Tải bản đầy đủ (.pdf) (227 trang)

Luận án tiến sĩ Y học: Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng trầm cảm ở bệnh nhân động kinh cơn co cứng - co giật và kết quả điều trị trầm cảm bằng Fluoxetin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.83 MB, 227 trang )

LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Bùi Quang Huy
Tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Ngô Ngọc Tản
Những người thầy trực tiếp chỉ dẫn cho tôi trong suốt quá trình học 
tập, triển khai nghiên cứu và hoàn thành luận án: "Nghiên cứu đặc điểm  
lâm sàng trầm cảm  ở  bệnh nhân động kinh cơn co cứng ­ co giật và kết  
quả điều trị trầm cảm bằng Fluoxetin”.
Xin chân thành cảm  ơn  GS.TS. Cao Tiến Đức,  PGS.TS. Nguyễn 
Văn Ngân, PGS.TS. Nguyễn Sinh Phúc, PGS.TS. Nguyễn Văn Nhận…
và các thầy cô Bộ  môn Tâm Thần và Tâm lý y học ­ Học viện Quân y đã 
tận tình chỉ bảo và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Xin chân thành cảm ơn Ban giám đốc, Phòng sau đại học ­ Học viện  
Quân y, đã tạo điều kiện cho tôi được học tập, nghiên cứu và hoàn thành 
khóa học.
Tôi xin chân thành cảm  ơn Ban giám đốc, các bác sĩ và cán bộ  viên 
chức khoa Tâm Thần ­ Bệnh viện Quân y 103, Bệnh viện Tâm Thần Hải  
Phòng, Khoa miễn dịch dị ứng lâm sàng ­ Bệnh viện Trung ương Quân đội 
108 đã giúp đỡ tôi triển khai nghiên cứu và hoàn thành luận án.
Xin chân thành cảm  ơn các đồng nghiệp, bạn bè, những người thân 
và gia đình đã luôn hết lòng tạo mọi điều kiện cho tôi trong suốt quá trình 
nghiên cứu và hoàn thành luận án.
Xin trân trọng cảm ơn!
NGHIÊN CỨU SINH


Đàm Đức Thắng

LỜI CAM ĐOAN

Tôi là Đàm Đức Thắng, nghiên cứu sinh khóa năm 2011­ 2015, Học 
viện Quân y, chuyên ngành Khoa học thần kinh, xin cam đoan:


­ Đây là luận án do bản thân tôi trực tiếp thực hiện dưới sự  hướng  
dẫn của PGS.TS. Bùi Quang Huy và PGS.TS. Ngô Ngọc Tản.
­ Công trình này không trùng lặp với bất kỳ  nghiên cứu nào khác đã 
được công bố tại Việt Nam.
­ Các số  liệu và thông tin trong nghiên cứu là hoàn toàn chính xác, 
trung thực và khách quan, đã được xác nhận và chấp thuận của cơ  sở  nơi  
nghiên cứu.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về những cam kết  
này.                                       
Hà Nội, ngày     tháng    năm 20…..
Người viết cam đoan

Đàm Đức Thắng


MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CẢM ƠN
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
 ĐẶT VẤN ĐỀ                                                                                                  
 
.................................................................................................
    
 10
CHƯƠNG 1
 TỔNG QUAN TÀI LIỆU                                                                                

 
...............................................................................
    
 12
CHƯƠNG 2
 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU                                   
 
..................................
    
 55
CHƯƠNG 3
 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU                                                                              
 
.............................................................................
    
 77
CHƯƠNG 4 
 BÀN LUẬN                                                                                                    
 
...................................................................................................
    
 115
 KẾT LUẬN                                                                                                    
 
...................................................................................................
    
 165
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐàCÔNG BỐ
 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI LUẬN ÁN                                  
 

.................................
    
 169
 TÀI LIỆU THAM KHẢO                                                                              
 
.............................................................................
    
 170
 PHỤ LỤC                                                                                                       
 
......................................................................................................
    
 188


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TT

Phần viết 

1

tắt
5­HT

2
3
4

BN

Cs.
DSM­IV

Phần viết đầy đủ
5­hydroxy tryptamine

5

DSM­5

6

ĐK

Bệnh nhân
Cộng sự
Diagnostic and statistical manual of mental disorders 
­ 4th Edition (Chẩn đoán và thống kê các bệnh tâm 
thần ­ xuất bản lần thứ 4) 
Diagnostic and statistical manual of mental disorders 
­ 5th Edition (Chẩn đoán và thống kê các bệnh tâm 
thần ­ xuất bản lần thứ 5) 
Động kinh

7

ELISA

 Enzyme Linked Immunosorbent Assay 


8

GABA

(Xét nghiệm hấp thụ miễn dịch liên kết với 
enzyme)
Gamma Amino Butyric Acide

9

HDRS

Hamilton Depression Rating Scale

 

10

ICD­10 

11

ILAE

12
13
14

KTTKPV
SL

SNRI

(Thang đánh giá trầm cảm Hamilton)
International classification of diseases – 10th revision 
(Phân loại bệnh Quốc tế lần thứ 10)
International League Against Epilepsy (Tổ chức 
quốc tế chống động kinh)
Kích thích thần kinh phế vị 
Số lượng
Serotonin Norepinephrine Reuptake Inhibitors

SSRI

(Các chất ức chế tái hâp thu Serotonin ­ 
Noradrenaline)
Selective Serotonin reuptake inhibitors

TCA

(Các chất ức chế tái hấp thu Serotonin)
Tricyclic antidepressant  (Thuốc chống trầm cảm ba 

