Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Đề cương ôn tập học kì 1 môn Ngữ văn 8 năm 2019-2020 - Trường THCS Hòa Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (623.09 KB, 26 trang )

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP NGỮ VĂN 8 ­ HỌC KÌ I 
Năm học : 2019 ­ 2020
I. Phần văn bản:
Bảng thống kê các văn bản đã học:
TT

Tác 
phẩm

Tác giả

1

Tôi đi  Thanh Tịnh (1911­1988)
học

2

Trong  Nguyên Hồng (1918­1982)
lòng 
mẹ

3

Tức 
nước 
vớ bờ

Ngô Tất Tố (1893­1954)

Giá trị nội 


dung

Tuổi học trò 
sâu lắng 
đáng yêu cần 
cảm ơn công 
lao sinh 
thành của 
cha mẹ.

Giá trị nghệ thuật

Ý nghĩa

­Văn tự sự kết hợp  Buổi tựu trường  đầu 
hài hòa chặt chẽ với  tiên sẽ măi măi không 
miêu tả và biểu 
thể  nào quên trong kí 
cảm, làm cho truyện  ức   của   nhà   văn 
ngắn đậm chất trữ  Thanh Tịnh.
tình
­Tài sử dụng ngôn 
ngữ ngắn của nhà 
văn với những hồi 
ức sâu lắng đáng 
yêu.
Là bài ca 
Phương thức tự sự 
­   Tình   mẫu   tử   là 
chân tình 

và biểu cảm kết 
mạch   nguồn   tình 
cảm động về  hợp với lời văn chân  cảm   khơng   bao   giờ 
tình mẫu tử,  tình giàu cảm xúc, 
vơi   trong   tâm   hồn 
đó là những  với những thủ pháp  con người.
cay đáng tủi  so sánh độc đáo.
nhục, cùng 
tình yêu 
thương cháy 
bỏng của 
nhà văn đối 
với người 
mẹ.
Tác phẩm đã  Khắc họa nhân vật  Với   cảm   quan   nhạy 
vạch trần bộ  rõ nét, ngôn ngữ kể  bén,   nhà   văn   Ngô   tất 
mặt tàn ác 
chuyện miêu tả đối  Tố   đã  phản  ánh  hiện 
bất nhân của  thoại đặc sắc.
thực   về   sức   phản 
xã hội thực 
kháng mãnh liệt chống 
dân phong 
lại áp bức của những 
kiến, Vẻ 
người   nông   dân   hiền 
đẹp của một 
lành chất phác.
tâm hồn đầy 
yêu thương, 

dịu dàng, 
chịu đựng, 
ngang tàng, 


4

Lão 
hạc

Nam Cao (1917­1951)

5

Cô bé 
bán 
diêm

An­đéc­xen (1805­1875)

bất khuất 
của người 
phụ nữ trước 
cách mạng 
tháng 8 tư 
thế là người 
rất đẹp của 
chị dậu là ko 
chịu sống 
quỳ.

Truyện ngắn 
đã thể hiện 
một cách 
chân thực và 
cảm động số 
phận đau 
thương của 
người nông 
dân trong xã 
hội cũ và 
phẩm chất 
cao quý tiềm 
tàng của họ. 
Đồng thời 
truyện ngắn 
còn cho thấy 
tấm lòng yêu 
thương trân 
trọng đối với 
người nông 
dân.
Niềm 
thương cảm 
sâu sắc đối 
với những 
con người 
bất hạnh, 
niềm tin của 
con người và 
tấm lòng 

nhân ái của 
nhà văn.

Tạo dựng tình 
huống truyện bất 
ngờ, ngôn ngữ phù 
hợp với từng nhân 
vật, con chó vàng 
mang màu sắc triết 
lí, xây dựng nhân 
vật bằng miêu tả 
ngoại hình để bộc 
lộ nội tâm, tâm lí 
của nhân vật.

Văn   bản   thể   hiện 
phẩm   chất   của 
người   nông   dân 
không thể  bị  hoen  ố 
dù   phải   sống   trong 
cảnh khốn cùng.

­Cách kể chuyện 
hấp dẫn đan xen 
giữa mộng tưởng và 
thực tế, sử dụng 
hình ảnh tương 
phản đối lập đặc 
sắc.
­Sự kết hợp chặt 

chẽ giữa yếu tố kể, 
tả, biểu cảm.
­Xây dựng tình 
huống truyện độc 
đáo, hấp dẫn phù 
hợp với tâm lí trẻ 
thơ.

Truyện thể hiện 
niềm thương cảm 
sâu sắc của nhà văn 
đối với những số 
phận bất hạnh


6

Đánh 
nhau 
với 
cối 
xay 
gió

Xéc­van­téc (1547­1616)

7

Chiếc  O hen­ri (1862­1910)
lá 

cuối 
cùng

8

Hai 
cây 
phong

Ai­ma­ tốp (1928­2008)

9

Ôn 
dịch, 
thuốc 


Nguyễn Khắc Viện

Sử dụng 
Sử dụng phép tương 
tiếng cười 
phản trong xây 
khôi hài để 
dựng nhân vật.
diễu cợt cái 
hoang tưởng, 
tầm thường 
đề cao thực 

tế và sự cao 
thượng.
Ca ngợi tình 
bạn, tình 
người đằm 
thắm, tha 
thiết, thủy 
chung, trong 
sáng nghệ 
thuật chân 
chính phục 
vụ con 
người, hãy 
yêu thương 
trân trọng 
con người 
nhất là 
những con 
người nghèo 
khổ.
Vẻ đẹp thân 
thuộc cao 
quý của hai 
cây phong 
gắn liền với 
tình thương 
tha thiết của 
tác giả.

Kể câu chuyện về sự 

thất bại của Đôn Ki 
– hô – tê đánh nhau 
với cối xay gió, nhà 
văn chế giễu lí tưởng 
hiệp sĩ phiêu lưu, hão 
huyền, phê phán thói 
thực dụng thiển cận 
của con người trong 
đời sống xã hội
Xây dựng cốt 
Là  câu  chuyện  cảm 
truyện đơn giản, 
động   về   tình   yêu 
giàu kịch tính, kết 
thương giữa nghững 
cấu truyện tương 
người   nghệ   sĩ 
phản, tinh tế hai lần  nghèo.   Qua   đó,   tác 
đảo ngược kết thúc  giả   thể   hiện   quan 
truyện bất ngờ, 
niệm   của   mình   về 
ngôn ngữ kể truyện  mục   đích   của   sáng 
giản dị nhẹ nhàng 
tạo nghệ thuật.
và sâu sắc.

­Nhân vật kể 
chuyện kết hợp với 
hai mạch kể, gắn 
với hai đại từ nhân 

xưng là tôi và chúng 
tôi.
­Phương thức biểu 
đạt kết hợp với 
miêu tả, nhân hóa 
cao độ.
Nạn hút 
Kết hợp lập luận 
thuốc lá lây  chặt chẽ, dẫn 
lan, gây tổn  chướng sinh động, 
thất to lớn 
với thuyết minh cụ 
cho sức khỏe  thể, phân tích trên 
của con 
cơ sở khoa học. Sử 
người, cho 
dụng thủ pháp so 
cuộc sống 
sánh để thuyết minh 
của gia đình  một cách thuyết 
và xã hội nên  phục một vấn đề y 
phải quyết 
học có liên quan 

Hai cây phong là biểu 
tượng   của   tình   yêu 
quê   hương  sâu  nặng 
gắn   liền   với   những 
kĩ niệm tuổi thơ  đẹp 
đẽ  của người họa sĩ 

làng Ku­Ku­rêu

Với những phân tích 
khoa học, tác giả   đã 
chỉ   ra   tác   hại   của 
việc hút thuốc lá đối 
với   đời   sống   con 
người,   từ   đó   phê 
phán và kêu gọi mọi 
người   ngăn   ngừa   tệ 
nạn hút thuốc lá


tâm để 
đến xã hội.
chống lại 
nạn dịch này.
10

Bài 
Thái An
toán 
dân số

11

Thông 
tin về 
ngày 
trái 

đất 
năm 
2000

12

Đập 
đá ở 
Côn 
Lôn

Văn bản đã 
nêu lên vấn 
đề thời sự 
của nhân 
loại, dân số 
và tương lai 
của dân tộc 
nhân loại.

Tác giả đã đưa ra 
các con số buộc 
người đọc phải tinh 
tưởng và suy ngẫm 
về sự gia tăng dân 
số đang lo ngại của 
thế giới, nhất là 
những nước chậm 
phát triển.
Tác hại của  Bố cục chặt chẽ lô 

bao bì ni 
rích, lối lí lẽ ngắn 
lông, lợi ích  gọn, giải thích đơn 
của việc hạn  giản, kết hợp 
chế sử dụng  phương pháp liệt kê 
bao bì ni lông  phân tích.
để bảo vệ 
môi trường 
sống.
Hình tượng   Hình ảnh thơ mạnh 
đẹp đẽ 
mẽ khoáng đạt, 
ngang tàng 
giọng thơ hào hùng, 
của người 
sử dụng hình ảnh 
anh hùng cứu  đối lập.
nước. Dù 
gian nan thử 
thất nhưng 
ko sờn lòng 
đổi chí, khí 
phách hiên 
ngang, kiên 
cường, ý chí, 
nghị lực lớn 
lao của 
người chiến 
sĩ cách 
mạng. 


