ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LỜI MỞ ĐẦU:
Ngôn ngữ là một sáng tạo kì diệu của loài người. Đặc biệt hơn con
người đã biết dùng hệ thống kí tự để ghi lại lời nói, hệ thống các kí tự đó
chính là chữ viết. Từ khi có chữ viết, mọi thông tin liên lạc và giao lưu của
con người đã vượt không gian và thời gian. Theo đó là sự phát triển như vũ
bão của khoa học kĩ thuật và công nghệ. Chữ viết đã giúp giao lưu tri thức của
nhân loại. Trên thế giới có nhiều hệ thống ngôn ngữ cũng như có nhiều hình
thức, nhiều kiểu chữ viết khác nhau. Song dù có kiểu chữ viết nào (chữ tượng
hình, ghi chú hay ghi âm…) thì yêu cầu quan trọng nhất vẫn là sự chuẩn xác.
Sự chuẩn xác của chữ viết giúp người đọc không hiểu sai nội dung, sai ý
người viết. Do đó, yêu cầu viết đúng, viết đẹp, viết nhanh luôn đặt ra với bất
cứ thứ ngôn ngữ nào.
Vấn đề chữ viết được người xưa rất coi trọng. Cha ông ta dùng câu
thành ngữ “Văn hay chữ tốt” để khen người chữ đẹp, học rộng tài cao. Đặc
biệt cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng rất quan tâm đến vấn đề này: “Chữ
viết cũng là biểu hiện của nết người. Dạy học cho học sinh viết đúng, viết
cẩn thận, viết đẹp là góp phần rèn luyện cho các em tính cẩn thận, tính kỉ
luật, lòng tự trọng đối với mình cũng như đối với thầy cô và bạn đọc bài vở
của mình”. Điều đó chứng tỏ vấn đề chữ viết được quan tâm như thế nào. Có
thể nói chữ viết góp phần nào phản ánh được trình độ văn hoá của con người
cũng như của xã hội. Không những chữ viết làm phương tiện giao lưu, học
tập nghiên cứu, truyền thụ kiến thức … mà chữ viết còn thể hiện óc sáng tạo,
tính thẩm mĩ của con người. Ngày nay mặc dù có nhiều phương tiện in ấn
hiện đại, song chữ viết vẫn có vai trò quan trọng đối với xã hội nhất là đối
với công tác giáo dục “Nét chữ Nết người”.
Có nhiều thế hệ thầy cô giáo đã trăn trở suy nghĩ góp nhiều công sức
nghiên cứu sáng tạo kiểu chữ, thay đổi mẫu chữ và phương pháp dạy luyện
viết với mục đích duy nhất là gíúp học sinh viết đúng, viết đẹp, viết nhanh.
Đây cũng là vấn đề mà tôi băn khoăn, trăn trở rất nhiều trong quá trình công
tác nên tôi mạnh dạn đưa ra một số cách mà tôi áp dụng trong quá trình luyện
viết cho học sinh trường tôi.
II. THỰC TRẠNG DẠY VÀ HỌC LUYỆN VIẾT Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC
HỒI XUÂN – HUYỆN QUAN HOÁ – THANH HOÁ.
1. Cơ sở lý luận:
1
Chữ viết luôn giữ vai trò quan trọng trong mọi thời đại, nó phản ánh, ghi
lại quá trình phát triển của xã hội. Trong các nhà trường, chữ viết là phương
tiện dạy học chủ yếu giúp truyền tải nội dung kiến thức đến người học.
Không những thế, thông qua “rèn nét chữ” còn giúp chúng ta “luyện nết
người”.
Đối với học sinh: Các em luôn sử dụng chữ viết để học tập và tiếp thu
kiến thức khoa học, thường xuyên chép bài học nên luyện kĩ năng viết rõ ràng,
nhanh, đẹp là rất cần thiết.
Đối với giáo viên: Viết đẹp là một trong những yêu cầu quan trọng và
cần thiết vì chữ viết là phương tiện dạy học chử yếu. Khi giảng bài chữ viết
đẹp thì chất lượng bài giảng được tốt hơn, học sinh tiếp thu bài hứng thú
hơn.
Đối với xã hội: Nhu cầu sáng tạo và thưởng thức cái đẹp luôn có ở mỗi
con người. Chúng ta sinh ra trưởng thành ai cũng hướng tới yếu tố chân, thiện,
mỹ. Luyện chữ là rèn người, lưu truyền nét đẹp chữ Việt góp phần gìn giữ
bản sắc văn hoá dân tộc. Như vậy mỗi giáo viên cần quan tâm đến việc luyện
chữ cho bản thân đồng thời rèn chữ viết cho học sinh góp phần xây dựng và
đẩy mạnh phong trào thi đua “giữ vở sạch viết chữ đẹp” ở địa phương
mình.
2. Cơ sở thực tiễn :
a. Về phía giáo viên.