15
16


TT

Phần viết 


Phần viết đầy đủ

tắt
17
18

TCYTTG
 PB, PTH, 
VPA, CBZ

vòng)
Tổ chức Y tế Thế giới
Phenobarbital, Phenytoin, Valproate, Carbamazepin


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng
2.1

Tên bảng
Trang
Các  tiêu chí  và điểm số  của thang  đánh giá trầm cảm 

3.1
3.2
3.3
3.4
3.5
3.6
3.7

3.8

Hamilton
Phân bố bệnh nhân theo nhóm tuổi
Nghề nghiệp ở nhóm bệnh nhân nghiên cứu
Tình trạng hôn nhân của nhóm nghiên cứu
Một số triệu chứng khởi phát trầm cảm
Thời gian mắc trầm cảm ở bệnh nhân động kinh
Các triệu chứng phổ biến của trầm cảm
Các triệu chứng cơ thể khác
Đặc điểm trạng thái bệnh trầm cảm ở bệnh nhân động 

51
61
62
63
64
65
66
67

3.9
3.10

kinh cơn co cứng ­ co giật
Khảo sát trầm cảm qua trắc nghiệm tâm lý Hamilton
Mức độ trầm cảm theo ICD­10 và trắc nghiệm tâm lý 

67
68


3.11
3.12
3.13
3.14
3.15
3.16
3.17
3.18
3.19

Hamilton
Rối loạn giấc ngủ
Rối loạn cảm giác tri giác
Rối loạn hình thức duy
Rối loạn hoạt động có ý chí
Rối loạn chú ý
Rối loạn Trí nhớ ­ Trí tuệ
Một số triệu chứng rối loạn lo âu
Nồng độ Serotonin trong huyết tương tại thời điểm T0
Nồng độ Serotonin trong huyết tương và các trạng thái 

69
69
70
71
71
72
73
73

74
75

3.20

bệnh của trầm cảm
Mối liên quan giữa nồng độ Serotonin trong huyết tương 

75

3.21

với mức độ trầm cảm
Nồng độ Serotonin trong huyết tương và thời gian mắc 

76

3.22

trầm cảm ở bệnh nhân động kinh
Nồng độ Serotonin trong huyết tương và thời gian bị 

77

3.23

bệnh động kinh
Đánh giá nồng độ Serotonin trong huyết tương tại thời 

3.24


điểm T0 và T8
Một số nguyên nhân gây bệnh động kinh cơn co cứng ­ co 

77
79


Bảng

Tên bảng

Trang

3.25

giật
Liên quan trầm cảm với tần suất xuất hiện cơn động 

80

3.26

kinh
Mối liên quan giữa mức độ trầm cảm với số năm bị động 

3.27
3.28
3.29
3.30

3.31
3.32
3.33
3.34
3.35
3.36
3.37
3.38
3.39
3.40
3.41
3.42
3.43

kinh
Sử dụng phối hợp thuốc kháng động kinh
Liều lượng và thời gian sử dụng Phenobarbital
Liều lượng và thời gian sử dụng Phenytoin
Liều lượng thuốc chống trầm cảm Fluoxetin
Liều lượng các thuốc kháng động kinh
Diễn biến các triệu chứng điển hình của trầm cảm
Diễn biến triệu chứng phổ biến của rối loạn trầm cảm
Diễn biến các triệu chứng cơ thể khác
Diễn biến rối loạn giấc ngủ
Diễn biến loại rối loạn cảm giác tri giác
Diễn biến các rối loạn hình thức tư duy
Diễn biến các rối loạn cảm xúc
Diến biến các rối loạn hoạt động có ý chí
Diễn biến rối loạn hoạt động bản năng
Diễn biến rối loạn chú ý­ trí nhớ

Diễn biến một số triệu chứng lo âu kèm theo
Tần suất xuất hiện cơn động kinh trong điều trị trầm 

82
83
84
84
85
85
86
87
88
89
90
90
91
92
92
93
94
95

3.44

cảm
Kết quả điều trị trầm cảm qua  điểm số trên thang 
Hamilton

95



DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu 

Tên biểu đồ

Trang

đồ
3.1
3.2
3.3
3.4
3.5
3.6
3.7

Giới tính ở nhóm bệnh nhân nghiên cứu
Trình độ học vấn ở nhóm bệnh nhân nghiên cứu
Các triệu chứng điển hình của trầm cảm
Mức độ trầm cảm theo ICD­10
Rối loạn cảm xúc
Rối loạn hoạt động bản năng
Thời gian mang bệnh bệnh động kinh cơn co cứng ­ co 

61
62
65
68
70

72
78

3.8

giật
Tuổi khởi phát cơn động kinh ở bệnh nhân động kinh 

79

3.9

toàn thể cơn co cứng ­ co giật
Mối liên quan giữa mức độ trầm cảm với giới tính ở 

3.10
3.11

bệnh nhân động kinh
Sử dụng thuốc kháng động kinh đơn thuần
Một số tác dụng không mong muốn của Fluoxetin

81
83
86


DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình
1.1


Tên hình
Trang
Vai trò của Serotonin trong bệnh sinh của trầm cảm ở 
15

1.2

bệnh nhân động kinh
Sơ đồ vai trò của một số yếu tố nguy cơ liên quan 
đến bệnh sinh của trầm cảm ở bệnh nhân động kinh

18


10

ĐẶT VẤN ĐỀ
Động kinh là một hội chứng bệnh lý của não do nhiều nguyên nhân 
gây ra với đặc điểm sự xuất hiện tái diễn của các cơn kích thích hoạt động 
hệ thần kinh do phóng lực quá mức của một tập hợp các tế bào thần kinh não. 
Động kinh xuất hiện  ở  mọi lứa tuổi nhưng 75% xuất hiện trước 20 tuổi  
[1], [2].
Theo thống kê của nhiều nước trên thế  giới, tỷ  lệ  người bị  động 
kinh vào khoảng 0,5 ­1% dân số, tỷ lệ mới mắc trung bình hàng năm là 20  
­70 người trong 100.000 dân.  Ở  Việt Nam cứ  1000 người có 5­8 người bị 
động kinh [2], [3], [4].
Động kinh toàn thể chiếm tỷ lệ khá cao trong số các bệnh nhân động  
kinh, trong đó động kinh toàn thể co cứng ­ co giật là hay gặp nhất. Theo Iqbal  
K. M. và cs. (2006) động kinh toàn thể co cứng ­ co giật chiếm 88,1% tổng số 