Phan Châu Trinh 
(1872­1926)

Văn bản nêu lên vấn 
đề   thời   sự   của   đời 
sống   hiện   đại :   Dân 
số   và   tương   lai   của 
dân tộc, nhân loại.

Nhận   thức   về   tác 
dụng   của   một   hành 
động   nhỏ,   có   tính 
khả   thi   trong   việc 
bảo   vệ   môi   trường 
trái đất.

Nhà tù của đế  quốc, 
thực   dân   không   thể 
khuất   phục   ý   chí, 
nghị  lực và niềm tin, 
lí   tưởng   của   người 
chí sĩ cách mạng.

II.Phần tiếng việt:
1: Lập bảng thống kê các kiến thức đã học:
TT

Tên từ 
vựng, câu, 

dấu câu

Khái niệm

Dấu hiệu, hình thức, chức năng

Ví dụ


Câu ghép là những 
câu do hai hoặc 
nhiều cụm C­V 
không bao chứa 
nhau tạo thành. 
Mỗi cụm C­V này 
được gọi là một 
vế câu

1

Câu ghép

2

Cấp độ 
khái quát 
của nghĩa 
từ ngữ

3


Trường từ  Trường từ vựng là 
vựng
tập hợp của 
những từ có ít 
nhất một nét 

*Có hai cách nối các vế câu:
­Dùng những từ có tác dụng 
nối.Cụ thể:
+Nối bằng một quan hệ từ;
+Nối bằng một cặp quan hệ từ;
+Nối bằng một cặp phó từ, đại 
từ hay chỉ từ thường đi đôi với 
nhau (cặp từ hô ứng).
­Không dùng từ nối: Trong 
trường hợp này, giữa các vế câu 
cần có dấu phẩy, dấu chấm 
phẩy hoặc dấu hai chấm.
*Các vế của câu ghép có quan 
hệ ý nghĩa với nhau khá chặt 
chẽ. Những quan hệ thường gặp 
là: qh nguyên nhân, qh điều 
kiện(giả thiết), qh tương phản, 
qh tăng tiến, qh lựa chọn, qh bổ 
sung, qh tiếp nối, qh đồng thời, 
qh giải thích.
*Mối quan hệ thường được 
đánh dấu bằng cặp quan hệ từ, 
những quan hệ từ hoặc cặp từ 

hô ứng nhất định. Tuy nhiên, để 
nhận biết chính xác quan hệ ý 
nghĩa giữa các vế câu, trong 
nhiều trường hợp ta phải đựa 
vào văn cảnh hoặc hoàn cảnh 
giao tiếp.
Nghĩa của một từ ngữ có thể 
rộng hơn(khái quát hơn) hoặc 
hẹp hơn (ít khái quát hơn)nghĩa 
của từ khác:
­Một từ ngữ được coi là có nghĩa 
rộng khi phạm vi nghĩa của từ 
ngữ đó bao hàm phạm vi nghĩa 
của một số từ ngữ khác.
­Một từ ngữ được coi là có nghĩa 
hẹp khi phạm vi nghĩa của từ đó 
được bao hàm trong phạm vi 
nghĩa của một từ ngữ khác.
­Một từ ngữ có nghĩa rộng đối 
với những từ ngữ này, đồng thời 
có nghĩa hẹp đối với từ ngữ 
khác.

+Mây đen kéo kính bầu trời, 
gió giật mạnh từng cơn.
+Nắng ấm, sân rộng và sạch.
+Giá trời không mưa thì chúng 
tôi sẽ đi chơi.
+Vì mẹ ốm nên bạn Nghĩa 
phải nghĩ học.


 + Xăng, dầu hoả, ga, than, 
củi… được bao hàm trong 
phạm vi nghĩa của từ "nhiên 
liệu".
+ "Lúa"có nghĩa rộng hơn các 
từ   ngữ:   lúa   nếp,   lúa   tẻ,   lúa 
tám thơm…
+   Lúa   lại   có   nghĩa   hẹp   hơn 
với từ "ngũ cốc"

+ Các từ: thầy giáo, công nhân 
nông dân, thầy thuốc, kỹ sư… 
đều có một nét nghĩa chung là: 
người nói chung xét về nghề 


chung về nghĩa

4

5

6

Từ tượng 
hình, từ 
tượng 
thanh 


Từ ngữ 
địa 
phương, 
biệt ngữ 
xã hội

Trợ từ, 
thán từ

*Từ tượng hình là 
từ gợi tả hình 
ảnh, dáng vẻ, 
trạng thái của sự 
vật.
*Từ tượng thanh 
là từ mô phỏng âm 
thanh của tự nhiên 
của con người.
*Khác với từ ngữ 
toàn dân, từ ngữ 
địa phương là từ 
ngữ chỉ sử dụng ở 
một (hoặc một số) 
địa phương nhất 
định.
* Khác với từ ngữ 
toàn dân,biệt ngữ 
xã hội chỉ được 
dùng trong một 
tầng lớp xã hội 

nhất định

*Trợ từ là những 
từ chuyên đi kèm 
với một từ ngữ 
trong câu để nhấn 
mạnh hoặc biểu 
thị thái độ đánh 
giá sự vật, sự việc 
được nói đến ở từ 
ngữ đó.
*Thán từ là những 
từ dùng để bộc lộ 
tình cảm, cảm xúc 
của người nói 
hoặc dùng để gọi 
đáp.

nghiệp.

Từ tượng hình, từ tượng thanh 
gợi được hình ảnh, âm thanh cụ 
thể, sinh động, có giá trị biểu 
cảm cao; thường được dùng 
trong văn miêu tả và văn tự sự.

+Từ tượng thanh: soàn soạt, 
bịch, đánh bốp, nham nhảm.
+ Từ tượng hình: rón rén, lực 
điền, chỏng queo.


*Việc sử dụng từ ngữ địa 
*Ngái_xa,chộ_thấy
phương và biệt ngữ xã hội phải  Mẹ_mạ,rào_sông, …
phù hợp với tình huống giao tiếp. 
Trong thơ văn tác giả có thể sử 
*Mợ_mẹ,trứng_điểm 0
dụng một số từ ngữ thuộc hai 
lớp từ này để tô đậm màu sắc 
địa phương, màu sắc tầng lớp xã 
hội của ngôn ngữ, tính cách nhân 
vật.
*Muốn tránh lạm dụng từ ngữ 
địa phương và biệt ngữ xã hội, 
cần tìm hiểu các từ ngữ toàn dân 
có nghĩa tương ứng để sử dụng 
khi cần thiết.
*Ví dụ trợ từ: những, có, 
chính, đích, ngay…

* Thán từ thường đứng ở đầu 
câu, có khi được tách ra thành 
một câu đặc biệt.
* Thán từ gồm hai loại chính:
+ Thán từ bộc lộ tình cảm cảm 
xúc:
+Thán từ gọi đáp:
 

A, ái, ơ, ôi, ô hay, than ơi, trời 

ơi…
Này, ơi, vâng, dạ, ừ



7

8

9

10

11

Tình thái 
từ

Tình thái từ là 
những từ được 
thêm vào câu để 
tạo câu nghi vấn, 
cầu khiến, cảm 
thán và để biệu thị 
sắc thái tình cảm 
của người nói.

*Tình thái từ gồm một số loại 
đáng chú ý như sau:
­Tình thái từ nghi vấn:

­Tình thái từ cầu khiến:
­Tình thái từ cảm thán:
­Tình thái từ biểu thị sắc thái tình 
cảm:
*Khi nói khi viết cần chú ý sử 
dụng tình thái từ phù hợp với 
hoàn cảnh giao tiếp (quan hệ 
tuổi tác, thứ bậc xã hội, tình 
cảm…)

Nói quá là biện 
pháp tu từ phóng 
đại mức độ, quy 
mô, tính chất của 
sự vật, hiện 
tượng được miêu 
tả để nhấn mạnh, 
gây ấn tượng, tăng 
sức biểu cảm.
Nói giảm,  Nói giảm nói tránh 
nói tránh
là một biện pháp 
tu từ dùng cách 
diễn đạt tế nhị, 
uyển chuyển, 
tránh gây cảm giá 
đau buồn, ghê sợ, 
nặng nề; tránh thô 
tục, thiếu lịch sự.


+Bọn giặc hoảng hồn vắt 
chân lên cổ mà chạy.
+Cô Nam tính tình xởi lởi, 
ruột để ngoài da.