Chữ viết của một số giáo viên còn xấu nhưng chưa có ý thức rèn luyện
viết chữ, dẫn đến không thực sự có mẫu mực trong chữ viết ở bảng lớp cũng
như chấm bài cho học sinh. Có những giáo viên không nhớ quy trình viết, các
kĩ thuật viết đúng dẫn đến hướng dẫn hoặc sửa lỗi cho học sinh chưa chính
xác.
b. Về phía học sinh
Học sinh ngại viết, không có hứng thú và lòng mê say khi viết chữ mà
chủ yếu là dừng ở mức độ viết xong bài. ở cấp tiểu học, ngay từ đầu cấp
như lớp 1 kĩ năng viết chữ đúng mẫu là rất quan trọng, nhưng học sinh lại
không nắm được cấu tạo con chữ và kỹ năng viết đúng dẫn đến sai ngay từ
những giờ tập viết đầu tiên của cấp học nên chữ viết của các em hâù như
viết chưa đúng, chưa đẹp.
Trong quá trình hướng dẫn luyện viết tôi nhận thấy học sinh trong
trường chữ viết còn xấu, còn sai nhiều lỗi chính tả, kĩ năng viết còn chậm,
chưa đúng kĩ thuật. nhìn chung các em còn mắc một số lỗi cơ bản sau:
2
Tư thế ngồi, việc cầm bút, khoảng cách giữa mắt và vở chưa đảm bảo.
Viết thiếu nét, thừa nét, sai các nét cơ bản.
Viết sai khoảng cách các con chữ.
Đặt dấu chữ, dấu thanh sai.
Cách trình bày, tốc độ viết chưa đúng.
Đó là những nguyên nhân chủ quan, ngoài ra còn các nguyên nhân khách
quan như bàn ghế không đúng quy định chuẩn, ánh sáng phòng học chưa đảm
bảo.
Vì vậy để các em viết đúng, viết đẹp người giáo viên cần tìm hiểu rõ
nguyên nhân để có kế hoạch, biện pháp cụ thể hướng dẫn phù hợp với các
đối tượng học sinh.
III. NGUYÊN NHÂN VÀ CÁCH KHẮC PHỤC
1. Tư thế ngồi, để vở, cách cầm bút: Do thói quen của các em từ khi
các em mới bắt đầu tập viết mà không được giáo viên uốn nắn ngay. Giáo
viên cần chú ý để hướng dẫn cho các em về:
Tư thế ngồi viết: Ngồi ngay ngắn, lưng thẳng không tỳ ngực vào bàn,
vai thăng bằng, đầu hơi cúi và nghiêng sang trái, mắt cách vở từ 25cm đến 30
cm, hai tay để lên bàn, tay trái giữ phía góc trên vở, tay phải cầm bút. Hai chân
để song song phía trước cho thoải mái.
Để vở: Vở để mở không gập đôi, để hoàn toàn trên mặt bàn, hơi
nghiêng về bên trái khoảng 15 độ ( bên trái thấp, bên phải cao ) sao cho mép
vở song song với cánh tay.
Cách cầm bút: Cầm bút bằng ba ngón tay. Ngón tay giữa ở phía dưới,
ngón trỏ, ngón cái ở phái trên. Lưu ý ngón tay cái phải cùng phương với cánh
tay. Bàn tay để nghiêng trên trang vở, cổ tay thẳng thoải mái. Bút nghiêng về
phía cánh tay khoảng 45 độ so với mặt phẳng của trang giấy. Ngòi bút úp hoàn
toàn.
2. Viết thiếu nét, thừa nét, sai các nét cơ bản :
2.1. Thiếu nét: Do học sinh chưa nắm được tên gọi, cách viết các nét cơ
bản hoặc do thói quen, tính cẩu thả của học sinh chưa viết hết nét chữ đã
dừng .Giáo viên cần nhắc nhở thường xuyên tạo thói quen viết đủ nét và dừng
bút đúng điểm. Yêu cầu học sinh thêm nét cho đủ ngay những chữ học sinh
vừa viết thiếu. Giáo viên phải hướng dẫn cho học sinh nắm chắc quy trình
viết các nét bản:
3
*Giáo viên giới thiệu quy ước đơn vị chữ (đvc) đường kẻ ngang, dọc, ô
li.
ĐK đậm
ĐK 3
ĐK 2
ĐK 1
ĐK đậm
li 3
li 2
li 1
ô
li
ĐK dọc
Các đường kẻ (đk) ngang gồm đk đậm, đk 1, 2, 3.
Khoảng giới hạn giữa hai đường kẻ ngang là một li.
Ô giới hạn giữa hai đường kẻ ngang và đường kẻ dọc là ô li. ô li chính là
ô đơn vị chữ.
Các đường kẻ dọc định hướng góc nghiêng của chữ viết.
