Tải bản đầy đủ (.docx) (102 trang)

luận văn thạc sĩ quản trị tài sản tại công ty TNHH TNT express worldwide VN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (564.94 KB, 102 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
-------------------------

NGUYỄN HOÀNG HẢI

QUẢN TRỊ TÀI SẢN TẠI CÔNG TY TNHH TNT
EXPRESS WORLDWIDE VN

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

HÀ NỘI, NĂM 2018
1


2

2


3

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
-------------------------

NGUYỄN HOÀNG HẢI

QUẢN TRỊ TÀI SẢN TẠI CÔNG TY TNHH TNT


EXPRESS WORLDWIDE VN

CHUYÊN NGÀNH: TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG
MÃ SỐ: 60340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS,TS. LÊ THỊ KIM NHUNG

3


4

HÀ NỘI, NĂM 2018

4


5
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi, dưới sự hướng dẫn khoa
học của PGS,TS. Lê Thị Kim Nhung. Các dữ liệu, thông tin sử dụng trong báo cáo
nghiên cứu đều có nguồn gốc rõ ràng và trung thực và được trích dẫn đúng quy định.
Tôi chịu hoàn toàn trách nhiệm về các nội dung đã cam đoan!
Hà Nội, ngày … tháng … năm 2018
Tác giả



6
MỤC LỤC


7
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Ký hiệu viết tắt

Tên đầy đủ

DN

Doanh nghiệp

TSNH

Tài sản ngắn hạn

TSDH

Tài sản dài hạn

TSCĐ

Tài sản cố định

KHTSCĐ
HĐKD


Khấu hao tài sản cố định
Hoạt động kinh doanh


8
DANH MỤC BẢNG BIỂU


9
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quá trình hội nhập và phát triển cùng cũng như tiến tới cách mạng công
nghiệp lần thứ 4 đang diễn ra trong khu vực và thế giới đã tạo cho nước ta nhiều cơ
hội và thử thách mới. Hiện nay thế giới phải đối diện với nhiều thách thức hơn, các
yếu tố môi trường tự nhiên, kinh tế, xã hội tác động đến từng quốc gia và trên phạm
vi toàn thế giới. Các doanh nghiệp tại Việt Nam ngày càng phải giải quyết nhiều
hơn những vấn đề phức tạp môi trường cạnh tranh. Đây cũng là thách thức đối với
doanh nghiệp vận tải ở nhiều nước, và để vượt qua những thách thức đó đòi hỏi
doanh nghiệp vận tải Việt Nam phải thay đổi mạnh hơn và tích cực hơn. Việc đối
mặt với những thách thức đòi hỏi nhà quản trị doanh nghiệp phải tìm ra cho mình
một hướng đi thích hợp.
Dưới góc độ lý thuyết, mỗi công ty đều có hàng loạt các loại tài sản nhất định
và sử dụng chúng trong quá trình hoạt động kinh doanh. Để tối ưu lợi nhuận, các
doanh nghiệp cần quản trị, sử dụng tối đa hiệu quả của tài sản. Trong đó, vấn đề
quản trị tài sản đang là một vấn đề cần thiết với mỗi doanh nghiệp. Đặc biệt trong
bối cảnh cạnh tranh trong ngành vận tải, việc sử dụng tài sản thế nào cho hiệu quả
mới là nhân tố quyết định cho sự tăng trưởng và phát triển của doanh nghiệp. Với ý
nghĩa đó, công tác quản trị, quản lý nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản là nội dung
rất quan trọng trong công tác quản trị tài chính doanh nghiệp. Do đó quản trị tài sản
một cách khoa học, hợp lý, thuận tiện, dễ sử dụng và được quản lý thông tin thường

xuyên là yếu tố quan trọng để thúc đẩy hiệu quả doanh nghiệp.
Dưới góc độ thực tiễn, Công ty TNHH TNT Express Worldwide VN là công ty
ngành vận tải nên được Ban giám đốc ưu tiên về việc cung cấp dịch vụ, phát triển
mạng lưới hạ tầng. Do đó, vấn đề quản trị tài sản chưa được chú trọng nhiều. Tài
sản ngắn hạn có nhiều khoản nợ khó đòi đang gây ảnh hưởng đến tình hình kinh
doanh, tài sản cố định đang gặp khó khăn khi không sử dụng hiệu quả, khấu hao
lớn. Việc quản trị lượng tài sản có giá trị lớn còn yếu kém dẫn đến tình trạng hỏng
hóc, chi phí sửa chữa thay thế nhiều ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của công ty.


10
Do đó để đứng vững trên thị trường, muốn khắc phục các hạn chế trên thì công tác
quản trị tài chính nói chung và quản trị tài sản nói riêng phải được xem xét, nghiên
cứu để có giải pháp phù hợp nhằm đạt được hiệu quả cao trong kinh doanh.
Từ đó cần thiết phải nghiên cứu công tác quản trị tài sản tại công ty TNT do
đó học viên nghiên cứu đề tài “Quản trị tài sản tại Công ty TNHH TNT Express
Worldwide VN” là đề tài nghiên cứu của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài
Đến nay có rất nhiều công trình nghiên cứu trong và ngoài nước về quản trị tài
chính nói chung và quản trị tài sản nói riêng. Dưới đây là một số công trình nghiên
cứu có liên quan.
Luận văn thạc sĩ "Hoàn thiện công tác quản lý tài sản cố định tại công ty Điện
lực Hưng Yên” tại Đại học Mỏ Địa Chất năm 2015 đã tổng quan các lý luận và thực
tiễn về tài sản cố định và quản lý tài sản cố định. Phân tích thực trạng công tác quản
lý tài sản cố định tại Công ty Điện lực Hưng Yên trong đoạn từ 2010-2014, xác định
những kết quả tích cực và những hạn chế, bất cập trong công tác quản lý TSCĐ tại
Công ty. Cuối cùng tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản
lý tài sản cố định tại Công ty Điện lực Hưng Yên.
Luận văn đề tài “Nâng cao hiệu quả quản trị tài sản ngắn hạn tại Công ty
TNHH Hệ thống Tin học - Viễn thông NDS” của tác giả Ngô Minh Trang tại Đại học