Nói quá

Dấu 
ngoặc 
đơn, dấu 
hai chấm

Dấu 
ngoặc kép

À, ư, hả, chứ, chăng…
Đi, nào, với…
Thay, sao…
Ạ, nhé, cơ, mà…

 + "Chị ấy xấu" có thể thay 
bằng "Chị ấy không đẹp 
lắm".
+
 "Anh ấy hát dở" có thể thay 
bằng "Anh ấy hát chưa hay"
+"Ông ấy sắp chết" có thể 
thay bằng  " Ông ấy chỉ nay 
mai thôi"
*Dấu ngoặc đơn dùng để đánh 

dấu phần chú thích (giải thích, 
thuyết minh, bổ sung thêm)
*Dấu hai chấm dùng để:
­Đánh dấu (báo trước) phần giải 
thích, thuyết minh cho một phần 
trước đó.
­Đánh dấu (báo trước) lời dẫn 
trực tiếp (dùng với dấu ngoặc 
kép) hay lời đối thoại (dùng với 
dấu gạch ngang).
Dấu ngoặc kép dùng để:
­Đánh dấu từ ngữ, câu, đoạn dẫn 
trực tiếp;
­Đánh dấu từ ngử được hiểu 
theo nghĩa đặc biệt hay có hàm ý 

*Ví dụ: Lí Bạch (701­762)
+Vì chính lòng tôi đang có sự 
thay đổi: hôm nay tôi đi học.
+Người xưa có câu: “trúc dẫu 
cháy, đốt ngay vẫn thẳng”

­“A, lão già tệ lắm”
­Cầu Long Biên như một 
“giải lụa”.
­Tác phẩm “Tắt Đèn” của 


mỉa mai;
­Đánh dấu tên tác phẩm, tờ báo, 

tập san,… được dẫn.

“Ngô Tất Tố” 

III. Phần tập làm văn:
1.

Lý thuyết:

Câu 1: Nêu tính thống nhất về chủ đề của văn bản?
­Chủ đề là đối tượng và vấn đè chinh mà văn bản muốn biểu đạt.
­Văn bản có tính thống nhất về chủ đề khi chỉ biểu đạt chủ đề đã xác định, không rời xa hay lạc sang 
chủ đề khác.
Câu 2: Bố cục của văn bản?
­Bố cục của văn bản là sự tổ chức các đoạn văn để thể hiện chủ đề. Văn bản thường cá bố cục 3 phần: 
mở bài, thân bài, kết bài.
+ Mở bài: giới thiệu nội dung sẽ triển khai, dẫn dắt người đọc nhập cuộc;
+ Thân bài: triển khai nội dung đã giới thiệu ở mở bài, giải quyết nhiệm vụ đã đặt ra;
 

+ Kết bài: khẳng định và nâng cao vấn đề đã trình bày ở phần nội dung.

Câu 3: Thế nào là liên kết các đoạn văn trong văn bản?
­Khi chuyển từ đoạn văn này sang đoạn văn khác cần sử dụng các phương tiện liên kết để thể hiện 
quan hệ ý nhgĩa của chúng
Câu 4:Nêu khái niệm về đoạn văn trong văn bản, từ ngữ chủ đề và câu chủ đề?
­Đoạn văn là đơn vị trực tiếp tạo nên văn bản, bắt đầu bằng chữ viết hoa lùi đầu dòng và kết thúc bằng 
dấu chấm xuống dòng và thường biểu đạt một ý tương đối hoàn chỉnh. Đoạn văn thường do nhiều câu 
tạo thành.
­Từ ngữ chủ đề là các từ ngữ được dùng làm đề mục hoặc các từ ngữ được lặp lại nhiều lần nhằm duy 

trì đối tượng được biểu đạt.
­Câu chủ đề mang nội dung khái quát, lời lẽ ngắn gọn thường đủ hai thành phần chính và đứng ở đầu 
hoặc cuối đoạn văn.
Câu 5:Tóm tắt văn bản tự sự và các bước tóm tắt?
­Tóm tắt văn bản tự sự là dùng lời văn của mình trình bày một cách ngắn ngọn nội dung chính (bao gồm 
sự việc tiêu biểu và nhân vật quan trọng) của văn bản đó.
­Các bước tóm tắt văn bản tự sự:
B1: Đọc kĩ văn bản gốc, chọn các sự việc cơ bản xảy ra với nhân vật chính và diễn biến của các sự 
việc đó.


B2:Tóm tắt rõ các hành động, lời nói, tâm trạng của nhân vật theo diễn biến của cốt truyện (một vài 
chỗ có thể kết hợp dẫn nguyên văn một số từ ngữ, câu văn trong văn bản gốc).
Câu 6:Văn bản tự sự có yếu tố miêu tả, biểu cảm.
­Trong văn bản tự sự rất ít khi tác giả chỉ thuần kể người, kể việc(kể chuyện) mà khi kể thường đan 
xen các yếu tố miêu tả, biểu cảm.
­Các yếu tố miêu tả biểu cảm làm cho việc kể chuyện sinh động và sâu sắc hơn.
Câu 7:Thế nào là văn thuyết minh?
­Văn thuyết minh là kiểu văn bản thông dụng trong mọi lĩnh vực của đời sống nhằm cung cấp tri thức 
(kiến thức) về đặc điểm, tính chất, nguyên nhân,...của các hiện tượng và sự vật trong tự nhiên, xã hội 
bằng phương thức trình bày, giới thiệu, giải thích.
Câu 8:Các phương pháp thuyết minh thường gặp:
Để bài văn thuyết minh có súc thuyết phục, dễ hiểu,rõ ràng, người ta có thể sử dụng phối hợp nhiều 
phương pháp thuyết minh như: nên định nghĩa, giải thích, liệt kê, nêu ví dụ, dùng số liệu, so sánh, phân 
tích, phân loại,...
Câu 9: Đề văn thuyết minh và cách làm bài văn thuyết minh?
­Đề văn thuyết minh nêu các đối tượng để người làm bài trình bày tri thức về chúng.
­Để làm bài văn thuyết minh cần tìm hiểu kĩ đối tượng thuyết minh, xác định rõ phạm vi tri thức về đối 
tượng đó, sử dụng phương pháp thuyết minh thich hợp, ngôn ngữ chính xác, dễ hiểu.
­Bố cục bài văn thuyết minh gồm có ba phần;

MB:Giới thiệu đối tượng thuyết minh.
TB: Trình bày cấu tạo, các đặc điểm, lợi ích,... của đối tượng.
KB: Bày tỏ thái độ đối với đối tượng.
Câu 10: Cách thuyết minh về một thể loại văn học?
Trước hết phải quan sát, nhận xét sau đó khái quát thành những đặc điểm.
Khi nêu các đặc điểm cần lựa chon các đặc điểm tiêu biểu quan trọng và cần có các ví dụ cụ thể để làm 
sáng tỏ các đặc điểm ấy.
Ôn tập các đề văn sau
Đề 1: Giới thiệu về một vật dụng trong gia đình.
Đề 2: Thuyết minh về một loài hoa mà em yêu thích.
Đề 3: Giới thiệu về một cảnh đẹp quê hương em.
Đề 4: Giới thiệu về một tác phẩm văn học.
Đề 5: Thuyết minh về cây bút bi
Đề 6: Thuyết minh về chiếc nón lá Việt Nam
Đề 7: Thuyết minh về chiếc áo dài Việt Nam


2.Bài tập:


Câu 1: Viết đoạn văn giới thiệu về các tác giả Nguyên Hồng, Nam Cao, Ngô Tất Tố ?
Nguyên Hồng:
Nhà văn Nguyên Hồng sinh năm 1918 mất năm 1982. Tên khai sinh của ông là Nguyễn Nguyên Hồng, quê 
ở thành phố Nam Định. Nguyên Hồng sống chủ yếu ở thành phố cảng Hải Phòng. Nguyên Hồng từng có 
một tuổi thơ bất hạnh. Hồi kí Những ngày thơ ấu được coi là những dòng hồi ức sinh động, chân thực 
đầy cay đắng về tuổi thơ không êm đềm của nhà văn.Ông viết nhiều thể loại truyện ngắn, tiểu thuyết, 
kí, thơ. Các tác phẩm chính của Nguyên Hồng: Bỉ vỏ (tiểu thuyết, 1938); Những ngày thơ ấu (hồi kí, 
1938); Trời xanh (tập thơ, 1960); Cửa biển (bộ tiểu thuyết 4 tập: 1961, 1967, 1973, 1976); Núi rừng Yên 
Thế (bộ tiểu thuyết lịch sử nhiều tập chưa viết xong); Bước đường viết văn (hồi kí, 1970).Trong những 
tác phẩm của Nguyên Hồng, hình ảnh người phụ nữ và trẻ em trong xã hội cũ được nhà văn dành nhiều 

