Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm: Nâng cao chất lượng giờ học chính tả cho học sinh lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (559.78 KB, 24 trang )

        UỶ BAN NHÂN DÂN HUYỆN HẬU LỘC
               PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN HẬU LỘC

MỘT SỐ BIỆN PHÁP
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIỜ HỌC CHÍNH TẢ

CHO HỌC SINH LỚP 4


            

Người thực hiện:   NGUYỄN NHƯ QUỲNH
Chức vụ:                Giáo viên
    Đơn vị:   TRƯỜNG TIỂU HỌC MINH LỘC I
     SKKN thuộc môn: Tiếng Việt
            


Năm học:  2010 ­ 2011
PHẦN I

ĐẶT VẤN ĐỀ
I.  Lời mở đầu
      Thực hiện mục tiêu giáo dục và góp phần nâng cao chất lượng giáo dục,  
đào tạo thế  hệ  trẻ  thành những con người phát triển toàn diện đáp  ứng nhu 
cầu của đất nước trong thời kỳ  mới, thì việc lựa chọn và đổi mới phương 
pháp dạy học là yếu tố hết sức quan trọng nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng  
cao của xã hội đối với giáo dục. Bộ  Giáo dục ­ Đào tạo đã chủ  trương đổi 
mới chương trình tiểu học theo các mục tiêu: Tiếp tục tăng cường thực hiện  
giáo dục toàn diện (đức ­ trí ­ thể ­ mỹ ­ và các kỹ năng cơ bản) đảm bảo sự 
cân đối hài hoà giữa các lĩnh vực học tập và giáo dục ở nhà trường tiểu học. 


Bởi vậy, yêu cầu của giáo dục hiện nay là phải đào tạo con người phát triển  
toàn diện. Trong đó tiếng mẹ  đẻ  (tiếng phổ  thông) là một trong những điều 
kiện đầu tiên quyết định, giúp học sinh nắm bắt được tri thức một cách dễ 
dàng.
     Chính tả là một phân môn của môn Tiếng Việt, là những chuẩn mực của  
ngôn ngữ  viết, được thừa nhận trong ngôn ngữ  toàn dân. Mục đích của việc 
dạy chính tả  là trở  thành phương tiện thuận lợi cho việc giao tiếp bằng chữ 
viết, bảo đảm cho người viết và người đọc đều hiểu thống nhất những điều 
đã viết. Chính tả trước hết là sự quy định có tính chất xã hội, một sự quy định 
có tính chất bắt buộc gần như tuyệt đối, nó không cho phép vận dụng quy tắc  
2


một cách linh hoạt có tính chất sáng tạo cá nhân. Một ngôn ngữ văn hoá không 
thể  không có chính tả  thống nhất. Chính tả  thống nhất là một trong những  
biểu hiện của trình độ văn hoá phát triển của một dân tộc.
      Phân môn Chính tả trong nhà trường, rèn cho học sinh biết quy tắc và có 
thói quen viết chữ ghi Tiếng Việt đúng với chuẩn, cùng với tập viết, tập đọc,  
Chính tả giúp cho người học chiếm lĩnh được Tiếng Việt văn hóa, công cụ để 
giao tiếp, tư  duy và học tập. Đối với người sử  dụng Tiếng Việt, viết đúng 
chính tả chứng tỏ 
đó là người có trình độ văn hoá về mặt ngôn ngữ. Viết đúng chính tả giúp cho  
học sinh có điều kiện để sử dụng Tiếng Việt đạt hiệu quả cao trong việc học  
tập các bộ môn văn hoá, trong việc viết các văn bản, thư từ, ....
      Bài chính tả  mang tính chất thực hành. Thông qua luyện tập liên tục kết 
hợp với việc ôn tập các quy tắc chính tả  học sinh sẽ  có khả  năng viết đúng 
các chữ  ghi Tiếng Việt. Do đó không có tiết học quy tắc chính tả  riêng. Các 
quy tắc đều được học thông qua các hoạt động thực tiễn. Ngoài việc cung cấp 
cho học sinh các quy tắc và rèn luyện để  các em có kĩ năng và thói quen viết 
đúng chính tả, qua môn học này còn rèn cho học sinh một số phẩm chất: tính 

kỉ  luật, tính cẩn thận (vì phải viết đúng quy tắc, viết nắn nót từng nét), óc 
thẩm mĩ (vì phải viết ngay ngắn, thẳng hàng, đẹp đẽ), đồng thời bồi dưỡng 
cho các em lòng yêu quý Tiếng Việt, cách biểu thị  tình cảm tốt đẹp đó trong 
viết đúng chính tả.
     Như vậy, phân môn Chính tả có vị trí đặc biệt quan trọng, nhằm thực hiện  
mục tiêu của môn Tiếng Việt là rèn và phát triển tiếng mẹ  đẻ  cho học sinh, 
trong đó có năng lực chữ viết.
    Trong những năm gần đây, các nhà trường tiểu học luôn quan tâm đến chữ 
viết qua các phong trào thi “Viết chữ  đẹp”. Đây là một hình thức để  tuyên 

3


truyền sâu rộng cho toàn dân trong việc giáo dục con em rèn chữ  đẹp. Viết 
đẹp không phải chỉ đẹp về hình thức mà còn đúng cả về quy tắc chính tả.
    Thực tiễn hiện nay, học sinh viết sai lỗi chính tả  còn khá phổ  biến. Xuất  
phát từ đặc điểm của chữ viết là “nói sao viết vậy” và chữ viết của chúng ta 
là chữ ghi âm Tiếng Việt. Vì thế một phần là do giáo viên và học sinh bị ảnh  
hưởng phương ngữ, còn phát âm chưa chuẩn theo tiếng phổ  thông. Hơn nữa 
trình độ  Tiếng Việt của một số  giáo viên còn hạn chế, việc nắm quy tắc 
chính tả  chưa sâu nên rất lúng túng trong việc giảng dạy chính tả. Mặt khác 
do một bộ phận phụ huynh chưa quan tâm đến việc rèn chữ viết cho con em. 
Phần nữa là do ý thức học tập 
của các em còn hạn chế, không đồng bộ…
     Bản thân là một giáo viên đứng lớp, ngày ngày được nghe, được đọc và 
được nhìn thấy trực tiếp các bài viết của học sinh, tôi đã phát hiện ra không ít 
những lỗi sai cơ bản về chính tả mà học sinh lớp tôi chủ nhiệm mắc phải. Tôi 
không khỏi suy nghĩ và trăn trở: Vậy phải làm thế nào đây để học sinh của tôi  
viết chính tả cho đúng, cho đẹp, vì điều đó là vô cùng quan trọng, nó là sự liên  
quan chặt chẽ giữa phân môn Chính tả với tất cả các môn học khác. Nhìn thấy 

