Tải bản đầy đủ (.docx) (116 trang)

luận văn thạc sĩ kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty trách nhiệm hữu hạn xây dựng quỳnh trang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (468.12 KB, 116 trang )

1

1

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Bản luận văn này là công trình nghiên cứu thực sự của cá
nhân, được thực hiện trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết, những kiến thức đã thu thập
được qua quá trình học tập, tình hình thực tiễn tại Công ty TNHH xây dựng Quỳnh
Trang và dưới sự hướng dẫn tận tình của PGS.TS Lê Thị Thanh Hải. Những số liệu,
bảng biểu và kết quả được phản ánh trong luận văn là trung thực và thực tế phát
sinh tại đơn vị mà em tiến hành nghiên cứu.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 15 tháng 5 năm 2018
Tác giả

Nguyễn Hải Anh


2

2

LỜI CẢM ƠN
Đầu Tiên tác giả xin gửi lời ơn sâu sắc tới Ban lãnh đạo Trường Đại học
Thương Mại, Khoa Sau đại học, các thầy giáo, cô giáo của trường đã đào tạo, bồi
dưỡng những kiến thức lý luận và phương pháp nghiên cứu để tác giảthực hiện luận
văn này.
Tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Giảng viên PGS.TS Lê Thị
Thanh Hải, người thầy đã tận tình hướng dẫn, chỉ báo giúp đỡ tác giảtrong suốt quá
trình thực hiện và hoàn chỉnh luận văn. Tác giả xin được gửi lời chúc chân thành, sự
biết ơn và trân trọng tới các thầy, cô giáo trong Hội đồng bảo vệ luận văn đã chỉ


dẫn, bổ sung những ý kiến quý báu giúp tác giả nhận thức sâu sắc hơn nội dung
nghiên cứu.
Tác giả xin chân thành cảm ơn các nhà quản lý, các cán bộ nhân viên của
Công ty TNHH Quỳnh Trang đã tạo điều kiện cung cấp cho tác giả những số liệu và
thông tin hữu ích để thực hiện luận văn.
Tác giả xin chân thành cảm ơn!
Cao Học Viên
Nguyễn Hải Anh


3

3

MỤC LỤC


4

4

DANH MỤC TỪ VIẾT TĂT
STT
1

Từ viết tắt
BHXH

Nghĩa
Bảo hiểm xã hội


2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20

BHYT
BHTN
NN
TSCĐ
CCDC
CPSX
TK
CPNVLTT
CPNCTT

CPSDMTC
NVL
KLXL
GTGT
CT
CPSXKD
ĐVT
KC
SP
NQT

Bảo hiểm y tế
Bảo hiểm thất nghiệp
Nhà Nước
Tài sản cố định
Công cụ dụng cụ
Chi phí sản xuất
Tài khoản
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Chi phí nhân công trực tiếp
Chi phí sử dụng máy thi công
Nguyên vật liệu
Khối lượng xây lắp
Giá trị gia tăng
Công trình
Chi phí sản xuất kinh doanh
Đơn vị tính
Kết chuyển
Sản phẩm
Nhà quản trị



5

5

DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU

STT
1
2
3
4

Tên sơ đồ
Sơ đồ 01
Sơ đồ 02
Sơ đồ 03
Sơ đồ 04

Nội dung

Trang

Trình tự kế toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp

30

Trình tự kế toán chi phí nhân công trực tiếp
Trường hợp máy thi công thuê ngoài

Trình tự hạch toán chi phí máy thi công (không tổ chức

32
33
34

Sơ đồ 05
Sơ đồ 06

bộ máy thi công riêng biệt
Trình tự kế toán chi phí sản xuất chung
Phương pháp kế toán tổng hợp chi phí sản xuất sản

36
37

7
8
9

Sơ đồ 07
Sơ đồ 08
Sơ đồ 09

phẩm xây lắp
Quy trình sản xuất kinh doanh của công ty
Sơ đồ tổ chức bộ máy của công ty
Bộ máy kế toán của công ty

55

56
58

10

Bảng 2.1

Phân tích chênh lệch chi phí nguyên vật liệu trực tiếp

85

Bảng 2.2
Bảng 2.3
Bảng 3.1

năm 2017
Phân tích chênh lệch chi phí máy thi công năm 2017
Phân tích chênh lệch chi phí máy thi công năm 2017
Bảng phân loại tài khoản chi tiết

86
86
104

5
6

11
12
13



6

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Xây dựng cơ bản là ngành sản xuất tạo cơ sở và tiền đề phát triển cho nền kinh
tế quốc dân.Hàng năm, ngành xây dựng cơ bản thu hút gần 30% tổng số vốn đầu tư
của cả nước. Với nguồn đầu tư lớn như vậy cùng với đặc điểm sản xuất của ngành
là thời gian thi công kéo dài và thường trên qui mô lớn. Vấn đề đặt ra ở đây là quản
lý vốn tốt, khắc phục tình trạng thất thoát và lãng phí trong sản xuất thi công, giảm
chi phí giá thành, tăng tính cạnh tranh cho doanh nghiệp.
Hạch toán kinh tế là một phạm trù kinh tế khách quan gắn liền với quan hệ
hàng hoá - tiền tệ, là một phương pháp quản lý kinh tế, đồng thời là một yếu tố
khách quan. Đặc biệt, trong điều kiện nền kinh tế nước ta đang phát triển theo cơ
chế thị trường thì hoạt động kinh doanh phải có lãi, lấy thu nhập để bù đắp chi phí.
Song trên thực tế, tỷ lệ thất thoát vốn đầu tư xây dựng cơ bản còn tương đối cao do
chưa quản lý tốt chi phí sản xuất. Vì thế, ngoài vấn đề quan tâm chính như ký được
các hợp đồng xây dựng, doanh nghiệp còn phải quan tâm đến vấn đề hạ thấp chi phí
sản xuất đến mức cần thiết nhằm hạ giá thành sản phẩm xây lắp trong quá trình kinh
doanh, tất nhiên doanh nghiệp phải thông qua công tác kế toán - một công cụ có
hiệu quả nhất trong quản lý kinh tế. Trong đó, kế toán tập hợp chi phí sản xuất và
tính giá thành sản phẩm xây lắp luôn được xác định là khâu trọng tâm của công tác
kế toán trong doanh nghiệp xây dựng.
Mặt khác, trong các doanh nghiệp xây dựng, giá thành sản phẩm xây lắp là chỉ
tiêu chất lượng quan trọng trong kinh doanh, qua chỉ tiêu này có thể đánh giá được
trình độ quản lý kinh doanh, tình hình sử dụng vốn của doanh nghiệp. Quản lý tốt
giá thành sản phẩm xây lắp nhằm phấn đấu hạ thấp chi phí, nâng cao hiệu quả kinh
doanh là nhiệm vụ hàng đầu của các doanh nghiệp xây dựng.Bởi vậy giá thành sản

phẩm xây lắp và lợi nhuận là các chỉ tiêu có quan hệ xây dựng, tỷ lệ nghịch với
nhau, ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.