niềm yêu thương, đồng cảm. Với những đóng góp của Nguyên Hồng dành cho nền văn học dân tộc, ông 
được nhà nước truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 1996.
Nam Cao:
Nam Cao (1915­1951) là một trong những nhà văn Việt Nam tiêu biểu nhất thế kỉ 20. Nhiều truyện ngắn của 
ông được xem như là khuôn thước cho thể loại này. Đặc biệt một số nhân vật của Nam Cao trở thành 
những hình tượng điển hình.
“Lão Hạc” của Nam Cao ra mắt bạn đọc năm 1943. Câu chuyện về số phận thê thảm của người nông dân 
Việt Nam trong bối cảnh đe doạ của nạn đói và cuộc sống cùng túng đã để lại xúc động sâu xa trong lòng 
độc giả. Đặc biệt, tác giả đã diễn tả tập trung vào tâm trạng nhân vật chính – lão Hạc – xoay quanh việc 
bán cho' đã giúp ta hiểu thêm tấm lòng của một người cha đáng thương, một con người có nhân cách đáng 
quý và một sự thực phũ phàng phủ chụp lên những cuộc đời lương thiện
Kết thúc bi kịch cũng là thật sự chấm dứt những dằn vặt riêng tư của lão Hạc, nhưng để lại bao suy ngẫm 
về số phận những con người nghèo khổ lương thiện trong xã hội cũ.
Ngô Tất Tố:
Nhà vàn Ngô Tất Tố sinh năm 1893 mất năm 1954 quê ở làng Lộc Há (nay thuộc huyện Đông Anh, ngoại 
thành Hà Nội), ông không đến ngay với nghề viết như nhiều nhà văn khác. Trước năm 1945, Ngô Tất Tố 
từng làm nhiều nghề như dạy học, bốc thuốc, rồi sau đó mới làm báo, viết văn. Trong Cách mạng tháng 
Tám, ông tham gia Uỷ ban Giải phóng xã (Lộc Hà). Năm 1946 ông gia nhập Hội Văn hoá Cứu quốc và 
lên chiến khu Việt Bắc tham gia kháng chiến chống Pháp; từng là Chi hội trưởng Chi hội Văn nghệ Việt 
Bắc, hoạt động ở Sở Thông tin khu XII, tham gia viết các báo Cứu quốc khu VII, Thông tin khu VII, Tạp 
chí Văn nghệ, báo Cứu quốc Trung ương... và viết văn. Ông đã là Uỷ viên Ban chấp hành Hội văn nghệ 
Việt Nam (trong Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ I ­ 1948). Tác phẩm của Ngô Tất Tố sau này được 
tập hợp trong tuyển tập: Ngô Tất Tố và tác phẩm, gồm 2 tập, do Nhà Xuất bản Văn học ấn hành, 1971 ­ 
1976. Nhà văn đã được nhận hai giải thưởng trong giải thưởng văn nghệ 1949 ­1952 của Hội Văn nghệ 
Việt Nam: Giải ba dịch (Trời hửng, Trước lửa chiến đấu) và giải khuyến khích (vở chèo Nữ chiến sĩ 
Bùi Thị Phác); Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (năm 1996).
Câu 2:Viết đoạn văn cảm nhận về nhân vật chị Dậu, Lão Hạc, cậu bé Hồng, Cô Bé Bán Diêm.
Chị Dậu:



Đảm đang, tháo vát, chung thủy, giàu lòng hi sinh, đó là những đặc điểm có tính chất truyền thống của 
người phụ nữ Việt Nam trước đây. Cái mới của chị Dậu là sức chiến đấu mạnh khỏe, lạc quan và tinh 
thần phản kháng gan dạ trước kẻ thù. Nhiều người đàn bà khác rơi vào tình cảm quẫn bách như chị 
Dậu, có khi đành chịu buông tay khuất phục, nhắm mắt cho cuộc đời trôi theo số mệnh. Nhưng người 
đàn bà nông dân này cứ thấy lăn xả vào bóng tối như mực, kiếm cách phá tung ra đế tìm đường sống. Và 
chống trả một cách mộc mạc, hồn nhiên, không cần lí lẽ, dường như hành động quyết liệt đó, ngôn ngữ 
nhân vật nhuần nhị đó là sản phẩm tất yếu của một cuộc đời lương thiện vốn đã cơ cực lại còn bị giày 
xéo tàn nhẫn: “ ­ Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem!” “ ­ Ô! Nhà ông này mới hay chứ! Có 
buông ra không thì tôi kêu lên bây giờ!”.. “ ­ Cháu cũng biết rằng đàn bà mà hành hung như thế là hư thân 
lắm, nhưng... cụ tính nhà cháu đau ốm như thế, mà cả hai đứa cứ xông vào đánh thì phỏng cả còn gì là 
người! Vì thế cháu phải liều với chúng nó”. Thái độ chống trả của chị Dậu (“Cháu phải liều với chúng 
nó”) là một hành động đấu tranh tự phát đơn độc, chưa có ý thức, chưa có phương hướng. Nhưng trong 
văn học công khai đương thời, nhân vật này vẫn là một cái cột mốc cao nhất, một hình tượng phụ nữ 
mạnh khỏe và tươi sáng nhất.
Lão Hạc:
Lão Hạc là một người nông nghèo khó nhưng giàu lòng yêu thương, sống nhân hậu, tình nghĩa, và có 
lòng tự trọng, không muốn khi mình chết phải phiền tới hàng xóm. Sau khi bán cậu Vàng, người bạn duy 
nhất của ông khi về già, ông thấy rất hối hận.vì là ng` có lòng tự trọng, không muốn khi mình chết phải 
phiền tới hàng xóm nên ông đã tự kết liểu mình bằng chính cái chết mà chó hay nhận được đó là bả chó. 
Không ai hiểu vì sao lão chết ,chỉ có binh Tư và ông Giáo hiểu. Qua cái chết của Lão ta cũng có thể thấy 
dc một ý nghĩa rất sâu sắc. Đó là vì lòng yêu thương con trai mình, dành dụm tiền cho con, vì muốn tạ 
tội với cậu vàng.Cái chết của lão còn mang một hàm ý là muốn tố cáo xã cũ nửa phong kiến và qua đó 
chứng minh dc rằng lão là một con ng` nghèo khó nhưng giàu lòng yêu thương, sống nhân hậu, tình 
nghĩa, và có lòng tự trọng.
Cậu Bé Hồng:
Bé Hồng là một cậu bé có một tuổi thơ bất hạnh nhưng cậu có một tâm hồn vô cùng trong sáng và dạt 
dào tình yêu thương. Bố cậu ăn chơi , nghiện ngập mất sớm, mẹ cậu phải tha hương cầu thực .Còn 
cậu , cậu phải sống với bà cô cay nhiệt ,ghẻ lạnh,luôn gieo rắc vào đầu óc non nớt của đứa chấu những 
hình ảnh xấu về người mẹ để cậu ruồng rẫy mẹ của mình.Nhưng Hồng đã ruồng bỏ những lời nói 
thâm độc của bà cô, cậu đặt 1 niềm tin mãnh liệt vào người mẹ của mình , cậu căm hận những thành 

kiến tàn ác đã khiến cho mẹ con Hồng phải xa lìa .Hơn ai hết , cậu luôn muốn sống trong tình yêu 
thương , được mẹ vỗ về, được làm nũng được chiều chuộng,....như bao đứa trẻ khác .Gio đây mẹ là 
niềm hạnh phúc, là khát khao duy nhất của cậu.Và rồi , vào hôm giỗ đầu thầy cậu . Mẹ đã về. Hồng 
sung sướng vô bờ. Dạt dào , miên man khi được nằm trong lòng mẹ, được mẹ âu yếm vỗ về.tất acr 
những khổ đau , những lời nói của bà cô đều bị lãng quên­ trôi đi nhẹ như một đám mây.Trong lòng cậu 
lúc này chỉ còn niềm hạnh phúc .Qua đây, ta thấy được Hồng là một chú bé hiếu thảo , có tâm hồn trong 
sáng và hơn nữa cậu có một tình yêu thương cháy bỏng dành cho người mẹ bất hạnh của mình­tình mẫu 
tử thiêng liêng.........
Cô Bé Bán Diêm
Em bé bán diêm thật tội nghiệp. Người đời đối xử tàn nhẫn với em biết mấy. Họ chẳng thèm để ý đến 
những lời chào hàng tha thiết của em thậm chí đến lúc chết, cái thi thể lạnh cóng của em cũng chỉ nhận 
được những ánh nhìn lạnh nhạt. Trong cái xã hội thiếu tình thương ấy, nhà văn An­đéc­xen đã tỏ lòng 


