I/ LỜI NÓI ĐẦU.
PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Đất nước ta đang tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nư ớc.
Đảng khẳng định nguồn lực con người là yếu tố quyết định sự phát triển kinh
tế xã hội và con người là trung tâm của sự phát triển kinh tế xã hội. Ở Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã nêu: “… đẩy mạnh CNH, HĐH nhằm đưa
đất nước thoát khỏi lạc hậu nghèo nàn trở thành một nước công nghiệp, bảo
vệ vững chắc độc lập dân tộc, thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công
bằng dân chủ văn minh, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội”. Đây là mục
tiêu của chiến lược cách mạng nước ta và là lợi ích trăm năm của dân tộc ta,
mà vì lợi ích ấy chúng ta phải chăm lo “ Sự nghiệp trồng người” như Bác Hồ
đã dạy. Trong thời đại của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ ngày nay,
tiềm năng trí tuệ trở thành động lực chính của sự tăng tốc và phát triển, giáo
dục đào tạo được coi là nhân tố quyết định sự thành bại của mỗi quốc gia
trên trường quốc tế và sự thành đạt của mỗi người trong cuộc sống của mình,
chính vì vậy mà Đảng và nhà nước ta luôn khẳng định “ Giáo dục là quốc sách
hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển”. Mà như chúng ta đã
biết mục đích của giáo dục là “ nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi
dưỡng nhân tài”. Vì vậy vấn đề cấp bách hiện nay là phải thực hiện tốt
phương châm “ Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng” “ Giáo dục và đào tạo
là sự nghiệp của toàn Đảng, của nhà nước và của toàn dân” . Quan niệm đó
luôn được thể hiện nhất quán trong các chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng về giáo dục nói chung và giáo dục mầm non nói riêng cụ thể là ngày 23
tháng 6 năm 2006 Thủ tướng Chính phủ đó phê duyệt Đề án Phát triển giáo
dục mầm non(GDMN) kèm theo Quyết định số 149/2006/QĐTTg: Quyết
định“Phát triển GDMN giai đoạn 2006 2015” với quan điểm chỉ đạo là: “...
Đẩy mạnh xã hội hoá, tạo điều kiện thuận lợi về cơ chế, chính sách để m ọi
tổ chức, cá nhân và toàn xã hội tham gia phát triển giáo dục mầm non” .
Quan điểm chỉ đạo này hoàn toàn phù hợp với xu thế chung trên thế giới hiện
nay về phát triển nền giáo dục quốc dân. Ở nhiều nước, không chỉ ở những
nước nghèo mà ngay cả ở những nước giàu, để phát triển sự nghiệp giáo dục,
họ đó tìm nhiều giải pháp để đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục( XHHGD), trong
đó có XHHGD mầm non (XHHGDMN). Trong nhận thức chung, XHHGD
được hiểu là sự huy động toàn xã hội làm giáo dục, động viên các tầng lớp
nhân dân góp sức xây dựng nền giáo dục quốc dân dưới sự quản lý của Nhà
nước. Ở nước ta, XHHGD cũng là một quan điểm chỉ đạo của Đảng đối với
sự nghiệp phát triển giáo dục nhằm làm cho hoạt động giáo dục thực sự là sự
nghiệp của dân, do dân và vì dân.
Trong quá trình đấu tranh Cách Mạng, Đảng ta luôn khẳng định “ Cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng” chân lý đó được ngời lên trong lời dạy
1
của Bác Hồ “ Dễ một lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng
xong.” . Đẩy mạnh công tác xã hội hoá giáo dục là một biện pháp hữu hiệu để
thực hiện mục tiêu quản lý giáo dục, đem lại nguồn sức mạnh tổng hợp giúp
cho nhà trường đào tạo cho xã hội nguồn nhân lực phát triển toàn diện về
đức, trí, thể, mỹ, lao động, làm nên sức mạnh nội sinh ở dân tộc góp phần
hiện đại hoá giáo dục, đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước. Điều 12 Luật giáo dục 2005 có nêu: “Phát triển giáo dục, xây dựng xã
hội học tập là sự nghiệp của Nhà nước và của toàn dân”.
Vậy XHH giáo dục là huy động toàn xã hội làm công tác giáo dục, động
viên nhân dân góp sức xây dựng nền giáo dục quốc dân dưới sự quản lý của
nhà nước.( Nghị Quyết IV khoá VIII).
Thực tế cho thấy, công tác XHH giáo dục trong thời gian qua chủ yếu là
vận dụng nhìn chung chưa có cơ chế, chưa có phương pháp chung. Nơi nào
biết làm, được nhân dân ủng hộ thì XHH phát huy được tốt tác dụng, nơi nào
cấp uỷ chính quyền ít quan tâm thì sự nghiệp giáo dục chỉ bó hẹp trong trách
nhiệm của ngành giáo dục và đương nhiên là hiệu quả giáo dục thấp.
Từ vị trí và đối tượng của mình, giáo dục Mầm non có số lượng học
sinh ngoài công lập đông nhất và đóng vai trò quan trọng đối với việc phát
triển các bậc học khác trong hệ thống giáo dục quốc dân. Tuy nhiên trên thực
tế giáo dục mầm non vẫn còn nhiều hạn chế. Hiện nay, giáo dục mầm non
đang đứng trước những thách thức lớn đó là mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển
giáo dục mầm non và ngân sách nhà nước đầu tư cho giáo dục còn hạn chế,
chủ yếu đầu tư chỉ là tối thiểu và tập trung chính để chi lương cơ bản cho
giáo viên. Dù vậy mặt bằng lương của giáo viên mầm non vẫn ở mức quá
thấp, nhưng trách nhiệm, thời gian công sức lại quá nặng nề. Điều này tất
yếu dẫn đến tình trạng phát triển giáo dục mầm non hết sức khó khăn. Mặt
khác, đó là mâu thuẫn giữa một mặt là yêu cầu giáo dục phổ cập Tiểu học đòi
hỏi phát triển quy mô rộng lớn của Mẫu giáo 5 tuổi, đảm bảo cho 100% trẻ 5
tuổi được chuẩn bị vào Tiểu học với một mặt là không có đủ điều kiện để
phát triển, mà khó khăn trước hết là đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất chưa đáp
ứng được yêu cầu đổi mới. Từ những vấn đề đang đặt ra cho giáo dục mầm
non phương hướng phát triển của giáo dục mầm non trong giai đoạn tới là
phải thực hiện tuyên truyền phổ biến kiến thức khoa học nuôi dạy trẻ trong
xã hội. Do vậy giáo dục mầm non cũng cần phải tiến hành XHH công tác giáo
dục. Vì vậy mà tôi chọn đề tài: “Kinh nghiệm thực hiện công tác Xã hội hóa
giáo dục ở trường mầm non Hà Châu huyện Hà Trung ”.
II/ THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU.
1/ Thực trạng của vấn đề nghiên cứu.
a, Tình hình địa phương:
2
Xã Hà Châu với tổng dân 5430 người, sống chủ yếu là nông nghiệp, môi
trường giáo dục của xã rất phát triển. Trường Mầm non, Tiểu học, Trung
học cơ sở là trường có nhiều thành tích trong huyện, đó là trường tiên tiến
cấp huyện, tiên tiến cấp tỉnh, trường chuẩn quốc gia. Tuy vậy mấy năm năm
gần đây do mất mùa vì nước mặn và sâu bệnh hoành hành nên đời sống nhân
dân gặp không ít khó khăn.Trình độ dân trí, mức sống về vật chất ch ưa đồng
đều, cho nên ảnh hưởng không ít đến vấn đề thực hiện công tác xã hội hoá
giáo dục.
b.Tình hình nhà trường:
* Thuận lơị : Trường mầm non Hà Châu từ những năm học trước, trường ch
ưa có khu trung tâm, từ năm 1993 trường được Đảng, chính quyền quan tâm
xây dựng cho nhà trường khu trung tâm mầm non với 3 phòng học, 1 phòng
HĐNT đến năm 2005 Đảng uỷ, UBND xã cho cải tạo khu Nga Châu để trở
thành khu trung tâm mầm non với 4 phòng học, 1 phòng HĐNT, 1 nhà bếp, 1
nhà kho.
Năm học 20082009 được sự quan tâm của thường vụ Đảng uỷ, uỷ ban
nhân dân xã, UBND huyện cho trường được xây dựng phòng học từ dự án
kiên cố hoá trường lớp học từ nguồn trái phiếu chính phủ, nhà trường đã tham
mưu cho Đảng uỷ, UBND xã đăng ký xây dựng trường đạt chuẩn Quốc gia
mức độ I.
Bên cạnh đó nhà trường luôn phấn đấu giữ vững danh hiệu trường tiên
tiến cấp huyện. Đây cũng là điều kiện thuận lợi góp phần tích cực vào việc
nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ.