7

Nếu tổ chức các vấn đề khác tốt mà thiếu đi việc tổ chức kế toán tập hợp chi
phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp khoa học, hợp lý thì hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp khó có thê đạt hiệu quả cao được.Chính vì vậy, việc hoàn
thiện kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp có ý nghĩa
hết sức quan trọng đối với doanh nghiệp xây dựng.
Nhận thức được vấn đề nêu trên, quá trình thực tập tại Công ty TNHH Xây
Dựng Quỳnh Trang, được sự giúp đỡ nhiệt tình của các cô các chú trong phòng Kế
toán của Công ty, kết hợp với kiến thức đã học ở trường, em đã chọn đề tài: “Kế
toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công Ty Trách Nhiệm Hữu Hạn
Xây Dựng Quỳnh Trang” làm đề tài luận văn.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan
Tất cả các phần hành kế toán đều quan trọng và gắn bó,kết hợp chặt chẽ với
nhau để thực hiện nhiệm vụ chung của kế toán. Nhưng trong đó,kế toán tập hợp chi
phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm vẫn được ví như là linh hồn của công tác kế
toán, đặc biệt là khi hoạt động sản xuất trong công ty là một trong những hoạt động
rất quan trọng.Như vậy có thể thấy kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá
thành giữ một vai trò quan trọng.Trong môi trường cạnh tranh khốc liệt như ngày
nay việc tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm là một vấn đề luôn đặt lên hàng
đầu, là một công cụ quản lý đắc lực, hỗ trợ để đưa ra những quyết định mang tính
sách lược và chiến lược cho nhà quản trị, công tác kế toán nói chung và công tác kế
toán tập hợp chi phí và tính giá thành nói riêng.
Xét về vấn đề này đã có rất nhiều nhà nghiên cứu, nhà khoa học, học giả với
các đề tài nghiên cứu đã đưa ra các luận điểm, giải pháp khác nhau.Cụ thể:
Luận án tiến sĩ của tác giả Lê Thị Diệu Linh (năm 2011) nghiên cứu “Hoàn

thiện công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các
doanh nghiệp xây dựng dân dụng”, luận án đã hệ thống hóa và phân tích nhữngvấn
đề lý luận về bản chất của chi phí và giá thành sản phẩm trong doanh nghiệpxây lắp,
xem xét chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm trên khía cạnh kế toán tàichính và
khía cạnh kế toán quản trị, luận án trình bày những đặc điểm đặc thù củangành xây


8

dựng cơ bản trên cơ sở đó phân tích được những tác động lớn của sản phẩm, sản
xuất và cơ chế quản lý kinh tế tài chính đến công tác kế toán chi phí sảnxuất và tính
giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp xây dựng dân dụng, luận ánkhái quát và
phân tích được những hạn chế cơ bản về hạch toán chi phí và giá thànhtrong các
doanh nghiệp xây dựng dân dụng trong điều kiện hiện nay chưa đáp ứng được yêu
cầu mới, từ đó luận án phân tích và đưa ra một số ý kiến đề xuất nhằm hoànthiện
công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanhnghiệp
xây dựng dân dụng ở Việt Nam.
Bên cạnh đó, có thể kế đến, tác giả Nguyễn Thị Thu Hương với đề tài luận văn
“Kế toán chi phí và tính giá thành công trình tại Công ty Cổ phần xây lắp đường
ống bể chứa dầu khí” năm 2014. Luận văn đã tìm hiểu, phân tích và đánh giá thực
trạng kế toán chi phí sản xuấtvà tính giá thành sản phẩm xây lắp tại công ty khảo
sát. Đặc điểm nổi bật của luận văn mà các luận văn khác chưa làm được là trong
chương 1, tác giả đã đưa các lý luận rất chi tiết, cụ thể về kế toán quản trị chi phí và
tính giá thành sản phẩm. Tuy nhiên, trong chương 2 phần thực trạng tác giả lại
không nêu tại công ty đó có thực hiện công tác kế toán quản trị về kế toán chi phí và
tính giá thành sản phẩm không, nếu có thực hiện thế nào? Trong đó phần lý luận
chung tác giả đã viết rất chi tiết vềkế toán quản trị chi phí và tính giá thành sản
phẩm. Đây cũng là điểm hạn chế của đề tài này.
Ngoài ra, trong năm 2015, tác giả Trịnh Thị Kim Tiến với đề tài “Kế toán chi
phí và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại công ty TNHH MTV ứng dụng công

nghệ mới và du lịch” Luận văn đã bám sát các chuẩn mực, chế độ, giáo trình khi
nghiên cứu nên đãhệ thống hóa và làm sáng tỏ những vấn đề chung nhất về kế toán
tập hợp chi phí vàtính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây lắp nói chung và
tại công ty khảo sát nói riêng. Tác giả cũng đã phân tích, đánh giá thực trạng kế toán
chi phí và tính giá thành sản phẩm xây lắp và đưa ra các giải pháp rất cụ thể về kế
toán chi phí vàtính giá thành sản phẩm.Tuy nhiên, hướng nghiên cứu của luận văn
mang tính chất lý luận hơn thực tiễn. Theo tác giả, trong quá trình nghiên cứu và
trình bày luận văn của mình, tác giả không tách biệt góc độ nghiên cứu là kế toán tài