thương cảm sâu sắc đối với em bé bất hạnh. Chính tình yêu ấy đã khiến nhà văn miêu tả thi thể em với đôi 
má hồng và đôi môi đang mỉm cười, đồng thời tưởng tượng ra cảnh huy hoàng của hai bà cháu lúc về trời. 
Song nhìn chung cả câu chuyện nói chung và đoạn kết của truyện nói riêng là một cảnh tượng thương tâm 
thực sự. Nó gợi lên ở chúng ta bao nỗi xót xa cho những kiếp người nghèo khổ...
Câu 3:Giới thiệu về một vật dụng trong gia đình.
Bài làm
Đời sống của con người thì ngày càng tiến bộ.Các vật dụng trong gia đình đáp ứng cho cuộc sống 
của con người cũng ngày một tiến bộ theo.Trong số đó,phích nước là một vật liệu thông dụng trong gia đình 
mà chắc hẳn gia đình nào cũng phải sử dụng đến..
            Phích nước là một đồ dùng trong gia đình dùng để giữ cho nước được nóng lâu.Hiện nay trên thị 
trường có rất nhiều loại phích có mẫu mã,kiểu dáng khác nhau,có loại phích điện hiệ đại mà chỉ có các gia 
đình có kinh tế khá mới sử dụng.Nhưng loại phích dạng thông thường vẫn được sử dụng nhiếu hơn cả.
Phích nước có dạng hình trụ,cao khoảng 49 đến 50 cm.Cấu tạo gồm hai phần :vỏ phích và ruột phích.Vỏ 
phích có thể được làm bằng nhựa hoặc nhôm.Bên ngoài vỏ phích người ta thường trang trí hoa văn,hình vẽ 
trông rất đẹp mắt.Dọc theo thân vỏ có một cái quai cầm để người sử dụnh dễ cầm,mang,xách và thuận lợi 
cho việc chế nước từ trong phích ra ngoài.Ngoài ra,trên vỏ phích còn có một cái quai xách chắc chắn để 

thuận tiện cho việc di chuyển phích nước.Bên trong vỏ phích được làm làm bằng thủy tinh có tráng thủy để 
giử độ nóng cho nước trong 1 thời gian nào đó.Nút phích là một bộ phận dùng đậy ruột phích ,nút phích có 
thể là nhựa,gỗ hoặc bằng nút thủy tinh tròn.Nút phích còn được bao đậy bởi nắp phích.Nắp phích được làm 
bằng nhực hoặc làm bằng nhôm tùy theo chất liệu của vỏ phích.
           Cách sử dung phích nước thì rất đơn giản.Ta chỉ cần chế nước sôi vào ruột phích,sau đó đậy chặt 
nuts phích và nắp phích lại,khi nào cần thì mới mở nắp phích ra để lấy nước.Thông thường,các loại phích 
dạng này chỉ giữ đươc nước nóng không quá 6 tiếng.Khi mới mua về,chúng ta không nên sử dụng ngay mà 
phải cho nước ấm hoặc một ít nước giấm khoảng từ 50­60 độ C vào ruột phích,tráng đều để ruột có khả 
năng giữ nhiệt cao.Ruột phích là một bộ phận quan trọng nhất của phích nước,vì thế khi mua,ta phải quan 
sát thử xem ruột phích có bị nứt hay không.Một kinh nghiệm để chọn phích nước là áp tai vào miệng 
phích,nếu nghe tiêng"o..o"thì là phích tốt.Khi lựa mua phích nước,người tiêu dùng cần phải lưạchọn thạt kĩ 
và chính xác thì mới có thể xài phích được lâu.
         Phích nước rất thuận lợi cho chúng ta.Nhờ phích,ta có thể sử dung nước nóng bất cứ khi nào.Không 
phải tốn nhiều thời gian đun nước.Mỗi lần như vậy không những mất nhiều thời gian của ta mà còn hao tốn 
gas,điện..
            Việc bảo quản phích nước thì cũng rất đơn giản.Sử dụng lâu,ruột phích sẽ bẩn và có nhiều cặn.Vì 
thế chiúng ta nên lau rửa thường xuyên.Có thể cho một ít giấm hoặc chanh vào để rửa,sau đó rửa lại bằng 
nước sạch.Đặc biệt khi sử dụng phải chú ý nhẹ nhàng cẩn thận khi đặt phích xuống.Hơn nữa,phải đặt 
phích ở một vị trí thật an toàn,không nên đẻ quá thấp,tránh xa tầm tay trẻ em và cũng không nên để quá cao 
khi lấy sẽ khó khăn và có thể gây ra tai nạn nước sôi.Tốt nhất là nên đặt ở một độ cao nhất định và dễ lấy.
Phích nước là một vật dụng vô cùng hữu ích và thông dụng đối với mỗi gia đình.Cuộc sống ngày một hiện 
đại,trong tương lai sẽ có nhiều loại phích hiện đại hơn thế nữa được ra đời có khả năng giữ nhiệt cao hơn 
loại phích thông thường này
 Câu  4
  :  Thuyết minh về một loài hoa mà em yêu thích.
Bài làm


Không biết tự bao giờ, cây hoa hồng đã trở thành một loài hoa tôn quý, vẻ đẹp của nó không thanh cao như 
hoa mai, không sặc sỡ như hoa ngũ sắc. Nhưng nó mang một vẻ đẹp mềm mại mà nhẹ nhàng, êm đềm như 

tình cảm của con người.
Cây hoa hồng có tên khoa học là Rose, thuộc họ hoa hồng, có xuất xứ ôn đới và á nhiệt đới, vùng bắc bán 
cầu. Theo các nhà khoa học, thực vật học thì hoa hồng đã xuất hiện trên trái đất khoảng vài chục triệu năm, 
còn cây hoa hồng được con người thuần chủng đưa vào trồng trọt cũng đã cách nay khoảng vài ngàn năm. 
Người ta khẳng định hoa hồng đầu tiên ở Trung Quốc và Tiểu Á, sau đó mới du nhập vào châu Âu, nhưng 
người châu Âu lại có công lai tạo ta giống hoa hồng hiện đại ngày nay. Trên thế giới, mỗi khi nhắc đến đất 
nước Bungari, người ta lại nhắc đến cây hoa hồng. Nếu như nói Nhật Bản là xứ sở của hoa anh đào thì 
Bungari lại là xứ sở của hoa hồng. Cây hoa hồng được trồng ở hầu khắp cả nước ta, đặc biệt là Đà Lạt.
Hoa Hồng thuộc họ rễ chùm, là loại cây thân gỗ bụi, thân và cành có gai nhọn, đó là một trong những nét 
đặc trưng của cây hoa hồng. Lá hoa hình bầu dục, rìa lá có răng cưa, gân lá hình mạng. Cánh hoa còn tùy 
thuộc vào từng loại hoa hồng. Hồng nhung Đà Lạt có thể xem là loại hồng đẹp nhất nước ta, cánh hoa mềm 
mại, xếp chồng xen kẽ lên nhau, gần như hình trái tim mang một màu đỏ tươi thắm, nó như hội tụ tất cả 
những tinh túy của đất trời, của cuộc sống, của thế giới các loài hoa. Hoa hồng có ba loại chính, đó là: hoa 
hồng dại, hoa hồng cổ điển và hoa hồng hiện đại.Hồng dại thường được thấy ở những nơi hoang dã, mọc 
ngoằn nghèo nên còn gọi là hồng leo. Hồng cổ điển là những giống hồng được thuần chủng, lai tạo từ 
trước năm 1867. Còn hồng hiện đại là những giống hồng được lai tạo từ sau năm 1867. Ở nước ta, hoa hồng 
còn được phân loại theo đặc tính của cây như: hồng cứng, hồng thạch, hồng quế, hồng cánh sen, hồng 
vàng...
Cây hoa hồng như một món quà thiên nhiên đã ban tặng cho con người chúng ta, nó làm phong phú thêm đời 
sống vật chất và tinh thần của con người. Người ta nói, hoa hồng tượng trưng cho tình yêu: tình yêu gia 
đình, tình mẫu tử, tình thầy trò, tình yêu đôi lứa... Cây hoa hồng như mang trong nó tâm linh của loài người, 
mỗi cánh hoa như ấp ủ một nỗi niềm, một tình cảm sâu lắng nào đó của con người. Trong ngày lễ "vu lan", 
vào chùa chúng ta thường thấy những bông hồng cài trên ngực áo thể hiện tình mẫu tử thiêng liêng, rồi đến 
ngày Nhà giáo Việt Nam, từng lớp học trò lần lượt mang những canh hồng đỏ thắm dâng tặng lên thầy, cô 
kính yêu như thể hiện lòng biết ơn. Ngày lễ Valentin, ngày 8/3... chúng ta cũng không quên những bông hồng 
xinh xắn tặng cho các mẹ, các chị và đặc biệt là người yêu mình. Cứ như thế, cây hoa hồng đi vào thơ ca 
một cách tự nhiên không biết từ lúc nào, chúng ta thường nghe câu nói dân gian Hoa đẹp là hoa có gai, câu 
nói đó ám chỉ cây hoa hồng, rồi ta cũng thường nghe bài hát Bông hồng cài áo, đọc tác phẩm Hoa hồng 
Bungari...
Không những phục vụ cho đời sống tinh thần, hoa hồng được phục vụ cho đời sống vật chất của con 

người. Một phòng họp, một phòng khách, một quán trà... có thêm một cành hồng trên bàn cùng đủ làm cho 
không gian thêm trang trọng và lãng mạn. Có thể nói rằng hoa hồng có tính trang trí cao. Hương hoa hồng 
không thơm ngát như hoa lài mà ngược lại rất nhẹ nhàng, dễ chịu. Vì vậy, hoa hồng được nhiều nước chọn 