bệnh nhân động kinh. Tại Việt Nam, theo Dương Huy Hoàng (2009) động 
kinh toàn thể chiếm 69,4% số người động kinh trong đó động kinh toàn thể co 
cứng co giật là 84,4%. Theo Lê Hữu Anh Hòa và cs. (2010) động kinh toàn thể 
co cứng ­ co giật chiếm 76,74% trong số bệnh nhân động kinh ở trẻ em  [5], 
[6].
Bệnh nhân động kinh thường có rối loạn trầm cảm đi kèm.   Lopez­
Gomez M. và cs. (2005) nghiên cứu 241 bệnh nhân động kinh nhận thấy tỷ 
lệ  trầm cảm là 42,7%. Seminario N. A. và cs. (2009) nhận thấy tỷ lệ trầm 
cảm là 29,3%. Fiest K. M. và cs. (2013) nhận thấy tỷ  lệ  này là 23,1% [7], 
[8], [9].


11
 Tần suất cơn động kinh, một số thuốc kháng động kinh (thời gian sử 
dụng,   liều   lượng,   tác   dụng   không   mong   muốn...),   sự   kỳ   thị   của   cộng 
đồng...liên quan đáng kể tới trầm cảm ở bệnh nhân động kinh [10].
So với những bệnh nhân động kinh không trầm cảm thì những bệnh 
nhân động kinh có trầm cảm đi kèm có tần số  cơn giật cao hơn, giảm sự 
hài lòng trong cuộc sống, thất nghiệp nhiều hơn…[11], [12].
Triệu chứng lâm sàng của trầm cảm  ở bệnh nhân động kinh thường 
không điển hình nên khó chẩn đoán và đánh giá. Đặc biệt tự  sát  ở  nhóm 
bệnh nhân này cao gấp 4 ­ 5 lần trong dân số nói chung và 80% ­ 90% tự sát 
do sử dụng thuốc kháng động kinh quá liều [13]. 
Nồng độ  Serotonin trong huyết tương được cho là có liên quan đến 
trầm cảm,  ở  bệnh nhân trầm cảm nồng độ  Serotonin trong huyết tương  
giảm rõ rệt có khi chỉ còn bằng 30% so với người bình thường [14].
Việc điều trị  trầm cảm  ở  bệnh nhân  động kinh là cần thiết. Các  
nghiên cứu gần đây cho thấy các thuốc chống trầm cảm ức chế tái hấp thu 
có   chọn   lọc   Serotonin   (SSRI)   như:  Fluoxetin,   Fluvoxamin,   Sertralin, 
Paroxetin,…được lựa chọn đầu tiên để điều trị trầm cảm ở bệnh nhân động 

kinh [15].
Ở  Việt Nam, đã có một số  công trình nghiên cứu về  trầm cảm  ở 
bệnh nhân động kinh, nhưng vẫn chỉ là các thông báo khoa học lẻ tẻ. Việc 
xem xét  trầm cảm như  một phạm trù riêng biệt của rối loạn cảm xúc  ở 
bệnh nhân động kinh, đặc biệt là điều trị  chưa được quan tâm và nghiên 
cứu một cách kỹ  lưỡng. Với tầm quan trọng như vậy, chúng tôi tiến hành 
thực hiện đề  tài: “Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng trầm cảm  ở  bệnh  
nhân động kinh cơn co cứng ­ co giật và kết quả  điều trị  trầm cảm  
bằng Fluoxetin” với các mục tiêu:


12
1. Mô tả  đặc điểm lâm sàng rối loạn trầm cảm  ở  nhóm bệnh nhân 
động kinh toàn thể co cứng ­ co giật được nghiên cứu.
2. Định lượng nồng độ Serotonin trong huyết tương và nhận xét mối 
liên quan giữa lâm sàng của rối loạn trầm cảm và đặc điểm động kinh  toàn 
thể co cứng ­ co giật ở nhóm bệnh nhân nghiên cứu.
3. Nhận xét kết quả  điều trị  rối loạn trầm cảm bằng Fluoxetin kết  
hợp với thuốc kháng động kinh  ở bệnh nhân động kinh toàn thể co cứng ­ 
co giật.

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. ĐỘNG KINH TOÀN THỂ CO CỨNG ­ CO GIẬT
1.1.1. Khái niệm về động kinh
Động kinh (ĐK) là sự  rối loạn chức năng thần kinh trung ương theo  
từng cơn do sự  phóng điện đột ngột quá mức của các neuron. Định nghĩa 
này được cụ thể hóa bằng các đặc tính xuất hiện từng cơn ngắn từ vài giây 
đến một vài phút, cơn có tính chất định hình, cơn sau giống cơn trước, xảy  
ra đột ngột không kịp đề  phòng, biểu hiện các chức năng thần kinh trung 

ương bị rối loạn, mất ý thức là biểu hiện thường thấy của cơn ĐK...[1].
Tổ  chức y tế  thế  giới (TCYTTG) và Tổ  chức Quốc tế  chống ĐK 
(ILAE) xác định: ĐK là tình trạng được xác định bởi cơn ĐK không do sốt 
cao, tái phát từ  hai cơn trở  lên, không bị  kích thích lên cơn bởi các nguyên 
nhân được xác định tức thì như  các rối loạn chuyển hóa cấp tính hoặc sự 
ngừng thuốc hay rượu đột ngột [1].
Cơn ĐK toàn thể: xuất hiện do sự phóng điện kịch phát lan tỏa trên cả 
hai bán cầu liên quan đến kích thích trên toàn bộ  vỏ  não. Cơn có biểu hiện  


13
đối xứng, đồng đều cả hai bên bán cầu thể hiện trên cả điện não đồ và lâm 
sàng [1].
Cơn ĐK cục bộ: xảy ra do sự  phóng điện chỉ  giới hạn  ở  một phần  
của các neuron của vỏ não, cơn chỉ biểu hiện ở một phần cơ thể [1], [16].
1.1.2. Một số nghiên cứu lâm sàng về động kinh toàn thể co cứng ­ co 
giật
  Động kinh  toàn thể  co cứng ­ co gi ật là loại động kinh toàn thể 
điển hình. Trên lâm sàng cơn điễn biến khá điển hình với 3 giai đoạn kế 
tiếp nhau co cứng, co gi ật và doãi mềm, kéo dài khoảng 40 ­ 70 giây 
hoặc lên tới 90 giây [1].