9

chính hay kế toán quản trị mà công việc kếtoán quản trị và kế toán tài chính được
lồng ghép, không tách biệt.Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây
lắp của các doanhnghiệp xây dựng và xây lắp đã được đề cập rất nhiều ở các tài
liệu, công trìnhnghiên cứu ở nhiều quốc gia trên thế giới cũng như ở Việt
Nam.Trong các giáo trình trong nước về kế toán đều có các nội dung viết về kế
toánchi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp…
Đề tài kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp cũng
đượcnhiều tác giả trong nước nghiên cứu rất sâu và có nhiều đầu sách viết về vấn đề
này,ví dụ như cuốn: “Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm” do TS
Phạm Quý Long (Chủ biên), NXB Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội, năm 2011 đã
đềcập hệ thống những nội dung về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm xây lắp. Giáo trình này trình bày rõ nội dung lý thuyết về kế toán chi phí sản
xuất vàtính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp xây lắp, bao gồm các khái
niệm vềcác về các chi phí nguyên vật liệu, chi phí nhân công, chi phí máy thi công
và chiphí sản xuất chung, đồng thời cũng trình bày cách thức hạch toán và định
khoản cáckhoản nội dung chi phí sản xuất trong các doanh nghiệp xây lắp. Giáo
trình còn đưara các dạng bài tập và ví dụ minh hoạt chi tiết về cách tính giá thành
sản phẩm xâylắp cũng như xây dựng phương pháp xác định giá thành sản phẩm xây

lắp một cáchhệ thống và chính xác.
Một đề tài cùng tên: “Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
xâylắp trong các doanh nghiệp xây dựng” do TS. Trần Thị Ngọc Trang (chủ biên)
và Th.s Trần Văn Thi, NXB Thống kê, Hà Nội, năm 2010 đã đề cập chi tiết về nhiều
nội dung liên quan đến công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm,có tính ứng dụng thực tiễn cao. Giáo trình đã trình bày rõ ràng các nội dung
nhưsau:
- Về đối tượng hạch toán chi phí sản xuất: Giáo trình xác đinh rõ đối
tượnghạch toán chi phí sản xuất là các chi phí sản xuất được tập hợp theo những
phạm vi, giới hạn nhất định nhằm phục vụ cho việc kiểm tra, phân tích chi phí và
tính giáthành sản phẩm.


10

- Về phương pháp hạch toán chi phí trong doanh nghiệp xây lắp: Giáo trình
này đã xác định phương pháp hạch toán chi phí bao gồm: phương pháp hạch toánchi
phí theo sản phẩm, theo đơn đặt hàng, theo nhóm sản phẩm, theo giai đoạn công
nghệ... Mỗi phương pháp hạch toán chi phí ứng với một loại đối tượng hạch toánchi
phí.
- Về hạch toán chi phí trong các doanh nghiệp xây lắp: giáo trình cho rằng tuỳ
thuộc và đặc điểm kinh doanh của doanh nghiệp, vào yêu cầu của công tác quản lý
và trình độ của cán bộ kế toán cũng như vào quy định của chế độ kế toán hiện
hành,việc hạch toán chi phí sản xuất có thể tiến hành theo phương pháp kê khai
thường xuyên hoặc phương pháp kiểm kê định kỳ
Nhìn chung các công trình nghiên cứu trong lĩnh vực kế toán chi phí sản xuất
và tính giá thành sản phẩm đã có cách nhìn tương đối toàn diện dưới nhiều góc độ
khác nhau. Tuy rằng đây không còn là một đề tài mới nhưng em vẫn mạnh dạn lựa
chọn nó làm đề tài nghiên cứu với hy vọng sẽ đưa ra một hướng tiếp cận mới thông
qua quá trình đi sâu, tìm tòi những vấn đề cụ thể nhất, mang tính trực quan kết hợp

khách quan, gắn với thực tiễn tại một doanh nghiệp cụ thể. Hy vọng rằng đề tài với
cách nhìn nhận này sẽ góp phần nâng cao được hoạt động quản lý kế toán chi phí
sản xuất kinh doanh và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp cũng như đưa
ra các hướng phát triển cao hơn, toàn diện hơn cho các doanh nghiệp về vấn đề này.
3. Mục tiêu nghiên cứu đề tài:
- Mục tiêu lý luận:
Nghiên cứu đề tài kế toán chi phí sản xuất, tính giá thành sản phẩm xây lắp tại
các doanh nghiệp xây dựng nói chung nhằm mục tiêu hệ thống hóa và làm rõ những
vấn đề chung về kế toán chi phí sản xuất, tính giá thành sản phẩm xây lắp theo quy
định của chế độ kế toán Việt Nam hiện hành, quy định chung của các chuẩn mực kế
toán Việt Nam đã công bố có liên quan tới đề tài.
- Mục tiêu thực tiễn:
Nghiên cứu đề tài kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp
tại công ty TNHH Xây Dựng Quỳnh Trang nhằm mục đích đưa ra những đánh giá


11

sơ bộ về thực trạng kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm của công ty.
Từ đó khái quát kết quả đạt được, hạn chế còn tồn tại cũng như chỉ ra những thuận
lợi, khó khăn trong công tác kế toán phần hành. Đồng thời đề xuất một số phương
hướng, giải pháp hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại
công ty, giúp công ty tháo gỡ khó khăn, hạn chế sự thất thoát, lãng phí nhằm hạ giá
thành sản phẩm nhưng vẫn đảm bảo chất lượng công trình xây lắp.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu đề tài:
- Đối tượng nghiên cứu:
Xuất phát từ mục tiêu nghiên cứu của đề tài, đối tượng nghiên cứu của luận
văn là công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công
ty TNHH xây dựng Quỳnh Trang, trong đó đi sâu nghiên cứu quy trình tập hợp chi
phí, phương pháp phân bổ chi phí và tính giá thành sản phẩm tại Công ty TNHH

xây dựng Quỳnh Trang.
- Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng kế toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm tại Công ty TNHH xây dựng Quỳnh Trang theo cả hai hướng kế
toán quản trị và kế toán tài chính, trong đó tập chung chủ yếu nghiên cứu trên
phương diện kế toán tài chính..
5. Các phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện nghiên cứu đề tài này, tác giả đã sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau:
Phương pháp thu thập dữ liệu: Mô tả các phương pháp sử dụng để thu thập dữ
liệu nghiên cứu, cụ thể gồm:
+ Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Để thu thập các thông tin, hệ thống lý luận
chung về kế toán chi phí và tính giá thành sản phẩm dưới góc độ kế toán tài chính
không đi nghiên cứu về công tác kế toán chi phí sản xuất trong doanh nghiệp, tác
giả nghiên cứu về công tác kế toán chi phí sản xuất trong doanh nghiệp, tác giả
nghiên cứu các quy định, chuẩn mực kế toán, chế độ kế toán dành cho doanh nghiệp
xây lắp, tham khảo các công trình nghiên cứu khoa học, tra cứu các văn bản pháp


12

luật, các bài viết về kinh tế, xã hội…Sau đó tìm ra vấn đề mới mà công trình nghiên
cứu khoa học chưa đề cập, lựa chọn những thông tin hữu ích để bổ sung, làm rõ
luận văn.
+ Phương pháp quan sát: Nhằm tiếp cận trực tiếp, theo dõi các hoạt động, thao
tác làm việc của cán bộ, nhân viên trong công ty để có thể hiểu tường tận quy trình
kế toán chi phí xây dựng tại DN. Tác giả sử dụng phương pháp quan sát trong việc
quan sát quy trình sản xuất, cách thức tổ chức, quản lý tại Công ty. Cụ thể: tác giả
đến điều tra tại công trình doanh nghiệp khảo sát công trình đang thi công, quan sát
môi trường làm việc cũng như cách giải quyết các mối quan hệ trong doanh nghiệp.