nguyên liệu để làm nước hoa, mĩ phẩm, góp phần tôn lên vẻ đẹp của con người. Hoa hồng cũng được trồng 
kể kinh doanh, thu lợi nhuận.
Nhìn chung, hoa hồng ở Việt Nam thích nghi nhiệt độ trung bình từ 18 ­ 25oC, độ ẩm tối đa 85%, lượng 
mưa trung bình hàng năm từ 1000­2000 mm, độ pH từ 5,6 ­ 6,5. Trong mùa hè, do nhiệt độ lên cao, độ ẩm 
lớn cây hoa hồng có nguy cơ xuất hiện các loại bênh như gỉ sắt, phấn trắng, rệp. Nếu cây bị nấm phấn 
trắng trong vụ xuân thì dùng đồng sulfat 1% để tưới, đồng thời phải cắt bỏ những cành bị bệnh nặng và đốt 
đi. Đất dùng để trồng hoa hồng phải bằng phẳng, tơi xốp.Hoa hồng thường được nhân giống theo ba cách: 
giâm cành, chiết cành hoặc ghép cành.
Như thế, cây hoa hồng là loài hoa tượng trưng cho sắc đẹp và tâm tình, nó không thể thiếu trong đời sống 
vật chất lẫn tinh thần của con người. Vì vậy, bảo vệ và phát triển giống hoa hồng là điều cần thiết mà con 
người cần làm hiện nay.
 Câu  5
  :  Giới thiệu về một cảnh đẹp quê hương em.
Bài làm
Cách thành phố Bảo Lộc (Lâm Đồng) 18km theo hướng Đông Bắc, chạy qua con đường uốn lượn với hai 
bên là những đồi chè và cà phê xanh ngát, thác Dambri trắng xóa từ trên cao đổ xuống như một dải lụa nằm 
vắt trên vách đá cheo leo giữa lưng chừng núi và cỏ hoa.
Cái tên Dambri bắt nguồn từ câu chuyện tình huyền thoại của một đôi trai gái mà người K’ho đặt cho dòng 
thác này.
Theo truyền thuyết, ngày xưa có một đôi trai gái K’ho yêu nhau và thường hẹn hò bên thác nước. Họ hẹn 
mùa lúa chín, trăng tròn năm sau sẽ làm lễ cưới.
Nhưng, hạnh phúc đã không đến với họ. Cha của cô gái không muốn gả nàng cho chàng trai nghèo khổ. Để 
ngăn cách tình yêu của họ, già làng đã sai người bắt chàng trai phải bỏ làng đi tới một nơi xa, thật xa không 
có lối về.
Từ khi vắng bóng chàng trai, nàng H'Bi buồn lắm. Đêm đêm, H'Bi lặng lẽ ra khu rừng, nơi họ thường hẹn 

hò mà khóc than cho duyên tình cách trở với hy vọng nước mắt sẽ gọi được chàng trai trở về sống với nàng.
H'Bi khóc mãi, chờ mãi nhưng không thấy người yêu quay lại. Lâu ngày, nước mắt của cô gái đọng lại và 
chảy thành dòng thác lớn.
Dambri có nghĩa là "đợi chờ." Tiếng thác Dambri ngày đêm réo rắt giữa núi rừng như lời của nàng H'Bi đang 
kể về chuyện tình đã vỡ từ nghìn năm.
Là một phần của quần thể du lịch sinh thái có tổng diện tích gần 1.000ha, thác Dambri nằm giữa khung 
cảnh hoang sơ và hùng vĩ cùng khí hậu trong mát của rừng nguyên sinh Nam Tây Nguyên.
Có hai cách để bạn có thể xuống thác Dambri là đi bộ hoặc đi thang máy. Nếu đi bộ, du khách đi xuyên qua 
bóng râm âm u của những tán cây rừng theo con đường xuống chân thác với những bậc thang đổ bêtông phủ 
lớp rêu thời gian. Còn với thang máy, từ độ cao 60m cho bạn ngắm nhìn toàn cảnh thác Dambri từ trên cao 


xuống chân thác.
Thác Dambri mang đến cho bạn một sự thích thú lạ thường. Khung cảnh nơi đây quả là tuyệt diệu. Một 
dòng nước trắng xóa đổ từ trên cao xuống thẳng đứng, quanh thác là những bông hoa dại màu tím, vàng li ti 
chen nhau mọc trên đá.
Dưới chân thác gập ghềnh là cây cầu nhỏ bắc ngang những mỏm đá. Bước chân qua cầu, bạn có thể cảm 
nhận cái lạnh ngọt ngào của vô số hạt bụi nước nhỏ li ti thấm qua làn áo.
Từ đỉnh thác nhìn xuống, những hạt nước bụi phản chiếu ánh mặt trời thành chiếc cầu vồng lấp lánh bắc 
ngang qua ghềnh đá càng làm cho cảnh vật thêm phần lung linh, huyền ảo.
Rời Dambri, bạn tiếp tục hành trình theo con đường mòn đến thăm làng của dân tộc Mạ. Khám phá những 
nét đẹp đặc trưng trong văn hóa của họ, như điệu múa cồng chiêng đầy cảm xúc, kiến trúc nhà sàn, những 
công cụ lao động, những khoảnh khắc đẹp trong cuộc sống được các nhiếp ảnh gia lưu lại và trưng bày tại 
nhà truyền thống.
Bạn còn biết thêm về kỹ thuật dệt thổ cẩm không cần khung cửi của người Mạ và tìm cho mình một món 
quà kỷ niệm như chiếc áo, chiếc váy...
Nếu thích khám phá hương vị ẩm thực của người Mạ, bạn có thể vào nhà hàng Kơnia để thử các món thịt 
lợn rừng, cơm lam, rau rừng và rượu cần ngọt ngào bên bếp lửa rực hồng, bên tiếng suối reo róc rách và 
tiếng chim rừng vọng lại từ ngàn xa. Đêm đến, bạn thuê nhà chòi để nghỉ và hòa mình vào thiên nhiên hoang 
dã.

Đi một vòng quanh quần thể du lịch sinh thái, bạn dừng chân bên hồ nước Dambri rộng hàng nghìn mét 
vuông, thuê một chiếc thuyền để giải trí với thú câu cá trên hồ hay tổ chức sinh hoạt dã ngoại./
Câu 6: Giới thiệu về một tác phẩm văn học.
Bài làm
"Tắt đèn" là cuốn tiểu thuyết tiêu biểu của Ngô Tất Tố, cây bút truyện kí tiêu biểu của văn học Việt Nam  
trước Cách mạng tháng Tám.
Tác phẩm có 26 chương mà chương XVIII là chương xảy ra xung đột cơ bản nhất của người nông dân với  
bọn cường hào ác bá trong làng. Qua “Tức nước vỡ bờ" (một đoạn trích của chương XVIII), Ngô Tất Tố đã  
vẽ  lên bức tranh xã hội đương thời, một xã hội thối nát tàn bạo và bẩn thỉu ghê tởm. Cái xã hội thực dân 
phong kiến đã đày đoạ người nông dân đến đường cùng mà biểu hiện trong "Tức nước vỡ bờ" chính là tên 
cai lệ  hông hách, tàn ác; bọn người nhà lý trưởng hèn yếu mà cũng dã man không kém. Chúng như  những 
con chuột ma ranh cố  mà đục, mà khoét. Từ  những của cải vật chất nhỏ  nhoi của người nông dân đến 
những người sức lực điền mạnh mẽ nay chỉ còn là những hơi tàn sức kiệt chúng vẫn không buông tha, vẫn  
"dai như đỉa" mà hành hạ.
Cũng qua vài trang ngắn ngủi mà đậm nét chân thực, sinh động của "Tức nước vỡ. bờ", Ngô Tất Tố đã lên 
án gay gắt, căm ghét tột cùng cái xã hội thực dân phong kiến tàn ác, dã man kia để cho một kết thúc chị Dậu  
quật ngã tên cai lệ  và người nhà lý trưởng; đồng thời tác giả  cũng bày tỏ  một sự  cảm thông sâu sắc chân 
thành với số phận cùng quẫn, bi thưởng của người nông dần mà cụ thể là chị Dậu. Ôi! Cái gia đình đầm ấm  