* Giáo viên hướng dẫn viết các nét cơ bản:
+ Nét thẳng ( nét xổ thẳng, nét ngang thẳng, nét xiên
phải, xiên trái ) : điểm đặt bút trên đường kẻ đậm ở góc ô
đưa lên theo hướng xiên phải cao đến đường kẻ 2 thì kéo
nét xổ trùng với đường kẻ dọc. Không dừng bút mà đưa liên
tục tạo thành các nét xiên xổ liên hợp cho đến hết dòng mới
dừng bút.
+ Nét khuyết :
Khuyết trên : điểm đặt bút giữa đvc đưa một nét xiên qua
điểm giao nhau giữa đường kẻ lượn dần lên đến độ cao 2,5
đv thì kéo xuống trùng với đk dọc, dừng bút tại dòng kẻ đậm.
Khuyết dưới : Hoàn toàn giống nét khuyết trên về hình
dáng và kích thước nhưng ngược lại về quy trình viết . Điểm
đặt bút tại dòng kẻ ngang đưa nét lượn ngược với nét khuyết
trên, dừng bút giữa đv chữ. Nét khuyết cao 2,5đv, phần khuyết rộng 0,5 đv.
Chú ý: Thân của nét khuyết phải thật thẳng đường nét đưa lên cắt đường
nét đưa xuống ở li ngang 1 đơn vị. khi dạy học sinh lớp 1 cần chú ý quy trình
viết tất cả các chữ cái.
+ Nét móc : điểm đặt bút giữa đv ( giữa ô ly ) đưa lên
theo hướng xiên phải đến gần đk 1 uốn cong tròn đầu và
4
xổ thẳng xuống trùng với đk dọc đến đk đậm thì uốn cong đưa lên, dừng bút
giữa đv.
+ Nét cong kín :
Điểm đặt bút trên đk 1 giữa hai đk dọc viết một nét
cong tròn đều bên trái đến đk đậm cong sang phải cong
lên, điểm dừng bút trùng với điểm đặt bút.
+ Các nét liên hợp:
Các nét liên hợp được cấu tạo từ các nét cơ bản nhằm mục đích tạo sự
mềm mại cho chữ và giúp
củng cố tốc độ. Trong khi
viết ta chú ý hướng dẫn
học sinh viết đúng quy
trình của từng nét và nối
các nét đó lại với nhau
liền mạch.
+ Nét xổ lượn:
Tạo sự mềm mại cho chữ và dễ dàng luyện tập chữ hoa. Đặt bút giữa ô
li, viết nét xổ theo đường kẻ dọc rồi lượn hai đầu vào nửa ô li.
2.2. Thừa nét: Do học sinh viết sai quy trình, điểm đặt bút ban đầu, nét
bút viết không đúng hướng, dừng bút không đúng. Giáo viên phải hướng dẫn
lại quy trình viết bao gồm điểm đặt bút, hướng di chuyển của nét viết ( lên
trên, xuống dưới , sang phải, trái , nét thẳng hay cong…) và điểm dừng bút.
Để viết đúng quy trình cần nắm chắc hình dáng, cấu tạo, kích thước của từng
chữ, từng nhóm chữ.
+ Nhóm chữ thường : Giáo viên chia nhóm các chữ thường như sau:
Nhóm 1: i, u, ư, t, p, y, n, m, v, r, s
Nhóm 2: b, l, h, k
Nhóm 3: o, ô, ơ, a, ă, â, d, đ, q, g, c, e, ê, x
Hướng dẫn học sinh viết các chữ đại diện trong nhóm
Ví dụ: Chữ i: Điểm đặt bút giữa ô 1 đưa nét hất đến đk 1, góc ô. Xổ
xuống đến đk đậm uốn cong tạo móc, dừng bút giữa ô.
Chữ n: đặt bút giữa đk dọc, cao 3/4đv viết nét móc trên đến đk đậm đưa
liền bút lên viết nét móc hai đầu rộng 3/4đv, dừng bút ở 1/2đv.
5
Chữ l : Đặt bút cao 1/2 , lệch 3/4 sang phải đv đưa một nét xiên, lượn
cong cao 2,5 đv uốn cong và kéo nét xổ trùng với đk dọc đến đk đậm tạo nét
móc, dừng bút cao1/2 đv.
Chữ b: Viết giống chữ l, kéo dài nét móc đưa lên đến đk 1 tạo nét thắt ,
dừng bút dưới đk ngang 1.
Chữ o, ô, ơ: Viết nét cong kín cao 1đv, rộng 3/4đv rồi đánh dấu chữ.
Chữ a, ă, â: Viết nét cong kín rồi đặt bút trên đk 1 viết 1 nét móc tiếp
xúc với nét cong, dừng bút cao 1/2đv sau đó đánh dấu chữ.
Chữ d, đ: Tương tự chữ a nhưng khi viết nét móc đặt bút trên đk 2.