được tầm quan trọng đó, tôi đã nhanh chóng bắt tay ngay vào việc tìm ra các  
giải pháp trước mắt, xây dựng các biện pháp cụ  thể  để  nhằm giúp học sinh  
lớp tôi nâng cao chất lượng chữ  viết, cũng chính là “ Nâng cao chất lượng  
giờ học chính tả”.
II.  Thực trạng dạy học phân môn Chính tả trong nhà trường tiểu học 
      hiện nay
1. Thuận lợi:
 ­ Năm học 2010 – 2011 tôi được phân công chủ  nhiệm và giảng dạy lớp 4B. 
Lớp gồm 28 em (12 nữ, 16 nam). Hầu hết các em đều ngoan ngoãn, biết nghe 
lời thầy cô dạy bảo, chịu khó học tập.
4


 ­ Được Ban Giám hiệu nhà trường cùng với phòng Giáo dục ­ Đào tạo quan  
tâm.
 ­ Đồ dùng và thiết bị dạy học được trang bị khá đầy đủ. 
 ­ Với sự  đổi mới chương trình học hiện nay, các em được học tập rất tốt,  
phù hợp với khả  năng của   mình. Đây là điều kiện thuận lợi cho giáo viên 
giảng dạy.   
 2. Khó khăn:
  ­ Học sinh lớp tôi phụ  trách đa phần là con gia đình nông nghiệp và ngư 
nghiệp, cuộc sống khó khăn, bấp bênh, trình độ  dân trí chưa cao nên việc 
chăm lo đến việc học tập của một số bộ phận phụ huynh đối với con em còn  
rất hạn chế. Có nhiều em đi học còn hay quên vở hay bút, sách...
 ­ Phân môn Chính tả  theo phân phối chương trình chỉ  có 1 tiết / 1 tuần, như 
vậy là ít, nên việc rèn luyện chữ  viết đúng, viết đẹp cho học sinh còn nhiều  
hạn chế.
    Vì lẽ  đó mà bài làm khảo sát chữ  viết đầu năm lớp tôi có chất lượng như 
sau: 
STT

1
2
3
4
5
6
   

Chữ viết

Số 

Tỉ lệ(%)

Xếp loại

lượng(em)
Chữ viết đúng, đẹp 
0 em
Chữ viết đúng mẫu (chưa đẹp)
1 em
Chữ viết đẹp (không đúng 
4 em

0
3,6%
14,4%

A
A


mẫu) 
Chữ viết sai tư thế, cẩu thả
Sai lỗi về âm
Sai lỗi về vần

36%
24,4%
21,6%

B
C
C

10 em
7 em
6 em

  Với kết quả khảo sát trên, lại càng thôi thúc tôi nhanh chóng tìm ra giải pháp  
và biện pháp cụ  thể  giúp học sinh khắc phục dần những lỗi về  âm, vần, và 
chữ  viết. Nhưng vì điều kiện không cho phép nên tôi chỉ  đi sâu tìm tòi, giải  

5


quyết một số vấn đề thuộc phạm vi cải tiến phương pháp dạy học phân môn 
Chính tả theo hướng tích cực vào người học và chỉ thực hành, thực nghiệm ở 
lớp 4B ­ Trường tiểu học Minh Lộc I ­ Hậu L ộc nh ằm “Nâng cao chất lượng 
chữ viết cho học sinh”.


PHẦN II

GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I.  Các giải pháp thực hiện
 1. Điều tra thực tế ­ phân loại đối tượng học sinh.
 2. Xây dựng nề nếp tự quản, tự học, thi đua học tập, rèn nề nếp lớp học. Rèn  
nề nếp tác phong cho học sinh khi ngồi viết chính tả.
 3. Lựa chọn phương pháp và hình thức dạy học phù hợp với từng đối tượng 
học sinh, phù hợp với từng loại bài chính tả, từng dạng bài tập chính tả.
 4. Phối kết hợp chặt chẽ với phụ huynh học sinh, gần gũi quan tâm đến chất 
lượng học sinh.
 5. Kiểm tra, đánh giá học sinh theo tuần học, tháng học và kì học để nắm bắt  
kết quả và kịp thời đề ra biện pháp thích hợp nhất.
    Từ các giải pháp trên tôi đã tiến hành thực hiện các biện pháp sau:

II.  Các biện pháp thực hiện
1.  Điều tra thực tế ­ Phân loại học sinh. 
     Điều tra thực tế, phân loại đối tượng học sinh là việc làm rất quan trọng  
trong bất cứ  một quá trình dạy ­ học nào, việc làm này không chỉ  tạo điều 
kiện thuận lợi cho giáo viên trong quá trình lựa chọn phương pháp dạy học mà  
còn là cơ hội để học sinh được học theo khả năng, đây là điều cần thiết trong 

6


việc nâng cao chất lượng giờ  Chính tả. Nếu như  không phân loại đối tượng  
học sinh sẽ  khó cho  việc lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp với từng 
đối tượng học sinh. Vì vậy sau khi  ổn định tổ  chức lớp trong vòng hai tuần 
đầu, tôi đã từng bước tiến hành điều tra học sinh. Qua bài kiểm tra đầu năm  
của các em, qua thực tế 2 bài viết trong 2 tuần đầu, ngoài ra tôi còn tham khảo  

thêm qua giáo viên dạy các em năm trước. Sau đó tôi tiến hành phân loại học  
sinh theo tiêu chí chữ viết:
 ­ Những em viết đúng mẫu nhưng chưa đẹp, hoặc viết đẹp nhưng chưa đúng 
mẫu được xếp loại A (có 5 em) đó là các em: Hưng, Hoàng Dung, Nguyễn 
Anh, Uy, Nhung.
 ­ Những em viết đúng chính tả nhưng sai thế chữ, chữ viết còn cẩu thả được 
xếp loại B (có 10 em) đó là:  Tô Sơn, Thuỳ Trang, Vũ Trang, Phạm Phương,  
Trọng, Phạm Anh, Chiến, Bình, Thuý, Khánh.
 ­ Những em viết sai nhiều lỗi về âm, vần, dấu thanh xếp loại C (gồm 13 em)  
như  em  Tình, Dân, Văn,  Cương, Trường,  Đới Phương, San, Nguyễn Sơn,  
Tuyết, Thắm, Hằng, Thắng, Thương.
   Qua điều tra tôi chia học sinh thành ba nhóm. Hàng ngày, hàng giờ  trên lớp 
tôi quan tâm gần gũi đặc biệt tới các em, tạo ra các nhóm thi đua học tập, phân 
công những em chữ viết khá trong lớp kèm cặp, động viên, giúp nhau cùng rèn 
luyện. Từ  việc phân loại đúng đối tượng học sinh tôi tiến hành đi vào xây  
dựng nề nếp lớp.
2. Xây dựng nề nếp tự quản, thi đua học tập, rèn tác phong khi ngồi viết  
chính tả. 
     Ngay sau khi phân loại học sinh theo nhóm chữ  viết, tôi bắt tay ngay vào  
việc xây dựng nề nếp tự quản, tự học, nề nếp thi đua học tập vì tôi thiết nghĩ 
trong dạy chính tả  mọi hoạt động học tập đều phải là hoạt động có ý thức,  
học sinh phải thấy rõ được tầm quan trọng của chính tả  trong quá trình học  
7


