyến khích, tuyên dương để trẻ mạnh dạn phát huy được  
tính tích cực của trẻ. 
 Trẻ cảm nhận tác phẩm văn học có sâu sắc hay không, điều quan trọng 
nhất là  ở  cách truyền đạt kiến thức của giáo viên đối với trẻ. Vì vậy giáo  
viên phải nhập tâm vào tác phẩm văn học khi đó cô giáo mới truyền đạt kiến  
thức cho trẻ  dầy đủ, chính xác và trọn vẹn. Qua đó trẻ  sẽ  cảm nhận tác  
phẩm văn học sâu sắc, trẻ  nhập vào các vai chơi, các nhân vật trong thơ 
truyện và thể hiện một cách sinh động, mà các kỹ năng đó muốn trẻ có được 
thì giáo viên phải thường xuyên luyện tập cho trẻ, không những luyện tập 
trong tiết dạy mà còn ở mọi lúc mọi nơi.
 Thường xuyên cho trẻ  tham gia trải nghiệm để  trẻ  thể  hiện một cách  
sinh động, ngôn ngữ của trẻ mạch lạc, phong phú, nhập vai trong các trò chơi 
đóng kịch dựa theo tác phẩm văn học, giáo viên cần tập cho trẻ phương pháp 
quan sát, mô phỏng, tái tạo bằng cách nhắc lại, bắt chước.

Rối tay câu chuyện ‘ Nhổ củ cải”
Ví dụ: Để tổ chức hoạt động chung làm quen tác phẩm văn học truyện  
“Nhổ củ cải” giáo viên cho trẻ thể hiện điệu bộ vận động của con chó con, 
mèo con, chuột nhắt. Cho trẻ  lặp đi lặp lại những câu đối thoại. Cô có thể 

hỏi “ ông già đã gọi bà già như  thế  nào ?” “ bà già đã gọi cháu gái như  thế 
nào?” cô cho vài trẻ thể hiện như vậy để trong tác phẩm nào trẻ  cũng có cơ 
hội được tham gia dù ít hay nhiều.

13


Sau khi trẻ  hiểu được nội dung câu chuyện, bài thơ  thì giáo viên cho  
trẻ  tham gia đóng vai để  từ  đó trẻ  biết nhận xét các nhân vật. Giáo viên là  
người hướng dẫn trẻ vào vai chơi, trẻ được chọn vai chơi theo ý thích. Giáo 
viên cho trẻ được phát biểu cảm nghĩ của bản thân khi nhận vai chơi. Chuẩn 
bị  bối cảnh , trang phục cho trẻ  đóng kịch là điều rất quan trọng, vì nó sẽ 
giúp trẻ hứng thú và thích tham gia hoạt động hơn.
  Thể  hiện ngôn ngữ  của nhân vật giúp trẻ  được trãi nghiệm với những 
ngôn từ  muôn màu, muôn sắc. Trẻ  sẽ  biết cách chọn lọc những lời hay, ý 
đẹp trong quá trình giao tiếp của mình. 
   Kết thúc hoạt động giáo viên cho trẻ chơi một trò chơi nhẹ có nội dung 
phù hợp với nội dung bài thơ, câu chuyện đang học, để  tránh sự  nhàm chán  
những trò chơi cũng phải luôn đổi mới, sáng tạo mới có thể thu hút được trẻ 
tích cực tham gia.
         Khi tổ chức hoạt động cho trẻ làm quen với văn học diều quan trọng  
nhất là giáo viên phải luôn đổi mới hình thức tổ  chức, các hình thức không  
nên đề trùng lập sẽ dễ gây cho trẻ sự nhàm chán. Giáo viên luôn động viên và 
là người hỗ  trợ  đắc lực cho trẻ  trong hoạt động đóng vai, tạo cho trẻ  cảm  
giác an toàn khi thể  hiện ngôn ngữ  trước đám đông. Cách dẫn dắt giữa các  
hoạt động phải linh hoạt, nhẹ  nhàng, tự  nhiên không áp đặt, gò bó trẻ. Và 
điều đặc biệt quan trọng là giáo viên phải thân thiện gần gũi trẻ, tạo cho trẻ 
tâm thế  thoải mái. Kết thúc hoạt động giáo viên cũng cố  nội dung bài học 
bằng các trò chơi sôi động phù hợp với nội dung.
Giáo viên phải nhận xét, tuyên dương, động viên trẻ  kịp thời, khi trẻ 

đọc hay, kể  chuyện diễm cảm, đóng kịch giỏi. Lưu ý là giáo viên tuyệt đối 
không chê trẻ, mà phải động viên trẻ bằng các hình thức khác nhau. Tìm cách 
giúp trẻ yếu hoạt động tốt hơn.
Ví dụ: Khi trẻ  đọc thơ, kể  chuyện chưa diển cảm, chưa đúng nhịp,  
đọc còn ngọng…thì giáo viên cần quan tâm chú ý giúp trẻ đó luyện tập nhiều 
hơn, động viên trẻ cố gắng để đọc, kể được tốt như các bạn khác.
Khi đọc một bài thơ, kể câu chuyện để chuẩn bị dạy cho trẻ, giáo viên 
phải hiểu được nội dung, xác định được thể loại thơ, truyện, xác định được 
nhịp đọc, phải hiểu được tác giả sử dụng nghệ thuật gì? (  so sánh, nhân cách  
hóa…) Biết được nọi dung bài thơ, câu chuyên nhắn gửi điều gì ?
Ví dụ : Bài Thơ : “Em vẽ”
Em vẽ
Con gà trống
Mào đỏ tươi
……………
Em Vẽ 
Nhiều mái trường
14