Thăng Long đã nghiên cứu, đưa ra những vấn đề lý luận cơ bản về hiệu quả sử dụng
tài sản ngắn hạn cũng như các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả quản trị tài sản ngắn
hạn trong doanh nghiệp.
Dưới góc độ quản trị vốn lưu động thì luận văn “Nâng cao hiệu quả quản trị
vốn lưu động tại công ty TNHH Vova” của tác giả Lại Thị Thủy tại Đại học Thương
Mại năm 2013 đã nghiên cứu về quản trị vốn lưu động tại Cty TNHH VOVA
chuyên gia công, sản xuất, kinh doanh các sản phẩm nội thất làm bằng gổ như:
bàn, ghế, giường, tủ, kệ sách. Đặc thù, các yếu tố ảnh hưởng đến vốn lưu động
ngành nội thất đã được tác giả khái quát chi tiết qua các chu kỳ của hoạt động
sản xuất, kinh doanh.


11
Nhận thấy tầm quan trọng và tác động của công tác quản trị tài sản sinh lời tới
hoạt động của NHTM thì luận văn Thạc sĩ “Tăng cường quản trị tài sản sinh lời tại
Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa” của tác giả Lê Văn Phương đã hệ
thống hóa trên phương diện lý luận về tầm quan trọng của công tác quản trị TSSL
trong hoạt động của NHTM, xây dựng phương pháp luận phân tích và đánh giá ảnh
hưởng của quản trị TSSL tới hoạt động NH.Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, luận văn
có thể được sử dụng để làm tài liệu tham khảo, phục vụ cho công tác quản trị điều
hành NHTM nói chung. Đặc biệt các vấn đề quản trị TSSL, rủi ro tín dụng và lợi
nhuận có thể dùng để quản trị điều hành tại Chi nhánh NHCT Đống Đa
Cuốn sách "An Introduction to Asset Management: A simple but informative
introduction to the management of physical assets" của tác giả Robert Davis
Tác giả đã nghiên cứu và cho thấy Quản trị tài sản hiệu quả cho trên toàn cầu,
mọi xã hội đều phải đối mặt với một thách thức quản trị tài sản đáng kể:
• Các nền kinh tế mới nổi đang cố gắng xác định các khoản đầu tư trở lại / chi
phí thấp nhất để đạt được lợi ích tức thời tối đa
• Các nước đang phát triển nhanh chóng đang phải đối mặt với sự hiểu biết về
chi phí vòng đời của cơ sở hạ tầng

• Các nền kinh tế trưởng thành hơn đang cố gắng tìm cách mở rộng cuộc sống
của cơ sở hạ tầng của họ và cũng sẽ gặp những thách thức toàn cầu quan trọng như
thay đổi khí hậu. Trong sách tác giả đã nghiên cứu những tư duy quản trị tài sản có
thể cung cấp cấu trúc để hỗ trợ trong tất cả các kịch bản của sự biến động trong mỗi
nền kinh tế.
Sách "Strategic Asset Management Framework" của Government of South
Australia năm 1999 đã xuất bản sách hướng dẫn các chiến lược áp dụng cho tất cả
các tài sản vật chất hoặc các nhóm tài sản được kiểm soát bởi khu vực công. Cuốn
sách cũng hướng dẫn chỉ dẫn cách áp dụng cho tất cả các tài sản có giá trị vốn vượt
quá 10000 USD vào thời điểm mua lại. Trọng tâm là kiểm soát - một cơ quan không
cần sở hữu hoặc sở hữu vật chất để kiểm soát nó. Tài sản có thể là tài nguyên thiên
nhiên, công trình xây dựng, đất đai, nhà máy và thiết bị, tài sản di sản và di sản,


12
hoặc bất kỳ dạng cơ sở hạ tầng nào khác. Không bao gồm tài chính, thông tin và
nguồn nhân lực, bao gồm cả sở hữu trí tuệ. Khung quản trị tài sản áp dụng đặc biệt
đối với các cơ quan phi thương mại trong khu vực công. Quản lý các cơ quan
thương mại nên biết rằng các nguyên tắc chung áp dụng cho các tổ chức của mình
và họ phải nỗ lực để đảm bảo rằng các chính sách và quy trình sử dụng phù hợp với
các chính sách được đề cập trong cuốn sách này.
* Một số kết luận rút ra từ tổng quan nghiên cứu:
Trên thực tế đã có một số nghiên cứu về quản trị tài chính nói chung nhưng
vẫn chưa có nghiên cứu nào về quản trị tài sản của công ty ngành chuyển phát
nhanh, và cũng chưa có nghiên cứu nào về quản trị tài sản của Công ty TNHH TNT
Express Worldwide VN. Do đó đây là một khoảng trống nghiên cứu, đảm bảo tính
không trùng lặp của đề tài nghiên cứu này.
3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
- Mục tiêu tổng quát: Nghiên cứu lý luận và thực trạng công tác quản trị tài
sản của Công ty TNHH TNT Express Worldwide VN. Từ đó đưa ra các giải pháp

phù hợp.
- Mục tiêu cụ thể:
+ Hệ thống hóa cơ sở lý thuyết về quản trị tài sản của doanh nghiệp.
+ Phân tích thực trạng công tác quản trị tài sản tại Công TNHH TNT Express
Worldwide VN trong đoạn từ 2014-2017, xác định những kết quả đạt được, chỉ rõ
những hạn chế, bất cập trong công tác quản trị tài sản tại Công ty TNHH TNT
Express Worldwide VN và nguyên nhân của nó.
+ Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản trị tài sản tại Công
ty TNHH TNT Express Worldwide VN.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là công tác quản trị tài sản tại Công TNHH
TNT Express Worldwide VN.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
- Về không gian, nghiên cứu tại Công TNHH TNT Express Worldwide VN.