*Khó khăn:
Bên cạnh những thuận lợi, trường Mầm non Hà Châu gặp không ít
những khó khăn đó là các phòng chức năng chưa có, chưa có nhà bếp, nhà kho,
nhà xe, phòng bảo vệ, chưa có công trình vệ sinh, hệ thống điện, nước. Bên
cạnh đó chưa có hàng rào, cổng biển trường, thiếu đồ dùng, các trang thiết bị,
đồ chơi ngoài trời chưa có, khuôn viên sân vườn của nhà trường chưa hoàn
thiện, đồ dùng trang thiết bị còn hạn chế, các trang thiết bị phục vụ nuôi
dưỡng và các trang thiết bị phục vụ các phòng chức năng còn thiếu ảnh h
ưởng không nhỏ đến việc nâng cao chất lượng giáo dục. Trường còn 1 số
giáo viên năng lực hạn chế, nên tiếp cận ch ương trình đôỉ mới hình thức giáo
dục chậm. Phụ huynh học sinh chủ yếu là nghề nông nên thu nhập thấp, thời
gian quan tâm đến các cháu còn ít. Nhận thức của một số cán bộ, Đảng viên và
nhân dân trong địa phương về giáo dục mầm non còn hạn chế chưa đúng
mức.Chế độ chính sách của giáo viên mầm non ngoài biên chế còn thấp(do
ngân sách địa phương hỗ trợ còn thấp ), chưa tương xứng với công sức bỏ ra,
nên đời sống của giáo viên gặp rất nhiều khó khăn.
2/ Kết quả hiệu quả thực trạng:
3
Vào đầu năm học tôi khảo sát thực trạng kết quả như sau:
Đã có
Còn thiếu
T
T
Danh mục
Nội dung
SL
N
MG
T
%
NT
MG
1
2
Huy động
Chất lượng
Huy động trẻ đến trường
Trẻ ăn bán trú
Kênh bình thường
Nề nếp, vệ sinh
Cháu khá giỏi
TS:17(CBQL:3; GVNV: 14)
Tđộ:100%chuẩn;Trên chuẩn:
58,8%
Lương: 1220 000đ
40
6
34
34
29
5
31,7 97,7 5
15
75,7 34
85
84
Phòng học
Các phòng chức năng
Đồ chơi ngoài trời
Nhà VS học sinh
Nhà VS giáo viên
Tổng vốn
Doanh nghiệp
Cá nhân
Các đoàn thể
Phụ huynh
2
6
2
100
0
2
7
0
18 000 000
0
0
0
18 000 000
3
CBGV
4
Cơ sở vật
chất
5
XHH GD
132
100
111
111
96
9
SL
NT
MG
3
32
%
NT MG
4
85
2,3
24,3
33
0
72,5 72,7
0
0
1
0
Về cơ sở vật chất: trường chúng tôi đã được đầu tư 7 phòng học với
tổng dự toán 7 phòng học là trên 2,1 tỷ đồng trong đó ngân sách nhà nước hỗ
trợ là 1,4 tỷ đồng, còn ngân sách xã đầu tư là trên 700 triệu đồng cho 7 phòng
học. Ngoài ra để xây dựng trường chuẩn nhà trường còn thiếu nhiều các
phòng chức năng như phòng hoạt động âm nhạc, văn phòng nhà trường, phòng
hiệu trưởng, phòng các phó hiệu trưởng, phòng nhân viên, phòng hành chính,
phòng y tế, nhà bếp, phòng chia ăn, kho để thực phẩm, khu chế biến, nhà vệ
sinh cán bộ giáo viên, phòng bảo vệ … ngoài ra còn phải xây hàng rào xung
quanh trường, cổng biển trường, đường đi lối lại, khuôn viên sân vườn, hệ
thống nước sạch, hệ thống nước thải.
Về trang thiết bị : còn thiếu các trang thiết bị phòng học như bàn ghế,
giá góc bảng từ giáo viên, các trang thiết bị các phòng chức năng như gương
múa, gióng múa, giường y tế, tủ thuốc… các loại bảng biểu, các trang thiết bị
4
bán trú… Với tổng dự toán trên 3 tỷ đồng trong đó NSNN là 1,4 tỷ đồng, ngân
sách xã đầu tư 1,450 tỷ đồng, nhân dân đóng góp 150 triệu đồng.
Thực tế tôi cũng đã thực hiện một số giải pháp nhằm đẩy mạnh công
tác XHH như tuyên truyền vận động các ban ngành đoàn thể trong xã, các bậc
phụ huynh trong toàn xã, họp phụ huynh để huy động đóng góp về tài chính
vật lực… cho nhà trường nhưng mang lại hiệu quả chưa cao. Trước tình hình
thực tế đó, việc thực hiện các biện pháp nhằm làm tốt công tác xã hội hoá
giáo dục là việc làm tôi đặc biệt quan tâm với mong muốn duy trì sự ổn định
và phát triển giáo dục của nhà trường, từng bước nâng cao chất lượng giáo
dục.
PHẦN II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I/ NHÓM CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
1 Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về xã hội hoá.
2.Chỉ đạo nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ.
3.Xây dựng nâng cao chất lượng đội ngũ CBQL và giáo viên.
4. Huy động sức mạnh tổng hợp của các lực lượng xã hội tham gia công
tác xã hội hoá giáo dục để hoàn thiện cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị,
tạo khuôn viên sân vườn hoàn thiện tiêu chí xây dựng trường chuẩn Quốc gia
mức độ 1 và công sở có nếp sống văn hóa cấp huyện.
5.Tăng cường công tác lãnh chỉ đạo công tác XHHGD.
II/ CÁC BIỆN PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về xã hội hoá.
Đây là một việc làm quan trọng là kim chỉ nam cho mọi hoạt động, tư
tưởng mà thông thì mọi việc khó mấy cũng làm được. Vì vậy, phải tăng
cường công tác tuyên truyền, vận động cung cấp thông tin một cách đầy đủ
về đường lối, mục đích, chủ trương, yêu cầu, thuận lợi, khó khăn… nhằm
làm chuyển biến nhận thức của các cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương,
các tổ chức xã hội, quần chúng nhân dân theo hướng tích cực về vị trí hàng
đầu của giáo dục, về bản chất, nghĩa vụ và quyền lợi của XHH giáo dục để
quần chúng có đủ hiểu biết, chủ động tham gia vào giáo dục. Nâng cao nhận
thức về XHH giáo dục cho mọi người có rất nhiều con đường, nhiều hình
thức tổng hợp. Để làm được điều này, tôi đó quan tâm tới các vấn đề sau:
+ Trước hết tham mưu với các đồng chí ở cấp uỷ Đảng, chính quyền
địa phương; quán triệt cho toàn cán bộ giáo viên trong trường. Kết hợp với
các ban ngành đoàn thể sau đó tuyên truyền đến toàn dân. Tổ chức học tập,
quán triệt các văn bản, nghị quyết, chỉ thị có liên quan đến giáo dục và xã hội
hoá sự nghiệp giáo dục để mọi người đều nắm vững chủ trương, đường lối,
chính sách vận dụng vào thực tiễn.
5
+ Thực hiện tốt các hình thức tuyên truyền: tuyên truyền bằng nhiều
hình thức như:
Thông qua các buổi họp phụ huynh. Thông qua các buổi tập huấn tập
trung, phối kết hợp với Hội phụ nữ xã, đoàn thanh niên…Thông qua các cuộc
họp giao ban bí thư chi bộ, cuộc họp liên tịch của xã. Thông qua các góc tại
trường, lớp. Thông qua hệ thống loa truyền thanh của xã. Thông qua họp phụ
huynh và đến tận gia đình trẻ.
+ Thực hiện tốt nội dung tuyên truyền:
Tuyên truyền về tầm quan trọng của việc đưa con đến trường đi học.
Tuyên truyền về phòng chống bệnh suy dinh dưỡng ở trẻ nhỏ và tầm
quan trọng của việc cho trẻ ăn bán trú tại trường. Tuyên truyền về việc đóng
góp kinh phí mua sắm trang thiết bị phục vụ cho công tác tổ chức ăn bán trú
tại trường, mua đồ dùng học tập tại lớp, cũng như việc xây dựng trường đạt
chuẩn quốc gia, việc thực hiện “ xây dựng trường học thân thiên, học sinh
tích cực”.
Tuyên truyền chế độ chính sách, các chủ trương đường lối của Đảng,
pháp luật của nhà nước.
Làm tốt công tác XHH GD tuyên truyền kiến thức nuôi dạy trẻ cho các
bậc phụ huynh. Tuyên truyền luật giáo dục sửa đổi, việc chuyển từ trường
mầm non bán công sang trường mầm non dân lập, tư thục. Vận động toàn dân
chăm lo cho giáo dục mầm non, vận động phụ huynh cùng đóng góp kinh phí,
đóng góp ngày công lao động, sưu tầm nguyên vật liệu, phế liệu giúp giáo
viên làm đồ dùng, đồ chơi cho trẻ. Tôi đã thực hiện một số biện pháp cơ bản
cụ thể như sau:
Xây dựng góc tuyên truyền ở trường, lớp và ở cộng đồng: chọn một
góc thuận lợi (vị trí mà mọi người dễ trông thấy) tại trường làm góc tuyên
truyền cho các bậc cha mẹ học sinh. Tại đó, chúng tôi có các tài liệu, tranh
ảnh…với những nôị dung thiết thực như tổ chức nuôi dạy con, những yêu cầu
mà các bậc cha mẹ, đồng cần phối hợp với nhà trường, tuyên truyền các điển
hình tham gia đóng góp xây dựng giáo dục… Nội dung các tài liệu trưng bày
cần được biên soạn ngắn gọn, thiết thực, luôn thay đổi, cập nhật thông tin,
hình thức hấp dẫn… để mọi người dễ xem, dễ ghi nhớ.