Tươi đỏ mái.
Với nghệ thuật so sánh tác giả đã vẽ lên trước mắt ta con gà trống, con  
mèo lười, thật sống động, một con gà mới chỉ  được nghe thôi chưa được 
nhìn, được ngắm mà đã cảm nhận được vẽ đẹp rực rỡ của con gà.
          ­ Biện pháp 2: Phân tích giọng đọc, kể
Để  giúp trẻ  làm quen với các tác phẩm văn học một cách hứng thú, 
trước khi dạy tôi hướng dẫn giáo viên nghiên cứu kỹ  tác phẩm: phân tích 
giọng đọc, tập kể diễn cảm để giúp trẻ hiểu được nội dung bài học, giúp trẻ 
nhìn thấy được các hình tượng nhân vật, khung cảnh, các tình tiết và biết  
cách đánh giá chúng đúng đắn. Bằng cách đó, trẻ  cảm thụ  được âm điệu 

trong ngôn ngữ của thơ ca, chuyện kể.Vì vậy trong các buổi sinh hoạt chuyên 
môn, hay các tiết dự  giờ trên lớp tôi thường xuyên trao đổi với giáo viên về 
các thủ thuật lên lớp, các kỹ năng đọc kể, giọng điệu, ngữ điệu âm thanh để 
có giọng đọc kể phù hợp.
phải

VD: Truyện “ Tích chu” cô giáo cần phải kể bằng giọng êm nhẹ, vừa 
Giọng của bà ấm áp tình cảm, hơi yếu
Giọng tích chu hoảng hốt, có tính chất hối lỗi

Giọng bà tiên ấm áp, dịu hiền. Giọng của người dẫn chuyện phải nhẹ 
nhàng, cuốn hút người nghe.
 VD: kể cho trẻ nghe chuyện “ Nhổ củ cải”
Trước khi kể giáo viên đọc kĩ tác phẩm, phân tích giọng của từng nhân 
vật trong chuyện:
   Giọng ông già gọi bà già như thế nào!.( giọng chậm rãi, ồm ồm)
   Giọng bà già gọi cháu gái như thế nào!.
   Giọng cháu gái nhí nhảnh, hồn nhiên…khi chó con gọi mèo con như 
thế nào….
    Sau khi giáo viên kể  cho trẻ  nghe chuyện, trẻ  thuộc và biết kể  lại  
được câu chuyện diễn cảm, biết thể  hiện giọng của từng nhân vật. Biết 
đóng kịch thể hiện tốt vai của mình.
   Ví dụ: Bài thơ : “ Bé làm bao nhiêu nghề”
      Khi đọc giọng điệu câu thơ  phải nhẹ  nhàng, có cao độ  lên xuống 
nhịp nhàng, có điểm nhấn mạnh theo từng câu thơ.
    Bé làm bao nhiêu nghề ( giọng ngang)
    Bé chơi làm thợ nề ( giọng xuống)
    Xây nên bao nhà cửa ( giọng cao)…..
Cô giáo hướng dẫn trẻ  đọc thơ  diễn đạt, biểu cảm giúp trẻ  thích thú  
hơn và dễ cảm nhận âm điệu, nội dung thể hiện qua bài thơ.    

15


   * Giải pháp 4: Hướng dẫn giáo viên xây dựng môi trường văn học, làm  
đồ dùng, đồ chơi sáng tạo, mang tính mở  nhằm lôi cuốn trẻ vào tiết dạy.
­ Biện pháp 1: Hướng dẫn giáo viên làm mô hình, rối
Cũng như các hoạt động khác trong giáo dục mầm non việc cho trẻ làm 
quen với văn học luôn luôn phải có sự  song song giữa nội dung bài thơ, câu 
chuyện với hình ảnh minh họa trực quan. Nhằm thu hút sự chú ý của trẻ tăng 
thêm sức hấp dẫn của câu chuyện bài thơ, giúp trẻ  cảm nhận tốt tác phẩm 
văn học, giờ học đạt kết quả cao.
Với tình hình thực tế  của nhà trường, tôi thấy việc tạo môi trường cho 
trẻ làm quen văn học góp phần hình thành ở trẻ khả năng yêu thích cái đẹp ở 
xung quanh là việc làm hết sức quan trọng và tạo ra môi trường làm quen văn 
học. Chính vì vậy vào đầu năm học tôi kết hợp với tổ  khối đã tiến hành đi 
kiểm tra việc trang trí của các lớp để  xem các lớp trang trí có phù hợp hay 
không, có nổi bật chủ đề hay không và điều quan trọng là có đẹp và bắt mắt 
trẻ hay không.  Khi kiểm tra các lớp tôi hướng dẫn giáo viên nên giành riêng  
một khoảng trống có diện tích vừa phải, vừa tầm với trẻ nơi dễ gây sự chú ý 
của trẻ. Hướng dẫn giáo viên trang trí góc văn học theo nội dung câu chuyện  
“ Thỏ con đi học ” giáo viên trang trí bằng các nhân vật trong chuyện như thỏ 
con, thầy giáo hươu, và các bạn....và trang trí thêm cảnh vật xung quanh.
Xây dựng môi trường văn học không chỉ  trong lớp mà còn ngoài lớp 
học. Môi trường văn học đa dạng , phong phú sẽ  giúp trẻ phát huy khả năng 
tư duy, sáng tạo. Hiện nay theo chương trình giáo dục mầm non mới áp dụng 
quan điểm giáo dục “ Xây dựng môi trường lấy trẻ làm trung tâm”, trẻ được 
học thông qua trãi nghiệm, trẻ  được khám phá tìm hiểu, giao tiếp tương tác 
với bạn bè. Ở góc nghệ thuật giáo viên trưng bày về các loại rối về các nhân  
vật trong tác phẩm văn học như: Rối tay, rối que, mô hình đa chiều… kết 
hợp trong giờ hoạt động góc, giáo viên hướng dẫn trẻ cách sử  dụng rối, mô  