+ Nhóm chữ số: tất cả các chữ số đều cao 2 đv, rộng khoảng 1 đv riêng
số 1 rộng 0,5 đv. Bao gồm tất cả các số có nét thẳng như chữ số 1, 4, 7. Gồm
nét cong phối hợp với nét thẳng như chữ số 2, 3, 5. Nét cong như các chữ sạo
nét 0, 6, 8, 9.
+ Nhóm chữ hoa: Các chữ hoa cao 2,5 đv, rộng khoảng 2 đv. Có chữ Y,G
cao 4 đv.
Ví dụ: Chữ A:
Đặt bút đk 1 giữa hai đường dọc. Hướng di
chuyển : Viết nét cong trái 1/2 ô xuống đến đường đậm,
đưa lượn phải lên đến vị trí cao 2,5 đv tới đk dọc sổ
thẳng theo đk dọc đến đk đậm rồi móc lên dừng bút ở ½
đvc.Viết nét ngang là nét lượn chia đôi chiều cao của chữ
A.
Chữ C:
Đặt bút cao 2,5 đv đúng đk dọc viết nét cong sang trái 1
đv tiếp xúc với đk dọc, tiếp tục cong xuống đến điểm giữa
chiều cao của chư, cong phải lên 2,5 đv tiếp xúc với đk dọc
rồi cong liên tục đến đường đậm, cong lên 1đv cong xuống
dừng bút giữa ô.
2.3. Sai nét: Do học sinh cầm bút sai, các ngón tay quá
gần bút hoặc cổ tay cong.Khi viết biên độ giao hẹp, đầu ngòi bút di chuyển
không linh hoạt m cho nét chữ bị cong vẹo gây sai nét. Giáo viên hướng dẫn
học sinh cầm bút cho đúng, luyện tay cử động linh hoạt phối động với cử
động của cổ tay và cánh tay.
6
Hướng dẫn học sinh luyện tay: Khi viết cử động, điều khiển bút bằng 3
ngón tay theo cử động lên xuống đưa ngang sang phải, trái hoặc xoay tròn nhẹ
nhàng linh hoạt. Cổ tay, cánh tay phối hợp dịch chuyển nhẹ nhàng theo chiều
ngang. khi đưa tay lên tỳ xuống tạo nét đậm. Không đưa bút lên xuống bằng
cánh tay hay cổ tay. cử động linh hoạt phối động với cử động của cổ tay và
cánh tay.
3. Viết sai khoảng cách:
Lỗi này thường mắc với những học sinh viết hay nhấc bút, không viết
liền mạch, không đưa tay đều. Giáo viên hướng dẫn kĩ thuật viết các nét nối
cơ bản ( viết liền mạch ): Khi viết các con chữ trong một chữ ta cần chú ý
viết liền mạch. Trong một chữ ta sử dụng kỹ thuật lia bút, rê bút, thuật kéo
dài nét và thêm nét phụ để viết cho liền mạch. Khi nối liền các con chữ trong
một chữ xuất hiện hai trường hợp: Nét nối thuận lợi và nét nối không thuận
lợi.
+ Nét nối thuận lợi: Trong khi viết nét nối các con chữ có những trường
hợp dừng bút của chữ trước trùng với điểm đặt bút của chữ tiếp theo, ta chỉ
cần đưa bút lần lượt từ trên xuống dưới, từ trái sang phải liền mạch, viết
xong chữ rồi đánh dấu chữ, dấu thanh.
Ví dụ: Viết cụm từ :
+ Nét nối không thuận lợi: Khi điểm dừng bút của con chữ trước không
trùng với điểm đặt bút của con chữ sau. Những trường hợp này khi viết ta cần
dùng các kĩ thuật tạo ra nét nối để các con chữ được liền mạch.
+ Thay đổi, kéo dài, thêm nét nối.
+ Thay đổi quy trình viết của chữ.
Có các trường hợp nối không thuận lợi như sau:
(nét móc nối với nét cong ) kéo dài nét móc của con chữ n đến
đk ngang 1 là điểm đặt bút của chữ o rồi tiếp tục viết chữ o
bình thường.
Từ điểm đặt bút của chữ o ( dưới đk ngang 1, góc trên ô đv )
viết chữ o tạo thêm nét xoắn, kéo dài nét xoắn nối vào nét
móc của chữ n.
7
o
oa
Tương tự như nối
ta tạo thêm nét xoắn của chữ , kéo
dài nét xoắn đến điểm đặt bút của nét cong tiếp theo, viết nét
a
cong sau đó viết nét móc của chữ .
o
Tạo nét xoắn của chữ đưa lên đến đk ngang 1 rồi lia bút
c
đến điểm đặt bút của chữ viết bình thường. Tất cả các
trường hợp nối với chữ từ điểm dừng bút của chữ đứng trước đều phải lia
c
bút đến điểm bắt đâu của chữ .