Phương pháp nghiên cứu tài liệu: là phương pháp thu thập thông tin trong đó
người đi thu thập thông tin phải liên hệ với những bộ phận liên quan để xin những
tài liệu cần thiết, ở đây chủ yếu là bộ phận kế toán công ty. Nghiên cứu tài liệu viết
giống như việc quan sát hệ thống một cách gián tiếp. Thông qua việc nghiên cứu tài
liệu viết mà có được hình dung tổng quan về hệ thống. Tác giả đọc và tìm hiểu luật
xây dựng, luật đấu thầu, và các văn bản, nghị định, hướng dẫn về đầu tư xây dựng
cơ bản, đấu thầu xây lắp,… thu thập và nghiên cứu sâu về các quy định tổ chức
công tác kế toán, quy trình hạch toán, cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý, bộ máy kế
toán của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, tác giả còn đi sâu tìm hiểu một số công trình
nghiên cứu trước đó về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
Phương pháp tổng hợp, phân tích dữ liệu: Tổng hợp kết quả khảo sát, khái quát
thành nhóm các vấn đề, để mô tả thực trạng theo các vấn đề đã khái quát đó: Phân tích
dữ liệu đã thu thập được đưa ra các thông tin, các kết luận phù hợp. Phân tích đánh giá
vấn đề nghiên cứu. Ghi chép, thống kế, đưa vào luận văn các số liệu thu thập được và
so sánh với các chuẩn mực kế toán Việt Nam, chế độ kế toán hiện hành.
6. Kết cấu và nội dung chính của đề tài
Ngoài Phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục bảng biểu, danh mục sơ đồ,
danh mục từ viết tắt, tài liệu tham khỏa luận văn bao gồm các phần chính sau:
Chương 1: Lý luận chung về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm ở doanh nghiệp xây lắp


13

Chương 2: Thực trạng kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại
Công Ty TNHH Xây Dựng Quỳnh Trang
Chương 3: Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại
Công Ty Tnhh Đầu Tư Xây Dựng Quỳnh Trang
Đề tài là sản phẩm của quá trình lao động nghiêm túc, kết hợp những kiến
thức đã học vào thực tiễn, cùng sự hướng dẫn tận tình của PGS.TS Lê Thị Thanh

Hải. Tác giả cũng xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của Ban giám đốc, các anh chị
phòng Kế toán tài chính Công ty TNHH Xây Dựng Quỳnh Trang đã tạo điều kiện
thuận lợi, hỗ trợ, cung cấp các tài liệu liên quan để tác giả hoàn thành bài luận văn.
Tuy nhiên, với thời gian nghiên cứu không nhiều, bản thân lại thiếu kinh
nghiệm nên trong quá trình tìm hiểu, trình bày và đánh giá không tránh khỏi còn
nhiều thiếu sót. Vì vậy, tác giả rất mong nhận được ý kiến đóng góp của giáo viên
hướng dẫn và các thầy, cô giáo để luận văn được hoàn chỉnh hơn, có giá trị hơn về
thực tế và lí luận ngành đặc thù.


14

CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT
VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TRONG DOANH NGHIỆP XÂY LẮP
1.1.Đặc điểm hoạt động xây lắp chi phối đến kế toán chi phí sản xuất và
giá thành sản phẩm xây lắp.
Ngành xây lắp là ngành tạo cơ sở hạ tầng cho toàn bộ nền kinh tế, tạo tiền đề
cho nền kinh tế quốc dân, đóng vai trò quan trọng cho quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Đây là ngành có nhiều điểm khác biệt về cách thức sản xuất
cũng như phương thức quản lý so với các doanh nghiệp khác:
Sản phẩm của ngành xây lắp là những công trình, hạng mục công trình, vật
kiến trúc,…có quy mô lớn, kết cấu phức tạp, thời gian thi công dài, giá trị công
trình lớn,… Do việc tổ chức quản lý và hạch toán nhất thiết phải có dự toán thi
công, nên chi phí phải được quản lý theo chi phí đã dự toán và theo hạn mức chi
phí do nhà nước quy định.
Sản phẩm của ngành xây lắp thì cố định tại nơi sản xuất còn các tổ đội sản
xuất và máy móc thi công thì vận động theo địa điểm đặt sản phẩm nên việc quản lý
chi phí sản xuất chung và chi phí nhân công sẽ khó khăn.
Sản phẩm của xây dựng sau khi hoàn thành không được nhập kho mà được
tiêu thụ ngay, việc xác định giá thành của sản phẩm xây lắp khó thực hiên, thường

xác định theo khối lượng sản phẩm hoàn thành, do đó tính chi phí cho kỳ báo cáo và
quản lý doanh thu trong kỳ thường khó khăn.
Những đặc điểm của ngành xây lắp phần nào ảnh hưởng đến việc tổ chức công
tác kế toán trong doanh nghiệp, do đó việc quản lý chi phí trong doanh nghiệp xây
lắp có những điểm khác biệt sau:
+ Kế toán chi phí phải theo từng khoản mục chi phí, hạng mục công trình
nhằm thường xuyên so sánh, kiểm tra chi phí theo dự toán. Đối tượng tập hợp chi
phí có thể là toàn bộ công trình, hay 1 hạng mục của công trình, đơn vị đặt hàng.
+ Giá thành công trình lắp đặt thiết bị không bao gồm giá trị thiết bị do chủ
đầu tư chuyển đến mà chỉ bao gồm những chi phí do doanh nghiệp xây lắp chi ra.


15

1.2 Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây lắp
1.2.1. Chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây lắp
1.2.1.1. Khái niệm chi phí sản xuất
Trong quátrình thực hiện sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp bỏ ra những
khoản chi phí nhất định, tuy nhiên không phải tất cả mọi khoản chi phí đều là chi
phí sản xuất.
“Chi phí sản xuất được biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao động
sống, lao động vật hóa và các chi phí cần thiết khác phát sinh trong quá trình sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định”
Như vậy, bản chất của chi phí sản xuất của doanh nghiệp là:
- Những phí tổn (hao phí) về các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất gắn
liền với mục đích kinh doanh.
- Lượng chi phí phụ thuộc vào khối lượng các yếu tố sản xuất đã tiêu hao
trong kỳ và giá cả của một đơn vị yếu tố sản xuất đã hao phí.
- Chi phí sản xuất của doanh nghiệp phải được đo lường bằng thước đo tiền tệ
và được xác định trong một khoảng thời gian xác định.