14
1.1.2.1. Giai đoạn tiền triệu
Đa số  cơn ĐK xảy ra không hề  có biểu hiện gì trước đó. Một số  ít  
bệnh nhân (BN) có thể có tiền triệu trước cơn vài ngày hoặc vài giờ. Triệu 
chứng trong giai đoạn này không có tính chất đặc hiệu, thường là các biểu  
hiện như thay đổi tính tình, bồn chồn, lo lắng sợ sệt, rối loạn giấc ngủ [3].
Theo Cao Tiến Đức (1994) biểu hiện tiền triệu gặp 14,1%  ở   ĐK 

toàn thể ở người trưởng thành, trong đó rối loạn cảm giác nông là 6,4%, rối 
loạn thần kinh thực vật là 7,7% [17]. 
1.1.2.2.Các giai đoạn của 1 cơn động kinh toàn thể co cứng – co giật 
ĐK toàn thể co cứng ­ co giật xảy ra trình tự 3 giai đoạn: co cứng, co  
giật, doãi mềm. Cơn thường kéo dài khoảng 2­3 phút, hiếm khi quá 5 phút 
[3]:
* Giai đoạn co cứng (tonic)
Các BN đang sinh hoạt bình thường bỗng hét lên một tiếng sau đó 
ngã vật ra và lên cơn ĐK. Hầu hết các BN bị mất ý thức ngay, đột ngột co  
cứng, mắt mở to, nhãn cầu xoay lên trên, miệng há vừa phải, đầu quay về 
một bên, chân tay co, dang nhẹ và xoay ra ngoài. Các cơ hô hấp cũng bị  co  
cứng làm mặt BN đầu tiên đỏ  sau đó chuyển sang tím tái. Ngoài ra còn có 
các biểu hiện rối loạn thần kinh thực vật. Sau đó là tư thế duỗi cứng, ưỡn  
toàn bộ cơ thể, miệng BN đang mở bỗng cắn chặt lại đột ngột, có thể cắn 
vào má hoặc lưỡi. Giai đoạn co cứng kéo dài khoảng 20 ­ 30 giây, được 
thay thế bởi giai đoạn co giật [3].
* Giai đoạn co giật (clonic)
Tiếp theo giai đoạn co cứng là giai đoạn co giật các cơ toàn thân, hai 
tay hai chân co giật nhịp nhàng, lúc đầu nhịp chậm sau nhanh dần, cuối cơn  
giật thưa rồi ngừng hẳn. Các cơ   ở  mặt cũng co giật, đầu BN giật nhịp  


15
nhàng mặt quay về  một bên, hai hàm răng nghiến chặt vào nhau, sùi bọt 
mép theo các nhịp co giật, hai mắt trợn, đường kính đồng tử cũng thay đổi 
theo các nhịp co giật. Giai đoạn co giật này BN cũng có nguy cơ  cắn vào 
lưỡi và má, có thể bài niệu vô thức. Giai đoạn co giật này kéo dài 30 giây  
đến 1 ­ 2 phút, cũng có khi kéo dài 3­ 5 phút, hiếm có trường hợp nào kéo 
dài hơn [3].
Hai giai đoạn trên BN gần như  ngừng thở: mặt tím tái, môi tím do 

thiếu oxy, cuối giai đoạn này nhịp giật thưa và yếu dần [16].
* Giai đoạn doãi mềm
Sau khi ngừng co giật, các cơ ở trạng thái doãi mềm. BN vẫn mất ý 
thức, thở sâu, đồng tử hai bên giãn nhẹ, thở lọc xọc. Giai đoạn này kéo dài  
1 phút. Sau đó BN tỉnh lại, gọi hỏi BN đáp  ứng nhưng có thể  lú lẫn trong  
vài phút. Khám có thể thấy tăng phản xạ gân xương, Babinski (+) 2 bên, có 
trường hợp sau khi tỉnh lại thì chuyển sang ngủ sâu [3], [16]. 
1.1.3. Điện não đồ trong động kinh toàn thể co cứng ­ co giật
Điện não đồ  giúp chẩn đoán chính xác bệnh ĐK, khư  trú  ổ  ĐK và 
tiên lượng bệnh, cũng như chẩn đoán phân biệt giữa động kinh với cơn co 
giật Hysteria hoặc các cơn rối loạn ý thức kịch phát không phải ĐK [18]. 
 Biến đổi điện não trong cơn ĐK toàn thể co cứng –co giật (cơn lớn)  
xảy ra đồng thời với các sóng nhọn biên độ  cao, các nhọn sóng, nằm lẫn 
lộn hoặc chồng lên sóng chậm [18]. 
Ghi điện não giữa các cơn: khoảng 70 ­80% trường hợp thấy loạn  
nhịp lan tỏa hoặc khư trú, mức độ biến đổi điện não phụ thuộc vào tần số 
các cơn động kinh [18]. 
 Khoảng 20% BN ĐK cơn lớn không có biểu hiện bệnh lý trên điện 
não đồ, số  BN ĐK còn lại thường thấy loạn nhịp điện não xen kẽ  sóng 


16
chậm (delta, theta) biên độ lớn hoặc xen kẽ gai nhọn, có thể thấy hoạt động  
kịch phát trong cơn [3].
Theo Tổ chức Quốc tế chống động kinh (ILAE) năm 1981 điện não đồ 
trong cơn ĐK toàn thể  co cứng ­ co giật xuất hiện các nhọn sóng 10 chu  
kỳ/giây hoặc hơn, giảm tần số và tăng biên độ  trong giai đoạn co cứng và 
bị  giãn đoạn trong co giật. Điện não đồ  ngoài cơn biến đổi đặc hiệu với 
các dạng sóng kịch phát, có thể  thấy các loạt kịch phát nhọn sóng biên độ 
cao, tần số nhanh trên tất cả các đạo trình…[19].