Kết hợp việc cung cấp thông tin ở các góc tuyên truyền, nhà trường bố
trí “ Hòm thư góp ý” để các bậc phụ huynh và người dân có thể tham gia đóng
góp ý kiến với nhà trường về những vấn đề như: nội dung, phương pháp giáo
dục, tìm hiểu phương pháp nuôi dạy con, hay về các vần đề mà cha mẹ các
cháu chưa rõ…
Tuyên truyền qua các phương tiện thông tin đại chúng: Phối hợp với
đài truyền thanh xã tổ chức tuyên truyền sâu rộng, thiết thực trong nhân dân
và cha mẹ học sinh thông qua hệ thống phát thanh hàng ngày nhằm tạo chuyển
6
biến trong nhận thức và hành động của nhân dân trong công tác tham gia XHH
giáo dục.
Tôi đã tuyên truyền bằng nhiều cách: như tổ chức Họp phụ huynh:
Họp đầu năm: thông báo cho gia đình kế hoạch của trường, nhóm lớp,
nội dung chương trình, thời gian học hàng ngày của trẻ và phương pháp, hình
thức giáo dục của nhà trường, những công việc mà cha mẹ học sinh cần thực
hiện ở nhà. Tuyên truyền để phụ huynh hiểu được cho con đi học là để con
mình được chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục theo khoa học, đó là mỗi lớp mỗi
giai đoạn có chương trình giáo dục riêng phù hợp, số trẻ ăn bán trú là để trẻ
ăn đủ chất, đổi chất, ăn hết tiêu chuẩn, ngủ đủ giờ, uống nước đầy đủ, từ đó
cơ thể trẻ khoẻ mạnh, cân đối là điều kiện để trí tuệ phát triển. Mặt khác
thông qua ăn ở bán trú trẻ được rèn nhiều thói quen tốt như vệ sinh răng
miệng, vệ sinh tay chân, mặt mũi. Tuyên truyền với phụ huynh về kế hoạch
xây dựng trường đạt chuẩn Quốc gia, vai trò của xây dựng trường chuẩn
Quốc gia trong đó có việc thực hiện tốt công tác XHH giáo dục nhằm hoàn
thiện các tiêu chí xây dựng trường chuẩn Quốc gia nâng cao chất lượng giaó
dục toàn diện. Về phía phụ huynh để thực hiện công tác XHH trong việc xây
dựng trường chuẩn. Cần phải lao động tạo khuôn viên, ủng hộ cây xanh, cây
cảnh, cây ăn quả …để hoàn thiện khuôn viên sân vườn. Mặt khác vận động
phụ huynh đóng góp kinh phí để mua sắm các trang thiết bị bán trú, lắp hệ
thống điện, nước để sử dụng. Với cách nói có lý, dễ hiểu, phụ huynh tự giác
cho con đi học, đa số trẻ ăn bán trú, phụ huynh đóng góp nhiều ngày công lao
động và ủng hộ nhiều cây xanh, cây cảnh, cây hoa có giá trị, cũng như đóng
góp kinh phí để mua sắm các trang thiết bị bán trú, lắp hệ thống điện, hệ
thống nước xong ngay từ cuối tháng 7 đầu tháng 8 năm 2010.
Họp giữa năm: Nhà trường thông báo tình hình sức khoẻ, học tập, vui
chơi của từng trẻ và toàn trường, những yêu cầu đối với gia đình trong thời
gian tới.
Họp cuối năm: Nhà trường tổng kết tình hình năm học, xây dựng mặt
mạnh, mặt yếu và trách nhiệm của nhà trường, của gia đình như thế nào, và
hướng dẫn, yêu cầu về nội dung, phương pháp giáo dục trong thời gian hè cho
gia đình.
Một cách tuyên truyền nữa là mời phụ huynh đến dự các hoạt động của
trẻ ở trường như xem một số bữa ăn, nhiều phụ huynh thấy hay quá nên
nhiều buổi xin Ban giám hiệu xem con học, nhiều phụ huynh nói “ xem con
học bây giờ mới biết các cháu được học 7 hoạt động chung, hoạt động nào
cũng có đồ dùng đồ chơi đẹp”, thông qua tiếp xúc với đồ chơi trẻ được hình
thành nhiều kiến thức, kỹ năng, thói quen tốt, trẻ mạnh dạn tự tin và cũng rất
thông minh. Bữa ăn nào trẻ cũng được ăn 23 món, các món ăn được thay đổi
hàng ngày theo thực đơn, được chế biến ngon và hấp dẫn, phụ huynh nhìn con
7
ăn vui, ngon miệng, ăn nhiều, rất phấn khởi nên cứ thế trẻ đến trường mỗi
ngày một đông, nhiều gia đình khó khăn vẫn tạo điều kiện cho con ăn ở bán
trú như gia đình chị Tuyên, chị Lụa, chị Hùng, chị Lan, chị Huệ…
Một cách tuyên truyền có hiệu quả nữa đó là mời phụ huynh tham dự
các hội thi như : đóng tiểu phẩm về giáo dục lễ giáo, “ Dinh dưỡng và gia
đình trẻ thơ”, “ Bé hoạt động tạo hình và bảo vệ môi trường” , “ Bé thông
minh nhanh trí” “ bé với ATGT và BVMT”… thông qua hội thi, nhận thức về
vai trò của giáo dục mầm non, công tác CSGD trẻ được nâng lên, tác động
tích cực thiết thực tới mỗi gia đình phụ huynh.
Từ những tham mưu, tuyên truyền tích cực như vậy, các cấp uỷ Đảng
và chính quyền địa phương, cũng đó có nhận thức đúng đắn về công XHH
giáo dục, họ đó hiểu XHH giáo dục là trách nhiệm của các cấp uỷ Đảng và
chính quyền địa phương trước nhân dân. Từ đó phát huy vai trò lãnh chỉ đạo
trong thực hiện công XHH giáo dục, Đảng uỷ đã có chuyên đề riêng về thực
hiện công tác xã hội hoá giáo dục, chỉ đạo Hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân
dân xã thực hiện tốt kế họạch xây dựng trường mầm non đạt chuẩn Quốc gia
mức độ 1 và xây dựng công sở có nếp sống văn hoá cấp huyện.
2. Chỉ đạo nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ:
Chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ là tiền đề quan trọng để nhà trường
mầm non phát huy tầm ảnh hưởng của mình đến với cộng đồng. Chất lượng
nuôi dưỡng, giáo dục của nhà trường có đảm bảo, trẻ em có khoẻ mạnh và
phát triển tốt thì vai trò của nhà trường mới được phụ huynh và cộng đồng
thừa nhận. Vì vậy, nâng cao chất lượng chăm sóc nuôi dạy trẻ phải là vấn đề
được quan tâm hàng đầu ở các trường mầm non.
Về công tác nuôi dưỡng: Sè nhãm líp tæ chøc ¨n đầu năm:7(NT:1;
MG:6); cuối năm là: 9(NT:3; MG:6); tăng 3 nhóm lớp so với đầu năm.
Số cháu ăn tại trường là 106 cháu/172 = 61,6%(NT:6; MG:100). Số
cháu ăn cuối năm là 170/180 = 94,4%(NT:36; MG:134). tăng 54 cháu và tăng
32,8% so với đầu năm, đạt 100% kế hoạch.
Mức ăn MG: 8000đ; NT: 7500đ; Năng lượng calo cung cấp đảm bảo cho
trẻ trong 1 ngày cụ thể: NT: 810 calo; MG: 900 calo.
Tình trạng phát triển thể lực của trẻ:
Số cháu được cân đo theo dõi thể lực bằng biểu đồ: 180 cháu = 100%.
Số cháu đạt kênh phát triển bình thường là 164/180 đạt 91,1% tăng 1,6%
so với năm học trước. Trong đó NT: 42 cháu= 93,3%; MG: 122 =90,3%.
Số cháu bị suy dinh dưỡng: 16 cháu = 8,9%, gỉam 1,6% so với năm học
trước. Trong đó NT: 3cháu =6,7%; MG: 13 cháu = 9,7%.
Số trẻ thấp còi là: 19 cháu chiếm 10,5%(NT:3; MG: 16).
100% số cháu đến trường được cân đo theo dõi thể lực bằng biểu đồ và
khám sức khoẻ theo định kỳ 2 lần/ năm. Trẻ được tiêm chủng các loại Vacxin
8
theo qui định của ngành y tế. 100% trẻ đến trường được đảm bảo an toàn tính
mạng.
Về chăm sóc giáo dục:
Năm học đầu tiên nhà trường thực hiện chương trình giáo dục Mầm non
mới kết quả cụ thể như sau: 100% nhóm lớp thực hiện nghiêm túc chương
trình CSGD trẻ của Bộ giáo dục và Đào tạo.
Trong đó thực hiện chương trình nhà trẻ 1824 tháng theo GDMN mới:
1 nhóm; Số cháu: 17. Thực hiện chương trình nhà trẻ 2536 tháng theo GDMN
mới: 2 nhóm; Số cháu: 28.
Thực hiện chương trình Mẫu giáo theo GDMN mới: 6 lớp ; Số cháu:
135.
Tổng số nhóm lớp thực hiện chương trình GDMN mới : 9 = 180 cháu =
100%.