Ngoài ra cần phải chú ý các trường hợp nối từ chữ hoa hay một số chữ
đứng trước có điểm dừng phía bên trái mà chữ tiếp theo không có nét nối như:
ba, ca, sa…Ta cần thêm vào nét nối để đảm bảo liền mạch, tính thẩm mỹ và
khoảng cách giữa các con chữ.
+ khoảng cách giữa hai chữ là 1đv đây là khoảng cách cố định không thay
đổi. Khi có dấu câu thì khoảng cách được tính từ vị trí đặt dấu câu.
+ Khoảng cách giữa các con chữ không cố định mà thay đổi tuỳ theo nét
chữ ê ( từ 1/3 đến 3/4 đv ) thông thường tương đương với việc cộng các nét
móc, nét hất giữa hai con chữ. Một số trường hợp khi viết ta nên điều chỉnh
khoảng cách cho phù hợp, đảm bảo tính thẩm mỹ. Khi viết thì viết liền mạch
xong chữ mới đánh dấu chữ và dấu ghi thanh.
Ví dụ : Viết chữ : trắng hướng dẫn viết : trang liền mạch, xong mới
đánh dấu t, ă, và dấu sắc trắng.
4. Đặt dấu chữ, dấu thanh sai
Học sinh thường mắc lỗi đánh dấu quá to, quá nhỏ, không đúng vị trí.
Giáo viên củng cố lại quy định về dấu thanh, dấu chữ như sau:
Kích thước: dấu thanh bằng 1/2 đơn vị chữ, nằm trong ô 1/4đv.
Vị trí dấu chữ: Dấu của các chữ ă, â, ê, i, ô đánh ngay sát phía trên và
cân đối ở giữa chữ. Dấu của các chữ ơ, ư đánh lệch về bên phải và ngang đk
1 . Đánh dấu của chữ đ đánh ngang bằng và ở giữa đv 2. Dấu của chữ t đánh
ngang đk 1.
Vị trí dấu thanh: dấu thanh đánh vào âm chính của vần và không vượt
quá đơn vị chữ ( ly ) thứ hai. Nếu chữ có mũ thì các dấu thanh nằm bên phải
dấu mũ.
8
+ Với các âm tiết có âm chính là nguyên âm đơn : đặt dấu thanh vào vị trí
của chữ cái ghi âm chính đó. Ví dụ : á, tã, nhà…
+ Với các âm tiết có âm đệm được biểu diễn bằng “o, u’’ có âm chính là
nguyên âm đơn thì cũng đặt dấu thanh vào vị trí chữ cái ghi âm chính. Ví dụ :
hoà, quà, nguỵ, hoàn, suýt…
+ Với các âm tiết có âm chính là nguyên âm đôi được viết là: “iê, yê, uô,
ươ” ; có âm cuối được viết bằng “ p, t, c, ch, m, n, ng, nh, o, u, i” thì đặt dấu
thanh vào con chữ thứ hai. Nếu là âm tiết có nguyên âm đôi được viết là: “ia,
ya, ua, ưa” không có âm cuối thì đặt dấu vào vị trí chữ cái thứ nhất.
Ví dụ: tỉa, tủa, cứa, thùa, khứa… Với “ia” có “g” thì đặt vào “a”( già,
giá,giả..) không có “g” thì đặt vào i. Với “ua” có “q” thì đặt vào “a”
(quán,quà…), không có “q” thì đặt vào “u” (túa, múa, chùa…) .
Thứ tự đánh dấu: Dấu chữ đánh trước, dấu thanh đánh sau theo thứ tự
từ trái sang phải, từ trên xuống dưới.
Học sinh
thực
hành viết:
Thực hiện viết theo quy trình sau:
+ Đặt bút trên ĐK dọc viết chữ C, lia bút lên giữa ly 1 tại vị trí nét cong
của chữ C tiếp xúc với ĐK dọc viết chữ h, kéo dài điểm dừng bút chữ h lên
ĐK 1 rồi viết liền nét cong của chữ ă, lia bút lên ĐK 1 viết nét móc chữ ă rồi
nối liền chữ m. Đánh dấu chữ ă.
+ Từ chữ Chăm sang chữ ngoan cách nhau 1 đv. Viết chữ n kéo dài nét
móc lên ĐK 1 viết nét cong của chữ g, lia bút lên ĐK 1 viết nét khuyết rồi lại
kéo dài lên ĐK 1 viết chữ o. Lia bút sang phải dưới ĐK 1 chạm vào chữ o đưa
lên nét móc và viết nét cong của chữ a. Tiếp tục lia bút lên ĐK 1, viết nét móc
của chữ a rồi nối liền chữ n.
Từ chữ ngoan sang chữ học cách nhau 1 đv. Viết chữ h, kéo dài điểm
dừng bút lên ĐK 1 rồi viết chữ o. Lia bút sang phải dưới ĐK 1 chạm vào chữ
o đưa lên nét móc đến ĐK 1 tiếp tục đưa bút xuống dưới ĐK 1 viết chữ c,
đánh dấu nặng (.) dưới chữ o.