13
- Về thời gian, nghiên cứu các số liệu về tài chính và tình hình sử dụng tài sản
của Công ty được thu thập trong khoảng thời gian từ năm 2014 đến năm 2017.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ nêu trên, trong quá trình nghiên cứu, tác
giả tiến hành khảo sát, thu thập các tài liệu liên quan đến nội dung nghiên cứu của
đề tài, sau đó sử dụng các phương pháp phân tích thống kê, và mô hình hoá để giải
quyết mục tiêu đã đặt ra.
Phương pháp thống kê, tổng hợp các tình huống thực tiễn và được phân tích
trên cơ sở văn bản pháp lý hiện hành và khoa học.
Phương pháp phân tích và tổng hợp các tài liệu, dữ liệu từ công ty TNT từ
năm 2014-2017. Ngoài ra sử dụng phương pháp định tính kết hợp với phương pháp
biểu đồ số liệu.

6. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về quản trị tài sản của doanh nghiệp
Chương 2: Thực trạng quản trị tài sản tại công ty TNHH TNT Express
Worldwide VN
Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện quản trị tài sản tại công ty TNHH TNT
Express Worldwide VN


14

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRỊ TÀI SẢN
CỦA DOANH NGHIỆP
1.1 Tài sản của doanh nghiệp
1.1.1 Khái niệm tài sản của doanh nghiệp
Bất kỳ một doanh nghiệp, một tổ chức muốn tiến hành kinh doanh cũng đòi
hỏi phải có một lượng vốn nhất định, lượng vốn đó biểu hiện dưới dạng vật chất hay
phi vật chất và được đo bằng tiền gọi là tài sản. Hay nói cách khác, tài sản của
doanh nghiệp là nguồn lực do doanh nghiệp kiểm soát và có thể thu được lợi ích
kinh tế trong tương lai như:
- Được sử dụng một cách đơn lẻ hoặc kết hợp với các tài sản khác trong sản
xuất sản phẩm để bày bán hay cung cấp dịch vụ cho khách hàng.
- Để bán hoặc trao đổi lấy tài sản khác.
- Để thanh toán các khoản nợ phải trả.
- Để phân phối cho các chủ sở hữu doanh nghiệp.
Theo định nghĩa khác, tài sản của doanh nghiệp là tất cả các nguồn lực có
thực, hữu hình hoặc vô hình gồm các vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản
của doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định, có khả năng mang lại lợi ích cho
doanh nghiệp đó. Tài sản doanh nghiệp cơ bản công bố trên bảng cân đối kế toán
thể hiện cơ sở vật chất, tiềm lực kinh tế doanh nghiệp dùng vào hoạt động sản xuất

kinh doanh.
1.1.2 Kết cấu tài sản của doanh nghiệp
1.1.2.1 Tài sản ngắn hạn
a. Khái niệm:
Tài sản ngắn hạn là những tài sản mà thời gian sử dụng, thu hồi luân chuyển
trong một năm hoặc một chu kỳ kinh doanh. Tài sản ngắn hạn gồm: Tiền và các
khoản tương đương tiền. Tiền được hiểu là tiền mặt, tiền gửi ngân hàng và tiền đang
chuyển. Các khoản tương đương tiền là các khoản đầu tư ngắn hạn không quá 3
tháng, có khả năng chuyển đổi dễ dàng thành tiền và không có nhiều rủi ro trong
chuyển đổi thành tiền.


15
Tài sản tài chính ngắn hạn: bao gồm các khoản đầu tư chứng khoán có thời
hạn thu hồi dưới một năm hoặc trong một chu kỳ kinh doanh (như: tín phiếu kho
Bạc, kỳ phiếu ngân hàng,…) hoặc chứng khoán mua vào bán ra (cổ phiếu, trái
phiếu) để kiếm lời và các loại đầu tư tài chính khác không quá một năm.
Các khoản phải thu ngắn hạn: Là các khoản phải thu ngắn hạn của khách hàng,
phải thu nội bộ ngắn hạn và các khoản phải thu ngắn hạn khác có thời hạn thu hồi
hoặc thanh toán dưới một năm.
Tồn kho: Bao gồm vật tư, hàng hoá, sản phẩm, sản phẩm dở dang.
Tài sản ngắn hạn khác, bao gồm: Chi phí trả trước ngắn hạn, thuế GTGT được
khấu trừ, thuế và các khoản khác phải thu Nhà nước, tài sản ngắn hạn khác.
b. Đặc điểm:
Tài sản ngắn hạn chỉ tham gia vào một chu kỳ kinh doanh và luôn thay đổi
hình thái biểu hiện.
Toàn bộ giá trị của tài sản ngắn hạn được chuyển dịch vào giá trị của sản phẩm
trong một chu kỳ kinh doanh.
Sau một chu kỳ kinh doanh, toàn bộ giá trị của một tài sản ngắn hạn được thu hồi.
Tài sản ngắn hạn là một bộ phận của vốn sản xuất nên nó vận động và luân