Theo Hồ Hữu Lương (2000) khoảng 20­ 30% bệnh nhân ĐK cơn lớn có 
điện não đồ bình thường [16].
Theo Cao Tiến Đức (1994) tỷ  lệ  sóng ĐK điển hình  ở  ĐK toàn thể  là 
47,1% ở trẻ em và 23,8% ở người lớn [17].
1.1.4. Chẩn đoán động kinh toàn thể co cứng ­co giật
Theo TCYTTG (ICD­10) năm 2016, ĐK  toàn thể  co cứng ­ co giật 
được phân loại ở chương VI các bệnh hệ thần kinh, nhóm bệnh chu kỳ và  
kịch phát, mục G 40.30[20].
Theo Tổ  chức Quốc tế  chống động kinh (ILAE) năm (1981) ĐK toàn 
thể co cứng ­ co giật xuất hiện do sự phóng điện kịch phát lan toả  trên cả 
hai bán cầu biểu hiện trên lâm sàng ngay từ  cơn đầu tiên. Trên lâm sàng 
cơn diễn biến khá điển hình với 3 giai đoạn kế tiếp nhau co cứng, co giật 
và doãi mềm, kéo dài khoảng 40 ­ 70 giây hoặc lên tới 90 giây.
Điện não đồ  trong cơn thường xuất hiện nhiều nhiễu của  điện cơ.  
Trong giai đoạn co cứng, các sóng biên độ thấp được quan sát trong các đạo 
trình trước đó phát triển thành các điện thế kịch phát gai nhọn ­ sóng chậm 
biên độ lớn kéo dài đến hết giai đoạn co giật.
Điện não đồ  ngoài cơn  biến đổi đặc hiệu:  với các dạng sóng kịch 
phát, có thể  thấy các loạt kịch phát nhọn, nhọn sóng  biên độ  cao, tần số 


17
nhanh trên tất cả  các đạo trình. Điện não đồ  không đặc hiệu: là các nhịp 
chậm, biên độ cao và các sóng chậm, loạn nhịp điện não xen kẽ sóng chậm 
(delta, theta) biên độ lớn hoặc các sóng nhọn…[19].
Theo Tổ chức Quốc tế chống động kinh (ILAE) năm 1993 chẩn đoán 
bệnh ĐK phải dựa trên lâm sàng, tiền sử  cơn ĐK. Việc chẩn đoán nên 
được xác nhận bởi chuyên gia y tế với chuyên môn về  bệnh ĐK, sử  dụng 
bệnh sử y tế có sẵn, mô tả cơn ĐK và kiểm tra thần kinh. Điện não đồ  và 
các kết quả chẩn đoán hình ảnh khác cũng được sử dụng, nhưng thiếu các  

công cụ này không loại trừ chẩn đoán bệnh ĐK [21].
1.1.5. Điều trị động kinh toàn thể co cứng ­ co giật bằng hóa dược
1.1.5.1. Nguyên tắc sử dụng thuốc kháng động kinh
­ Điều trị theo nguyên nhân (nếu có thể xác định được).
­

Kết hợp thuốc và điều trị  toàn diện (chăm sóc, quản lý BN, quản lý 

sử dụng thuốc, đặc biệt là công tác tâm lý­ tiếp xúc).
­

Lựa chọn thuốc kháng ĐK phù hợp với từng loại cơn, phần lớn chỉ 

dùng một loại thuốc, thuốc uống là chủ yếu.
­

Liều lượng thuốc phù hợp với phương thức điều trị  (đơn trị  liệu 

hoặc đa trị liệu), tuổi và trọng lượng cơ thể BN.
­ Thuốc   điều   trị   phải   được   dùng   liên   tục   hàng   ngày,   không   được 
ngừng thuốc đột ngột.
­

Phải theo dõi phản ứng có hại và tác dụng phụ của thuốc [3], [16]. 

1.1.5.2. Điều trị bằng thuốc kháng động kinh
Đối   với   cơn   ĐK   co   giật   toàn   bộ   nguyên   phát   Carbamazepin,  
Phenytoin và  Natri Valproat có hiệu quả ngang nhau là thuốc lựa chọn đầu 
tiên.