để từ đó xây dựng cho mình ý thức tự học, học theo bạn (tạo ra những nhóm  
tự  học trong lớp để  học sinh có cơ  hội giúp đỡ  nhau), đánh giá nhận xét kịp  
thời để tạo không khí thi đua học tập (bạn với bạn, nhóm với nhóm), từ đó rèn 
nề nếp lớp học. Trong giờ học chính tả tôi luôn chú ý giúp học sinh nắm được  
các quy tắc chính tả, cách viết đúng chính tả  mà không đòi hỏi ghi nhớ  máy 

móc từng trường hợp chính tả riêng biệt. Rèn luyện được khả năng tư duy cho 
học sinh. Trong quá trình tổ chức học chính tả, học sinh vận dụng các thao tác 
tư duy như phân tích, so sánh đối chiếu, khái quát hoá, trừu tượng hoá để rút ra 
quy tắc chính tả. 
    Mặt khác, rèn tư thế ngồi viết chính tả cũng hết sức quan trọng. Trước hết  
muốn học sinh viết đẹp thì người giáo viên phải rèn nề  nếp, tác phong cho  
học sinh khi viết, tư thế ngồi viết của học sinh là yếu tố quan trọng đầu tiên  
giúp học sinh có nét chữ đẹp. Vì vậy ngay từ buổi đầu bước vào lớp, tôi chú ý 
đến tư thế ngồi viết của từng em. Nhiều em lên lớp 4 rồi mà khi viết mắt cúi 
sát xuống vở, ngực tì áp vào cạnh bàn, ngồi vẹo cả lưng... Để giúp những em 
này ngồi đúng tư thế khi viết, tôi đã giải thích cho các em hiểu vì sao cần phải  
ngồi viết đúng tư  thế  (giúp chữ  viết của các em ngay ngắn, có lợi cho sức 
khoẻ...), nếu ngồi xiêu vẹo thì sẽ  bị tật vẹo cột sống, tì ngực vào bàn sẽ làm 
cho ngực bị lép, cơ quan hô hấp làm việc sẽ khó khăn hơn, nhìn sát xuống vở 
sẽ  bị  cận thị,...sau đó tôi làm mẫu cho học sinh quan sát và yêu cầu học sinh  
làm theo tư thế ngồi viết đúng: ngồi ngay ngắn, lưng thẳng, không tì ngực vào 
mép bàn, đầu hơi cúi, mắt cách vở  khoảng 20 ­ 25 cm, tay phải cầm bút, tay  
trái đặt phía trước bên trái quyển vở  giữ  mép vở  khi viết không bị  xê dịch,  
quyển vở được đặt hơi chếch về phía tay trái, hai chân để  thẳng, vuông góc. 
Rồi tôi hướng dẫn cho các em cách cầm bút sao cho dễ viết, không quá cao sẽ 
khó viết, nếu quá thấp mực dây ra tay sẽ làm bẩn bài viết. Khi hướng dẫn cho  
học sinh tôi khuyến khích các em thực hiện, em nào làm đúng với những gì cô  

8


giáo hướng dẫn sẽ được tuyên dương. Cứ  như thế trong các tiết học (cả tiết  
Chính tả  và các tiết học các môn học khác) tôi luôn nhắc nhở  các em nhớ  và  
ngồi đúng, tạo thói quen khi viết, đồng thời rèn cho các em đức tính cẩn thận, 
kiên trì trong học tập. Nhờ sự uốn nắn thường xuyên đó mà các em dần có ý  

thức và thói quen tốt trong khi viết bài và làm bài. 
   Khi học sinh đã có được những thói quen và ý thực tự giác trong học tập tôi 
nhanh chóng lựa chọn các phương pháp và hình thức dạy học trong từng dạng  
bài chính tả.
3.  Lựa chọn phương pháp và hình thức dạy học phù hợp.
    Phân môn Chính tả lớp 4 có hai dạng bài cơ bản đó là:  Dạng bài chính tả  
đoạn  ­ bài và dạng bài chính tả âm ­ vần.
 * Dạng bài chính tả đoạn ­ bài có hai dạng bài cơ bản đó là: chính tả nghe ­  
viết và chính tả nhớ ­ viết.
 * Dạng bài chính tả âm ­ vần là các dạng bài tập chính tả. 
    Việc lựa chọn các phương pháp giáo dục phù hợp theo từng dạng bài hết  
sức cần thiết. Phương pháp dạy phân môn chính tả không chỉ có một mà là có 
rất nhiều phương pháp thích hợp để  giáo viên có thể  lựa chọn cho phù hợp  
với từng dạng bài chính tả. Tôi đã lựa chọn các phương pháp sau đây để  áp 
dụng vào từng dạng bài chính tả trong quá trình giảng dạy cho học sinh:
­ Phương pháp điều tra, phân loại.
­ Phương pháp quan sát (trực quan)
­ Phương pháp phân tích.
­ Phương pháp gợi mở, vấn đáp.
­ Phương pháp luyện nói.
­ Phương pháp thực hành.
­ Phương pháp trò chơi.
3.1. Dạng bài chính tả đoạn ­ bài 
9


3.1.1. Dạng bài chính tả  nghe ­ viết: Đặc điểm của loại chính tả  này là học 
sinh nghe từng câu, từng đoạn do giáo viên đọc (có bài được trích trong các 
bài tập đọc đã học, có bài lấy từ bên ngoài), nhẩm lại để  xác định hình thức  
viết của từng từ, rồi viết. Việc nghe hiểu  ở đây giữ  vai trò quan trọng đặc  