yên vui của chị đã bị chính sách sưu thuế ác nghiệt kia làm cho tan nát. Số phận và tiền đồ của chị thật tối 
tăm như bầu trời đêm 30 không trăng sao vậy.
Không chỉ lên án gay gắt xã hội thực dân phong kiến, cảm thông sâu sắc với người nông dân, Ngô Tất Tố 
còn đề cao những nhân phẩm cao quý của họ với những nét đẹp truyền thống tiềm tăng: phẩm chất thương  
yêu chồng con tha thiết của chị Dậu, sẵn sàng hy sinh để bảo vệ người chồng ốm yếu; phẩm chất thanh cao  
"gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn" không hám danh lợi tiền tài của chị và đặc biệt là sức sống tiềm tàng  
đã ấp ủ bấy lâu trong lòng người phụ nữ nông dân đã bùng cháy đúng lúc để cứu chồng thoát khỏi nanh vuốt  
của lũ hùm sói cai lệ và người nhà lý trưởng. Và cuối cùng qua "Tức nước vỡ bờ" Ngô Tất Tố đã quan tâm  
đến vấn đề  hết sức bức thiết trong cuộc sống đương thời, đó là nhu cầu được sống những ngay bình yên, 
được hưởng hạnh phúc trong mái ấm gia đình bình dị của người nông dân. Đặc sắc nghệ  thuật trong "Tức 

nước vờ bờ" của Ngô Tất Tố thực sự làm chúng ta khâm phục. Nhà văn đã xây dựng một nhân vật chị Dậu 
điển hình, là tượng trưng cho tất cả những người phụ nữ nông dân với những phẩm chất cao đẹp, đáng quý 
nhất của loài người chúng ta. Và đặc biệt nhà văn đã sử dụng những lời lẽ hết sức dân dã, đời thường mà  
sinh động, chân thực, làm chúng ta như  đang sống giữa cuộc sống bất công đương thời để  chứng kiến 
những điều ngang trái. Và chính sự kết hợp tài tình giữa 3 phương thức: tự sự, miêu tả và biểu cảm để làm  
nổi bật tình huống máu thuần cơ bản của tác phẩm giữa hai giai cấp đối kháng đã thực sự thể hiện tài năng  
tiểu thuyết xuất chúng của Ngô Tất Tố.
"Tức nước vỡ bờ" nói riêng và "Tắt đèn" nói chung sẽ mãi là một tác phẩm đặc sắc trong nền văn học hiện  
đại nước ta. Nó đã có những thành công vang dội và ảnh hưởng rõ rệt đến xã hội đương thời. Song vẫn còn  
có những hạn chế nho nhỏ. Nhưng "Tức nước vờ bờ", "Tắt đèn'' sẽ luôn là một tuyệt tác để  chúng ta khâm 
phục và nhớ đến Ngô Tất Tố ­ nhà văn hiện thực xuất sắc.
Câu 7: Thuyết minh về cây bút bi
Trong cuộc sống hiện đại hiện nay, việc sử dụng các loại viết để  học tập và làm việc là không thể  thiếu 
nhưng để lựa chọn loại viết phù hợp với thời đại công nghệ  thông tin sao cho vừa nhanh, tiện lợi và ít tốn  
kém cũng là điều vô cùng quan trọng và sự ra đời của bút bi đáp ứng nhu cầu đó.
Từ những năm bắt đầu việc học người ta đã biết sử dụng các công cụ để có thể viết chữ. Thô sơ nhất là sử  
dụng lông vịt, lông ngỗng chấm vào mực, mực được bào chế từ các loại lá, quả, hoa có màu sắc giã nát ra.  
Nhưng đó là trong những năm còn lạc hậu việc sử dụng viết lông ngỗng để viết rất bất tiện vì lúc nào cũng 
phải mang theo lọ mực, sử dụng xong lại phải lau sạch và việc cứ  phải liên tục chấm đầu lông ngỗng vào  
mực cũng rất mất thời gian và sau đó một nhà báo người Hungary đã chế  tạo ra cây viết mực Lazso Biro. 
Việc sử dụng bút mực để rèn chữ là một điều rất tốt vì nét chữ sẽ đẹp song giá thành một cây bút máy khá 
đắt, nặng và khi viết khá chậm. Cho đến những năm gần đây người ta mới phát minh ra bút bi. Nó vừa đáp 
ứng nhu cầu rẻ, tiện lợi và nhẹ nữa phù hợp với nhiều đối tượng, nhất là học sinh, sinh viên.
Cấu tạo bên trong của bút cũng khá là đơn giản: vỏ  bút được làm bằng nhựa hoặc bằng các kim loại dẻo 
trong suốt. Bên trong là ruột bút,  ống dẫn mực, ngòi bút, lò xo. Ngòi bút có đường kính từ  0,25mm đến  
0,7mm tùy theo nhu cầu của người sử dụng. Còn về việc sử dụng bút cũng khá là dễ dàng, khi cần thiết chỉ 
cần ấn vào đầu bút ngòi bút sẽ tự động lộ ra để chúng ta có thể sử dụng. Khi không sử dụng nữa ta chỉ cần  
ấn lại đầu bút, ngòi bút sẽ  tự  động thụt lại, lúc đó bạn có thể  mang bút đi khắp mọi nơi mà vẫn yên tâm  
tránh được các tác nhân bên ngoài va chạm vào ngòi bút.
Hiện nay người ta còn tìm ra cách để chế tạo những bút lạ hơn như bút nhũ, bút nước, bút dạ quang… phù 

hợp với người tiêu dùng, vừa phù hợp với túi tiền vừa có thể  theo học sinh đến trường, theo các nhân viên 
văn phòng đến cơ quan,… Ngoài ra còn có các phát minh về một số loại viết có thể viết được dưới nước, ở 
những nơi có áp suất khí quyển thấp. Nói gì thì nói, ta cũng không thể phủ nhận những khuyết điểm còn có  
ở  bút bi là rất khó rèn chữ  vì ngòi bút nhỏ, trơn và rất cứng không phù hợp với những học sinh cấp Một  
đang luyện chữ vì khi nào nét chữ đã cứng và đẹp ta hãy sử dụng, ngoài ra bút còn rất dễ bị tắc nghẽn mực  
trong khi sử dụng có thể là do lỗi của các nhà sản xuất hoặc cũng có thể do chúng ta làm rơi viết xuống đất  
và làm ngòi bút va chạm vào các vật cứng.


Do vậy, sử dụng bút tuy là đơn giản nhưng chúng ta cũng nên biết cách bảo quản bút sao cho bút có thể sử 
dụng được lâu và bền hơn như: sau khi sử  dụng bút xong thì nên bấm đầu bút thụt lại để  không bị  rớt  
xuống đất, khô mực hoặc va chạm vào các vật cứng sẽ dễ làm vỡ vỏ bút hoặc làm bể đầu bi.
Một đặc điểm nhỏ mà ít ai nghĩ đến là có thể biến những cây bút bi thành những món quà nhỏ, xinh xắn, dễ 
thương và vô cùng ý nghĩa để  làm món quà tặng người thân, bạn bè, thầy cô. Bút còn là người bạn đồng  
hành với những anh chiến sĩ ngoài mặt trận, để  các anh có thể viết nhật kí, viết thư  về  cho gia đình. Viết  
xong, các anh có thể giắt cây bút vào túi áo không sợ rơi mất, khi cần thiết có thể lấy ra dễ dàng và sử dụng  
ngay.
Bút là người bạn nhỏ, luôn sát cánh đồng hành trong công việc, học tập của mọi người, không tốn kém 
nhiều chi phí lại có thể  sử dụng trong mọi hoàn cảnh, điều kiện ở mọi lúc mọi nơi. Chúng ta hãy biết ơn  
những người đã chế tạo ra cây bút để nhờ đó chúng ta có sự hỗ trợ đắc lực trong học tập và trong công việc  
hiện nay vẫn đáp ứng được theo xu hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
Câu 8: Thuyết minh về áo dài 
Nhắc đến trang phục truyền thống của đất nước Việt Nam chúng ta người ta nghĩ ngay đến  tà áo dài, áo dài 
thường được sử dụng ở các ngày lễ lớn, tà áo dài thướt tha, kín đáo nhiều màu sắc làm tôn thêm vẻ đẹp yêu 
kiều dịu dàng của người con gái Việt Nam, đã từ  lâu áo dài được coi là trang phục truyền thống của đất 
nước Việt Nam.
Từ xa xưa, dân ta đã thiết kế nhiều loại  áo dài đa dạng và phong phú như áo dài truyền thống, áo dài tứ thân  
và áo dài giao lãnh, áo dài ngũ thân, áo dài truyền thống có cổ hình chữ V dài từ bốn đến năm xentimet, làm  
nổi bật nên vẻ đẹp của chiếc cổ trắng ngần của người phụ nữ Việt Nam và cũng rất là duyên dáng, kín đáo, 
ngày này chiếc áo dài truyền thống được thiết kế thêm nhiều kiểu hơn, cổ chữ U, cổ trái tim, và cổ tròn làm 