hình đa chiều. Được điều khiển các nhân vật theo diễn biến nội dung truyện  
làm cho trẻ rất thích thú và nhập vai rất tốt vào các tác phẩm văn học.  Biện 
pháp này đã đưa văn học đến gần với trẻ hơn, văn học trở nên gần gũi. Trong 
một giờ hoạt động chung trẻ  không thể  nhớ được toàn bộ câu chuyện hoặc 
thuộc bài thơ liền, vì ở lứa tuổi này trẻ rất dễ nhớ mà mau quên. 
Hướng dẫn, khuyến khích động viên giáo viên xây dựng môi trường 
văn học, làm đồ dùng dạy học bằng : Vật thật, mô hình, đạo cụ, trang phục, 
sân khấu, con rối ( rối tay, rối dẹt, rối que, mô hình đa chiều…). Sau đây là 
sản phẩm làm đồ dùng dạy học của cô giáo Đặng Thị Diễm Quyên.

16


                                            Mô hình thế giới động vật
          Sau khi được tôi hướng dẫn, giáo viên đã tìm tòi học hỏi từ bạn bè 
đồng nghiệp, tham khảo các trang mạng tạo ra nhiều sản phẩm sử dụng trong 
các tiết học theo chủ đề.
           Ví dụ : Chủ đề thế giới động vật, sử dụng cho thơ, truyện theo chủ 
đề. Qua đó khơi gợi cho trẻ sự thích thú khi được đọc thơ, kể chuyện qua các 
mô hình, bài thơ : “ Hươu sao” có thể sử dụng mô hình để tạo sự chú ý, thích 
thú cho trẻ khi được đọc thơ và quan sát hình ảnh minh họa.
          Ví dụ : Câu chuyện “ Chú dê đen” thì trẻ sẽ thích thú hơn khi cô vừa kể 
vừa có mô hình khu rừng nơi có chú dê đen, dê trắng và chó sói ở, giúp trẻ 
hình dung được nơi ở của các con vật sống trong rừng thông qua việc kể 
chuyện.

Mô hình đa chiều câu chuyện “ Nhổ củ cải”

 


­ Biện pháp 2: Hướng dẫn làm mô hình đa chiều

17


Để trẻ yêu thích các tác phẩm văn học, hứng thú tham gia vào các hoạt  
động làm quen văn học giáo viên cần hướng dẫn và khuyến khích trẻ  tự  tạo 
hình những nhân vật trong bài thơ, câu chuyện rồi dùng chính những sản  
phẩm trẻ làm được để dạy trẻ đọc thơ, dạy trẻ kể chuyện, phương pháp này 
không những giúp trẻ phấn khởi tham gia vào tiết học với những đồ  dùng do  
chính mình tạo ra mà khi tự tay tạo hình những nhân vật trong câu chuyện trẻ 
hiểu thêm về tính cách nhân vật, dành tình cảm yêu thích những tác phẩm văn  
học.
VD: Bài thơ “Ngày mùng tám tháng ba”, giáo viên vẽ tranh, trẻ giúp cô 
tô màu bức tranh. Những trẻ  khéo tay có thể  giúp cô vẽ  thêm hoa, thêm lá 
hướng dẫn trẻ tô màu phù hợp và vẽ thêm chim, bướm....  Hoặc giáo viên vẽ 
trên bìa cứng, trẻ  giúp cô cắt những bông hoa ... Sau đó cô và trẻ  cùng làm  
tranh động cho bài thơ “Ngày mùng tám tháng ba”. 
Hay một số  bài thơ   ở  chủ  đề  “ Hiện tượng thiên nhiên” như  bài thơ: 
Sao và trăng, truyện hạt nước tí xíu, thơ  Biển của bé, truyện mây và gió. 
Hướng dẫn giáo viên cho trẻ  và cô cùng làm các mô hình theo hình thức trò 
chơi “ chiếc nón kì diệu” để  trẻ  được ôn lại các bài thơ  một cách hứng thú 
hơn.
Để tiết dạy thật sự hấp dẫn và lôi cuốn được trẻ thì việc chuẩn bị đồ 
dùng dạy học chu đáo là việc không thể  thiếu, đồ  dùng phải đẹp mắt, mới 
mẻ, sáng tạo mới thu hút được trẻ.
Hướng dẫn giáo viên sưu tầm những nguyên vật liệu mới, tận dụng  
những nguyên vật liệu sẵn có như: vải vụn, lõi giấy vệ sinh, báo cũ, rơm khô, 
đĩa CD cũ, lon bia, hũ nhựa… để  tạo  ra những đồ  dùng phong phú phục vụ 
cho tiết dạy:

VD: Chuẩn bị  đồ  dùng cho câu chuyện “Cáo, Thỏ  và Gà trống” dùng 
bao tay củ  để  làm rối nhân vật, rồi   dùng   những nguyên vật liệu như  bìa 
cứng, báo cũ, cỏ khô, hột hạt… làm mô hình kết hợp diễn rối khi kể chuyện  
cho trẻ nghe. Có thể gắn bánh xe và buộc dây để rối có thể di chuyển theo mô 
hình…
Để giúp trẻ có hứng thú khi tham gia hoạt động làm quen văn học, việc 
cần thiết  ở  mỗi giáo viên là phải tạo môi trường văn học xung quanh trẻ,  
giúp trẻ  được sống trong môi trường văn học. Để  từ  đó thường xuyên tiếp 
cận với các tác phẩm văn học, dần dần hình thành nhu cầu văn học ở trẻ. Ở 
lớp giáo viên nên chọn góc phòng thoáng, đủ ánh sáng để làm góc văn học cho 
trẻ, ở đây được trang bị rất nhiều sách về văn học, góc văn học được trang trí 
đẹp mắt với những tác phẩm văn học do cô và trẻ tự làm.
Ví dụ: Giáo viên sưu tầm một số truyện tranh có hình ảnh đẹp và nội  
dung về  văn học như  (Chú dê đen, nhổ  củ  cải, Bác gấu đen…) một số  tác 
phẩm văn học do cô và trẻ cùng làm như (ước mơ của Hưu sao; Cáo, Thỏ và  
Gà trống …), bằng hình thức trẻ vẽ theo tưởng tượng về nội dung, hoặc giúp 
cô tô màu tranh đã vẽ  sau đó đóng thành sách. Với các bài thơ  trong chương  
18


trình học trong chủ  đề, cô viết lên bìa lịch và kết hợp một số  hình ảnh sưu 
tầm hoặc là tranh cô tự vẽ. Tất cả sản phẩm do cô, trẻ tạo ra hoặc huy động  
đều trưng bày ở góc văn học. 
Những tác phẩm đơn giản do giáo viên và trẻ  cùng làm tuy chưa mang  
tính thẩm mỹ cao nhưng nó thật sự đem lại hiệu quả rất lớn giúp trẻ ghi nhớ 
những nhân vật trong tác phẩm văn học, đặc điểm của những nhân vật…, yêu 
thích những sản phẩm do mình làm ra từ đó thích đọc thơ, kể chuyện và tham  
gia đóng kịch mà tranh, rối minh họa cho bài thơ, câu chuyện đó chính là 
những sản phẩm của trẻ.
* Giải pháp 5: Hướng dẫn giáo viên cho trẻ  làm quen văn học thông  

qua các môn học khác.
­ Biện pháp 1:Hoạt động mọi lúc, mọi nơi
Trong mọi giờ học khác đều có thể tích hợp môn làm quen văn học có  
thể là những bài thơ, đồng dao, câu chuyện đã học hoặc chưa được học, để 
gây được hứng thú cho trẻ  trong các giờ  học, văn học luôn là sự  lựa chọn 
mang lại hiệu quả  cao. Một bài thơ, ca dao, một câu chuyện nhỏ… đều có  
thể gây được hứng thú giúp trẻ bước vào tiết học một cách nhẹ nhàng hơn.
Ngoài câu chuyện bài thơ  được quy định trong chương trình, tôi đã 
hướng dẫn chỉ  đạo giáo viên thực hiện tốt việc lồng ghép văn học với các 
môn học khác sao cho phù hợp với chủ đề, chủ điểm.
Ví dụ: Khi trẻ tham quan cô cho trẻ đọc bài thơ : Đàn kiến, trẻ vừa đi 
vừa đọc giúp trẻ nhanh thuộc và dể hiểu nội dung của bài thơ, đàn kiến xếp 
hàng ngay ngắn, đi thẳng hàng qua đó giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
Ví dụ: Khi trẻ ăn cơm: Cô giáo cho trẻ đọc bài thơ khi ngồi vào bàn ăn, 
bài thơ “ Giờ ăn”. Trẻ đọc bài thơ  và thông qua bài thơ  trẻ rèn được nề  nếp  
trong giờ ăn, ngồi vào bàn, cách cầm thìa, xúc cơm không làm rơi vãi…
Việc cho trẻ  làm quen với tác phẩm văn học có thể  tiến hành  ở  mọi lúc 
mọi nơi khi đi dạo, tham quan, hay trong các hoạt động khác  ở  trường của  
trẻ…
    Vào những giờ hoạt động ngoài trời giáo viên có thể cho trẻ đọc một số 
bài thơ, câu chuyện có liên quan đến hiện tượng thời tiết, hiện tượng thiên 
nhiên để qua đó trẻ được thực nghiệm và dễ  dàng cảm nhận được nội dung 
của câu chuyện, bài thơ.
      Ví dụ: 
 Vào mùa hè cho trẻ quan sát bầu trời, giáo viên có thể cho trẻ đọc bài thơ 
“ông mặt trời”, “ Nắng mùa hè” qua đó cho trẻ biết về nắng nóng của mùa hè 
và lồng ghép giáo dục trẻ đi học đội mũ, nón.
  Hoặc là giờ vệ sinh rửa tay của trẻ, giáo viên có thể cho trẻ đọc bài thơ “  
Rửa tay sạch sẽ” giúp trẻ  chú ý hơn trong việc thực hiện vệ  sinh cá nhân 
hàng ngày.