18
Những   thuốc   lựa   chọn   thứ   hai   là   Barbiturat,   Primidon   và 
Benzodiazepin thường được dùng như là thuốc điều trị bổ sung [16]. 
Đối với ĐK giật cơ  tiến triển và ĐK giật cơ   ở  tuổi thiếu niên thì 
Valproat   là   thuốc   lựa   chọn   đầu   tiên.   Dùng   kết   hợp   Valproat   với 
Clonazepam ngay cả  với Phenobarbital hiệu quả  hơn dùng đơn độc một 
thuốc [16]. 
Trường hợp ĐK toàn thể co cứng ­ co giật đi vào giấc ngủ quá sâu có 
thể  cho liều nhỏ  Cafein vào ban đêm hay ban ngày tùy theo loại cơn ĐK 
[16]. 
Cơn toàn thể hoặc cục bộ phức tạp nếu có phối hợp thêm cơn vắng 
thì Valproat có tác dụng hơn hẳn Ethosuximid do Valproat có phổ tác dụng  
với tất cả các loại cơn [16]. 
Theo Goldenberg M. M. (2010) điều trị ĐK toàn thể co cứng – co giật 
lựa chọn đầu tiên là Valproic acid, Lamotrigine, Topiramate, các thuốc thay 
thế   gồm:   Zonisamide,   Phenytoin,   Carbamazepine,   Oxcarbazepine,  
Phenobarbital,  Primidone, Felbamate [22].
Thuốc dùng từ  liều thấp đến liều cao, tăng dần liều lượng đến khi 
cắt cơn, duy trì liều đó 3 năm hoặc lâu hơn nữa, nếu BN không lên cơn nữa 
mới giảm liều dần rồi ngừng thuốc. Không được cắt thuốc đột ngột vì dễ 
xảy ra trạng thái ĐK liên tục. Nếu đã tăng liều đến liều lượng tối đa của 
một thuốc mà vẫn không cắt được cơn thì dùng thay thế  bằng thuốc khác 
hoặc phối hợp thuốc. Hơn nữa, cần lưu ý tương tác thuốc và theo dõi tác  
dụng phụ của thuốc gây ra để khắc phục. Nếu BN lên cơn co giật liên tục  
thì cần dùng thuốc tiêm để cắt cơn (cấp cứu trạng thái ĐK) [3].
* Chỉ định điều trị:


19

Nói chung, nếu cơn co giật xảy ra lần đầu tiên thì không cần thiết 
phải điều trị, trừ khi nguy cơ tái phát cao hoặc khi hỏi bệnh sử phát hiện có  
cơn vắng ý thức hoặc cơn giật cơ mà trước đó không được phát hiện chẩn 
đoán. Quyết định điều trị  là khi có cơn tái phát, tuỳ  thuộc vào tần số  cơn,  
mức độ cơn và tình trạng BN. Các cơn co giật do cai rượu, rối loạn chuyển  
hoá hoặc do uống thuốc thì không cần thiết phải điều trị  với thuốc kháng 
ĐK lâu dài. Không nên điều trị ngay khi chẩn đoán chưa rõ ràng [3].
Thuốc kháng ĐK thường là lựa chọn đầu tiên của điều trị, khoảng  
70% cơn ĐK được kiểm soát bằng thuốc kháng ĐK [3]. 
Thông thường, điều trị  thuốc kháng ĐK sẽ  bắt đầu khi BN có một  
cơn ĐK thứ  hai. Một số trường hợp, việc điều trị  sẽ  bắt đầu sau cơn ĐK 
đầu tiên nếu: điện não đồ  cho thấy hoạt động của não liên quan đến ĐK,  
hình  ảnh  cộng  hưởng  từ  cho   thấy  tổn  thương  não,  BN   có  tiền  sử  tổn 
thương não như đột quỵ.
Đối với một số BN, phẫu thuật có thể là một lựa chọn trong trường 
hợp nếu loại bỏ các vùng não nơi hoạt động ĐK bắt đầu và sẽ  không gây 
ra thiệt hại hoặc khuyết tật [3]. 
* Đơn trị liệu và đa trị liệu
Khi sử dụng một loại thuốc kháng ĐK mà thất bại do không có hiệu 
quả hoặc có tác dụng phụ nghiêm trọng thì cần phải thay bằng thuốc khác. 
Trước khi quyết định thay thuốc nên xem xét lại chẩn đoán, liều lượng  
thuốc dùng và khả năng dung nạp. Nếu dùng liều cao mà không có tác dụng 
thì nên thay bằng thuốc khác trước khi điều trị  phối hợp với thuốc kháng  
ĐK thứ  hai. Khi phối hợp thuốc mà cơn co giật được kiểm soát thì thuốc  
kháng ĐK thứ  nhất phải giảm liều dần. Nếu cơn co giật tái phát thì tốt 
nhất lại phối hợp thuốc [3].


20
* Ngừng điều trị thuốc:

 Điều trị  ĐK được coi là kiểm soát tốt khi tần suất cơn hoặc mức độ 
nghiêm trọng được giảm xuống ở mức chấp nhận được. Bệnh được gọi là 
ổn định khi không còn xuất hiện cơn ĐK, mặc dù các biểu hiện tiền triệu 
cảm giác đơn giản (auras) có thể vẫn tồn tại [23].
Nên ngừng thuốc kháng ĐK khi BN hết cơn co giật từ 3­ 4 năm [3].
1.2.

RỐI LOẠN TRẦM CẢM Ở BỆNH NHÂN ĐỘNG KINH TOÀN 
THỂ CO CỨNG ­ CO GIẬT

1.2.1. Khái niệm về trầm cảm và trầm cảm ở bệnh nhân động kinh
Rối loạn trầm cảm là một loại rối loạn cảm xúc được đặc trưng bởi  
một hoặc nhiều giai đoạn trầm cảm. BN không có tiền sử  các giai đoạn  
hưng cảm, hưng cảm nhẹ hoặc giai đoạn hỗn hợp [2].
Rối loạn trầm cảm được mô tả tương đối đồng nhất trong cả hai hệ 
thống phân loại và chẩn đoán phổ biến hiện nay là ICD­10 (1992), ICD­10  
(2016) của TCYTTG và DSM­5 (2013) của hội Tâm thần học Hoa Kỳ [2]. 
Theo DSM­5 (2013) rối loạn trầm cảm bao gồm giai đoạn trầm cảm,  
loạn khí sắc, trầm cảm do sử dụng chất và trầm cảm do một bệnh cơ thể. 
Giai đoạn trầm cảm điển hình được đặc trưng BN có ít nhất 5 triệu chứng  
điển hình và phổ  biến, trong đó có ít nhất 1 trong 2 triệu chứng là khí sắc 
giảm và mất hầu hết các hứng thú/sở  thích. Giai đoạn trầm cảm phải kéo 
dài   ít   nhất   2 tuần  (ngắn  hơn  nếu triệu  chứng  bất thường và  khởi  phát 
nhanh). BN không được có tiền sử lạm dụng chất (rượu, ma túy, thuốc) và 
chấn thương sọ não [24].
Loạn khí sắc đặc trưng bởi khí sắc giảm phối hợp với một số triệu  
chứng trầm cảm mức độ nhẹ, kéo dài liên tục ít nhất 2 năm, trong đó không 