biệt, có tác dụng quyết định đối với việc viết đúng chính tả của học sinh. 
* Yêu cầu đối với giáo viên khi dạy dạng bài chính tả  này giọng đọc cần 
phải thong thả, rõ ràng. Điều quan trọng nhất là giáo viên cần phải phát âm 
chính xác. Khi đọc từng câu giáo viên chỉ đọc mỗi câu 2 lần, trường hợp đọc 
câu dài, giáo viên có thể  đọc ngắt từng phần rõ nghĩa, giáo viên không nên  
đọc từng từ riêng lẻ vì như vậy học sinh sẽ thiếu chỗ dựa ngữ nghĩa để  xác 
định cách viết. 
* Để hướng dẫn học sinh viết chính tả đoạn ­ bài có kết quả, tôi đã áp dụng 
một số biện pháp như sau: 
 ­ Giúp học sinh nắm được hoặc nhớ lại nội dung đoạn ­ bài cần viết. 
  ­ Giúp học sinh nhận xét về  các hiện tượng chính tả  chính tả  đáng chú ý 
trong bài và tập viết trước những trường hợp dễ viết sai.
 ­ Tổ chức cho học sinh viết bài theo đúng tốc độ quy định.
 ­ Chấm, chữa bài viết cho học sinh.
3.1.2.  Dạng bài chính tả  nhớ  ­ viết:    Ở  dạng bài này biện pháp thực hiện  
tương tự như dạng bài nghe ­ viết, chỉ khác ở phần viết bài (học sinh tự viết  
bài theo trí nhớ, giáo viên không đọc bài).
 3.1.3. Cách dạy một bài chính tả đoạn ­ bài:  Thực tế chứng minh là không có 
một mẫu cứng nhắc cho mọi trường hợp. Vì thế  tôi đã lựa chọn cho mình 
cách dạy một bài chính tả đoạn ­ bài như sau:
VD:   Khi dạy bài chính tả tuần 7 (TV4­T1)
  A. Bài cũ: 1 HS lên bảng làm lại một bài tập chính tả  tiết trước (hoặc viết  
một số từ khó, hoặc nêu các quy tắc chính tả).
10


­ 2 HS lên bảng tìm từ láy có tiếng chứa âm s/x. (BT3 chính tả tuần 6)
 B. Bài mới:  
  a. Giới thiệu bài: GV giới thiệu mục đích yêu cầu của tiết học.
  b. Hướng dẫn chính tả: 

 ­ GV + HS đọc bài viết chính tả một lượt.   
 ­ Nêu câu hỏi giúp học sinh nắm được ý chính tả của bài chính tả sắp viết:
VD:  Theo em tác giả viết bài thơ này nhằm mục đích gì?
 ­ Hướng dẫn HS nhận xét về các hiện tượng chính tả cần chú ý trong bài:     
 VD:   Cần ghi tên bài vào giữa dòng; dòng 6 chữ biết lùi vào 1 ô; dòng 8 chữ 
viết sát lề; chữ đầu các dòng thơ phải viết hoa; viết hoa tên riêng hai nhân vật  
trong bài thơ là Gà Trống và Cáo; lời nói trực tiếp của Gà Trống và Cáo phải  
viết sau dấu hai chấm, mở ngoặc kép.   
 ­ Tổ chức cho HS tập viết vào giấy nháp những từ, tiếng khó dễ sai. 
 VD:  dụ, loan tin, quắp đuôi...
 ­ Giúp học sinh phân tích cấu tạo chữ ghi các từ (tiếng) để học sinh phân biệt  
chính tả, tránh viết sai lỗi.
 VD:          d + u  + thanh nặng   = dụ  khác với  giụ, rụ
                l + oan + thanh ngang = loan khác với loang, noan, noang
                  qu + ăp + thanh sắc  = quắp khác với quắc, quắt
 ­ GV đọc bài viết từng câu hay cụm từ 2 lần ­ HS viết bài (hoặc HS chép bài 
theo trí nhớ)                                      
 ­ GV đọc lại bài viết ­ HS soát bài (HS đổi chéo bài tự soát lỗi)             
   c. Chấm và chữa bài chính tả:
  ­ Mỗi giờ  Chính tả, tôi chọn chấm 1/3 bài của HS. Đối tượng được chọn  
chấm bài ở mỗi giờ là :
             + Những HS đến lượt được chấm bài.
             + Những học sinh viết hay mắc lỗi, cần được rèn luyện.

11


  Qua những bài chấm đó tôi rút ra nhận xét và nêu hướng khắc phục lỗi  
chính tả  cho cả  lớp. Tôi giúp cả  lớp tự  kiểm tra lại bài và chữa lỗi chính tả 
như: GV viết sẵn bài viết lên bảng phụ; học sinh tự đổi chéo vở  và tự  kiểm 

tra vở cho nhau; có khi tôi đọc lại từng câu chỉ dẫn cách viết từng chữ dễ sai  
chính tả sau đó học sinh tự rà soát lại bài viết của mình.
 * Với cách dạy một bài chính tả  đoạn bài như  trên tôi nghĩ rằng chất lượng 
không chỉ chữ viết mà khả năng tư duy của học sinh lớp tôi sẽ dần dần được 
nâng lên.
3. 2. Dạng bài chính tả âm ­ vần.
   Chính tả âm ­ vần chính là các dạng bài tập của phân môn Chính tả. Thông 
qua các bài tập chính tả  rèn luyện cho học sinh cách phát âm, củng cố  nghĩa  
từ, trau dồi về  ngữ  pháp tiếng Việt, góp phần phát triển một số  thao tác tư 
duy cơ bản như so sánh, liên tưởng, ghi nhớ....Ngoài ra thông qua nội dung các 
bài tập chính tả, mở  rộng vốn hiểu biết về  cuộc sống, con người cho học  
sinh. Thông qua cách tổ  chức thực hiện các bài tập chính tả, bồi dưỡng cho  
học sinh một số đức tính và thái độ  cần thiết trong công việc như: cẩn thận, 
chính xác, có óc thẩm mĩ, lòng tự trọng và tinh thần trách nhiệm...
 3.2.1. Nội dung các bài chính tả  âm ­ vần là luyện viết đúng các từ  có âm ­ 
vần ­ thanh dễ viết sai chính tả do ảnh hưởng phương ngữ
+  Phụ âm đầu:  l/n; tr/ch; s/x; r/d/gi.
   + Vần: an/ang, ăn/ăng, ân/âng, uôn/uông,  ươn/ương, iên/iêng, ăt/ăc, im/iêm, 
iêt/iêc.....
  +  Thanh: thanh hỏi / thanh ngã.
 3.2.2. Bài chính tả âm ­ vần có nhiều kiểu bài: 
* Kiểu bài điền âm (vần) vào chỗ trống hoặc đạt dấu thanh trên chữ chưa có 
dấu thanh. 
  VD:  Điền vào chỗ trống: 
12


 a) l hay n  (Không thể .... ẫn chị Chấm với bất cứ người nào khác. Chị có thân 
hình …ở …ang, cân đối. Hai cánh tay béo …ẳn, chắc …ịch. Đôi …ông mày)...
 b) an hay ang   (Mấy chú ng…con d....hàng ng…lạch bạch đi kiếm mồi)…