Tổng số cháu nhà trẻ được học và đánh giá: 45 cháu =100%; Trong đó
tốt khá là: 36 cháu =80%; số cháu TB: 9=20%;
Tổng số cháu mẫu giáo được học và đánh giá: 135 cháu =100%; Trong
đó tốt khá là: 108 cháu =80%;(tăng 1,6% so với năm học trước); số cháu TB:
27=20%;( giảm 1,6% so với năm học trước);
Tổng hợp chung: tổng có 80 cháu được đánh giá khảo sát trong đó tốt
khá: 144 cháu =80%( giỏi 81; Khá ; 63); trung bình 36 cháu =20%. Trường đạt
giải ba hội thi “ bé vói ATGT và BVMT cấp huyện, có 5 cháu đạt giải cấp
huyện, trong đó có 1 cháu đạt giải xuất sắc cấp huyện.
Các biện pháp đã triển khai thực hiện nâng cao chất lượng chăm sóc
nuôi dưỡng và giáo dục:
Đã chỉ đạo bộ phận nuôi dưỡng thay đổi các món ăn, cân đối về
lượng và về chất trong ngày và trong tuần để đảm bảo cho trẻ ăn đủ lượng và
hợp lý về các chất, tránh tình trạng trẻ béo phì và hạn chế số trẻ suy dinh
dưỡng.
100% trẻ được bảo đảm an toàn tính mạng, không có ngộ độc thực
phẩm, không có dịch bệnh xảy ra. Thực hiện tốt kế hoạch thành lập ban giám
sát VSATTP, nhà bếp có kí kết hợp đồng mua bán thực phẩm, có tủ lạnh lưu
mẫu thức ăn. Nhà trường thực hiện tốt quyết định 261 của Sở Giáo dục và đào
tạo về quy định chăm sóc bảo vệ sức khoẻ và an toàn cho trẻ trong trường
mầm non như cân đo theo dõi thể lực của trẻ theo từng tháng, từng quý, phối
hợp với trạm y tế khám sức khoẻ cho trẻ 2 lần/ năm và chăm sóc sức khoẻ
hàng ngày cho trẻ, đảm bảo an toàn tuyệt đối với tính mạng của trẻ và thực
hiện tốt lịch vệ sinh hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng. Đồ dùng vệ sinh cá
nhân của trẻ được ký hiệu riêng, được sử dụng vệ sinh thường xuyên, có đủ
nước chín cho trẻ uống hàng ngày, tổ chức cho trẻ ăn ngủ tại trường đảm bảo
có sạp nằm cho trẻ ấm về mùa đông, mát về mùa hè.
9
Chỉ đạo thực hiện nghiệm túc chương trình chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo
dục trẻ ở các độ tuổi. Phân công giáo viên đúng người, đúng việc, đúng sở
trường để phát huy được năng lực của giáo viên. Tạo điều kiện cho CBGV
tham gia học tập bằng nhiều hình thức để nâng cao trình độ chuẩn về chuyên
môn nghiệp vụ, lý luận chính trị, bồi dưỡng về tin học. Có kế hoạch cụ thể
để giáo dục trẻ khuyết tật.
Tích cực làm đồ dùng dạy học, phối kết hợp với các bậc phụ huynh để
mua sắm đồ dùng học tập cho trẻ, đồng thời trao đổi với phụ huynh về sức
khỏe, tình hình học tập của trẻ để có biện pháp chăm sóc giáo dục trẻ kịp
thời. Phát động các bạc phụ huynh thu lượm đồ dùng phế liệu để cải tiến làm
đồ dùng, đồ chơi cho các cháu.
Tổ chức tốt các hội thi như: hội thi giáo viên giỏi cấp trường, thi làm đồ
dùng dạy học, thi” bé với an toàn giao thông và bảo vệ môi trường cấp
trường, tham dự thi cấp. Thi huyện, thi văn nghệ có nội dung ca ngợi và học
tập tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Đổi mới phương pháp hình thức tổ chức giáo dục trẻ. Tham mưu với
địa phương và kết hợp với phụ huynh để tăng cường đầu tư thiết bị giáo dục,
tài liệu, học liệu, phương tiện cho các nhóm lớp để thực hiện chương trình
giáo dục mầm non mới, khuyến khích các giáo viên chủ động, sáng tạo trong
việc thực hiện chương trình phù hợp với tình hình thực tế của nhóm lớp mình,
đảm bảo chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ.Tổ chức tập huấn, trao đổi, học
tập, rút kinh nghiệm và hỗ trợ việc thực hiện chương trình giáo dục mầm non
mới theo chuyên đề cho toàn thể giáo viên trong trường. Xây dựng các tiết dạy
mẫu cho GV được dự giờ, xây dựng kế hoạch cho GV đăng ký thao giảng. Chỉ
đạo tổ chuyên môn làm tốt chức năng của mình từ việc xây dựng kế hoạch,
chỉ đạo lớp điểm, giờ mẫu, đánh giá chất lượng cô, cháu, rút kinh nghiệm để
điều chỉnh bổ sung kế hoạch phù hợp với điều kiện nhóm, lớp mình và tổ
mình. Đi sâu thực hiện các chuyên đề trọng tâm, củng cố các chuyên đề cũ,
vận dụng kiến thức chương trình BDTX chu kỳ 2 vào quá trình CS NDGD.
Tăng cường đầu tư trang thiết bị cho việc ứng dụng công nghệ thông tin
và
kết nối mạng Intent. Trong năm học 20102011 có 3 giáo viên ứng dụng
CNTT trong tổ chức các hoạt động giáo dục trẻ cũng như đổi mới phương
pháp CSGD.
Bên cạnh đó tôi cũng chỉ đạo nhà trường làm tốt công tác thi đua khen
thưởng: Khen thưởng kịp thời đối với giáo viên và học sinh có thành tích xuất
sắc trong giảng dạy và học tập.
3.Xây dựng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý và giáo
viên.
10
Đội ngũ giáo viên là nhân tố đóng vai trò quyết định vì vậy cần có
biện pháp để giúp đội ngũ giáo viên không ngừng nâng cao trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ và trau dồi các phẩm chất đạo đức nghề nghiệp của bản thân.
Tổng số CBGV: 17( CBQL: 3; GV: 10; NVND: 4);
Trình độ đào tạo: Chuẩn 100%; trong đó trên chuẩn 10= 58,8%
( CBQL: 3=100%; GV, NV: 7=50%).
Tổ chức Công đoàn : 17 đoàn viên; Chi bộ: 11 đảng viên; Chi đoàn
thanh niên: 6 đoàn viên.
Trong năm có 13 GV, NVđạt giỏi cấp trường, có 3 GV đạt giỏi cấp
huyện, 3 cán bộ quản lý đề nghị tặng danh hiệu CSTĐ cấp huyện. Có 2/3 bộ
đồ dùng dạy học đạt giải cấp huyện( 1 giải nhì, 1 giải ba cấp huyện); 100 %
CBGV viết SKKN trong đó có 6 SKKN đạt loại A cấp trường gửi cấp huyện,
kết quả có 4 SKKN được xếp loại cấp huyện( 1 loại A, 2 loại B, 1 loại C).
Tiếp tục thực hiện tốt chỉ thị 40/CTTW của Ban Bí thư về “ Xây dựng,
nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục”. Tôi đã
triển khai kế hoạch xây dựng đội ngũ CBGV, tham mưu để có đủ số lượng,
đảm bảo chất lượng và thực hiện tốt các giải pháp sau đây:
Thực hiện tốt việc nâng cao tư tưởng và nhận thức cho giáo viên:
Tổ chức lớp tập huấn vào cuối tháng 7 đầu tháng 8 kết hợp với học tập
bồi dưỡng chính trị cho toàn thể cán bộ giáo viên. Đầu năm học, nhà trường
tổ chức học tập nội dung các cuộc vận động như “ Xây dựng trường học thân
thiện, học sinh tích cực” “ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh” Chủ đề năm học 20102011và nhiệm vụ năm học, học tập nội dung
quy định chuẩn nghề nghiệp giáo viên mầm non, thông tư đánh giá xếp loại
giáo viên. Học tập các nghị quyết của Tỉnh, của Huyện, của xã, đường lối
chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, qui định của địa phương. Tổ
chức triển khai nhiệm vụ năm học mới của ngành, của huyện, của nhà
trường.
Xây dựng kỷ cương, quy chế thực hiện nhiệm vụ. Lấy chuyên đề lễ
giáo làm thước đo nhân cách cho giáo viên. Tuyên truyền những tấm gương
tiêu biểu trong trường, trong ngành, đặc biệt là “học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Phát động phong trào: giỏi việc trường, đảm
việc nhà, cho giáo viên đăng ký gia đình nhà giáo văn hóa. Động viên giáo viên
tăng cường đọc sách báo, rèn luyện năng lực về mọi mặt để có thể nắm vững
các chỉ thị nghị quyết của cấp trên để tham mưu đúng, trúng nội dung và mục
đích của công tác này. Với cách làm này cho thấy giáo viên có ý thức trách
nhiệm cao trong công tác XHH GD tại nơi cư trú cũng như trong cộng đồng
dân cư. Mỗi CBGV trong nhà trường không ngừng cố gắng vươn lên tạo uy
tín lâu dài và lòng tin yêu trong nhân dân và phụ huynh về CBGv trong nhà
trường.