Nói tóm lại, trên góc độ kế toán tài chính, chi phí sản xuất được nhìn nhận như
những khoản phí tổn đã phát sinh gắn liền với hoạt động sản xuất của doanh nghiệp,
được kế toán ghi nhận trên cơ sở chứng từ, tài liệu, bằng chứng chứng minh việc
phát sinh của chúng. Còn trên góc độ kế toán quản trị, chi phí sản xuất không đơn
thuần được nhận thức như vậy, mà nó còn được nhận thức theo cả khía cạnh thông
tin để phục vụ cho việc so sánh, lựa chọn phương án tối ưu trong từng tình huống ra
quyết định kinh doanh cụ thể, mà ít chú ý hơn vào chứng minh chi phí sản xuất phát
sinh bằng các chứng từ kế toán.
1.2.1.2. Phân loại chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây lắp
Chi phí sản xuất của doanh nghiệp gồm nhiều loại với tính chất kinh tế khác
nhau, mục đích, công dụng và yêu cầu tổ chức khác nhau. Để hạch toán và quản lý
chi phí sản xuất theo từng nội dung cụ thể để theo dõi, đối tượng tập hợp chi phí,
đối tượng tính giá thành phải tiến hành phân loại chi phí một cách khoa học thống
nhất theo chuẩn mực nhất định.


16

Phân loại chi phí sản xuất một cách khoa học và hợp lý là một yêu cầu quan
trọng trong công tác kế toán, công tác hạch toán và tính giá thành sản phẩm, tùy
theo yêu cầu của công tác quản lý và hạch toán, kế toán có các cách phân loại sau:
Phân loại CPSX theo mối quan hệ của chi phí với các khoản mục trên Báo
cao tài chính:
Theo cách phân loại này chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây lắp được chi
thành chi phí sản phẩm và chi phí thời kì.
+ Chi phí sản phẩm: là những chi phí gắn liền với quá trình sản xuất sản phẩm
hay quá trình mua hàng hóa để bán
Khi sản phẩm chưa được bán ra thì chi phí sản phẩm là giá vốn bán hàng tồn
kho được ghi nhận trên Bảng cân đối kế toán. Khi sản phẩm đã được bán ta thì chi
phí sản phẩm là giá vốn hàng bán được ghi nhận trên Báo cáo kêt quả hoạt động

kinh doanh.
+ Chi phí thời kỳ: là những chi phí không liên quan đến hoạt động kinh doanh
của cả kỳ, không tạo nên giá trị hàng tồn kho nên không được ghi nhận trên Bảng
cân đối kế toán, mà chúng ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả kinh doanh trong kỳ
chúng phát sinh nên được ghi nhận trên Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh. Bao
gồm chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp.
Phân loại chi phí theo mối quan hệ giữa chi phí với mức độ hoạt động
Theo cách phân loại này chi phí sản xuất chia thành:
+ Chi phí khả biến (biến phí): là những chi phí thay đổi về tổng số tỷ lệ với sự
thay đổi mức hoạt động của doanh nghiệp. Mức hoạt động của doanh nghiệp có thể
là số lượng sản phẩm sản xuất, số lượng sản phẩm tiêu thụ, số giờ máy hoạt động,
doanh thu bán hàng thực hiện…
Sự biến động của chi phí trong mối quan hệ với mức hoạt động có thể xảy ra 2
tình huống sau:
Thứ nhất, Biến phí tỷ lệ: Loại biến phí mà tổng biến phí quan hệ tỷ lệ thuận
trực tiếp với mức độ hoạt động, còn biến phí của một đơn vị hoạt động thì không
thay đổi.


17

Thứ hai, biến phí thay đổi không tỷ lệ trực tiếp: đó là trường hợp xét về tổng
biến phí thì có tốc độ tăng nhanh hơn tốc đô tăng của khối lượng hoạt động, vì vậy
biến phí của một đơn vị khối lượng hoạt động cũng tăng lên khi khối lượng hoạt
động tăng; hoặc ngược lại, trường hợp tổng biến phí có tốc độ tăng chậm hơn tốc độ
tặng của khối lượng hoạt động, khi đó biến phí tính cho một đơn vị khối lượng hoạt
động lại giảm đi khi khối lượng hoạt động tăng.
+ Chi phí bất biến (định phí): Là những chi phí mà về tổng số không thay đổi
khi có sự thay đổi về mức độ hoạt động.
Định phí tồn tại dưới nhiều hình thức:

+ Định phí tương đối: là những chi phí có tính chất tương đối, ní chỉ cố định
trong một giới hạn mức độ nhất dịnh, sau đó nếu khối lượng hoạt động tăng lên thì
khoản chi phí này sẽ lên một mức mới.
+ Định phí tuyệt đối: là những chi phí mà tổng số không thay đổi khi có sự
thay đổi khối lượng hoạt động, còn định phí của một đơn vị khối lượng hoạt động
thì thay đổi tỷ lệ nghịch trực tiếp với khối lượng hoạt động.
+ Định phí bắt buộc: là định phí không thể thay đổi một cách nhanh chóng,
chúng thường liên quan đến TSCĐ và cấu trúc tổ chức SXKD của doanh nghiệp.
Những khoản chi này đã tồn tại lâu dài trong hoạt động SXKD của doanh nghiệp, vì
vậy khi quyết định đầu tư vào TSCĐ các nhà quản trị doanh nghiệp cần cân nhăc kỹ
trước khi ra quyết định vì điều đó sẽ đi theo doanh nghiệp trong một thời gian lâu
dài; hoặc khi cắt giảm định phí bắt buộc cũng không thể tùy tiện dù chỉ cho một
thời gian ngắn vì nó sẽ ảnh hưởng đến quá trình sinh lợi và mục đích lâu dàu của
doanh nghiệp.
+ Định phí tùy ý: là các định phí có thể được thay đổi nhanh chóng bằng các
quyết định của nhà quản trị doanh nghiệp. Định phí không bắt buộc thường liên
quan đến kế hoạch ngắn hạn và có thể cắt bỏ khi cần thiết.
Tuy vây, việc phân chia định phí tùy ý và định phí bắt buộc chỉ mang tính chất
tương đối, tùy thuộc vào nhận thức chủ quan của nhà quản trị. Một khoản định phí
nào đó được các nhà quàn trị doanh nghiệp nhìn nhận là bắt buộc thì sẽ rất ngần


18

ngại khi ra quyết định điều chỉnh, ngược lại nếu nhìn nhận là định phí tùy ý thì có
thể thường xuyên xem xét và điều chỉnh lại khi cần.
+ Chi phí hỗn hợp: là loại chi phí mà bản than nó gồm cả các yếu tố định phí
và biến phí
Đề phục vụ cho việc lập kế hoạch, kiểm soát và chủ động điều tiết chi phí, các
nhà quản trị doanh nghiệp cần phân tích chi phí hỗn hợp thành định phí và biến phí.