chuyển không ngừng trong mọi giai đoạn của quá trình sản xuất kinh doanh.
Tài sản ngắn hạn có thể dễ dàng chuyển hóa từ dạng vật chất sang tiền tệ nên
vân động phức tạp và khó quản lý.
Tài sản ngắn hạn có tính thanh khoản cao nên đáp ứng khả năng thanh toán
của doanh nghiệp.
c. Phân loại tài sản ngắn hạn:
Sử dụng tài sản ngắn hạn hiệu quả cần phân loại tài sản ngắn hạn theo những
tiêu thức khác nhau. Sau đây ta đi xem xét một số tiêu thức thường được sử dụng :
- Căn cứ vào các khâu của quá trình kinh doanh:
+ Tài sản ngắn hạn trong khâu dự trữ: Bao gồm tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ngân
hàng, tiền đang chuyển, hàng mua đang đi đường, nguyên - nhiên vật liệu tồn kho,
công cụ - dụng cụ, hàng gửi bán, hàng gửi gia công, trả trước cho người bán.


16
+ Tài sản ngắn hạn trong khâu sản xuất: Bao gồm giá trị bán thành phẩm, các
chi phí sản xuất kinh doanh dở dang, chi phí chờ kết chuyển, chi phí trả trước, các
khoản chi phục vụ cho khâu sản xuất.
+ Tài sản ngắn hạn trong khâu lưu thông: Bao gồm các khoản giá trị thành
phẩm tồn kho, vốn bằng tiền, các khoản đầu tư ngắn hạn, các khoản vốn trong thanh
toán, các khoản thế chấp, ký cược, ký quỹ ngắn hạn.
Theo cách phân loại này, vai trò và sự phân bố của tài sản ngắn hạn trong từng
khâu của quá trình luân chuyển được thể hiện một cách rõ ràng nhất, từ đó có các
biện pháp điều chỉnh hợp lý để mang lại hiệu quả cao nhất cho doanh nghiệp.
- Căn cứ theo đặc điểm chu chuyển tài sản ngắn hạn:
- Tiền: Là bộ phận tài sản ngắn hạn tồn tại dưới hình thái tiền tệ bao gồm :
+ Tiền mặt tại quỹ: Là số tiền mà doanh nghiệp đang giữ tại quỹ của mình bao
gồm tiền Việt Nam, ngân phiếu, các loại chứng từ, tín phiếu có giá trị như tiền, vàng
bạc, kim khí quí, đá quý đang được giữ tại quỹ,…
+ Tiền gửi ngân hàng: Là số tiền hiện có trên tài khoản tiền gửi ngân hàng của

doanh nghiệp tại ngân hàng, kho bạc Nhà nước, công ty tài chính (nếu có). Bao gồm
tiền Việt Nam, ngoại tệ, vàng, bạc, kim khí quý, đá quý,...
+ Tiền đang chuyển: Là số tiền mà doanh nghiệp đã nộp vào ngân hàng hay đã
gửi qua đường bưu điện, đang làm thủ tục trích chuyển tiền từ tài khoản tiền gửi của
doanh nghiệp sang tài khoản tiền gửi của doanh nghiệp khác mà doanh nghiệp chưa
nhận được giấy báo có của ngân hàng.
- Đầu tư tài chính ngắn hạn: Là các khoản đầu tư của doanh nghiệp ra bên
ngoài được thực hiện dưới hình thức cho vay, cho thuê, góp vốn liên doanh, mua
bán chứng khoán (trái phiếu, cổ phiếu, tín phiếu,…) có thời gian sử dụng, thu hồi
vốn không quá một năm.
- Các khoản phải thu ngắn hạn: Là toàn bộ các khoản mà doanh nghiệp có
nghĩa vụ phải thu từ các đối tượng khác : Phải thu thu từ khách hàng, phải thu nội
bộ, các khoản thế chấp, cầm cố, ký quỹ, ký cược,…
Trong các doanh nghiệp, việc mua bán chịu là thường xuyên xảy ra, đôi khi để
thực hiện các điều khoản trong hợp đồng kinh tế doanh nghiệp phải trả trước một


17
khoản nào đó, từ đây nó hình thành nên các khoản thu của doanh nghiệp. Khi các
khách trả nợ của doanh nghiệp gặp thất bại, rủi ro trong kinh doanh là nguyên nhân
làm phát sinh các khoản nợ khó đòi. Vì vậy, việc tính lập các khoản dự phòng là cần
thiết, nó sẽ đảm bảo cho các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được tiến hành
bình thường và tương đối ổn định. Khoản chi dự phòng này là một bộ phận trong
khoản phải thu và là một phần tài sản lưu động của doanh nghiệp.
- Hàng tồn kho: Hàng tồn kho ở doanh nghiệp phải là những tài sản hữu hình
thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp được sử dụng vào sản xuất kinh doanh hoặc
thực hiện lao vụ, dịch vụ, hàng hoá để gửi bán hoặc gửi đi bán trong kỳ kinh doanh.
ở doanh nghiệp sản xuất, hàng tồn kho thường bao gồm: nguyên liệu, vật liệu chính,
vật liệu phụ, công cụ lao động, vật liệu bao bì đóng gói, thành phẩm, sản phẩm dở
dang,…