Từ chữ học sang chữ giỏi cách nhau 1 đv. Viết chữ g nối liền sang chữ i,
kéo cao điểm dừng bút của chữ i lên ĐK 1 viết chữ o. Lia bút sang phải dưới
9
ĐK 1 chạm vào chữ o viết liền chữ i. Đánh dấu theo thứ tự dấu chữ trước,
dấu thanh sau.
5. Cách trình bày, tốc độ viết:
Một bài viết đẹp không phải chỉ viết đúng, viết chữ đẹp mà còn phụ
thuộc vào cách trình bày.Vì thế khi học sinh viết xong một bài tôi thường chú
ý hướng dẫn học sinh cách trình bày sao cho đúng, đẹp và phù hợp với từng
dạng bài. Đối với học sinh bên cạnh việc rèn viết tôi còn phải luôn chú ý rèn
cho học sinh tốc độ viết nhanh hơn . Bởi bất cứ môn học nào đều phải đạt
yêu cầu trọng tâm về kiến thức và kĩ năng. Qua đó giáo dục cho các em tính
thẩm mĩ, giáo dục tính kiên trì, thận trọng và chính xác.
Tóm lại: Để học sinh viết đẹp thì trước tiên phải viết đúng mẫu chữ,
kích cỡ, độ cao, tốc độ viết đảm bảo. Vì thế trong giờ tập viết, chính tả trên
lớp giáo viên cần cung cấp cho học sinh những khái niệm cơ bản tên gọi các
nét chữ, cấu tạo chữ cái , vị trí dấu thanh, dấu chữ, các khái niệm liên kết nét
chữ hoặc liên kết chữ cái… Từ đó hình thành ở các em những biểu tượng về
hình dáng, độ cao, sự cân đối, tính thẩm mĩ của chữ viết. Bên cạnh đó giáo
viên cần dạy học sinh các thao tác viết chữ từ đơn giản đến phức tạp, bao
gồm các kĩ năng viết nét, liên kết nét tạo các chữ cái và liên kết chữ cái tạo
thành tiếng. Đồng thời giúp các em xác định khoảng cách, vị trí, cỡ chữ trên vở
kẻ ô li để hình thành kĩ năng viết đúng mẫu, rõ ràng và cao hơn là viết nhanh
và viết đẹp.
Dạy tập viết và luyện chữ đẹp cho học sinh, điều quan trọng là phải gây
được hướng thú cho học sinh. Khi các em yêu thích chữ đẹp thì các em sẽ say
mê và quyết tâm luyện chữ cho đẹp. Giáo viên nên nêu những gương về rèn
chữ, những gương người thật việc thật để động viên các em cố gắng, kiên trì
rèn luyện . Giáo viên phải phô tô các bài viết của học sinh đạt giải thi viết
chữ đẹp các cấp để cho các em xem và học tập . Khi đã gây được hứng thú
cho học sinh, các em đã thích rèn viết chữ lúc này giáo viên nên cung cấp các
bài tập để học sinh rèn kỹ năng viết.Các dạng bài tập như sau:
+ Bài tập viết đúng quy trình: cho học sinh luyện viết chữ hoa.Giáo viên
chú ý xem học sinh viết đúng quy trình không để sửa lỗi kịp thời.
+ Bài tập các kĩ thuật viết chữ: Cho học sinh viết từ, câu .Giáo viên quan
sát xem học sinh viết có liền mạch, viết có đúng khoảng cách, đánh dấu chữ,
dấu thanh có đúng không? từ đó giáo viên hướng dẫn ngay để học sinh viết
đúng mẫu.
10
+ Bài tập tổng hợp: cho học sinh viết một bài thơ, đoạn văn ngắn. mỗi
bài thơ, đoạn văn giáo viên cho các em viết lần thứ nhất, giáo viên quan sát
nhắc nhở chỉnh sửa lỗi sai cho từng em. Cho học sinh viết lại câu, từ lỗi sai
trước khi viết lại toàn bài lần hai.
+ Bài tập sáng tạo: Cho học sinh viết các mẫu chữ hoa sáng tạo,trình bày
bài thơ, bài văn ngắn theo mẫu chữ sáng tạo. Trong quá trình học sinh thực
hành giáo viên chú ý hướng dẫn các em cách trình bày, yêu cầu học sinh sáng
tạo cách trình bày.
Các bài tập cho học sinh luyện tập cần chú ý : chỉ cho học sinh luyện tập
kỹ năng đúng. số lượng bài tập ít nhưng lặp đi lặp lại nhiều lần với yêu cầu
cao dần. Việc cho học sinh viết đi viết lại nhiều lần một bài sẽ dễ nhận ra
lỗi sai của học sinh đồng thời cũng dễ nhận xét sự tiến bộ học sinh.