21

có một giai đoạn nào dài trên 2 tháng mà BN không còn các triệu chứng của  
trầm cảm [24]. 
Trầm cảm do một chất được đặc trưng bởi một hay nhiều giai đoạn 
trầm cảm là hậu quả  trực tiếp của việc sử dụng một chất (rượu, ma  túy, 
corticoid) [24].
Trầm cảm do một bệnh cơ  thể  được đặc trưng bởi một hay nhiều 
giai đoạn trầm cảm là hậu quả  trực tiếp của một bệnh cơ  thể  gây ra (có 
bằng chứng từ  tiền sử  khám sức khỏe, xét nghiệm mà trầm cảm là hậu 
quả trực tiếp của bệnh cơ thể) [24].
Rối loạn trầm cảm thực tổn là trầm cảm có liên quan trực tiếp đến tổn  
thương thực thể ở tổ chức não do nhiều nguyên nhân khác nhau. Đó có thể là 
các bệnh của não (u não, viêm não, tai biến mạch máu não…) nhưng phần  
nhiều là các bệnh ngoài não (nhiễm khuẩn huyết, nhiễm độc, chấn thương sọ 
não, các bệnh tim mạch, các bệnh gan, thận, nội tiết…). Biểu hiện lâm sàng 
là các triệu chứng trầm cảm thường không điển hình, trầm cảm ẩn, các triệu  
chứng cơ thể  phức tạp như rối loạn hệ thống tim mạch, hệ thống tiêu hoá, 
hô hấp…[25].
Theo  DSM  ­  IV (1994)   r ối lo ạn  tr ầm c ảm  do m ột b ệnh  c ơ  th ể 
(VD: động kinh) đượ c chẩn đoán thích hợp nếu rối loạn trầm cảm đượ c 
đánh giá là hậu quả  sinh lý trực tiếp của bệnh cơ  thể. Quyết định chẩn  
đoán   dựa   trên   lịch   sử   phát   triển   của   bệnh,   phát   hiện   trong   phòng   thí 
nghiệm hoặc kiểm tra sức kho ẻ [26]. 
 Theo Trivedi M. H. (2007) trầm cảm  ở BN ĐK thườ ng đượ c mô tả 
bởi các mối tương quan với th ời gian c ủa m ột c ơn  động kinh, trong đó  
trầm cảm giữa các cơn động kinh là phổ biến nhất [27].


22
Trầm cảm ở BN ĐK được mô tả trong khuôn khổ chung của mô hình  
ứng phó ­ stress: tiếp xúc stress mạn tính do “gánh nặng bệnh động kinh” 

và sự bất lực do mối đe dọa tái phát cơn co giật như các sự kiện không thể 
đoán trước là các yếu tố  nguy cơ  tâm lý cho sự  phát triển trầm cảm [28],  
[29].
Những người không bị  ĐK cũng bị   ảnh hưởng bất lợi bởi cơn co  
giật (Ví dụ: cha mẹ  của BN ĐK và ngườ i bị  co giật tâm sinh) có tỷ  lệ 
trầm cảm cao tương tự như BN ĐK. Tuy nhiên, cơn co giật, bất thường  
về thần kinh và một số thuốc chống ĐK có thể gây ra trầm cảm cấp tính 
hoặc trầm cảm trên cơ sở thuần túy sinh học thần kinh [28], [29].
1.2.2. Phân loại trầm cảm ở bệnh nhân động kinh
Căn cứ  vào thời gian xuất hiện của cơn ĐK, trầm cảm  ở  BN ĐK 
được phân loại: trầm cảm trước khi khởi phát cơn ĐK (preictal), trong cơn 
ĐK (ictal) và ngoài cơn ĐK (interictal), trong đó trầm cảm ngoài cơn ĐK là 
hay gặp nhất [15], [30].
Kandratavicius L. và cs. (2012) nhận thấy các triệu chứng trầm cảm  ở 
BN ĐK thường nhẹ  hơn so với trầm cảm điển hình, được xếp vào 3 loại 
như: giai đoạn trầm cảm, trầm cảm không điển hình hoặc loạn khí sắc và 
rối loạn giống loạn khí sắc (dysthymic­like disorder) với các triệu chứng 
xuất hiện từng cơn có thể nhẹ hơn so với trầm cảm điển hình [31].
Theo Kanner A. M. và cs. (2000) trầm cảm  ở BN ĐK gồm trầm cảm tự 
phát   (Spontaneous   depressive   disorder)   và   trầm   cảm   y   sinh   (Iatrogenic 
depressive disorde). Cả 2 loại trầm cảm này bao gồm: giai đoạn trầm cảm, 
loạn khí sắc, trầm cảm không điển hình [32].


23
Theo Miyoshi K. (2001) trầm cảm do bệnh cơ thể (động kinh) có thể 
là hậu quả trực tiếp từ 1 bệnh cơ thể, bệnh thực tổn ho ặc xu ất hi ện d ưới  
sự tác động của các yếu tố tâm lý xã hội bất lợi [33].
1.2.3. Một số nghiên cứu về bệnh nguyên, bệnh sinh  trầm cảm  ở bệnh 
nhân động kinh