Có nhiều phương pháp để phân tích chi phí như: phương pháp bình phương bé nhất,
phương pháp đồ thị, cực đại – cực tiểu…
Cách phân loại này được đặc biệt sử dụng trong việc lập kế hoạch, kiểm tra và
ra quyết định. Nó có ý nghĩa quan trọng trong việc thiết kế, xây dựng mô hình chi
phí trong mối quan hệ gữa chi phí – khối lượng – lợi nhuận, xác định điểm hòa vốn
cũng như việc ra các quyết định quan trọng. Mặt khác nó còn giúp các nhà quản trị
doanh nghiệp xác định đúng đắn phương hướng để nâng cao hiệu quả của chi phí.
- Đối với định phí: Cần có biện pháp tận dụng tối đa công suất hoạt động.
- Đối với biến phí: Phải thực hiện quản lý theo định mức, ra các biện pháp hạ
thấp mức tiêu hao chi phí, sử dụng vật liệu thay thế, tăng năng suất lao động, hiamr
sản phẩm hỏng,…
Phân loại chi phí theo khả năng quy nạp của chi phí với các đối tượng kế toán
chi phí
Chi phí trực tiếp: là những chi phí liên quan đến một đối tượng chịu chi phí
(một loại sản phẩm, một công nghệ, giai đoạn công nghệ. 1 phân xưởng sản
xuất,...), chúng ta có thể quy nạp trực tiếp cho từng đối tượng chịu chi phí căn cứ
vào chứng từ ban đầu.
Trong ngành xây dựng, thông thường chi phí trực tiếp bao gồm chi phí nguyên
vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung được tập hợp
theo từng công trình
Chi phí gián tiếp: là những chi phí có liên quan đến nhiều đối tượng chịu chi
phí. Vì vậy phải tiến hành phân bổ chi phí đó cho các đối tượng bằng phương pháp
gián tiếp thông qua các tiêu thức phân bổ hợp lý.


19

Cách phân loại này có ý nghĩa về mặt kỹ thuật quy nạp chi phí vào đối tượng
tập hợp chi phí sản xuất, khó có thể đạt được mục tiêu kiểm soát chi phí vì việc
phân bổ chi phí mặc dù đã lựa chọn tiêu thức phân bổ thích hợp nhưng vẫn mang

tính chủ quan..
Phân loại CPSX theo mối quan hệ với quy trình công nghệ SXSP và quá trình
kinh doanh;
Cách phân loại này giúp các nhà quản trị doanh nghiệp xác định được phương
hướng và biện pháp tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm. Theo cách phân loại
này, chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây lắp được chia thành:
+ Chi phí cơ bản: là những chi phí có liên quan trực tiếp đến quy trình công
nghệ sản xuất chế tạo sản phẩm , nếu thiếu một chi phí nào đó thì quy trình công
nghệ không thực hiện được như chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, nhân công trực
tiếp, khấu hao tài sản cố định,….
+ Chi phí chung: là những chi phí tổ chức, quản lý và phục vụ sản xuất mang
tính chất chung như chi phí quản lý phân xưởng, quản lý DN.
Đối với chi phí cơ bản thì không thể cắt bỏ một loại chi phí nào mà phải cố
gắng hạ thấp chi phí bằng cách giảm các định mức tiêu hao nguyên vật liệu, lao
động hoặc cải tiến quy trình công nghệ, hợp lý hóa sản xuất, tìm nguyên vật liệu
thay thế phù hợp…Còn đối với chi phí chung cần phải triệt để tiết kiệm, hạn chế,
thậm chí loại trừ các khoản chi phí không cần thiết, tăng cường quản lý chi phí
chung theo dự toán, theo chế độ chi tiêu…
Phân loại chi phí sản xuất phục vụ cho việc lập kế hoạch, kiểm tra và ra quyết
định
Theo cách phân loại này, nếu gắn quyền kiểm soát chi phí với một caaso quản
lý nào đó thì phân biệt thành: chi phí kiểm soát được và chi phí không kiểm soát
được. Chi phí kiểm soát được ở một cấp quản lý nào đó là chi phí mà cấp đó có
thẩm quyền ra quyết định.
Việc xác định chi phí kiểm soát được và không kiểm soát được có ý nghĩa
quan trọng đối với nhà quản trị ở từng cấp quản lý, giúp họ hoạch định được dự


20


toán chi phí đúng đắn hơn, hạn chế sự bị động về việc huy động nguồn lực để đảm
bảo cho các khoản chi phí.
+ Chi phí chênh lêch: là những chi phí chỉ có ở phương án này nhưng không
có hoặc chỉ có 1 phần ở phương án khác. Đây là một trong những căn cứ cơ bản để
lựa chọn phương án tối ưu.
+ Chi phí cơ hội: là những chi phí bị mất đi khi lựa chọn phương án này mà
không lựa chọn phương án khác
+ Chi phí chìm: là những chi phí đã bỏ ra trong quá khứ mà DN sẽ phải gánh
chịu bất kể lựa chọn phương án nào.
Đối với các nhà quản trị cấp cao trong doanh nghiệp, chi phí cơ hội và chi phí
chìm thường là yếu tố chi phí cơ bản để xem xét có thực hiện dự án kinh doanh hay
không, trên cơ sở tính toán mức chi phí định mức và dự toán chi phí cho từng công
trình, nhà quản trị sẽ quyết định thực hiện dự án có chi phí cơ hội thấp nhất. Đối với
các nhà quản trị chi phí cấp dưới, việc thực hiện quản trị chi phí thường nhằm mục
đích theo dõi lượng chi phí phát sinh trong kỳ so với lượng chi phí dự toán, chi phí
định mức để có quyết định điều chỉnh chi phí kịp thời.
Như vậy kế toán quản trị phân chia chi phí trong doanh nghiệp nhằm phục vụ
mục đích sử dụng thông tin của nhà quản trị, tức là tách riêng các chi phí mà chúng
sẽ biến động ở mức hoạt động khác nhau hoặc sắp xếp theo nhu cầu của một số nhà
quản trị cá biệt có trách nhiệm về chi phí đó và có thể kiểm soát chúng.
Để quản ký chi phí có hiệu quả, kế toan quản trị sử dụng thông tin của kế toán
tài chính theo các khoản mục sau:
- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: là toàn bộ các chi phí nguyên vật liệu chính
(xi măng, sắt, thép...) vật liệu phụ (đinh, que hàn...) và vật liệu khác được sử dụng
trực tiếp để tạo nên thực thể công trình.
- Chi phí nhân công trực tiếp: Là các khoản chi phí phải trả cho công nhân trực
tiếp tham gia xây dựng bao gồm tiền lương và các khoản phụ cấp mang tính chất
tiền lương.