 * Kiểu bài điền tiếng vào chỗ trống:  
  VD:  Điền vào chỗ trống tiếng có âm đầu r, d hay gi ( ...Diều bay, diều lá tre 
bay lưng trời. Sáo tre, sáo trúc bay lưng trời. ...đưa tiếng sáo, ...nâng cánh ...).
 * Kiểu bài chọn tiếng trong ngoặc đơn để hoàn chỉnh đoạn văn, bài văn.
   VD:   Chọn cách viết đúng từ đã cho trong ngoặc đơn (BTCT2/trang 16/tuần 
2)
    “ Rạp đang chiếu phim thì một bà đứng dạy len qua hàng ghế ra ngoài. Lát 
( sau / xau), bà trỏ lại và hỏi ông ngồi hàng ghế đầu (rằng / rằn):
 ­  Thưa ông phải (chăng / chăn) lúc ra ngoài tôi vô ý dẫm vào chân ông?
 ­  Vâng, nhưng (sin / xin) bà đừng (băng khoăng / băn khoăn), tôi không
 (sao / xao).
 ­ Dạ  không! Tôi chỉ  muốn hỏi để  (sem / xem) tôi có tìm đúng hàng ghế  của  
mình không.”
 * Kiểu bài tìm tiếng có nghĩa trong bảng kết hợp phụ âm đầu ­ vần.
 * Kiểu bài đặt câu để phân biệt các từ có hình thức chính tả dễ lẫn.
 * Kiểu bài giải câu đó để phân biệt các từ có hình thức chính tả dễ lẫn.
 * Kiểu bài tìm từ láy phù hợp với mô hình cấu tạo đã cho.
 Mỗi một kiểu bài tập cần có mỗi cách tổ  chức khác nhau để  tạo sự  hào 
hứng, thích thú cho học sinh trong học tập nhằm nâng cao chất lượng dạy học  
chính tả âm ­ vần. 
  3.2.3. Luyện viết đúng phụ âm đầu.
     Trong bài chính tả  nghe ­ viết học sinh phải qua ba hoạt động: tai nghe ­ 
mồm đọc thầm ­ tay viết. Lời đọc của thầy phải một lần thông qua lời đọc  
của trò mới thể  hiện thành chữ  viết trong bài chính tả. Nếu thầy đọc đúng 
13


nhưng trò nhận sai thì vẫn cứ viết sai. Từ những điều vừa nói trên ta có thể đi  
tới kết luận:  Kết hợp với rèn phát âm khi dạy chính tả cực kỳ quan trọng.
    Để  giúp học sinh viết đúng một số  phụ  âm đầu dễ  lẫn lộn như  ch/tr; x/s;  

gi/d /r;     ng/ngh/gh, l/n, ... trong mỗi giờ chính tả  tôi kết hợp nhiều phương 
pháp dạy học một cách linh hoạt, trong từng bài cụ thể đối với từng cặp phụ 
âm mà học sinh hay sai để  cho bài dạy sinh động, giúp các em dễ  phân biệt  
được cách viết đúng, sai. Chẳng hạn, với phương pháp trực tiếp, tôi cho học  
sinh nghe, đọc, nhận xét các chữ viết đúng bằng mắt, tập viết vài lần chữ khó 
vào vở  nháp cho quen tay. Bước đầu tôi đọc toàn bài, sau đọc từng câu, từng 
cụm từ, chú ý nhấn mạnh những tiếng khó để  luyện tập cách nghe cho học  
sinh. Tiếp theo tôi đặt câu hỏi bằng phương pháp gợi mở vấn đáp để giúp các 
em nhận ra những tiếng, từ các em hay viết sai. Sau đó tôi cho một số em nhắc 
lại một số quy tắc chính tả, các em đã được học. 
 ­  Những âm đi với “K” chỉ có thể là: e, ê, i, y ( VD: kể;  kẻ, kỉ, kỹ…)
 ­  Những âm còn lại đi với “C”: o, ơ, a, u…. ( VD: có, cô, ca, cụ…)
  ­ Những âm đi với “gh, ngh” chỉ  có thể  là: e, ê, i (VD: ghế; ghé; ghi, nghỉ; 
nghé….) 
  Sau khi các em nhắc lại được một số quy tắc chính tả, thì cho các em được 
luyện viết nhiều lần trên giấy nháp để các em nhớ.
 a.  Dạng bài tập phân biệt r/d/gi:  Đây là dạng bài tập khó, đa số  các em còn 
rất lúng túng khi tìm ra quy tắc phân biệt khi nào viết d, r hay gi. Vì vậy với 
bài tập so sánh trên tôi cho các em phân biệt bằng nhiều cách như  sau: Đầu 
tiên cho các em dựa vào nghĩa để phân biệt. 
 VD:    Bài tập chính tả trang 38 ­ tuần 4 ­ TV4
 Bước 1:  Cho học sinh đọc kỹ đoạn văn, tìm ra những tiếng từ có phụ âm đầu 
 r/d/gi thích hợp để điền vào chỗ trống:  
  ­  Học sinh tìm được là: gió, diều 
14


 Bước 2:  Cho học sinh viết trên nháp, 2 em lên bảng viết (GV nhận xét, giảng 
giải cách viết) phát âm, giải nghĩa từ, tìm từ có tiếng đó.
  ­  Với tiếng  “gió”, “diều”

gi + o + thanh sắc = gió
d + iều + thanh huyền + diều
 + Phát âm (gv làm mẫu, gọi 1; 2 học sinh phát âm lại)  gi ­ o ­ gio ­ sắc ­ gió; 
d ­ iêu ­ diêu ­ huyền ­ diều. 
 + Giải nghĩa (giáo viên có thể gợi ý cho học sinh giải nghĩa).
 ? Em hãy đọc lại câu có chứa tiếng “diều” mới tìm được trong bài và cho cô 
biết “diều” ở đây là gì? (chỉ vật được làm bằng giấy hoặc vải dán vào khung 
tre, có thể bay được lên bầu trời theo hướng gió).
 + Học sinh tìm từ có tiếng “diều”: cánh diều, thả diều, diều hâu,…
 Bước 3:  Cho học sinh phân biệt r/d/gi  bằng cách lập bảng:
o

iêu

r

ro, co ro, rò rỉ, đầu rò,... 

riêu, riêu bông. 

d

do, tự do, dò tìm, do dự,... 

diêu, cách diều, kỳ diệu,...

gi

gio, gió thổi, giỏ tích,... 


không có

  VD: Hay trong (bài tập chính tả số 2 trang 115/tuần 30/TV4), tôi hướng dẫn 
học sinh cách lập bảng để phân biệt r/d/gi:
a
r

ong

ra   lệnh,   ra   vào,  Rong chơi, đi 

ông
rộng rãi, rỗng, 

ra   mắt,   rà   soát,  rong, rong biển,  rồng, nhà 
rã rời,....
d

rửa sạch, thối 
rữa, dao rựa,...

bán hàng rong,... rông,...

da   thịt,   da   trời,  dòng nước, dõng 
giả da,...

ưa

dạc, dong dỏng, 


cơn giông

quả dưa, quả 
dừa, dứa gai,...