Sau mỗi bài tập tôi thu bài tôi kiểm tra và nhận xét thật tỉ mỉ các nét chữ
trong con chữ mà học sinh vừa viết và phân tích rõ nguyên nhân học sinh viết
chưa đúng, chưa đẹp để các em biết những lỗi mình còn vướng mắc mà khắc
phục. Đối với những em chưa nắm chắc cấu tạo con chữ hay kĩ thuật viết
như; Lia bút, rê bút hay viết liền mạch thì phải cung cấp biểu tượng về con
chữ đó để học sinh nắm chắc hơn và hướng dẫn thêm về kĩ thuật viết cho các
em.
* Trong quá trình luyện viết cho học sinh, ngoài việc hướng dẫn học sinh
viết đúng, muốn học sinh viết đẹp, tôi đã hướng dẫn học sinh viết chữ thanh
đậm. Đây là kiểu chữ mà tôi tâm huyết và say mê nhất trong quá trình dạy
luyện chữ cho học sinh .Tôi định hướng và tư vấn cho học sinh mua bút ngòi
mài nét thanh, nét đậm. Trong các giờ luyện viết, tôi đã đưa kiểu chữ sáng tạo
vào hướng dẫn học sinh viết. Trước tiên tôi hướng dẫn các em viết nét thanh,
nét đậm theo các bước sau:
Đầu tiên tôi viết một chữ cái lên bảng hướng dẫn cho học sinh nét nào lia
bút từ dưới lên trên là nét thanh, nét nào lia bút từ trên xuống dưới là nét đậm.
Nét thanh khi viết đưa nhẹ nét bút, ngòi bút hơi nghiêng hướng về phía trái.
Nét đậm khi viết cần đưa bút xuống mạnh hơn một chút. Khi viết tới điểm
dừng bút của nét thanh các em hơi xoay ngòi bút thẳng hướng để viết nét
đậm.
Sau đó tôi cho học sinh thực hành viết nét, viết chữ nào đó thành thạo. sau
cùng tôi đọc cho học sinh viết một cum từ nào đó. nhận xét kịp thời cho từng
em, để các em nhận ra lỗi và sửa ngay. Một số em đã được tôi viết mẫu cho
một dòng để nhìn đó làm mẫu luyện viết theo.
11
Mỗi học sinh có một quyển vở luyện viết riêng. Một tuần tôi giao cho
học sinh viết 2 bài. Rồi tôi kiểm tra và sửa chữa kịp thời, nhận xét cụ thể, rõ
ràng chỉ ra từng nét viết chưa đạt yêu cầu cho học sinh nhận thấy để sửa.
* Khi hướng dẫn luyện viết ngoài hướng dẫn học sinh khắc phục những
lỗi sai cơ bản để học sinh viết đẹp, tôi còn áp dụng một số biện pháp sau:
Vào đầu năm sau khi nhận lớp, giáo viên tiến hành kiểm tra sách vở, đồ
dùng học tập của học sinh, hướng dẫn học sinh nên dùng loại vở nào, dùng
loại bút nào để luyện viết.
Khảo sát phân loại học sinh ngay từ đầu năm để có hướng kèm cặp
những học sinh viết chưa đẹp và có kế hoạch bồi dưỡng những học sinh có
năng khiếu, viết đẹp.
Hàng tuần trong các giờ tăng buổi tôi dành ít thời gian nhận xét chữ viết
của từng học sinh. Biểu dương, khen ngợi để học sinh cố gắng hơn ở tuần
tiếp theo.
Trưng bày những bài viết đẹp của học sinh trong lớp dán vào tờ giấy A0
treo trên tường lớp để khích lệ các em.
Một điều tôi tự thấy rằng không thể thiếu và bỏ qua được đó là sự mẫu
mực và cẩn thận của người giáo viên, nhất là vai trò của giáo viên chủ nhiệm
vì chúng ta thường nói rằng “Thầy nào – trò nấy”. Chính vì vậy tôi luôn cẩn
thận trong từng việc làm của mình. Từ khâu viết trong giờ tập viết đến khâu
viết trong các giờ học khác tôi cố gắng viết thật nắn nót, rõ ràng, đúng , đẹp
vì các em sẽ nhìn, quan sát và bắt chước những nét chữ từ đơn giản đến phức
tạp của cô giáo . Thực tế cho thấy rằng nếu giáo viên viết chữ đẹp và có ý
thức rèn chữ viết thì chất lượng chữ viết của lớp đó sẽ cao. Trong giờ luyện
viết tôi kiểm tra nhắc nhở và uốn nắn thường xuyên để các em có thể viết
đúng, đẹp, đạt yêu cầu.