21

- Chi phí máy thi công: Là các khoản chi phí mà đơn vị xây lắp bỏ ra có liên
quan trực tiếp đến việc sử dụng máy thi công phục vụ cho xây dựng, lắp đặt các
công trình, hạng mục công trình (máy thi công không phân biệt của đơn vị hay thuê
ngoài) như : chi phí NVL sử dụng máy thi công, chi phí tiền lương công nhân trực
tiếp điều khiển máy thi công và chi phí bằng tiền khác.
- Chi phí sản xuất chung: Là những khoản chi phí gắn liền với quá trình xây
lắp nhưng không thuộc ba khoản mục kể trên, cụ thể là: tiền lương các khoản trích
theo lương của bộ phận xây lắp, các chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí khấu hao
TSCĐ...
1.2.2. Giá thành và các loại giá sản phẩm trong doanh ghiệp xây lắp
1.2.2.1. Khái niệm và bản chất của giá thành
Giá thành sản phẩm xây lắp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản chi
phí về lao động sống, hao phí về lao động vật hoá mà doanh nghiệp xây lắp bỏ ra
liên quan đến khối lượng công trình xây dựng và lắp đặt đã hoàn thành.
Như vậy, bản chất của giá thành sản phẩm là sự chuyển dịch giá trị của các
yếu tố chi phí vào sản phẩm xây lắp, công việc lao vụ đã hoàn thành.
Khác với doanh nghiệp sản xuất công nghiệp, trong doanh nghiệp xây dựng,
giá thành sản phẩm xây lắp mang tính cá biệt. Mỗi công trình, hạng mục công trình
đều có giá trị dự toán riêng và quá trình sản xuất xây lắp phải lấy dự toán làm thước
đo. Giá thành dự toán sản phẩm xây dựng được xác định theo tài liệu thiết kế và
đơn giá xây dựng cơ bản.
1.2.2.2. Phân loại giá thành
Để đáp ứng nhu cầu về quản lý, hạch toán, giá thành sản phẩm xây lắp được
xem xét dưới nhiều góc độ, nhiều phạm vi tính toán khác nhau. Với các tiêu chí
khác nhau, giá thành sản phẩm xây lắp được chia ra làm nhiều loại như sau:
Phân loại theo thời điểm tính và nguồn số liệu để tính giá thành
Trong ngành xây dựng cơ bản hiện nay đang tồn tại ba loại giá thành công tác
xây lắp theo cách phân loại trên là: giá thành dự toán, giá thành kế hoạch và giá

thành thực tế. Cụ thể từng loại giá thành như sau :


22

+ Giá thành dự toán:
Là tổng chi phí dự toán để hoàn thành khốilượng xây lắp công trình, hạng mục
công trình.Giá thành dự toán được xác định trên cơ sở các định mức kinh tế, kỹ
thuật và đơn giá của Nhà nước.Giá thành dự toán là cơ sở để xác định giá trị dự toán
công trình. Giá thành dự toán là chỉ tiêu dùng làm căn cứ cho các doanh nghiệp xây
lắp xây dựng kế hoạch, đồng thời là căn cứ để các cơ quan Nhà nước giám sát hoạt
động sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp xây lắp. Các khoản mục được tính
vào giá trị dự toán bao gồm các chi phí trực tiếp, chi phí chung và lợi nhuận định
mức. Trong đó, lợi nhuận định mức là chỉ tiêu do Nhà nước qui định để tích luỹ cho
xã hội do ngành xây dựng tạo ra.
Giá trị dự toán
công trình, hạnh
mục công trình

Giá thành dự
= toán công trình,
hạng mục công
trình
+ Giá thành kế hoạch:

+

Thu nhập
chịu thuế
tính trước


+

Thuế
GTGT
đầu ra

Là giá thành được xác định xuất phát từ nhữngđiều kiện cụ thể của doanh
nghiệp xây lắp về các định mức, đơn giá, biện pháp tổ chức thi công trong một giai
đoạn kế hoạch nhất định.Nó là cơ sở để doanh nghiệp phấn đấu hạ giá thành công
tác xây lắp trong giai đoạn kế hoạch.Mức hạ giá thành kế hoạch thể hiện trình độ và
năng lực quản lý sản xuất của doanh nghiệp.
Giá thành kế
Giá thành dự toán
Mức hạ giá
hoạch của công
=
của công trình, hạng
thành kế
trình, hạng mục
mục công trình
hoạch
công trình
Giá thành kế hoạch công tác xây lắp là mục tiêu cơ bản trong việc phấn đấu
hạ giá thành công tác xây lắp của các doanh nghiệp xây lắp.
+ Giá thành thực tế:
Là biểu hiện bằng tiền của tất cả các chi phí thựctế của doanh nghiệp xây lắp
bỏ ra để hoàn thành khối lượng xây lắp nhất định. Giá thành thực tế được xác định
theo số liệu thực tế của kế toán doanh nghiệp.
Giá thành thực tế công tác xây lắp được xác định bao gồm cả chi phí trong