11
Nâng cao trình độ chuyên môn cho giáo viên thông qua các chuyên
đề cũng như bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ:
Đầu năm học, nhà trường tổ chức chuyên đề, hướng dẫn cho giáo
viên của mình thống nhất về phương pháp lên lớp, hướng dẫn và thống
nhất làm hồ sơ sổ sách, Xây dựng kế hoạch năm học, tháng tuần; trong đó
có kế hoạch tuyên truyền, kế hoạch bảo đảm an toàn tuyệt đối cho trẻ…
Xây dựng các tiết mẫu để giáo viên dự giờ rút kinh nghiệm, học tập. Xây
dựng tiêt mẫu nhà trẻ cho toàn bộ các trường trong huyện dự để rút kinh
nghiệm. Xây dựng tiết mẫu các độ tuổi để toàn thể cán bộ giáo viên trong
cụm( 6 trường mầm non) được dự. Kết quả cụm xếp: có 2 tiết xếp loại
giỏi, 1 tiết xếp loại khá . Hướng dẫn tổ chức công tác tuyên truyền các
bậc cha mẹ nuôi dạy con theo khoa học. Hướng dẫn tổ chức các hoạt
động trong ngày và cách xây dựng kế hoạch chơi theo chủ điểm. Thống
nhất việc trang trí lớp theo chủ điểm quy định. Dần dần qua kiểm tra, thao
giảng đã thấy giáo viên có nhiều tiến bộ, áp dụng được vào chương trình
dạy.
Tạo điều kiện cho giáo viên đi học trên chuẩn( có 1 đồng chí cán bộ
đang học trên chuẩn) và 6 đồng chí giáo viên học tin học để nâng cao trình
độ nghiệp vụ chuyên môn, có 2 cán bộ quản lý theo học lớp trung cấp lý
luận chính trị tại Huyện). Có kế hoạch bồi dưỡng đoàn viên ưu tú để đề
nghị kết nạp vào Đảng CS Việt Nam( trong năm kết nạp được 1 Đảng
viên và giới thiệu đi học cảm tình đảng là 2 đồng chí). Khảo sát, đánh giá
phân loại giáo viên chính xác, công bằng, khách quan trên cơ sở đó để phân
công nhiệm vụ trên cơ sở cho tự nhận nhiệm vụ sau đó thảo luận và cuối
cùng đã phân công phù hợp với hoàn cảnh và tay nghề của giáo viên nên
chị em làm việc hăng hái với công việc được giao.
Về bồi dưỡng giáo viên dạy giỏi các cấp.
Hàng năm, không năm nào nhà trường bỏ qua việc tổ chức phong
trào thi giáo viên dạy giỏi cấp trường, giáo viên lên lớp 2 tiết và một hoạt
động vui chơi; đồng thời tổ chức thi lý thuyết cho giáo viên. Thực tế cho
thấy rằng việc tổ chức phong trào thi giáo viên dạy giỏi có tác dụng rất
lớn trong việc nâng cao năng lực chuyên môn cho giáo viên; bởi vì khi tham
gia thi giáo viên dạy giỏi đòi hỏi giáo viên phải suy nghĩ nghiên cứu nội
dung chương trình kỹ hơn, tìm tòi những phương pháp, biện pháp lên lớp
thật linh hoạt, sáng tạo trong khi lên lớp, tạo những tình huống mới lạ để
trẻ tập trung chú ý hơn, hứng thú trong giò học. Tăng cường học chương
trình soạn giáo án điện tử, đó là thiết kế các tiết dạy có ứng dụng CNTT,
sau đó liên kết với trường Tiểu học trong xã mượn đèn chiếu, máy chiếu
để giáo viên được thao giảng đặc biệt là trong việc tham dự thi giáo viên
giỏi cấp huyện. Bên cạnh đó giáo viên đầu tư nhiều hơn về việc làm đồ
12
dùng dạy học, đồ chơi phục vụ cho hoạt động vui chơi, đồ dùng có nhiều
sáng tạo để tham gia dự thi đạt kết quả cao. Và một điều quan trọng hơn
đây là đợt sinh hoạt, giao lưu học hỏi, trao đổi về chuyên môn nghiệp vụ.
Cứ sau mỗi lần tổ chức thi, thì số giáo viên tham gia nhanh chóng nắm
vững chuyên môn, tạo được uy tín đối với đồng nghiệp với các bậc cha
mẹ các cháu.
Tổ chức chuyên đề theo kế hoạch đã đề ra. Tổ chức thao giảng toàn
trường. Góp ý, xếp loại công khai dân chủ. Xây dựng các tiết dạy mẫu hay
để chị em học tập. Tạo điều kiện để tất cả cán bộ giáo viên được tham
dự sinh hoạt chuyên môn cụm, cũng như thao giảng cho cụm dự giờ góp ý
kiến về nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức các hoạt động( đặc biệt
là các hoạt động khó) cũng như hồ sơ sổ sách…
Tổ chức chấm sáng kiến kinh nghiệm để chọn sáng kiến kinh
nghiệm hay vào cuối năm. Tổ chức học tập những sáng kiến kinh nghiệm
hay ở tập san. Bình chọn và khen thưởng những sáng kiến đạt kết quả cao
sau mỗi chuyên đề hoặc tổng kết thi đua khen thưởng. Nhờ có việc tổ
chức thi viết sáng kiến kinh nghiệm hàng năm mà những kinh nghiệm hay
đã được phổ biến áp dụng, chất lượng giảng dạy trong trường ngày một
tốt hơn.
Bên cạnh đó còn phát động phong trào làm đồ dùng, đồ chơi. Nhà
trường đã hướng dẫn cho giáo viên tận dụng một số phế liệu, vật sẳn có
tại địa phương để làm ra đồ dùng đồ chơi đẹp mắt cho các cháu và phục
vụ dạy học. Qua giờ dạy có chuẩn bị đầy đủ đồ dùng đồ chơi nên việc
truyền thụ kiến thức cho các cháu dễ dàng hơn, vì lứa tuổi này phương
pháp quan trọng nhất là trực quan, hình ảnh, sinh động. Cho nên việc bồi
dưỡng một số kỹ năng làm Đồ dùng dạy học là một trong những yêu cầu
quan trọng giúp cho giáo viên nâng cao được chất lượng giờ dạy, tạo điều
kiện cho giáo viên hoàn thành nhiệm vụ của mình.
Tổ chức tốt hoạt động thi đua khen thưởng.
Tổ chức phát động và đăng ký thi đua: Phối hợp tốt với Ban chấp
hành công đoàn cơ sở tổ chức tốt hội thi như: thi giáo viên dinh dưỡng
giỏi, thi hồ sơ sổ sách. Với trẻ thì tổ chức các cuộc thi Bé khoẻ bé ngoan,
Bé với an toàn giao thông và bảo vệ môi trường.
Chỉ đạo cụ thể sát sao, có đánh giá thi đua khen thưởng bằng nhiều
hình thức tiền mặt và hiện vật cho tập thể cá nhân. Đầu năm cho giáo viên
tự viết đăng ký thi đua thực hiện. Hàng tháng, học kỳ có đánh giá, nhắc
nhở thường xuyên theo quy chế thi đua; biểu điểm đánh giá xếp loại , nêu
những mặt tồn tại, những thành tích cá nhân và được tuyên dương…Hàng
năm có đánh giá xếp loại thi đua với từng cá nhân, yêu cầu phải có phiếu
13
tự đánh giá thi đua cụ thể cuối năm. Nhà trường kịp thời động viên khen
thưởng những cá nhân đạt thành tích xuất sắc.
Nâng cao đời sống tinh thần, vật chất cho giáo viên.
Tổ chức tốt hoạt động của công đoàn trong trường đẻ chăm lo đời
sống cho cán bộ giáo viên.Tích cực tham mưu với Đảng uỷ UBND chi hỗ
trợ lương cho giáo viên từ các nguồn kinh phí, quan tâm tới chế độ chính
sách cho giáo viên giúp cải thiện đời sống, để có điều kiện chăm lo cho
hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ được tốt hơn.
Nhà trường luôn giải quyết chế độ lương, các phụ cấp khác kịp
thời đầy đủ, công khai dân chủ; không để đội ngũ giáo viên gây nghi ngờ,
thắc mắc; đây là nguyên nhân xây dựng mối đoàn kết. Nhờ có sự quan
tâm đúng mức, kịp thời nên đội ngũ giáo viên yên tâm công tác, nhiệt tình
bám trường bám lớp, hoàn thành tốt công tác do cấp trên giao và nâng cao
chất lượng giảng dạy ở nhà trường. Tổ chức thực hiện kế hoạch chăm lo
đời sống tinh thần, vật chất cho cán bộ giáo viên. Xây dựng môi trường
giáo dục đoàn kết, lành mạnh; tổ chức thực hiện có hiệu quả các tiêu chí
của công sở có nếp sống văn hoá cấp huyện.
4.Huy động sức mạnh tổng hợp của các lực lượng xã hội tham công tác
xã hội hoá giáo dục để hoàn thiện cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết
bị, tạo khuôn viên sân vườn, hoàn thiện tiêu chí xây dựng trường chuẩn
Quốc gia mức độ 1 và công sở có nếp sống văn hóa cấp huyện.