III. KẾT LUẬN
1. Kết quả thực hiện:
Qua việc áp dụng một số kinh nghiệm trên vào việc rèn chữ viết cho học
sinh trong trường.Tuy là một trường miền núi thuộc vùng khó khăn nhưng tôi
thấy kết quả viết của giáo viên cũng như học sinh đạt được cũng rất đáng
mừng.
Về giáo viên: Chữ viết của các đồng chí giáo viên đã có chuyển biến rõ
rệt. Các đồng chí đã rất quan tâm đến phong trào luyện viết của lớp mình.
Không những thế các đồng chí còn hưởng ứng ,tham gia rất nhiệt tình cuộc
thi viết chữ đẹp cấp huyện, cấp tỉnh tổ chức. Kết quả:
12
Cấp huyện: 6 đồng chí tham gia thi thì cả 6 đồng chí đều đạt giải cao.
Cấp tỉnh: 2 đồng chí tham gia , trong đó 1 đồng chí đạt giải nhất, 1 đồng
chí đạt giải nhì.
Về học sinh:
+ Chất lượng chữ viết của học sinh nói chung được nâng lên rất nhiều,
đa số các em đã có ý thức trong việc luyện chữ ở lớp, ở nhà.
+ Học sịnh viết đúng mẫu, viết đảm bảo tốc độ, kĩ thuật viết được các
em vận dụng và nhiều em đã có nét chữ đẹp và sáng tạo.
+ Số học sinh đạt giải năm học 2010 – 2011 như sau:
Cấp huyện: 38 em tham gia thi thì 36 em đạt giải.
Cấp tỉnh: 2 em tham gia, trong đó 1 em đạt giải Nhất, một em đạt giải
Nhì.
2. Bài học kinh nghiệm:
Đạt được kết quả như trên, tôi rất phấn khởi, tự tin vào khả năng sư
phạm của mình. Các em học sinh vui vẻ, phấn khởi chăm chỉ học hơn. Qua
thực tế, tôi nhận thấy khi rèn chữ đẹp cho học sinh cần chú ý đến một số vấn
đề sau:
Giáo viên cần thực sự hăng say, đi sâu đi sát từng học sinh để kèm cặp,
uốn nắn kịp thời. Đồng thời mỗi giáo viên cũng phải tự rèn chữ của mình sao
cho thật mẫu mực để học sinh học tập và noi theo. Cẩn thận khi chấm và ghi
lời nhận xét vào bài làm, bài kiểm tra của học sinh, khi ghi sổ liên lạc cũng
như khi viết bài trên lớp.
Giáo viên cần nắm được những kĩ năng cơ bản, quy trình, các kĩ thuật
viết từng con chữ để hướng dẫn cho các em thật chính xác các kĩ năng đó.
Giáo viên phải nắm được lỗi mà học sinh mình mắc phải, tìm ra nguyên
nhân và cách khắc phục lỗi cho học sinh.
Giáo viên luôn phải sử dụng linh hoạt nhiều phương án, nhiều cách tổ
chức học cho học sinh hứng thú, tích cực hơn trong việc luyện chữ.
Gíáo viên thường xuyên khích lệ, động viên, khơi dậy ở các em lòng say
mê về rèn chữ bằng những hình thức khen thưởng, bằng cách trưng bày thành
quả hàng năm của học sinh.
Thường xuyên trao đổi với bạn bè, đồng nghiệp trong khi họp nhóm ,
họp tổ để tìm ra biện pháp phối hợp hiệu quả, tích cực tham gia chuyên đề để
tìm ra nhiều phương pháp dạy luyện viết đẹp.
13
3. Kiến nghị và đề xuất:
Để nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh, tôi xin có một vài đề
xuất như sau:
3.1. Các cấp, các ngành quan tâm đến đồ dùng thiết bị dạy học, tổ chức
nhiều hơn nữa các lớp, các chuyên đề rèn chữ đẹp để nâng cao chất lượng
chữ viết.
3.2. Giáo viên cần đầu tư thời gian công sức hơn nữa để luyện chữ viết,
dám nghĩ, dám làm, sáng tạo trong dạy học.
3.3. Học sinh chuẩn bị đủ các phương tiện học tập, có nhận thức đúng
đắn về môn học.
3.4. Phụ huynh tạo mọi điều kiện để con em mình học tốt hơn, tạo cơ
hội để các em phát triển tài năng của mình.
Trên đây là kinh nghiệm bản thân rút ra từ thực tế hướng dẫn luyện viết.
Chỉ là một việc làm và ý kiến nhỏ của bản thân tôi nên sẽ không tránh khỏi
thiếu sót. Tôi rất mong sự góp ý, bổ sung của các đồng nghiệp nhằm góp
phần nâng cao chất lượng chữ viết trong các nhà trường nói riêng và chất
lượng giáo dục toàn diện cho học sinh Tiểu học nói chung.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hồi Xuân, ngày 20 tháng 4 năm 2011
Người thực hiện
Nguyễn Thị Lệ Thu
14