23

định mức, chi phí vượt định mức và chi phí ngoài định mức như: Các khoản bội chi,
lãng phí về vật tư, lao động tiền vốn trong quá trình sản xuất của doanh nghiệp được
phép tính vào giá thành xây lắp.
Giá thành công tác xây dựng và lắp đặt vật kết cấu gồm có giá trị vật kết cấu,
giá trị thiết bị kèm theo vật kiến trúc như thiết bị vệ sinh, thông gió, sưởi ấm…
Giá thành công trình lắp đặt thiết bị không bao gồm giá trị của bản thân thiết
bị đưa vào lắp đặt. Do vậy, khi đơn vị xây lắp nhận thiết bị của đơn vị Chủ đầu tư
(do Chủ đầu tư mua hoặc được cấp) giao để lắp đặt, đơn vị xây lắp phải ghi riêng để
theo dõi, không tính vào giá thành công trình lắp đặt.
Việc so sánh giá thành thực tế với giá thành dự toán cho phép ta đánh giá trình
độ quản lý của doanh nghiệp xây lắp này trong mối quan hệ chung với các doanh
nghiệp xây lắp khác. Việc so sánh giá thành dự toán với giá thành kế hoạch cho
phép ta đánh giá sự tiến bộ hay yếu kém của doanh nghiệp xây lắp trong điều kiện
cụ thể về cơ sở vật chất kỹ thuật và trình độ quản lý của bản thân doanh nghiệp.
Vì doanh nghiệp xây lắp có thời gian thi công dài nên để theo dõi chặt chẽ những chi
phí phát sinh doanh nghiệp xây lắp có sự phân chia giá thành thực tế thành:
+ Giá thành thực tế của khối lượng xây lắp hoàn thành quy ước:
Phản ánh giá thành của một khối lượng công tác xây lắp đạt đến một điểm
dừng kỹ thuật nhất định.Nó cho phép xác định kiểm kê kịp thời chi phí phát sinh để
kịp thời điều chỉnh cho thích hợp ở những giai đoạn sau và phát hiện những nguyên
nhân gây tăng, giảm chi phí.
+ Giá thành thực tế khối lượng xây dựng hoàn chỉnh:
Là toàn bộ chi phí chi ra để tiến hành thi công một công trình, hạng mục công
trình từ khi chuẩn bị đến khi đưa vào sử dụng.
Về nguyên tắc mối quan hệ giữa các loại giá thành trên phải đảm bảo
như sau:

Giá thành dự toán

≥ Giá thành kế hoạch

≥ Giá thành thực tế.

Ngoài ra trong xây dựng cơ bản còn sử dụng các chỉ tiêu giá thành như: Giá
dự thầu xây lắp - là một loại giá thành dự toán xây lắp do Chủ đầu tư đưa ra để các


24

doanh nghiệp xây lắp dựa vào tính giá thành của mình. Giá đấu thầu công tác xây
lắp - là loại giá thành dự toán xây lắp ghi trong hợp đồng được ký kết giữa Chủ đầu
tư và doanh nghiệp xây lắp khi thoả thuận giao nhận thầu.Đó cũng chính là giá
thành của doanh nghiệp xây lắp thắng thầu và được Chủ đầu tư thoả thuận ký hợp
đồng giao thầu.
Phân loại theo phạm vi phát sinh chi phí
Theo cách thức phân loại này, giá thành được phân chia thành giá thành sản
xuất và giá thành toàn bộ.
+ Giá thành sản xuất của sản phẩm xây lắp:
bao gồm những chi phí phát sinh liên quan đến xây dựng hay lắp đặt sản phẩm
xây lắp như: Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí
sử dụng máy thi công, chi phí sản xuất chung.
+ Giá thành toàn bộ sản phẩm xây lắp:
Bao gồm giá thành sản xuất sản phẩm xây lắp cộng thêm các chi phí bán hàng,
chi phí quản lý doanh nghiệp phân bổ cho sản phẩm xây lắp.
Cách phân loại này có ưu điểm là giúp cho các nhà quản lý biết được kết quả
kinh doanh của từng công trình, lao vụ mà doanh nghiệp thực hiện. Tuy nhiên, nó
cũng có nhược điểm là tiêu thức phân bổ có thể không được chính xác.

1.2.3.

Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành trong Doanh

nghiệp xây lắp.
Trong các doanh nghiệp sản xuất nói chung và doanh nghiệp xây dựng nói
riêng thì giữa chi phí sản xuất và giá thành có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Về mặt bản chất chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là biểu hiện hai mặt
của quá trình sản xuất kinh doanh. Giống nhau về chất vì đều biểu hiện bằng tiền
những hao phí về lao động sống và lao động vật hóa mà doanh nghiệp đã bỏ ra
trong quá trình sản xuất, xây dựng để hoàn thành một công trình, hạng mục công
trình.
Tuy nhiên, giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có sự khác nhau:
Khi nói đến chi phí sản xuất là giới hạn cho chúng một thời kỳ nhất định,


25

không phân biệt là loại sản phẩm nào, đã hoàn thành hay chưa, còn khi nói đến giá
thành là xác định một lượng chi phí nhất định, tính cho một đại lượng kết quả hoàn
thành nhất định. Như vậy chi phí sản xuất là cơ sở để tính giá thành sản phẩm.
Giá thành sản phẩm có tính chất chu kỳ để so sánh chi phí với khối lượng sản
phẩm, lao vụ, dịch vụ hoàn thành. Tại thời điểm tính giá thành có thể có một khối
lượng chưa hoàn thành, chứa đựng một lượng chi phí cho nó đó là chi phí sản xuất
dở dang cuối kỳ. Và đầy kỳ có thể có một khối lượng sản xuất chưa hoàn thành ở kỳ
trước chuyển sang để tiếp tục sản xuất, chứa đựng một lượng chi phí cho nó - đó là
chi phí sản xuất dở dang đầu kỳ.
Như vậy, giá thành sản phẩm hoàn thành trong kỳ bao gồm chi phí sản xuất
của kỳ trước chuyển sang và một phần của chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ.
Giá thành sản

Chi phí sản
Chi phí sản
Chi phí sản
phẩm xây lắp
= xuất dở dang
+
xuất phát sinh
xuất dở dang
hoàn thành
đầu kì
trong kỳ
cuối kì
Trong trường hợp chi phí sản xuất dở dang đầu kỳ và cuối kỳ bằng nhau hoặc
ở các ngành sản xuất không có sản phẩm dở dang thì:
Tổng giá thành sản phẩm = Tổng chi phí phát sinh trong kỳ
Từ công thức giá thành trên ta thấy, các khoản chi phí sản xuất hợp thành giá
thành sản phẩm nhưng không phải mọi chi phí sản xuất đều được tính vào giá thành
sản phẩm mà chi phí sản xuất gồm toàn bộ các khoản đã chi ra trong kỳ phục vụ cho
xây dựng đối với các doanh nghiệp xây lắp và giá thành chỉ giới hạn số chi phí đã
chi ra liên quan đến công trình, hạng mục công trình hoàn thành.
+ Có những chi phí được tính vào giá thành nhưng không được tính vào chi
phí kỳ này (là các chi phí phân bổ nhiều kỳ).
+ Có nhiều chi phí phát sinh trong kỳ nhưng chưa có sản phẩm hoàn thành. Do
đó chưa có giá thành.
Giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm còn khác nhau ở giá trị sản xuất
sản phẩm dở và giá trị sản xuất sản phẩm hỏng.
Như vậy, chi phí sản xuất là cơ sở để tính giá thành sản phẩm hay giá thành
sản phẩm để có được khối lượng sản phẩm hoàn thành.
Có thể thấy sự không đồng nhất giữa chi phí sản xuất và giá thành, tuy nhiên,



×