Để làm tốt công tác XHH giáo dục thì tôi đã chú trọng vào việc tổ chức
các hoạt động, các phong trào thi đua, các ngày hội để cộng đồng có cơ hội
thể hiện sự quan tâm của mình đối với giáo dục. Bằng việc tổ chức các hội
thi trong từng năm học như: Bé khỏe Bé ngoan, Bé khéo tay, tổ chức Trung
thu… chúng tôi đó thu hút được sự quan tâm đông đảo các lực lượng xã hội,
mọi thành phần kinh tế, mọi người dân ở địa phương. Trong các cuộc thi này
không chỉ đơn thuần có sự tham gia của cô và trò mà còn huy động được sự
tham gia của các bậc cha mẹ, ông bà, Hội cha mẹ học sinh, Hội phụ nữ, đặc
biệt có sự tham gia tài trợ của nhiều tổ chức, cá nhân trên địa bàn.
Cũng với mục đích tăng cường thêm cơ sở vật chất, các điều kiện phục
vụ dạy và học nhằm nâng cao chất lượng dạy và học, tôi quan tâm tới việc
huy động sự đóng góp tài chính, tranh thủ sự ủng hộ của các lực lượng kinh
tế, các nhà hảo tâm, các tổ chức … tới các hoạt động giáo dục. Để làm được
việc này tôi tiếp tục tham mưu tăng cường CSVC, đã tham mưu với địa
phương triển khai, xây dựng kế hoạch thực hiện quyết định số 36/2008/ QĐ
BGD&ĐT ngày 16/7/2008 của Bộ trưởng Bộ giáo dục và Đào tạo về Ban
hành quy chế công nhận trường Mầm non đạt chuẩn Quốc gia; Quyết định số
14/ 2008/ QĐBGD&ĐT ngày 17/4/2008 của Bộ giáo dục và Đào tạo về Ban
hành điều lệ trường mầm non.
14
Xây dựng kế hoạch tham mưu với UBND xã Hà Châu, vận động tuyên
truyền các bậc phụ huynh, các tổ chức xã hội ủng hộ xây dựng cơ sở vật chất
nhà trường. Sau khi kiểm kê tài sản xong, tôi tổng hợp lại những cơ sở vật
chất hư hỏng cần sửa chữa, những cơ sở vật chất nào cần xây dựng, làm mới,
mua mới. Tôi báo cáo với UBND xã là cơ quan quản lý tài sản của nhà trường.
Lập tờ trình UBND xã Hà Châu về kế hoạch tu sửa, xây dựng mới và mua bổ
sung tài sản để bảo yêu cầu chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục trẻ. Báo cáo với
hội phụ huynh để bổ sung tài sản, trang thiết bị cho trẻ học tập. Nói như thế
không đơn giản tôi luôn kiên trì tham mưu, thuyết phục tranh thủ sự lãnh đạo
của chính quyền, khai thác nguồn vốn của cộng đồng đặc biệt là hội phụ
huynh bằng các cuộc họp, bằng những lần trao đổi trong những giờ đón trả
trẻ. Phân tích rõ đâu là phần việc của nghành, đâu là việc cần có sự giúp đỡ
của phụ huynh, phụ huynh hiểu việc làm, việc đóng góp vừa là trách nhiệm
của mình, vừa được biết việc làm của trường là chính đáng thì mọi mức thu
đều được thực hiện nhanh gọn.Từ đó phụ huynh thấy được tầm quan trọng và
ý nghĩa của cơ sở vật chất, thiết bị đồ dùng đồ chơi quan trọng với trẻ như
thế nào, đồ dùng đồ chơi là cầu nối giữa “học bằng chơi, chơi mà học”.
Vận động phụ huynh đóng góp để mua sắm các trang thiết bị bán trú,
trang thiết bị phục vụ các hoạt động chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ. Vận
động đóng góp của các nhà hảo tâm cũng như của con em địa phương để hoàn
thiện các tiêu chí của trường đạt chuẩn Quốc gia cũng như hoàn thiện khuôn
viên sân vườn.
Tôi đã chỉ đạo nhà trường đã đẩy mạnh công tác xã hội hóa giáo dục
thông qua việc tổ chức họp toàn thể CBGV để triển khai nội dung nhiệm vụ
xây dựng trường chuẩn Quốc gia trong đó có công tác XHH, vận động mỗi
CBGV ủng hộ cây cảnh, cây ăn quả có giá trị, sau đó BGH họp với ban đại
diện CMHS để phối kết hợp tổ chức thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ được
giao. Tôi đã bàn bạc trong Ban giám hiệu, Ban đại diện CMHS và thống nhất
thực hiện như sau:
Đối với các ban ngành đoàn thể trong xã đó là phối kết hợp với đoàn
thanh niên, hội phụ nữ xã, hội người cao tuổi, hội nông dân, hội cựu chiến
binh, mặt trận tổ quốc, ban công an xã, lao động tạo khuôn viên và ủng hộ
trên 180 ngày công lao động và một số cây cảnh, cây ăn quả.
Tôi chỉ đạo các đồng chí Ban giám hiệu có trách nhiệm vận động cán
bộ UBND xã ủng hộ các loại cây hoặc ủng hộ tiền để mua cây ăn quả.
Trường Tiểu học và Trung học cơ sở ủng hộ 2 khung ảnh trong phòng hoạt
động âm nhạc.
Tôi đã phân công cán bộ giáo viên đến tận gia đình để vận động phụ
huynh tham gia lao động, giáo viên phụ trách từng xóm để cùng phụ huynh lao
động, đến từng gia đình để xin hỗ trợ cây ăn quả, cây cảnh, cây hoa.
15
Tôi đã kết hợp với ban đại diện cha mẹ học sinh vận động phụ huynh
lớp 5 tuổi mua cây cảnh lưu niệm nhà trường, vận động toàn thể các bậc phụ
huynh trong toàn xã lao động tạo khuôn viên và ủng hộ trên 200 ngày công lao
động và một số cây cảnh, cây ăn quả. Vận động các bậc phụ huynh để cùng
phụ huynh mua các trang thiết bị bán trú.
Tôi đã vào các nhà dân ở gần trường để vận động nhân dân cho chung
nước giếng khoan để sử dụng, phải sau một thời gian là hơn một tháng mới
có 1 hộ gia đình đồng ý cho nhà trường chung nước, thế là nhà trường lại nhờ
thợ lắp nước.Sau đó tôi lại nhờ thợ lắp hệ thống điện sáng, hệ thống quạt.
Vận động Ban đại diện cha mẹ học sinh cho vay tiền mua dây điện và các
bảng điện, công tắc điện, công tơ điện, quạt điện…để phục vụ kịp thời cho
các cháu sau đó đến đầu năm học vận động phụ huynh đóng góp kinh phí để
trả cho phụ huynh. Trong tháng 12 năm 2010, tôi đã đến các tập thể, các cá
nhân, nhà hảo tâm để vận động xin vật liệu xây dựng khuôn viên sân vườn
như: Công ty vật liệu xây dựng Bỉm sơn ủng hộ 4 tấn Ximent, gia đình anh
Dương xóm chợ ủng hộ 5 khối đá 1.2, gia đình ông Lỡi xóm 2 ủng hộ 5 triệu
đồng, chị Quyên xóm chợ ủng hộ 400 000 đồng, gia đình anh Hiếu xóm chợ
ủng hộ 1 xe cát, cô Xuyến phòng giáo dục ủng hộ 1 xe đá hoa để lát đường đi
trong vườn cổ tích và ủng hộ 1 cây sấu, anh Chính xóm 7 ủng hộ công và hỗ
trợ máy trộn bê tông, anh Tâm xóm 9 ủng hộ 1 xe đá lát, công ty Huy Hoàng
ủng hộ 1 triệu đồng để mua dây, mua hoa, quả để làm giàn thiên nhiên, làng
Nga Châu ủng hộ 1000 viên gạch xây, các đoàn thể ngoài ủng hộ công lao
động còn ủng hộ cả tiền như hội nông dân, hội phụ nữ, hội cựu chiến binh
ủng hộ tiền từ 50 đến 100 000 đồng và có nhiều cá nhân ủng hộ tiền như bác
Sỹ Phó chủ tịch UBND xã, chị Hoà kế toán xã, chị Tình cán bộ văn hoá xã, bác
Tân phó công an xã, anh Liễn cán bộ tư pháp xã mỗi người ủng hộ từ 50 đến
100 000đồng... Tổng kinh phí vận động ủng hộ ước tính lên tới hơn 100 triệu
đồng.
Tiền thuê xe vận chuyển bàn ghế trang thiết bị ra khu mới, vận chuyển
đồ chơi ngoài trời và sửa chữa đồ chơi đã hỏng, sửa chữa bàn ghế, giá góc cũ
thì tôi kết hợp nhờ một số phụ huynh làm và đã vận động phụ huynh đóng
góp trả vào đầu năm học mới. Tổng kinh phí vận động thực hiện công tác
XHH : xây dựng cơ sở vật chất mua sắm trang thiết bị, tạo khuôn viên sân
vườn ước tính khoảng trên 3 tỷ đồng, trong đó ngân sách nhà nước là 1,4 tỷ
còn trên 1,6 tỷ đồng là nguồn ngân sách xã và vận động nhân dân và phụ
huynh cùng đóng góp. Với sự cố gắng nỗ lực vươn lên của toàn thể CBGV,
các bậc phụ huynh, các ban ngành đoàn thể, các nhà hảo tâm, các doanh
nghiệp, các tổ chức... toàn thể nhân dân trong xã nên nhà trường đã được công
nhận và tổ chức đón bằng công nhận trường đạt chuẩn Quốc gia mức độ 1 và
công sở có nếp sỗng văn hóa cấp huyện.