+ Nguyên liệu, vật liệu chính gồm: giá trị những loại nguyên vật liệu khi tham
gia vào quá trình sản xuất là bộ phận cơ bản cấu thành nên sản phẩm.
+ Vật liệu phụ: là những loại vật liệu khi tham gia vào quá trình sản xuất thì
nó không chỉ có tác dụng phụ trong quá trình sản xuất chế tạo, nó làm tăng chất
lượng của nguyên vật liệu chính của sản phẩm tạo ra.
+ Thành phẩm là những sản phẩm đã kết thúc qua quá trình chế biến do các bộ
phận sản xuất chính và phụ của doanh nghiệp sản xuất hoặc thuê ngoài gia công đã
xong, được kiểm nghiệm phù hợp với tiêu chuẩn kỹ thuật và nhập kho để bán.
+ Sản phẩm dở dang : là những sản phẩm đang nằm trong dây chuyền sản xuất
chưa hoàn thành, chưa bàn giao mà phải gia công chế biến tiếp mới trở thành sản phẩm.
+ Công cụ, dụng cụ lao động: là những tư liệu lao động mà doanh nghiệp sử
dụng trong quá trình tiến hành sản xuất kinh doanh, chúng không đủ tiêu chuẩn là
tài sản lưu động vì giá trị nhỏ và thời gian sử dụng tương đối ngắn.
+ Bao bì, vật liệu đóng gói: là những tư liệu lao động mà doanh nghiệp sử
dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh, nó luôn đi cùng với sản phẩm của doanh
nghiệp trong quá trình sản xuất và tiêu thụ.
- Tài sản ngắn hạn khác: Bao gồm các khoản tạm ứng, chi phí trả trước và các
khoản thế chấp, ký cược, ký quỹ ngắn hạn,…


18
+ Các khoản tạm ứng: là các khoản tiền hoặc vật tư do doanh nghiệp giao cho
người nhận tạm ứng để thực hiện hoạt động kinh doanh nào đó hoặc giải quyết một
công việc đã được phê duyệt.
+ Chi phí trả trước: là các khoản chi phí thực tế đã phát sinh nhưng có tác
dụng đến kết quả hoạt động của nhiều kỳ thanh toán, cho nên chưa thể tính vào chi
phí sản xuất kinh doanh một kỳ mà được tính cho hai hay nhiều kỳ hạch toán.
Qua cách phân loại như trên ta thấy được tình hình tài sản ngắn hạn hiện có
của doanh nghiệp về hình thái vật chất cũng như đặc điểm của từng loại tài sản ngắn
hạn, để có thể đánh giá việc sử dụng tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp có hợp lý

và hiệu quả không, từ đó phải tăng cường các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng
tài sản ngắn hạn.
1.1.2.2 Tài sản dài hạn
a. Khái niệm:
Tài sản dài hạn là những tài sản có thời gian sử dụng, thu hồi luân chuyển giá
trị từ một năm trở lên hoặc tham gia vào nhiều chu kỳ kinh doanh của doanh
nghiệp.
Tất cả các tài sản khác ngoài tài sản ngắn hạn được xếp vào loại tài sản dài
hạn. Tài sản dài hạn bao gồm các khoản phải thu dài hạn, tài sản cố định, bất động
sản đầu tư, các khoản tài sản tài chính dài hạn và các tài sản dài hạn khác.
- Các khoản phải thu dài hạn: là các khoản phải thu dài hạn của khách hàng,
phải thu nội bộ dài hạn và các khoản phải thu dài hạn khác có thời hạn thu hồi hoặc
thanh toán trên một năm.
- Bất động sản đầu tư: là những bất động sản, gồm: quyền sử dụng đất, nhà
hoặc một phần của nhà hoặc cả nhà và đất, cơ sở hạ tầng do người chủ sở hữu hoặc
người đi thuê tài sản theo hợp đồng thuê tài chính nắm giữ nhằm mục đích thu lợi từ
việc cho thuê hoặc chờ tăng giá mà không phải để sử dụng trong sản xuất, cung cấp
hàng hoá, dịch vụ hay cho các mục đích quản trị hoặc bán trong kỳ hoạt động kinh
doanh thông thường.


19
b. Đặc điểm của từng loại tài sản dài hạn:
Do TSDH có nhiều loại khác nhau, mỗi loại có những đặc điểm và yêu cầu
quản trị khác nhau. Vì vậy, để quản trị tốt TSDH cần phải phân loại TSDH một cách
hợp lý. Căn cứ vào hình thái tồn tại, TSDH bao gồm:
Tài sản cố định
Theo thông tư số 45/2013/TT-BTC, tài sản cố định là những tư liệu lao động
chủ yếu có giá trị lớn, có thời gian sử dụng dài, tham gia vào nhiều chu kỳ kinh
doanh của DN. Các điều kiện để một tài sản được coi là TSCĐ:

- Có nguyên giá được xác định một cách đáng tin cậy và có giá trị từ
30.000.000 đồng (ba mươi triệu đồng) trở lên.
- Có thời gian sử dụng từ 1 năm trở lên.
- Chắc chắn mang lại lợi ích trong tương lai.
Phân loại và đặc điểm của TSCĐ:
Phân loại theo hình thái biểu hiện:
Phân loại TSCĐ theo hình thái biểu hiện giúp cho nhà quản trị có một cái nhìn
tổng thể về cơ cấu đầu tư của DN. Đây là một căn cứ quan trọng để xây dựng các
quyết định đầu tư hoặc điều chỉnh phương hướng đầu tư phù hợp với tình hình thực
tế. Ngoài ra, cách phân loại này còn giúp DN có các biện pháp quản trị tài sản, tính
toán khấu hao khoa học và hợp lý đối với từng loại tài sản. Theo phương pháp này,
toàn bộ TSCĐ của DN được chia thành hai loại:
- TSCĐ hữu hình: Là những TSCĐ có hình thái vật chất cụ thể (từng đơn vị tài
sản có kết cấu độc lập hoặc là một hệ thống gồm nhiều bộ phận tài sản liên kết với
nhau để thực hiện một hay một số chức năng nhất định) thỏa mãn các tiêu chuẩn
của TSCĐ hữu hình, tham gia vào nhiều chu kì kinh doanh nhưng vẫn giữ nguyên
hình thái vật chất ban đầu như nhà cửa, vật kiến trúc, máy móc,...
- TSCĐ vô hình: Là những TSCĐ không có hình thái vật chất và có khả năng
tạo ra quyền, lợi ích kinh kế, thu nhập cho người có quyền sở hữu. Tuy nhiên một
số tài sản vô hình có thể được chứa đựng trong hoặc trên thực thể vật chất mà giá trị
của thực thể vật chất đó không đáng kể so với giá trị tài sản vô hình (ví dụ: hợp


20
đồng, hồ sơ đăng ký, đĩa mềm máy tính....). Giá trị của tài sản vô hình có thể ước
lượng được.
Phân loại theo quyền sở hữu
Phân loại theo quyền sở hữu giúp cho việc quản trị và tổ chức hạch toán phù
hợp theo từng loại TSCĐ, góp phần sử dụng TSCĐ một cách hợp lý và hiệu quả.
Dựa theo tiêu thức này, TSCĐ được chia làm hai loại:

- TSCĐ tự có: Là những TSCĐ được xây dựng, mua sắm và hình thành từ
nguồn vốn ngân sách được cấp, nguồn vốn vay, nguồn vốn liên doanh, các quỹ của
DN và các TSCĐ được biếu, tặng,... Đây là những TSCĐ thuộc quyền sở hữu của
DN và được phản ánh trên Bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp.
- TSCĐ thuê ngoài: Là những TSCĐ đi thuê để sử dụng trong một thời gian
nhất định theo hợp đồng thuê tài sản. Tuỳ theo điều khoản của hợp đồng thuê mà
TSCĐ đi thuê được chia thành TSCĐ thuê tài chính và TSCĐ thuê hoạt động.
+ TSCĐ thuê tài chính: là những TSCĐ đi thuê nhưng DN có quyền kiểm soát
và sử dụng lâu dài theo các điều khoản của hợp đồng thuê. Quyền sở hữu TSCĐ
thuê tài chính được chuyển cho bên cho thuê khi hết hạn hợp đồng. Hợp đồng cho
phép bên đi thuê được lựa chọn mua TSCĐ thuê với giá thấp hơn giá trị thực tế của
TSCĐ thuê tại thời điểm mua lại. TSCĐ thuê tài chính cũng được coi như TSCĐ
của DN, được phản ánh trên Bảng cân đối kế toán, DN có trách nhiệm quản trị, sử
dụng và trích khấu hao như các TSCĐ tự có của doanh nghiệp.
+ TSCĐ thuê hoạt động: là TSCĐ thuê không thoả mãn bất cứ điều khoản nào
của hợp đồng thuê tài chính. Bên đi thuê chỉ được quản lý, sử dụng trong thời hạn
hợp đồng và phải hoàn trả cho bên cho thuê khi kết thúc hợp đồng.
Bất động sản đầu tư
Là bất động sản bao gồm: quyền sử dụng nhà, đất, hoặc một phần của nhà
hoặc cả nhà và đất, cơ sở hạ tầng do người chủ sở hữu hoặc người đi thuê tài sản
theo hợp đồng tài chính nắm giữ nhằm mục đích thu lợi từ việc cho thuê hoặc chờ
tăng giá mà không phải để: Sử dụng trong sản xuất, cung cấp hàng hóa, dịch vụ
hoặc sử dụng cho các mục đích quản trị hoặc bán trong kỳ sản xuất, kinh doanh
thông thường.


21
Điều kiện để một bất động sản được coi là bất động sản đầu tư:
- Chắc chắn thu được lợi ích kinh tế trong tương lai
- Nguyên giá của bất động sản đầu tư phải được xác định một cách đáng tin cậy.

Các khoản đầu tư tài chính dài hạn
Các khoản đầu tư tài chính dài hạn là các khoản đầu tư vào việc mua bán các
chứng khoán có thời hạn thu hồi trên 1 năm hoặc góp vốn liên doanh bằng tiền, hiện
vật, mua cổ phiếu có thời hạn thu hồi trên 1 năm và các loại đầu tư khác trên 1 năm.
Có thể nói tài sản tài chính dài hạn là các khoản vốn mà DN đầu tư vào các lĩnh vực
kinh doanh khác ngoài hoạt động sản xuất kinh doanh của DN trong thời hạn trên 1
năm nhằm tạo ra nguồn lợi tức lâu dài cho DN.
Các khoản đầu tư tài chính dài hạn bao gồm:
- Các chứng khoán dài hạn: Phản ánh giá trị các khoản đầu tư cho việc mua
bán cổ phiếu và trái phiếu có thời hạn trên 1 năm và có thể bán ra bất cứ lúc nào để
kiếm lợi nhuận: Cổ phiếu DN, trái phiếu (trái phiếu Chính phủ, trái phiếu địa
phương, trái phiếu công ty).
- Các khoản góp vốn liên doanh: góp vốn liên doanh là hoạt động đầu tư tài
chính mà DN đầu tư vốn vào DN khác để nhận được lợi nhuận kết quả kinh doanh
hoặc cùng chịu rủi ro với DN đó. Vốn góp liên doanh bao gồm các loại tài sản, vật
tư, tiền vốn thuộc quyền sở hữu của DN kể cả vốn vay dài hạn dùng vào việc góp
vốn kinh doanh.
Các khoản phải thu dài hạn
Cũng tương tự như các khoản phải thu ngắn hạn, các khoản phải thu dài hạn là
những khoản nợ công ty chưa đòi được, tính cả nợ chưa đến hạn thanh toán nhưng
có thời hạn hơn 1 năm hoặc hơn 1 chu kỳ sản xuất kinh doanh. Độ lớn cũng như
mức độ rủi ro của các khoản phải thu tùy thuộc vào chính sách tín dụng, tốc độ thu
hồi nợ cũ, tốc độ tạo ra nợ mới hoặc sự tác động của các yếu tố nằm ngoài sự kiểm
soát của DN như chu kỳ suy thoái của nền kinh tế, khủng hoảng tiền tệ. Trong quá
trình tồn tại, các khoản phải thu sẽ phát sinh chi phí quản trị nợ phải thu, chi phí thu
hồi nợ, chi phí rủi ro.