19


     Giờ  hoạt động vui chơi giáo viên cho trẻ  xem truyện tranh, tập kể 
chuyện sáng tạo, cho trẻ đọc thơ kết hợp từ và hình ảnh.
    Trong giờ ngủ trưa, trước giờ đi ngủ giáo viên rèn cho trẻ thói quan đọc  
bài thơ “ Đi ngủ” hoặc bài thơ “ Ngủ” qua đó trẻ hiêu và có ý thức trong giờ 
ngủ  trưa. Hay ngay trong lúc chờ  bàn ăn, giáo viên sưu tầm một số  bài thơ 
cho trẻ đọc nhằm giáo dục về vệ sinh ăn uống cho trẻ. 
Để gây được hứng thú cho trẻ trong khi trò chuyện có thể kết hợp cho  
trẻ  xem tranh, hình  ảnh trên máy tính, hoặc  những đoạn video có nội dung 
phù hợp nhằm để trẻ hứng thú, phát huy tính tích cực của bản thân từ đó phát 
triển ngôn ngữ. Trong lúc trò chuyện cô đã cung cấp cho trẻ  nhiều vốn từ 
giúp trẻ  hiểu nghĩa của câu, nói trọn câu, diễn đạt mạch lạc. Không những 
trẻ còn tìm hiểu về thế giới xung quanh làm quen với kiến thức mới, giúp trẻ 
bước vào tiết học một cách dễ dàng. Vì vậy trong lúc trò chuyện với trẻ giáo  
viên phải nói rõ ràng, chính xác, ngắn gọn, đủ nghĩa giúp trẻ học nói tốt hơn. 
Qua thời gian thực hiện của giáo viên  tôi nhận thấy các cháu mạnh dạn hồn  
nhiên hơn trước, rất thích trò chuyện với người lớn. Đặc biệt có một vốn từ 
rất đáng kể.
­

Biện pháp 2: Thông qua hoạt động có chủ đích

Trong hoạt động chung ở các tiết học việc tích hợp môn làm quen văn 
học cho trẻ là rất cần thiết, giúp trẻ đỡ nhàm chán
Trong quá trình trẻ học toán giáo viên có thể sử  dụng câu chuyện dẫn 
dắt trẻ  vào hoạt động, từ  đó trẻ  sẽ  hứng thú với tiết học toán và cũng cố 
được kiến thức câu chuyện mà trẻ được học.
Ví dụ: Dạy trẻ Làm quen với toán

 Chủ đề  “Thế giới thực vật – Tết và mùa xuân”. Đề tài: Đếm đến 5, 
nhận biết các nhóm có số lượng 5, nhận biết chữ số 5.  Tích hợp câu chuyện 
“Nhổ củ cải”, sau khi ôn kiến thức cũ thay vì chuẩn bị sẵn đồ  dùng trong rổ 
cho trẻ, giáo viên kể cho trẻ nghe câu chuyện “Nhổ củ cải” rồi vận động trẻ 
cùng giúp cô nhổ cũ cải, trẻ cùng cô nhổ đủ 5 cũ cải bỏ vào rổ của mình sau  
mỗi lần nhổ kết hợp đếm. Câu chuyện đã giúp tiết học trở nên nhẹ nhàng và 
sinh động hơn.
Giờ học: Khám phá khoa học 
Chủ  đề  " Một số  loại rau". Giáo viên trò chuyện với trẻ  về  một số 
loại rau. Trong giờ học tôi hướng dẫn giáo viên nên giáo dục trẻ biết lợi ích 
của một số  loại rau, và dinh dưỡng mà rau cung cấp cho con người. Hình 
thành cho trẻ về kinh nghiệm sống, giúp cho các giờ học sinh động, hấp dẫn  
tránh sự nhàm chán vào giờ học giúp trẻ lĩnh hội kiến thức dễ dàng.
Ví dụ: giờ  tạo hình đề tài vẽ theo ý thích, giáo viên có thể gợi ý bằng  
cách cho trẻ đọc bài thơ “ em vẽ” của nhà thơ Hoàng Thanh Hà…
Ví dụ: Môn âm nhạc: Dạy bài hát “Cháu yêu bà”