16
5.Tăng cường công tác lănh chỉ đạo công tác XHHGD
Sau khi xây dựng kế hoạch cụ thể tôi tham mưu trực tiếp với cấp uỷ
chi bộ xin ý kiến chỉ đạo và thông qua ý kiến chỉ đạo của chi bộ tôi điều chỉnh
và bổ sung hoàn chỉnh kế hoạch. Sau khi kế hoạch được thống nhất trong toàn
trường tôi tiếp tục tham mưu với lãnh đạo Đảng, chính quyền xã Hà Châu để
xin ý kiến chỉ đạo. Lãnh đạo địa phương thống nhất cao với kế hoạch tôi đã
trình bày và chỉ đạo tôi cần biết phát huy sức mạnh của các ban ngành đoàn
thể cũng như các bậc phụ huynh và nhân dân trong xã để thực hiện tốt kế
hoạch. Sau đó tôi đã báo cáo với chi bộ để chi bộ nắm bắt và có định hướng
đưa vào nghị quyết chỉ đạo các tổ chức thực hiện hàng tháng. Chi bộ giao cho
từng tổ chức ban ngành phối kết hợp thực hiện và ban chỉ đạo bám sát kế
hoạch đôn đốc thực hiện đảm bảo đạt hiệu quả. Sau khi hoàn chỉnh kế hoạch
về công tác XHHGD, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của chi bộ, các đoàn thể thống
nhất đưa vào kế hoạch thực hiện đồng bộ: Công đoànĐoàn thanh niên Hội
cha mẹ học sinh và phối hợp với các ban ngành đoàn thể trong xã, các nhà hảo
tâm để thực hiện tốt kế hoạch với nguyên tắc tự nguyện, không ép buộc, tập
trung dân chủ. Với cách làm như trên mà công tác XHHGD của chúng tôi đạt
kết quả cao, đã giải quyết được nhiều vấn đề tưởng chừng như không thể
giải quyết nổi.
Từ thực xã hội hoá giáo dục ở trường mầm non Hà Châu cho thấy, để
giáo dục và nhà trường thực sự phát huy được vai trò chủ động, trung tâm và
nòng cốt đòi hỏi đội ngũ cán bộ quản lý phải thực hiện đầy đủ, bài bản các
bước của quá trình tổ chức thực công tác XHH sự nghiệp giáo dục, từ khâu
lập kế hoạch, tổ chức, điều hành chỉ đạo, kiểm tra, tổng kết nẵm vững thông
tin trong từng khâu và xuyên suốt toàn bộ quá trình. Công tác tổ chức XHH
GD cần nắm vững các yêu cầu cơ bản như vấn đề phân công cá nhân hoặc
nhóm cá nhân sao cho phù hợp với nguyện vọng, năng lực, sở trường sẽ đảm
bảo thắng lợi trong việc huy động các lực lượng tham gia vào sự nghiệp giáo
dục.
Kiểm tra là một yếu tố cơ bản hết sức quan trọng của toàn bộ quá trình
điều hành và tổ chức thực XHH. Một phần quan trọng của kiểm tra là đánh
giá sự tiến bộ của tiến trình thực thi và điều chỉnh khi cần thiết. Vì vậy, khâu
kiểm tra cần làm tốt việc khảo sát xem xét quá trình hình thành công việc trên
cơ sở đối chiếu với kế hoạch, kiểm tra phát hiện những sai lệch để kịp thời
uốn nắn sửa chữa, đánh giá kết quả đó đạt được của từng mặt và hoạt động,
tổng kết để rút ra những kết luận chung, những bài học kinh nghiệm và
phương hướng hoạt động tiếp theo.
Hiệu trưởng là nhân vật trung tâm trong công tác quản lý. Trong công
tác XHH GD, hiệu trưởng phải có tầm nhìn xa, thấy được vai trò của các tổ
chức thành viên để phát huy hết khả năng của các đối tượng. Người Hiệu
17
trưởng phải có năng lực tổ chức, tập hợp lực lượng, phát huy sức mạnh của
các tổ chức, của mọi lực lượng xã hội. Trong thực tế, Hiệu trưởng nào có đầu
óc tổ chức, năng động, sáng tạo, biết phát hiện, huy động, sử dụng các lực
lượng, tranh thủ sự ủng hộ của các ban ngành, khai thác được các tiềm năng
trong xã hội, sử dụng đúng người, đúng việc thì ở đó nhà trường phát triển
mạnh mẽ và công tác xã hội hoá giáo dục cũng thu được nhiều kết quả tốt
đẹp.
PHẦN III.KẾT LUẬN
I/ NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC.
Như chúng ta đã biết thực hiện XHHGD là con đường cơ bản để phát
triển giáo dục nói chung, phát triển giáo dục mầm non nói riêng. Xã hội hóa sự
nghiệp giáo dục mầm non là một bài học thành công trong quá trình xây dựng
và phát triển hệ thống Giáo dục Mầm non (GDMN) của nước ta. Đây cũng là
một tư tưởng giáo dục lớn của Đảng và chủ trương của Nhà nước nhằm nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài để giáo dục tạo ra lớp
người lao động mới phát triển toàn diện, năng động, sáng tạo để đáp ứng đòi
hỏi của nền công nghiệp hóa nước ta vào năm 2020 vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh mà Nghị quyết Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VII và IX đã nêu ra.
Những năm qua, xã hội hóa công tác GDMN đã trở thành quan niệm
phổ biến và rộng rãi trong toàn xã hội, nhất là những ai làm công tác quản lý
trực tiếp giáo dục trẻ thơ. Song trong thực tế, vẫn còn nhiều điều phải bàn để
làm sáng tỏ phạm trù khái niệm và cách tiếp cận thực tiễn cho đúng nhằm
biến chủ trương này của Đảng và Nhà nước thành hiện thực.
Cùng với sự phát triển của ngành học mầm non, quá trình XHH GDMN
ở trường mầm non Hà Châu đã đạt được những thành công nhất định, song
cũng còn gặp nhiều khó khăn, thách thức. Để đẩy mạnh hơn nữa quá trình
XHHGDMN, cần thực hiện một cách đồng bộ hàng loạt các giải pháp, mà
trước hết là phải phát huy được tác dụng của trường mầm non vào trong đời
sống cộng đồng. Muốn vậy, trường mầm non phải không ngừng nâng cao
chất lượng nuôi dạy trẻ, bồi dưỡng kiến thức về chăm sóc giáo dục trẻ cho
các bậc phụ huynh. Để bồi dưỡng kiến thức cho các bậc cha mẹ, trường
mầm non cần chủ động phối hợp với ngành Y tế, Văn hóa Thông tin và các
ngành có liên quan để tạo ra những tác động tổng hợp đến nhận thức của mọi
người. Trong quá trình phối hợp, ngoài những hình thức mang tính truyền
thống như tổ chức các khóa học tập, triển khai các nghị quyết, văn bản có liên
quan đến giáo dục; thì cần có những hình thức tuyên truyền mạnh mẽ hơn,
18
tích cực hơn như biên soạn các tài liệu ngắn gọn, các tờ rơi phát cho cha mẹ
học sinh, các hộ gia đình, các tổ chức kinh tếxã hội; cung cấp nội dung tuyên
truyền trên hệ thống loa thông tin, bảng tin, panô, áp phích, góc tuyên truyền
tại trường mầm non; kết hợp hoạt động văn hóa văn nghệ với hoạt động
truyền thông đại chúng để tuyên truyền phổ biến kiến thức nuôi dạy trẻ rộng
rãi trong nhân dân. Trường mầm non cần tham mưu cho chính quyền các cấp
chỉ đạo xây dựng mạng lưới tuyên truyền viên bao gồm giáo viên mầm non,
cán bộ y tế, cán bộ Hội Liên hiệp Phụ nữ... Tổ chức cho họ đến tận các gia
đình có trẻ trong độ tuổi để tuyên truyền, hướng dẫn. Những tuyên truyền
viên cần nắm chắc tri thức khoa học về nuôi dạy trẻ và biết linh hoạt áp dụng
các tri thức khoa học đó phù hợp với hoàn cảnh của từng gia đình, địa phương
và cần có khả năng giao tiếp khéo để nâng cao hiệu quả tuyên truyền. Bản
chất của xã hội hóa giáo dục là mọi người làm giáo dục để giáo dục phục vụ
cho mọi người. Trách nhiệm của ngành giáo dục và nhà trường mầm non là
phải làm cho mọi người thấy rõ vai trò, lợi ích của giáo dục đối với đời sống
cộng đồng, trước khi giáo dục đòi hỏi xã hội thể hiện trách nhiệm tham gia,
đóng góp xây dựng giáo dục.