22
Các TSDH khác

Bao gồm chi phí trả trước dài hạn, chi phí đầu tư xây dựng cơ bản dở dang và
ký cược, ký quỹ dài hạn.
c. Kết cấu tài sản dài hạn:
- Căn cứ vào hình thái tồn tại, tài sản dài hạn của doanh nghiệp gồm:
+ Giá trị của TSCĐ
+ Giá trị các khoản đầu tư tài chính dài hạn
+ Giá trị bất động sản đầu tư
+ Giá trị các khoản phải thu dài hạn
+ Giá trị các tài sản dài hạn khác
1.1.3 Vai trò của tài sản đối với doanh nghiệp
Tài sản là biểu hiện về mặt hiện vật của vốn, là các yếu tố đầu vào của quá
trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Quá trình sản xuất kinh doanh luôn có
sự tác động qua lại của ba yếu tố cơ bản là sức lao động, tư liệu lao động và đối
tượng lao động.
+ Tư liệu lao động: tương ứng với TSDH
+ Đối tượng lao động: tương ứng với TSNH
+ Sức lao động: tương ứng với lực lượng lao động trong doanh nghiệp.
Tư liệu lao động là một vật thể làm nhiệm vụ truyền dẫn sự tác động của con
người lên đối tượng lao động theo mục đích của mình. Quá trình sản xuất kinh
doanh không thể thiếu một trong ba yếu tố trên. Quá trình sản xuất kinh doanh tạo
ra các sản phẩm, dịch vụ. Trong các sản phẩm đó có giá trị mới tăng thêm để tạo ra lợi
nhuận chính cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó tư liệu lao động chính là tài sản của doanh
nghiệp, tổ chức. Điều đó cho thấy, tài sản là nguồn lực đầu vào của quá trình sản xuất
kinh doanh, là tiền đề tạo ra lợi nhuận của doanh nghiệp. Điều đó cho thấy tài sản đóng
vai trò then chốt, quyết định đến sự phát triển bền vững của doanh nghiệp.
Đối tượng lao động là bộ phận của giới tự nhiên mà lao động của con người
tác động vào làm thay đổi hình thái để phù hợp với nhu cầu con người. Đối tượng
lao động chia thành hai loại: Loại có sẵn trong tự nhiên (công nghiệp khai thác) và



23
loại đã trải qua lao động, được cải biến ít nhiều (công nghiệp chế biến). Sự phát
triển của cách mạng KHKT đã giúp con người tạo ra nhiều vật liệu mới có chất
lượng ngày càng tốt hơn để thay thế dần cho các nguyên vật liệu truyền thống đang
cạn kiệt.
Sức lao động là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong một
cơ thể con người đang sống và được người đó đem ra sử dụng khi sản xuất một giá
trị sử dụng nào đó. Bên cạnh đó, sức lao động còn là khả năng lao động của con
người, là điều kiện tiên quyết của mọi quá trình sản xuất. Lao động là sử dụng sức
lao động có mục đích, có ý thức của con người nhằm thay đổi các vật thể tự nhiên
cho phù hợp với nhu cầu con người.
Ta thấy, 2 trong 3 yếu tố tạo nên quá trình sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp tài sản. Vì vậy tài sản có vai trò rất quan trọng trong quá trình sản xuất kinh
doanh của nghiệp.
1.1.3.1 Vai trò của tài sản ngắn hạn
TSNH rất quan trọng trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp bởi đó là những tài sản được sử dụng trong cho hoạt động hàng ngày và chi
trả cho các chi phí phát sinh. TSNH được phân bố đủ trong tất cả các khâu, các
công đoạn nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được diễn ra liên tục,
ổn định, tránh lãng phí và tổn thất vốn do ngừng sản xuất, không làm ảnh hưởng
đến khả năng thanh toán và đảm bảo khả năng sinh lời của tài sản.
TSNH là những tài sản có thời gian sử dụng dưới một năm nên có khả năng
luân chuyển và thu hồi vốn nhanh hơn TSCĐ, đảm bảo lượng vốn hoạt động cho
các chu kỳ kinh doanh kế tiếp của doanh nghiệp.
TSNH cũng là yếu tố giúp cho các nhà đầu ư có thể nhận định về hiệu quả
hoạt động của doanh nghiệp. Lượng tiền bị tồn đọng trong hàng tồn kho hoặc
lượng tiền mà khách hàng còn đang nợ của doanh nghiệp cho dù đó vẫn là các tài
sản thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp. Vì vậy nếu một doanh nghiệp không
hoạt động ở mức hiệu quả cao nhất định (Ví dụ: thu hồi nợ chậm) thì điều này sẽ
biểu hiện ra ngoài bằng sự gia tăng trong TSNH. Có thể nhận thấy điều này rõ