20


Giáo viên có thể  lồng ghép cho trẻ  đọc bài thơ  “ Giúp bà” nhằm giáo 
dục trẻ  yêu quý bà và giúp đỡ  bà. Qua đó trẻ  cảm nhận được tình cảm gia  
đình trong bài thơ.
Hay môn thể  dục: khi chơi trò chơi cô cho trẻ  đọc bài đồng dao hoặc  
ca dao sao cho có nhịp điệu nhanh, dí dỏm giúp trẻ thực hiện tốt các động tác 
của bài thể  dục. Như vậy, việc cho trẻ làm quen với văn học thông qua các 
môn học khác là vô cùng quan trọng, điều đó giúp trẻ được tiếp xúc với văn  
học bằng nhiều hình thức và nhiều phương diện. Qua đó giúp trẻ cảm nhận  
được tác phẩm văn học một cách sâu sắc hơn.
 Muốn trẻ  dễ  nhớ, và khắc sâu các nội dung, hình  ảnh, nhân vật của 

các tác phẩm văn học việc cho trẻ làm quen với văn học ở mọi lúc mọi nơi là  
rất cần thiết, vì thông qua các môn học khác trẻ sẽ được khơi gợi lại những 
ấn tượng về  văn học. Trẻ  sẽ  tiếp thu dễ  dàng hơn, và qua quá trình lồng 
ghép văn học vào các môn học khác trẻ  sẽ  thấy được văn học có tác động  
mạnh mẽ  đến các lĩnh vực phát triển của con người như: ngôn ngữ, tình  
cảm, nhận thức, thẩm mỹ.
­ Biện pháp 3:Thông qua môi trường bên ngoài lớp học
Hướng dẫn các giáo viên trong khối chồi xây dựng môi trường dạy học 
bên ngoài lớp học.
Ví dụ: câu chuyện “ Tấm cám” cô giáo có thể dùng các nguyên vật liệu  
phế thải hoặc nguyên vật liệu có sẵn  ở  địa phương để  làm hình cô tấm, cô 
cám, giếng nước,…tạo cho trẻ  không gian cổ  tích thật sự  qua đó trẻ  được  
khám phá, trải nghiệm, trẻ dể dàng hình dung câu chuyện thông qua các nhân 
vật và nhập vai vào nhân vật.
* Giải pháp 6:  Làm tốt công tác tuyên truyền, phối kết hợp với cha mẹ  
trẻ trong việc cho trẻ làm quen văn học:
Công tác phối kết hợp với cha mẹ  trẻ  và nhà trường là một vấn đề 
quan trọng, nó góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ. Vì thế 
tôi hướng dẫn giáo viên vào các buổi họp cha mẹ đầu năm, phải tuyên truyền  
giúp cha mẹ trẻ hiểu được tầm quan trọng của các hoạt động ở trường, đặc 
biệt là môn làm quen văn học từ đó để đưa ra biện pháp cụ thể.
Trong các buổi họp chuyên môn Tôi nhắc nhở  giáo viên làm tốt việc 
trao đổi với phụ  huynh hàng ngày vào giờ  đón trả  trẻ, giáo viên gặp gỡ  trao  
đổi với về  tình hình học tập cũng như  sức khỏe của trẻ. Kết hợp tuyên 
truyền đến phụ  huynh về  chủ  đề, bài trẻ  đang học, qua đó động viên phụ 
huynh cung cấp tranh, sách báo, hình ảnh về chủ đề  đang học, phối hợp với 
phụ  huynh dạy và ôn lại cho trẻ  đọc thơ, kể  chuyện, tập trẻ  vẽ  theo nội  
dung chuyện… Bên cạnh đó,  giáo viên cần  vận động phụ  huynh đóng góp 
một số  sách truyện mẫu giáo. Những loại sách này có hình  ảnh rõ nét, nội 
dung có tính chất giáo dục cao.

Thực tế  cho thấy, sau khi nhận thức rõ tầm quan trọng của môn làm  
quen văn học đối với trẻ, không những phụ huynh người kinh mà kể cả phụ 
21


huynh là ngườ  dân tộc thiểu số   đã nhiệt tình  ủng hộ   đồng thời tạo môi 
trường văn học cho con tại gia đình, mua sách báo phù hợp với độ  tuổi của 
trẻ, kể cho con nghe, dạy con đọc những bài đồng dao, ca dao….chính vì vậy, 
khi đến lớp trẻ đã có nhiều tiến bộ rõ rệt và hứng thú hơn trong các tiết học  
mà tôi thao giảng, dự  giờ.Lĩnh vực phát triển ngôn ngữ  của trẻ  được giáo 
viên báo cáo về chuyên môn hàng tháng cũng có sự chuyển biến rõ rệt.
Qua   việc   áp   dụng  một  số   biện  pháp   trong  và   ngoài  giờ   học.   Chất 
lượng về  môn Làm quen văn học tăng lên khá rõ, Các cháu rất thích học bộ 
môn này, rất mạnh dạn khi giao tiếp, thích trò chuyện cùng người lớn và đặc 
biệt rất thích tham gia vào các hoạt động không chỉ có làm quen văn học mà ở 
tất cả các hoạt động ở trường mầm non.
IV. Tính mới của giải pháp
    Mỗi giải pháp, biện pháp đều có tác dụng riêng nhưng đều hỗ  trợ  cho 
nhau là cùng chung một nhiệm vụ cung cấp các kiến thức, kỹ năng, thủ thuật  
lên lớp giúp giáo viên đúc rút được nhiều kinh nghiệm trong các hoạt động 
giáo dục, nhất là hoạt động cho trẻ làm quen văn học. 
Sau một thời gian bồi dưỡng, hướng dẫn giáo viên thực hiện, tôi nhận 
thấy khả năng cảm thụ văn học của trẻ có những chuyển biến rõ rệt, và khả 
năng tổ chức, sử dụng môi trường, đồ dùng của giáo viên có phần phong phú, 
hấp dẫn hơn so với khi chưa thực hiện chuyên đề.
     Để  thực hiện các biện pháp, giải pháp trước hết giáo viên phải linh 
hoạt, năng động, sáng tạo, tâm huyết với nghề nghiệp, đầu tư chiều sâu vào  
công tác chuyên môn, mở  rộng tìm tòi, nghiên cứu các chuyên đề  đã học. 
Ngoài ra giáo viên cần linh hoạt, nhẹ  nhàng, sáng tạo trong cách nghĩ, cách  
làm và biết phối hợp chặt chẽ  với chuyên môn, nhà trường, đoàn thể  trong  