15


dỏng tai,... 
gi

gia đình, tham 

giong buồm, 

giống nhau, 

gia, giá cả, giá 

gióng hàng, 

giống nòi,...

giữa chừng, ở 
giữa,...

đỗ, giã gạo, giả  giọng nói, giong 
dối, già nua,...

trống mở cờ,...


   Gợi ý cho học sinh điền từ bằng cách dùng câu hỏi gợi ý. Em hãy ghép các 
từ đã cho với âm a?, vần ong?, vần ông?, vần ưa?. Học sinh tìm đến đâu tôi 
ghi lên bảng đến đấy. Dù sử dụng phương pháp nào đi nữa, tôi đều phải theo 
dõi, quan tâm uốn nắn từng em. Những em viết sai s/x là do các em phát âm 
sai. Khi dạy tôi phải phát âm lại cho các em nghe, phát âm “s” cong lưỡi, đầu 
lưỡi chạm ngạc phía trên. Còn viết là “x” khi đọc lưỡi thẳng đầu lưỡi đưa ra 
phía ngoài, luồng hơi thẳng ra ngoài. Sau đó tôi cho cả lớp phát âm lại nhiều 
lần cho đúng, viết bảng con theo sự phát âm của cô như: Thi viết nhanh và 
đúng, cô đọc “sắp sửa” cả lớp viết vào vở nháp, bạn nào viết sai bị đứng lên 
phát âm lại 10 lần hoặc một số từ có tiếng khác như (suôn sẻ, xanh xao, xuất 
sắc, ...). Hoặc khi dạy chính tả tiết thứ 3, phần luyện tập tôi chọn bài tập 2a 
(bài lựa chọn) giúp các em làm quen với cách phân biệt ch/tr qua các dạng bài 
tập.
 b. Dạng bài tập:   Điền vào chỗ trống ch hay tr ?
 VD: “ Như …e mọc thẳng, con người không …ịu khuất. Người xưa có câu: “ 
…úc dẫu …áy, đốt ngay vẫn thẳng”. …e là thẳng thắn, bắt khuất! Ta kháng 
chiến, …e lại là đồng …í …iến đấu của ta. …e vốn cùng ta làm ăn, lại vì ta 
mà cùng ta đánh giặc.”
 ­ Trước khi làm bài tôi cho 2; 3 em đọc to nội dung yêu cầu của bài tập, cả 
lớp đọc thầm.

16


 ­ Sau khi học sinh hiểu được nội dung yêu cầu bài tập, tôi tiến hành tổ chức  
các hình thức luyện tập như sau:
   + Giáo viên phát 2 băng giấy cho 2 em học sinh thi làm bài tại chỗ. Cả  lớp  
làm bài trên vở bài tập.
  + Mỗi em làm bài xong (trên băng giấy) dán bài lên bảng đọc kết quả. 

   + Cả  lớp và giáo viên nhận xét về  nội dung lời giải, phát âm, kết luận bài 
làm đúng. Bạn nào mà làm đúng nhanh nhất là thắng cuộc.
  + Cả lớp và giáo viên nhận xét và sửa lỗi bài làm trên bảng lớp được dán.
 “ Như tre mọc thẳng, con người không chịu khuất. Người xưa có câu: “ Trúc  
dẫu cháy, đốt ngay vẫn thẳng”. Tre là thẳng thắn, bất khuất! Ta kháng chiến,  
tre lại là đồng chí chiến đấu của ta. Tre vốn cùng ta làm ăn, lại vì ta mà đánh  
giặc”.
  + Những em thắng cuộc được tôi khen ngợi và cả lớp thưởng một tràng vỗ 
tay khuyến khích.
  Để phân biệt được s/x tôi đưa ra cho các em nhiều dạng bài tập như dạng  
câu đố giúp học sinh học tập sôi nổi hơn. Từ đó các em làm quen và biết cách 
dùng đúng khi viết chính tả.
  c. Hoặc dạng bài tập:  Tìm các từ láy chứa tiếng bắt đầu bằng s hay x :
 VD: ­  suôn sẻ, sạch sẽ, sẵn sàng, sung sức, sung sướng, sù sì, sùng sục,….
­ xôn xao, xanh xao, xu xu, xụt xịt, xụt xùi, xinh xinh,…
 Với những dạng bài tập trên tôi đều tổ chức cho các em trao đổi theo nhóm. 
Sau đó đại diện nhóm lên thực hiện hay trình bày, các nhóm khác nhận xét bổ 
sung, giáo viên chốt lại lời giải đúng, để tuyên dương những nhóm làm đúng.  
Để giúp học sinh lớp tôi viết đúng chính tả, cũng như biết phân biệt được các  
phụ  âm đầu, tôi thường linh hoạt khi dạy chính tả  như  (dạy tiết 5 tuần 5).  
Các bài tập trong sách giáo khoa được đưa ra phân biệt  l/n hoặc en/eng,  cho 

17


các em được luyện đọc, viết nhiều và từ  việc hiểu nghĩa của từ  các em dễ 
nhớ và viết đúng chính tả.
  Với việc dạy phân biệt ?/  hay tr/ch các em hay nói sai và dẫn đến viết sai, 
nên tôi luôn luyện cho các em như  các hình thức luyện tập  s/x  nói trên. Khi 
dạy chính tả, trước khi viết bài tôi luôn coi trọng việc tìm luyện viết chữ khó 

(chữ các em hay viết sai) trong bài. Đối với bước luyện viết từ khó này, ở tiết  
nào tôi cũng thực hiện và trước hết cho các em tìm trong đoạn bài viết những  
từ nào em thấy khó viết, học sinh nêu ra trước lớp sau đó giáo viên cho các em 
được luyện viết trên giấy nháp và gọi vài em lần lượt lên bảng viết, học sinh  
và giáo viên nhận xét đúng ­ sai.
    Song song với việc phân biệt phụ âm đầu, tôi luyện cho các em viết đúng  
các vần khó trong các tiếng, từ.   
3.2.4.  Luyện viết đúng tiếng có vần khó. 
   Trong quá trình viết các em thường gặp phải những tiếng, từ  có vần khó: 
uyu/ uôn/oang/uyết… một số  tiếng có vần dễ  lẫn lộn: oe/eo/uê/oa/ao/…một 
số từ khó: “cuội” khác với “cụi” trong bài “Dế Mèn bênh vực kẻ yếu”; Chiêm, 
Tuyên, khúc khuỷu, gập ghềnh  trong bài “Mười năm cõng bạn đi học”…Để 
rèn viết đúng các lỗi này, trước khi viết bài tôi gọi học sinh phân biệt từng  
tiếng, cho học sinh khác nhau nhận xét và thống nhất cách viết.
ch + iêm + thanh ngang = chiêm khác với chim
t + uyên + thanh ngang = tuyên khác với tiên
kh + uyu + thanh hỏi = khuỷu
  Vần khó nên khi phân tích tôi chú ý nhấn giọng vào phần vần, sau đó cho học 
sinh viết nháp, lớp nhận xét, tự  sửa sai. Với những bài viết có ít những vần 
khó tôi có thể lấy thêm một số tiếng có vần khó đó, đọc cho học sinh viết, để 
khắc sâu vần cần chú ý. Trong các tiết chính tả tôi thường chọn các dạng bài  