24
ràng hơn nếu so sánh TSNH của doanh nghiệp qua từng thời kỳ việc thu hồi nợ
chậm có thể là dấu hiệu cho thấy những nguy cơ tiềm ẩn trong hoạt động của
doanh nghiệp.
TSNH thường được so sánh với nợ ngắn hạn để xác định khả năng thanh toán
ngắn hạn và vốn lưu động ròng của doanh nghiệp từ đó hoạch định các chính sách
tín dụng, chính sách đầu tư và quản trị các khoản nợ của doanh nghiệp.
1.1.3.2 Vai trò của tài sản dài hạn
Tài sản dài hạn có vai trò rất quan trọng trong sản xuất và kinh doanh vì nó là
đối tượng hữu hình và trực tiếp cung cấp dịch vụ, sản xuất.Trong thời công nghệ, kỹ
thuật phát triển hiện nay tài sản dài hạn tài sản cố định, bất động sản đầu tư, các
khoản tài sản tài chính dài hạn và các tài sản dài hạn khác luôn có một vai trò quan
trọng vì mang một tầm vóc lớn vì muốn đánh giá sản phẩm có chất lượng cao hay
không thì chúng ta phải xem máy móc thiết bị như ô tô, nhà xưởng….(TSCĐ) của
doanh nghiệp sản xuất ra sản phẩm đó có hiện đại không. Vì chỉ có dây chuyền
công nghệ , trang thiết bị máy móc hiện đại mới sản xuất ra được một sản phẩm tốt.
Nói tóm lại tài sản dài hạn có vai trong và vị trí rất quan trọng trong công cuộc sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2 Quản trị tài sản của doanh nghiệp
Kinh doanh là một hoạt động kiếm lời mà lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu của
doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Để đạt được mục đích tối đa hóa lợi
nhuận, các DN cần phải không ngừng nâng cao trình độ quản trị kinh doanh, trong
đó quản trị và sử dụng tài sản là một phần rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến
hiệu quả sản xuất kinh doanh. Do đó, ta có thể thấy được mục tiêu hàng đầu của các
doanh nghiệp hiện nay chính là tăng cường quản trị tài sản. Quản trị tài sản được
hiểu là quá trình duy trì, nâng cấp, vận hành, sử dụng tài sản một cách thống nhất,
hiệu quả theo các nguyên tắc về kỹ thuật và quản trị kinh doanh, từ đó giúp nhà
quản trị ra các quyết định cần thiết để tối đa hóa lợi ích của DN. Như vậy, có thể

hiểu quản trị tài sản tại DN là quá trình tổ chức, điều hành việc hình thành và sử
dụng tài sản của DN nhằm đạt được mục tiêu nhất định.


25
1.2.1 Quản trị tài chính doanh nghiệp và quản trị tài sản của doanh nghiệp
1.2.1.1 Quản trị tài chính của doanh nghiệp
Tài chính là một khái niệm nảy sinh từ hoạt động kinh tế của các chủ thể trong
nền kinh tế thị trường. Các chủ thể đó có thể là nhà nước, doanh nghiệp hoặc tổ
chức phi lợi nhuận, cá nhân, hộ gia đình.
Theo GS.TS. Đinh Văn Sơn: “Tài chính doanh nghiệp là hệ thống các quan
hệ kinh tế trong phân phối dưới hình thức giá trị của cải vật chất thông qua tạo lập
và sử dụng các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp để phục vụ kinh doanh và các yêu cầu
chung khác của xã hội”.
Theo TS. Nguyễn Minh Kiều định nghĩa: “Tài chính nói chung là hoạt động
liên quan đến việc hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ. Tài chính doanh nghiệp là
hoạt động liên quan đến việc huy động hình thành nên nguồn vốn và sử dụng nguồn
vốn đó để tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản của doanh nghiệp nhằm đạt mục tiêu
đề ra”.
Nhìn chung, các khái niệm về tài chính doanh nghiệp tuy có khác nhau giữa
các tác giả, nhưng đều đưa đến một sự thống nhất chung là: “Tài chính doanh
nghiệp là hệ thống các luồng chuyển dịch giá trị, phản ánh sự vận động và chuyển
hóa các nguồn tài chính trong quá trình phân phối nhằm tạo lập hoặc sử dụng các
quỹ tiền tệ để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp”.
Dưới góc độ quản trị thì quản trị tài chính doanh nghiệp được nhìn dưới góc
độ khác nhau như:
Theo Nguyễn Mạnh Cường (2015) thì "Quản trị tài chính doanh nghiệp là
việc lựa chọn và đưa ra các quyết định tài chính, tổ chức thực hiện các quyết định
đó nhằm đạt được mục tiêu hoạt động tài chính của ddoanh nghiệp, đó là tối đa
hóa giá trị cho chủ doanh nghiệp hay tối đa hóa lợi nhuận, không ngừng làm tăng

giá trị doanh nghiệp và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường".
Dưới góc độ khác thì Quản trị tài chính của tác giả Prasanna Chandra đề cập đến
việc quản trị tiền (quỹ) hiệu quả và hiệu quả theo cách thức để đạt được các mục
tiêu của tổ chức. Đó là chức năng chuyên môn trực tiếp liên kết với ban quản trị cấp
cao. Ý nghĩa của chức năng này không được nhìn thấy trong 'Đường dây'(Line) mà


×