công tác tuyên truyền đến các bậc phụ huynh trong việc xây dựng môi trường 
văn học trong và ngoài lớp học. Cũng như  việc sử  dụng các phương pháp, 
biện pháp chăm sóc giáo dục giúp trẻ  phát triển toàn diện theo chương trình 
chăm sóc giáo dục mầm non mà Bộ GD&ĐT đã ban hành.
Các giải pháp, biện pháp luôn đảm bảo các yếu tố  thực tế, thiết thực  
,dễ  hiểu và nêu rõ tầm quan trọng của trẻ trong chương trình chăm sóc giáo  
dục mầm non.
Thông qua các giải pháp mới đưa ra đã có sự  chuyển biến rõ rệt về 
chất lượng môn học làm quen văn học ở khối chồi. 
V. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Trước khi áp dụng đề  tài nghiên cứu tại khối chồi trường mầm non  
Hoa Hồng, chất lượng việc xây dựng kế  hoạch, các phương tiện dạy học, 
xây dựng môi trường hoạt động của giáo viên chưa phù hợp, linh hoạt, sáng  
tạo, giáo viên chưa khai tác một cách hợp lý các phương tiện dạy học. Trẻ 
chưa mạnh dạn, thiếu tự  tin, khả  năng đọc, kể  diễn cảm còn hạn chế, trẻ 

22


nhanh nhàm chán khi tham gia hoạt động làm quen văn học. Sau khi áp dụng 
đề tài nghiên cứu:
* Đôi v
́ ơi giao viên:
́ ́
Giáo viên đã xây dựng kế hoạch phù hợp vào tình hình thực tế của lớp,  
chủ  động, sáng tạo, linh hoạt hơn trong quá trình tổ  chức cho trẻ  hoạt động 
làm quen văn học.
Giáo viên đã nắm vững mục đích, nội dung kiến thức theo độ  tuổi, có 
sự  chuẩn bị, đầu tư  vào hoạt động cho trẻ  làm quen văn học. Cung cấp các  
kiến thức về văn học đảm bảo về nội dung lẫn phương pháp. Vì vậy nên khả 

năng  cảm   thụ   văn   học   của   trẻ   ngày  một  tiến   bộ,  trẻ   hiểu   nội   dung  câu 
chuyện, bài thơ  tính cách nhân vật nhanh và nhớ  lâu hơn. Trẻ  tham gia tích  
cực, hứng thú hơn, trẻ dân tộc thiểu số phát âm rõ ràng, rành mạch hơn. Trẻ 
có khả năng tư duy tốt, biết chọn lời hay, ý đẹp trong giao tiếp.
Giáo viên đã biết sử dụng đồ dùng đẹp, khoa học hơn , tạo môi trường 
hoạt động cho trẻ  phong phú hấp dẫn, sáng tạo.  Biết khai thác các phương 
tiện dạy học có hiệu quả. Giúp trẻ  hứng thú, tích cực tham gia vào các hoạt  
động.
Kết quả đạt được
Nội dung

NH 2017­2018

NH 2018­ 2019
( Ước lượng)

Đạt

Chưa đạt

Đạt

Chưa đạt

Xây   dựng   kế   hoạch 
giáo dục phù hợp, linh 
hoạt, sáng tạo.

2/6


4/6

4/6

2/6

Các phương tiện dạy 
học   hấp   dẫn.   Sử 
dụng   đồ   dùng   đẹp, 
khoa học, sáng tạo.

3/6

3/6

5/6

1/6

Xây dựng môi trường 
hoạt   động   cho   trẻ 
phong   phú,  hấp   dẫn 
kích   thích   trẻ   hoạt 
động.
Khai thác các phương 
tiện dạy học,  ĐDĐC 
có hiệu quả.

 


 

3/6

3/6

4/6

2/6

2/6

4/6

4/6

2/6

23


 * Đối với trẻ :
          Trẻ rất hứng thú tham gia hoạt động, mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp.  
Vốn từ của trẻ phong phú hơn, ngôn ngữ phát triển rõ rệt, trẻ đã biết phát âm 
rõ ràng, diễn đạt ngôn ngữ có phần lưu loát hơn, đọc thơ biết ngắt nhịp, đọc 
đúng ngữ điệu, kể chuyện biết kể diễn cảm, thuộc truyện nhiều hơn, biết tự 
dẫn chuyện và mạnh dạn nhận vai để  đóng kịch, thể  hiện được giọng điệu  
và tính cách của các nhân vật. Có kỹ năng kể chuyện sáng tạo.
* Đối với trẻ:
Kết quả đạt được

Nội dung

NH 2017­ 2018

NH 2018­ 2019
( Ước lượng)

Trẻ đạt %

Trẻ chưa 
đạt %

Trẻ đạt % Trẻ chưa đạt 
%

Trẻ   hứng   thú   trong 
tiết làm quen văn học.