18


tập khác nhau cho các em được làm nhiều, luyện viết nhiều để  các em nhớ 
cách viết đúng.
  3.3.  Chấm, chữa bài chính tả.
      Để  nâng cao chất lượng giờ  chính tả, việc chấm chữa bài cũng rất quan 
trọng, giúp các em biết tự sửa lỗi sai của mình, nhớ viết đúng, lần sau không 

bị  mắc lỗi sai đó. Có nhiều hình thức chấm chữa bài, những khi dạy thì tôi 
thường sử dụng biện pháp như  sau:­ Sau khi viết bài xong, cô đọc chậm cho 
các em tự soát bài sau đó cho các em tự đổi vở cho nhau (2 em ngồi cạnh nhau)  
theo sự chỉ đạo của giáo viên. Nếu phát hiện ra lỗi sai của bạn, kịp thời chỉ ra  
cho bạn sửa lại ngay. Sau khi các em thực hiện xong, tôi cho các em nêu kết 
quả mình đã được kiểm tra vở bạn. Tôi hỏi sau khi các bạn kiểm tra bài bạn 
xong: (Em thấy có bài nào không viết sai lỗi nào hoặc bài nào sai 2; 3 lỗi  
không? bài nào còn sai rất nhiều lỗi?). Giáo viên kịp thời tuyên dương những  
bạn không sai lỗi nào. Từ  việc học sinh tự  chữa lỗi theo tôi có những điểm 
tích cực sau đây:
 +  Các em được tiếp xúc (có thức) với văn bản viết một lần nữa, qua đó góp 
phần cũng cố những kiến thức vừa được hướng dẫn.
 +  Với sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh tự phát hiện ra những lỗi chính 
tả. Từ đó, các em có điều kiện để tái hiện lại quy tắc viết đúng chính tả cho 
mỗi trường hợp. Nên góp phần cũng cố, khắc sâu hơn cho học sinh những  
khả năng chính tả.
  ­  Trường hợp, những em học sinh yếu, chuyên viết sai lỗi chính tả thì không  
tự  phát hiện được lỗi của bạn. Đối với những em này, giáo viên đi đến từng  
em để hướng dẫn cách sửa lỗi. Từ đó giúp các em có thể nắm bắt được luật 
chính tả một cách thuận tiện.

19


   ­  Thông qua việc tự  chữa lỗi của các em, tôi đã giáo dục các em tính cẩn  
thận, chính xác, không để  sai sót đồng thời cũng kết hợp giáo dục lòng trung  
thành cho các em, sai lỗi nào bảo bạn sửa lỗi ấy.
   ­   Hình thành ý thức giữ  gìn đồ  dùng của bạn cũng như  của mình (giữ  vở 
sạch, viết chữ  đẹp), không được làm rách, bẩn vở  của bạn trong quá trình 
chữa soát lỗi.

  ­  Hình thành ở các em ý thức nhiệm vụ được giao (tính tự giác).
  Để thực hiện mục tiêu này, tôi tiến hành thường xuyên đối với tất cả các  
tiết Chính tả. Tạo cho các em thói quen và giữ trật tự khi trao đổi bài. Tôi luôn  
tuyên dương và khuyến khích những em viết đúng, viết đẹp. Với những biện 
pháp trên, học sinh rất thích viết đúng và đẹp để cho bạn không tìm ra lỗi sai  
của mình và được cô khen trước lớp. Chính vì thế chỉ một thời gian không lâu 
tôi đã thu được kết quả đáng khả quan.            
  3.4. Luyện viết chữ đúng, đẹp.
  Để nâng cao chất lượng giờ Chính tả, thì việc luyện chữ viết cho các em là  
rất cần thiết. Viết đẹp nó còn thể  hiện được tính cách của con người “Nét  
chữ  ­ nết người”. Trong lớp tôi dạy có rất nhiều em viết chữ  chưa đẹp vì  
nhiều lý do. Đó là các em viết chưa đúng kích cỡ: độ  cao, rộng của các con 
chữ, khoảng cách giữa các chữ  hay các con chữ  chưa đều, các nét chữ  chưa 
liền mạch….Khắc phục những tình trạng trên tôi đã lập kế  hoạch sử  dụng  
các biện pháp khác nhau áp dụng để  từng đối tượng. Tôi hướng dẫn các em 
cách nhớ độ cao con chữ bằng cách chia độ cao các chữ cái thành 4 nhóm (đối 
với chữ viết thường).
 ­ Nhóm 1:   Nhóm chữ cao 1 đơn vị như: a, ă, â, c, e, ê, i, n, m, o, r, s, u, v, x…
 ­ Nhóm 2:   Nhóm chữ cao 1,5 đơn vị như chữ:  t.
 ­ Nhóm 3:  Nhóm chữ cao 2 đơn vị như: đ, d, p, q.
 ­ Nhóm 4:   Nhóm chữ cao và dài 2,5 đơn vị như chữ b, g, h, k, l, y.

20


    Khi học sinh học thuộc các độ cao của các chữ cái trên tôi tiến hành hướng  
dẫn viết trên dòng kẻ bảng lớp trong khi viết giáo viên nhắc nhở các em viết  
với độ rộng của chữ, muốn viết đẹp thì các con chữ cần phải có độ cao bằng 
nhau rồi, mà độ rộng của các con chữ cũng phải bằng nhau, khoảng cách của 
các chữ với nhau không rộng lắm mà cũng không hẹp lắm, khoảng bằng nửa 