Mặc dù trầm cảm khá phổ  biến  ở  BN ĐK nhưng cho đến nay, vấn  
đề  về  bệnh nguyên, bệnh sinh trầm cảm  ở  BN ĐK vẫn chưa được hoàn 
toàn sáng tỏ.
Từ  thời Hippocrates 400 năm trước công nguyên đã quan sát thấy 
những người bị  trầm cảm có khả  năng phát triển thành ĐK và ngược lại 
[34].
Các nhà khoa học từng bước nghiên cứu mối quan hệ sinh lý học giữa  
trầm cảm và ĐK, nhiều cơ chế về mối quan hệ hai chiều đã được đề xuất.  
Những bất thường về cấu trúc thần kinh, Monoamin, chuyển hóa glucose ở 
não, trục dưới đồi ­ tuyến yên­ tuyến thượng thận (HPA) và interleukin­1b 
đều đóng một vai trò quan trọng trong sự  phát triển chung của 2 bệnh này 
[35]. 
1.2.3.1.Một số bất thường cấu trúc thần kinh
­ Teo vùng đồi thị: theo Kanner A. M. (2009) ĐK nói chung đặc biệt là 
ĐK thùy thái dương teo vùng đồi thị  do xơ  cứng thùy thái dương giữa là  
nguyên nhân thường gặp nhất. Hơn nữa,   Bell­McGinty S. và cs.  (2002) 
nhận thấy  BN trầm cảm có khối lượng đồi thị  bên phải nhỏ  hơn so với  
người khỏe mạnh. Đồng thời thể tích của vỏ não thuộc vùng đồi thị tương  
quan nghịch với thời gian mắc trầm cảm [36], [37].
­ Những thay đổi  ở  hạch hạnh nhân: ở  BN trầm cảm có biểu hiện teo 
hạch hạnh nhân do giảm khối lượng lõi của hạch hạnh nhân. Tương tự, teo 


24
hạch hạnh nhân cũng thường được xác định  ở  những bệnh nhân ĐK đặc  
biệt là ĐK thùy thái dương [37].
­  Bất thường về  cấu trúc  ở  các thùy trán:  Taylor W. D. và cs. (2003) 
nhận thấy cấu trúc thùy trán  ở  41 BN trầm cảm nhỏ  hơn rõ rệt so với 40 
người khỏe mạnh. Rajkowska  G. và cs. (1999) nhận thấy sự sụt giảm độ 
dày vỏ não, kích thước thần kinh và mật độ ở các lớp II, III và IV của thùy  

trán ở BN trầm cảm [38], [39].
Ở những BN bị ĐK có trầm cảm kèm theo có sự giảm liên kết trong 
ổ động kinh, cũng như mở rộng những cấu trúc ngoài thuỳ viền [37].
1.2.3.2. Vai trò của một số chất dẫn truyền thần kinh
Giả  thuyết bất thường của các dẫn truyền thần kinh như  Serotonin  
(5­hydroxytryptamine   {5­HT}),   Norepinephrine   (NE),   Dopamine,   γ­
aminobutyric acid và Glutamate là tác nhân trong bệnh sinh của bệnh động 
kinh và trầm cảm. Trong đó bất thường của chất dẫn truyền thần kinh 
Serotonergic và Noradrenergic là cơ  chế  gây bệnh chủ  yếu của rối loạn  
trầm cảm và cơ sở cho việc điều trị thuốc chống trầm cảm. Tương tự như 
vậy, giảm hoạt động Serotonergic và Noradrenergic tạo điều kiện cho quá 
trình phát triển của cơn co giật, làm trầm trọng thêm mức độ  co giật và 
tăng cường khuynh hướng co giật trong một số mô hình động kinh [34].
a. Vai trò của Serotonin
Serotonin là chất dẫn truyền thần kinh quan trọng của hệ thần kinh  
trung ương và có nhiều vai trò trong sinh bệnh lý. Serotonin được tổng hợp 
từ trong tế bào ưa crom của ruột và trong tổ chức thần kinh từ Tryptophan  
[40].


25
Serotonin trong não được tạo ra bởi một số lượng tương đối nhỏ  từ 
các thân tế  bào của neuron sản xuất ra Serotonin khởi đầu được tìm thấy 
nhân Raphe và vùng lưới của cuống não dưới [41], [42].
­

Serotonin và động kinh

Có rất nhiều nghiên cứu về  Serotonin (5­HT) và cơn co giật, sự  gia 
tăng nồng độ 5­HT ngoại bào ức chế cơn co giật và ngược lại. Một số loại 

thuốc   chống   động   kinh   như   Phenytoin,   Carbamazepine,   Valproic   acid, 
Lamotrigine  và Zonisamide đều làm tăng 5­HT ngoại bào. Ngoài ra, còn có 
sự giảm liên kết thụ thể 5­HT­1A trong não của BN ĐK [41], [43].
Ở   BN   ĐK   sự   thiếu   hụt   trong   5­HT­1A,   thụ   thể   α1   NA,   axit   5­
Hydroxyindoleacetic (5­HIAA) và nồng độ Norepinephrine (NE) [44].
­

Serotonin và trầm cảm ở BN động kinh

Một số  nghiên cứu nhận thấy có thể  có 2 bệnh lý trầm cảm và ĐK 
cùng tồn tại trên 1 BN. Bất thường về  Serotonin giải thích rõ ràng cho 2 
bệnh lý trầm cảm và ĐK vì thuyên giảm 5­HT có liên quan đến cả hai bệnh  
lý này [41], [44].
Sargent P. A. và cs. (2000) sử  dụng phương pháp chụp PET sọ  não  
nhận thấy có sự  sụt giảm thụ  thể  5­HT­1A  ở  những BN mắc đồng thời 
ĐK và trầm cảm [45].
Nếu có bệnh lý cơ  bản được chia sẻ  cho cả  ĐK và trầm cảm, thì 
phương pháp điều trị cho một bệnh có thể sẽ cải thiện các triệu chứng của  
bệnh khác. Một số nghiên cứu cho thấy một số phương pháp điều trị trầm  
cảm (kích thích dây thần kinh phế vị, thuốc chống trầm cảm SSRI) cũng có 
hiệu quả  thuyên giảm co giật và một số  thuốc chống co giật có hiệu quả 
trong việc kiểm soát rối loạn trầm cảm [44].


×