Trong quá trình thực hiện công tác xã hội hoá giáo dục chúng tôi gặp rất
nhiều khó khăn, nhưng với sự quyết tâm phấn đấu của cấp uỷ chi bộ, ban
giám hiệu, CBGV nhà trường, chúng tôi đã xây dựng kế hoạch phân công
nhiệm vụ cụ thể các nhiệm vụ cụ thể cho cán bộ giáo viên trong trường phụ
trách. Nhà trường đã chủ động đẩy mạnh công tác XHH giáo dục, thông qua
việc tham mưu cho cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương về công tác XXH
giáo dục tại địa phương, Đảng uỷ đã có nghị quyết về XXH giáo dục tại địa
phương do vậy mà công tác XXH giáo dục của nhà trường đạt được những
thành thành quả đáng khích lệ đó là:
Nội dung
Kết quả cuối năm học 20102011( tháng Ghi
3/2011)
chú
1/ Tỷ lệ huy động trẻ đến NT: 45/126= 35,7% ; MG : 135/135=100%
trường
2/ Chất lượng CSNDGD
Cháu bán trú
170/180= 94,4%
Kênh PTBT
164/180= 91,1 %
Kênh suy DD
16//180=8.9%
Vệ sinh loại tốt
155/180=86,1
Nề nếp thói quen
160/180=88,8%
Theo dõi biểu đồ
180/180=100%
Khám sức khoẻ định kỳ
180/180=100%
Cháu đạt yêu cầu
180/180=100%
Cháu khá giỏi
C.trường 144/180=80%;C.huyện: 5; 1XS
19
C.huyện
36/180 =20%
0
Cháu TB
Cháu yếu
3/ CBGV:
Tổng số
17
Trình độ CĐĐH
10
Trình độ TC
7
Lý luận chính trị
3
1 269.200 (chưa trừ 30,5% BHXH+YT+TN+KPCĐ)
Lương GV cao nhất
Số GV được đóng Bảo hiểm
14
CSTĐ cấp huyện
đang đề nghị 3
GVG, SKKN, ĐDDH cấp GVG:3; 2bộ ĐDDH; 4SKKN XL cấp huyện.
huyện
Giáo viên giỏi cấp trường
13
Lao động tiên tiến cấp trường 16
4/ Cơ sở vật chất
Phòng học
9( KC: 8,cấp 4: 1 )
Các phòng chức năng
5
Đồ chơi ngoài trời
5
Nhà VS học sinh
7
Nhà VS giáo viên
1
5/XHH GD
Tổng vốn
1 792 000 000đ
Ngân sách xã
1 450 000 000đ
Doanh nghiệp, tập thể
10 000 000đ
Cá nhân
25 000 000đ
Các đoàn thể
7 000 000đ
Phụ huynh
150 000 000đ
Nhân dân đóng góp
150 000 000đ
Qua kết quả trên cho ta thấy tất cả các mặt hoạt động của nhà trường
có tiến bộ rõ rệt. Có được kết quả đó là do công sức của toàn bộ đội ngũ giáo
viên, và sự nhiệt tình sáng tạo của ban giám hiệu, trực tiếp là sự chỉ đạo của
người hiệu trưởng.
Tuy nhiên với những kết quả đáng kể như vậy nhà trường vẫn còn một
số hạn chế đó là một số trang thiết bị đồ dùng đồ chơi vẫn còn thiếu, vườn
cổ tích chưa có câu chuyện cổ tích, mặt khác mức lương của giáo viên còn
thấp cũng ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng chăm sóc giáo dục.
*Bài học kinh nghiệm:
20
Qua kinh nghiệm thực hiện một số biện pháp thực hiện công tác XHH
giáo dục ở trường mầm non Hà Châu tôi rút ra kinh nghiệm sau:
Phải thấm nhuần sâu sắc chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng
và Nhà nước về giáo dục và đào tạo, trên cơ sở đó, tham mưu tích cực với các
cấp uỷ chính quyền từ Huyện đến cơ sở nhằm cụ thể hoá thành cơ chế, chính
sách, giúp cho việc triển khai thực hiện công tác XHH GD có kết quả.
Tăng cường các hình thức và biện pháp tuyên truyền nâng cao nhận thức
trong nhân dân về vai trò của giáo dục vì chỉ khi nhân dân hiểu về giáo dục,
đồng tình với giáo dục, cùng chia sẻ khó khăn, cộng đồng trách nhiệm thì bản
thân xã hội của giáo dục mới được phát huy và hiệu quả giáo dục mới đạt
tới như mong muốn.
Tích cực vận động nhân dân tham gia vào các hoạt động giáo dục. Tích
cực vận động chính quyền đoàn thể xã hội, các doanh nghiệp và các cá nhân
ủng hộ tài chính cho giáo dục và đào tạo.
Cần phát huy tốt nội lực trong việc xây dựng cơ sở vật chất, xây dựng
đội ngũ, có kế hoạch lâu dài, từng bước nâng cao chất lượng giáo dục toàn
diện, xây dựng lòng tin trong học sinh, trong phụ huynh học sinh cũng như
cộng đồng dân cư ... làm cơ sở, làm chỗ dựa cho việc XHH công tác giáo dục
với tư cách là cơ quan chuyên môn tham mưu với lãnh đạo, với cộng đồng...
Nhà trường cần có những biện pháp mềm dẻo, việc làm phù hợp để
tạo môi trường thuận lợi cho cộng đồng tham gia vào XHH GD và mọi việc
làm đều hướng đến mục đích của giáo dục, tạo một môi trường thuận lợi để
mỗi người thực hiện quyền được học và học tập suốt đời cũng như vì sự phát
triển của cả cộng đồng trong tương lai.
II/ KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT.
Đề nghị các cấp có thẩm quyền nâng mức lương hỗ trợ ngân sách nhà
nước cho CBGV hợp đồng theo quyết định 2480 của Chủ tịch UBND tỉnh( Vì
giáo viên phải tự đóng 30,5 % các loại BHXH, BHYT, BHTN, KPCĐ)
Đề nghị UBND huyện có kế hoạch chuyển đổi trường MN bán công
sang trường MN công lập. Biên chế cho các trường MN 1 nhân viên kế toán và
1 nhân viên y tế.
Hà Châu, ngày 10 tháng 03 năm 2011
DUYỆT CỦA TIỂU BAN KHOA HỌC NGƯỜI VIẾT SÁNG KIẾN
NHÀ TRƯỜNG
Nguyễn Thị Hiền
21
22
23
Trước hết: Xây dựng cơ chế phối hợp giữa nhà trường, gia đỡnh và
cỏc lực lượng xó hội trong việc tổ chức tham gia cựng làm giỏo dục
Để huy động được tiềm năng của cộng đồng hỗ trợ cho quá trỡmh tổ
chức giỏo dục cần phải xõy dựng mối quan hệ giữa nhà trường với gia đỡnh
và cỏc lực lượng xó hội. Gia đỡnh là nơi đem đến cho trẻ những bài học đầu
tiên, thường xuyên và liên tục từ lúc sinh ra đến lúc trưởng thành. Đây là điểm
gặp gỡ quan trọng đối với sự hỡnh thành và phỏt triển nhõn cỏch của trẻ. Nú
cú những chỗ mạnh đáng kể như tính cảm xúc cao, tính linh hoạt, tính thiết
thực, tính thích ứng nhanh nhạy giữa những người trong gia đỡnh và yờu cầu
của cuộc sống. Những mặt mạnh đó có thể bổ sung cho giáo dục nhà trường
và ngược lại, nhà trường có thể bổ sung những mặt hạn chế của giáo dục gia
đỡnh như phương pháp giáo dục, môi trường giáo dục…góp phần hỡnh thành
và phỏt triển nhõn cỏch học sinh.
Hơn nữa, công tác xây dựng giáo dục trẻ bao gồm nhiều mặt, nhiều yêu
cầu, nội dung cần được nhỡn nhận như một chỉnh thể, nhằm tác động tổng
thể vào toàn bộ nhân cách trẻ nên càng cần thiết phải xó hội hoỏ cỏc lực
lượng làm công tác giáo dục để xây dựng môi trường giáo dục. Chính vỡ vậy,
cụng tỏc chăm sóc, giáo dục trẻ em phải tiến hành từ nhiều phía: gia đỡnh,
cỏc cơ quan chuyên môn (Giáo dục, Y tế, UBDS GĐ &TE) các đoàn thể xó
hội (Hội phụ nữ, Đoàn Thành niên, Các hội từ thiện…). Phải lấy nhà trường
làm hạt nhân liên kết, tập hợp tất cả các lực lượng, các tổ chức xó hội cựng
nhau xõy dựng mụi trường giáo dục lành mạnh, theo cơ chế phân công và hợp
tác. Trong cơ chế này, bên cạnh nhà trường, gia đỡnh là một đơn vị giáo dục
trẻ cực kỳ quan trọng (bởi từ lúc lọt lũng mẹ, trẻ chịu ảnh hưởng vô cùng lớn
của giáo dục gia đỡnh). Chớnh vỡ vậy, giáo dục tại các nhà trường phải tiếp
nối và phối hợp với giáo dục gia đỡnh, mối liên kết này đũi hỏi phải chặt chẽ
24
tạo nờn một quan hệ hỗ trợ và phụ thuộc lẫn nhau trên cơ sở thống nhất về
mục đích.
Chúng ta biết rằng: nhà nước xây dựng định mức ngân sách đầu tư cho
giáo dục một cách hợp lý, đồng thời quy định mức đóng góp của các đối tượng
trực tiếp thụ hưởng dịch vụ giáo dục; Xây dựng chính sách thu hút nguồn lực
đầu tư vào giáo dục; Các ban ngành đoàn thể, các lực lượng xó hội và cỏ nhõn
đều có trách nhiệm góp phần xây dựng giáo dục. Tùy thuộc vào chức năng,
nhiệm vụ, trỡnh độ, sự tự nguyện, khả năng và điều kiện mà các lực lượng
này tham gia trong cơ chế dưới sự điều hành của các cấp chính quyền địa
phương.
25