36%

64%

78%

22%

Khả   năng   đọc   ,   kể 
diễn cảm.

40%


60%

62%

38%

Mạnh   dạn,   tự   tin 
trong giao tiếp.

42%

58%

80%

20%

Kỹ   năng   kể   chuyện 
sáng tạo.

35%

65%

70%

30%

* Đôi v

́ ơi phu huynh
́
̣

Tạo được niềm tin trong phu huynh, ngay cang tin t
̣
̀ ̀
ưởng vào công tác  
chăm sóc giáo dục trẻ của nhà trường. Giưa phu huynh va giao viên đa co s
̃
̣
̀ ́
̃ ́ ự 
hợp tac tich c
́ ́ ực và gắn bó với nhà trường hơn, hiểu được tầm quan trọng của  
giáo dục mầm non.
III. Phần thứ ba: Kết luận, kiến nghị
I. Kết luận: 
 Công tác bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên là một nhiệm vụ  quan 
trọng trong chiến lược phát triển giáo dục. Trong nhà trường đội ngũ giáo 
viên là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục, do đó tìm ra những biện pháp 
nâng cao chất lượng giáo dục nói chung, chất lượng môn làm quen với văn 
học nói riêng là một việc làm vô cùng ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
24


Trong quá trình áp dụng sáng kiến của mình với việc hướng dẫn, bồi  
dưỡng cho giáo viên khối chồi thực hiện tốt môn “ Làm quen văn học”  ở 
trường Mầm non Hoa Hồng, sau một thời gian thực hiện Tôi thấy có sự 
chuyển biến rõ rệt. Giáo viên đã vận dụng các kiến thức linh hoạt, sáng tạo 

hơn, không ngừng học hỏi bạn bè, đồng nghiệp trao dồi khả năng tổ chức tiết  
dạy với nhiều hình thức, thủ thuật sống động hơn.
Giáo viên  đã bổ  sung nhiều đồ  dùng trực quan, thiết bị  dạy học, đồ 
dùng  đẹp, sinh động, đa dạng và phong phú tạo sự hứng thú cho trẻ như : rối  
tay, rối que, mô hình đa chiều, trang phục nhân vật trong truyện. Khả  năng  
nghiên cứu tác phẩm, phân tích nghệ  thuật của tác phẩm, tính cách của từng 
nhân vật, giọng đọc, kể  của giáo viên có sự tiến bộ rõ nét, lôi cuốn sự chú ý  
của trẻ.  Xây dựng  nội   dung giáo  dục  phù  hợp  với  tình hình  thực  tế   của 
trường, lớp mình. Các nội dung giáo dục đi từ  dễ  đến khó, từ  đơn giản đến 
phức tạp, các kĩ năng đọc kể diễn cảm cần được cũng cố và hoàn thiện.
Hình thức tổ  chức cho trẻ  hoạt động làm quen văn học phải đa dạng,  
sáng tạo và thường xuyên được đổi mới. Trẻ  học mà chơi, chơi mà học,  
thông hoạt động vui chơi trẻ  lĩnh hội những kiến thức mà giáo viên truyền 
thụ. Qua việc cho trẻ làm quen văn học chính là hình thành  ở  trẻ  những đạo 
đức tốt đẹp, những cảm xúc thẩm mỹ, phát triển trí tưởng tượng. Thông qua 
hoạt động này trẻ làm tái tạo và sáng tạo thêm những tình tiết của tác phẩm  
một cách hồn nhiên phù hợp với nội dung của tác phẩm.
Giáo viên đã phối hợp tốt với phụ huynh học sinh trong việc xây dựng  
môi trường văn học cho trẻ, trao đổi cung cấp những kiến thức chăm sóc trẻ 
để  giáo viên và phụ  huynh cùng chăm sóc giáo dục giúp trẻ  phát triển một  
cách toàn diện.
 Những biện pháp tôi đưa ra chưa nhiều, nhưng tôi đã phần nào thành 
công, vì nó đã góp phần định hướng tốt cho giáo viên khối chồi về  việc xây 
dựng, tổ chức có hiệu quả môn làm quen văn học cho trẻ 4­5 tuổi, tại trường  
Mầm non Hoa Hồng trong năm học vừa qua. Chính vì thế sau đề tài này tôi sẽ 
tiếp tục nghiên cứu, tìm tòi nhiều biện pháp hơn nữa để  không những nâng 
cao chất lượng môn làm quen văn học mà các môn khác nữa, đưa chuyên môn 
của nhà trường ngày càng đi lên.
II. Kiến nghị : 
­ Đối với Phòng Giáo dục

 Quan tâm đầu tư  cơ  sở  vật chất, trang thiết bị  dạy học cho trẻ mầm  
non hàng năm.
Mở  các lớp chuyên đề, tập huấn về  việc sử dụng rối trong hoạt động 
làm quen văn học có hiệu quả.
Chọn những sáng kiến kinh nghiệm hay co tinh thuyêt phuc cao ph
́ ́
́
̣
ổ 
biến rộng rãi cho chúng tôi được tham khảo, học tập.
­ Đối với nha tr
̀ ương
̀
25


×