thân chữ là vừa. Các nét hắt trong một chữ phải được nối liền nhau, trong khi  
viết một chữ hạn chế nhấc bút mà thường viết liền các con chữ với nhau, chữ 
viết thẳng. Giáo viên viết mẫu (ngay ngắn, không ngửa, ngã chữ mà không cúi 
rạp chữ). Sau khi học sinh nắm được cách hướng dẫn cách viết đẹp tôi cho  
các em được luyện vào vở theo đúng các dòng kẻ cô hướng dẫn, giáo viên kịp  
thời sửa lại những nét các em viết chưa đúng, tuyên dương những em viết  
đúng hàng kẻ, đẹp. Luyện viết vào vở, giáo viên đọc cho học sinh 1 hoặc 2  
câu thơ  với tốc độ  chậm để  các em tập viết đúng li trong khi học sinh viết,  
giáo viên đi lần lượt từng bàn quan sát các em viết, em nào viết chưa đúng 
chưa đẹp cô viết mẫu cho em đó 1, 2 chữ vào vở để các em bắt trước viết cho 
đẹp. Khi các em đã biết viết dùng kích cỡ  tôi tập cho các em viết nhanh dần 
đưa tốc độ  viết đối với các học sinh lớp 4. Ngoài những việc luyện viết chữ 
đẹp ở tiết chính tả tôi luôn quan tâm nhắc nhở các em cần phải viết đúng, nắn  
chữ ở những tiết học khác như tiết Tập làm văn, tiết Toán, tiết Luyện viết, ...  
và tóm lại cứ đặt bút viết là các em phải viết cẩn thận đẹp như đang trong giờ 
luyện viết vậy, thì dần dần các em mới quen tay viết chữ  đẹp được. Trong  
các tiết dạy, cứ phát hiện được bài viết của bạn nào đẹp, đúng cỡ  chữ  là tôi 
tuyên dương trước lớp nhằm khuyến khích các em viết đẹp hơn.
4.  Phối kết hợp chặt chẽ với phụ huynh học sinh, gần gũi quan tâm đến 
 chất lượng học sinh.    
  
     Ngoài việc rèn chữ  đẹp  ở  lớp, tôi còn gặp gỡ  gia đình các em trao đổi với 
phụ huynh, nhờ phụ huynh kèm cặp thêm việc viết ở nhà của học sinh. Cuối 
mỗi buổi học tôi đều giao bài luyện viết về nhà, bài viết chỉ là một hoặc hai 
21


khổ  thơ, một đoạn văn ngắn...nhưng yêu cầu viết phải đúng mẫu chữ  hiện  
hành, viết đẹp, trình bày bài phải khoa học, phải viết lại nhiều lần nếu chưa  
đúng, chưa đẹp. Đầu buổi học hôm sau tôi thu chấm và nhận xét, đánh giá, 

tuyên dương khen ngợi những học sinh có tiến bộ. Và cứ  như  vậy, sau một 
thời gian lớp tôi có nhiều em viết chữ  đẹp và đúng mẫu như: em Hưng, em  
Dung, em Nhung… và nhiều em từ loại C lên B như: em Trường, em Tình, em 
Thắng, em Thương… và từ loại B lên loại A như: em Phạm Anh, em Tô Sơn, 
em Phạm Phương ….
     Đây là một thành công lớn của tôi và sự tiến bộ của các em là nguồn động  
viên, khuyến khích tôi càng hăng say thực hiện mong muốn của mình.
5.  Kiểm tra, đánh giá học sinh theo tuần học, tháng học và kì học.
  Kiểm tra đánh giá là việc làm không thể thiếu của người giáo viên đứng lớp 
nắm bắt kết quả rèn luyện chữ viết của học sinh một cách kịp thời để đưa ra  
các biện pháp thích hợp nhất trong quá trình dạy học. Vì vậy, tôi luôn giành 
thời gian thường xuyên kiểm tra kết quả rèn luyện của các em bài ở lớp cũng 
như   ở  nhà. Mặt khác, từng tuần, từng tháng, từng kì học tôi tổ  chức thi vở 
sạch, chữ  đẹp, giám khảo là những tổ  trưởng, giáo viên giám sát học sinh  
chấm và nhận xét vở sạch, chữ đẹp của tổ khác và nếu tổ nào có nhiều (A*) 
thì tổ  đó thắng và được ghi thành tích vào thi đua của tổ, bình bầu những cá 
nhân có bài viết xuất sắc để  khen thưởng, quà tặng là những bông hoa điểm  
10, những tràng vỗ tay nhiệt tình của các bạn trong lớp...chính là những nguồn 
động lực thúc đẩy các em phấn đấu, thi đua với nhau, tạo không khí hào hứng 
học tập, sự  ganh đua lành mạnh trong tổ, trong lớp học. Chính vì vậy chất 
lượng chữ viết lớp tôi phụ trách luôn đứng đầu trong trường.

PHẦN III

KẾT LUẬN 
22


I. Kết quả thực hiện.
    Từ những giải pháp và biện pháp tôi đã vận dụng thực hiện trong quá trình 

dạy học đã đem lại kết quả khả quan, cụ thể như sau:
STT
Xếp loại
SL (em)
Tỷ lệ (%)
Ghi chú
1
Loại A
18 em
64,3 %
2
Loại B
10 em
35,7 %
3
Loại C
0
0
Kết quả thi chữ viết đẹp nhiều năm liên tục đạt cao, đặc biệt trong kỳ thi viết 
chữ đẹp cấp huyện vừa qua lớp tôi đạt 3/3 giải, trong đó nhất: 01 giải, nhì 02 
giải.
    Với kết quả  đạt được trên, một lần nữa khẳng định về  việc làm của bản  
thân trong việc nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh, mong muốn được  
nhân rộng điển hình về các biện pháp bản thân đã thực hiện trong phong trào  
rèn chữ viết trong trường nói riêng và công tác giảng dạy nói chung.
 II. Bài học kinh nghiệm
      Qua việc dạy chính tả  và “ Một số  biện pháp nhằm nâng cao chất lượng 
giờ  học chính tả lớp 4” tôi rút ra một số kinh nghiệm là:
 1. Dạy học (nhất là dạy học sinh tiểu học) đòi hỏi người giáo viên phải có  
lòng yêu nghề, mến trẻ, tận tụy, kiên trì không nóng vội, quan tâm đến học 

sinh bằng tình cảm của người mẹ, người chị.
 2. Nghiên cứu bài dạy trước khi lên lớp. Thực hiện đầy đủ  thao tác quy trình 
bài soạn.
 3. Biết sử dụng các phương pháp phù hợp với đối tượng học sinh lớp mình. 
Biết giúp đỡ  học sinh khi cần thiết. Không quên “coi học sinh là nhân vật  
trung tâm”.
  4. Thường xuyên chấm bài chính tả  cho các em để  có kế  hoạch hình thức  
giúp đỡ kịp thời, sát thực với từng đối tượng. 
  5. Liên hệ  với gia đình học sinh thường xuyên, để  kết hợp gia đình­ nhà 
trường chặt chẽ.

23


  6. Giáo viên luôn học hỏi, nghiên cứu tài liệu để  nâng cao kiến thức của  
mình.
      Trên đây là những đóng góp nhỏ  về  việc “Nâng cao chất lượng giờ  học 
Chính tả  ­ cũng chính là nâng cao chất lượng chữ  viết cho học sinh” của tôi 
trong năm học 2010­ 2011, rất mong được sự giúp đỡ của đồng nghiệp và Hội 
đồng khoa học các cấp giúp tôi đạt kết quả cao hơn.    
                                       Tôi xin chân thành cảm ơn./
                                                            Minh lộc, ngày 3 tháng 3 năm 2011 
                                                                                   Người thực hiện 
                                                               Nguyễn Như Quỳnh

24




×