đa dạng thêm tà áo dài truyền thống.
Có năm phần chính trên một chiếc áo dài, phần cổ áo, phần thân áo, phần tà áo, phần tay áo, và phần quần,  
thân áo được tính từ cổ đến eo, thân áo gồm 2 mảnh bó sát eo làm tôn thêm vẻ đẹp thon gọn của người phụ 
nữ, tà áo được chia làm hai phần tà áo tước và tà áo sau, được chia làm hai phần ngăn cách bởi hai bên hồng, 
tà áo thì phải dài hơn đầu gối, phần tay áo là phần từ vai đến qua cổ tay, có thể may chung với phần thân áo  
hoặc may bằng một loại vải riêng biệt, phần quần áo được may theo kiểu quần  ống rộng, có thể  là vải 
đồng màu với chiếc áo dài hay khác màu, thường thì quần có màu trắng làm tôn lên sự mềm mại, thướt tha  
cho bộ trang phục và thêm duyên dáng, đằm thắm đáng yêu của tà áo dài Việt Nam.
Trong các ngày lễ  hội truyền thống không thể  thiếu trang phục áo dài, áo dài vừa thể  hiện nét đẹp, nét 
duyên dáng của người phụ  nữ  mà còn thể  hiện được nét đẹp truyền thống của dân tộc ta,  trang phục áo 
dài còn xuất hiện trong trường hợp, trong các trường Trung học phổ thông thứ hai hàng tuần nhìn các em nữ 
sinh trong trang phục áo dài trắng đứng lên chào cờ đẹp và thiêng liêng làm sao, những giáo viên trong trang  
phục áo dài đứng trên bục giảng toát lên vẻ  đẹp duyên dáng, thanh lịch nhưng không kém phần thanh tao,  
trang nghiêm của giáo viên. Trong các buổi văn nghệ, hay các cuộc thi lớn không thể thiếu những hình ảnh 
chiếc áo dài, khi các hoa hậu của đất nước ta đi thi đấu ở  đấu trường quốc tế, trong hành trang không thể 
thiếu tà áo dài thướt tha, mang nét đẹp, truyền thống của dân tộc ta giới thiệu với bạn bè quốc tế.
Khi giặt áo dài phải giặt thật nhẹ tay và không được phơi ở thời tiết nắng quá lâu, ủi ở nhiệt độ vừa phải, 
có như thế mới giữ được áo dài luôn mới.
Áo dài là nét đẹp là biểu tượng của nước Việt Nam, chúng ta hãy giữ gìn để áo dài mãi là trang phục truyền 
thống của mỗi người Việt Nam, khi nhắc đến tà áo dài chúng ta nghĩ ngay đến nền văn hóa đậm đà bản sức 
dân tộc, chúng ta hãy phát huy để bản sắc ấy ngày càng tươi đẹp hơn.
Câu 9: Thuyết minh về chiếc nón lá Việt Nam 
Nón lá là hình ảnh quen thuộc, gần gũi đối với người phụ nữ Việt Nam từ xưa tới nay. Chiếc nón lá gắn với  
tà áo dài truyền thống, với lời ăn tiếng nói, phong tục tập quán của Việt Nam. Và nón là chính là biểu tượng  
của Việt Nam đối với bạn bè các nước năm châu, là linh hồn, là tinh hoa của nét đẹp nghìn năm văn hiến.


Thật vậy, đi đâu trên đất nước Việt Nam, chúng ta đều bắt gặp hình ảnh chiếc nón là mộc mạc, chân chất  
nhưng lại ẩn chứa nhiều tầng ý nghĩa. Nón lá không chỉ là vật dụng của người phụ nữ chân quê, mà nó còn 
là món quà tinh thần mà Việt Nam dành tặng các nước trên thế giới. Không phải đi đâu, người ta cũng biết  

đến nón lá Việt Nam có tầng sâu ý nghĩa. Tất cả đều có nguyên do của nó.
Nón lá xuất hiện từ rất lâu, khoảng 2500­3000 TCN và được lưu truyền cho đến ngày nay. Đối với người  
phụ  nữ  Việt thì nón là lá biểu tượng quan trọng trong cuộc sống của họ. Từ trong những làn điệu dân ca, 
đến những lời thơ, câu văn đều thấp thoáng hình  ảnh chiếc nón lá Việt Nam đi liền với tà áo dài truyền 
thống.
Để tạo ra chiếc nón lá như hiện nay, cần sự tỉ mỉ và kì công của người làm nón. Phải có cái tâm, cái tình thì 
mới tạo nên được những chiếc nón có thiết kế  tài tình và họa tiết tỉ  mỉ  như  vậy. Ngay từ  khâu lựa chọn  
nguyên liệu đã thấy được sự kì công của người đan nón. Làm nón cần cả tấm lòng chứ không phải chỉ  cần 
có đôi tay. Những người thổi hồn vào những chiếc nón là những người thực sự có tâm.
Nón lá có thể được làm từ lá cọ hoặc lá dứa tùy mỗi vùng miền. Sự khác nhau của nón lá ở mỗi loại được  
thể hiện rõ nét trên từng sản phẩm. Rất dễ dàng để người dùng có thể nhận ra sự khác biệt này.
Ở  khu vực Nam Bộ  với đặc trưng trồng nhiều dừa nên nghề  làm nón phát triển mạnh mẽ  và được lưu 
truyền từ  đời này sang đời khác.Khi lựa chọn lá cọ  hoặc lá dừa cũng cần phải cẩn thận chọn lá dày, màu  
xanh đậm, không bị rách, có nổi gân để làm nón đẹp và chắc chắn nhất. Khi chọn lá xong cần phải phơi lá  
cho thật mềm tùy thời gian để tạo độ đàn hồi cho chiếc lá trong quá trình làm ra sản phẩm.
Một khâu quan trọng không kém chính là làm vành nón, nó sẽ  tạo nên chiếc khung chắc chắn có thể  giữ 
được lớp lá ở bên ngoài. Tre cần được gọt giũa thật mềm và dẻo dai, trau chuốt tỉ mỉ. Khi uốn cong cần cẩn  
thận để không bị gãy hoặc bị bẻ cong. Bởi vậy khâu chọn tre làm vành nón cũng cần cẩn thận và thật tỉ mỉ.
Sau khi đã làm được khung nón thì người làm nón bắt đầu chằm nón, tức là gắn kết vành nón với lá nón làm  
sao cho hai cái này kết dính, không tách rời khởi nhau. Làm giai đoạn này càng tỉ mỉ  thì chiếc nón sẽ  được  
hoàn thành một cách chắc chắn và đẹp mắt nhất.
Công đoạn cuối cùng chính là phơi nón và bôi lên nón lớp dầu thông bóng loáng. Việc làm này để  tạo độ 
bền, tránh hư hỏng khi có mưa hoặc nắng.
Chiếc nón lá là biểu tượng của người phụ nữ Việt, gắn với đời sống tinh thần của họ. Đi đâu trên đất nước  
này, chúng ta cũng sẽ bắt gặp được hình ảnh chiếc nón lá. Đó là nét đẹp, nét duyên của người phụ nữ Việt  
nam mà không phải đất nước nào cũng có được. Nó là biểu tượng cho vẻ đẹp bình dị, mộc mạc, duyên dáng  
của người phụ nữ. Nón lá đi liền với tà áo dài, tạo nên một vẻ đẹp rất Việt Nam.
Nón lá là sản phẩm của Việt Nam, biểu tượng cho phụ nữ Việt và cho truyền thống Việt.

Đề thi học kì 1 Văn 8 ­ tham khảo



Đề tham khảo số 1 
PHẦN I: 3 điểm 
Đọc câu chuyện ” Quà tặng cuộc sống ” và trả lời các câu hỏi: 
Anh dừng lại mua hoa để gửi hoa tặng mẹ qua đường bưu điện nhân ngày 8/3. Mẹ anh sống cách chỗ anh ở 
khoảng 300km. Khi bước ra khỏi xe, anh thấy một bé gái đang đứng khóc bên vỉa hè. Anh đến và hỏi nó sao 
lại khóc. 
– Cháu muốn mua một bông hoa hồng để tặng mẹ cháu ­ nó nức nở ­ nhưng cháu chỉ  có 75 xu trong khi giá  
bán hoa hồng đến 20 dola. 
Anh mỉm cười và nói với nó: 
– Đến đây chú sẽ mua cho cháu. 
Anh liền mua cho cô bé và đặt một bó hồng gửi cho mẹ anh. Xong xuôi, anh hỏi cô bé có cần đi nhờ xe về 
nhà không. Nó vui mừng nhìn anh trả lời: 
– Dạ, chú cho cháu đi nhờ đến nhà mẹ cháu. 
Nó chỉ đường cho anh lái xe đến một nghĩa trang, nơi có phần mộ vừa mới đắp. Nó chỉ vào ngôi mộ và nói: 
– Đây là nhà của mẹ cháu. 
Nói xong, nó ân cần đặt bông hoa hồng lên mộ. Tức thì anh quay lại tiệm bán hoa hủy bỏ dịch vụ gửi hoa và  
mua một bó hoa hồng thật đẹp. Suốt đêm đó anh đã lái xe một mạch 300km về nhà để  trao tận tay mẹ  bó 
hoa. 
(Quà tặng cuộc sống) 
Câu 1: Nội dung câu chuyện trên là gì? ( 1  điểm) 
Câu 2: Thông điệp mà văn bản muốn gửi lại cho chúng ta là gì? ( 1  điểm) 
Câu 3: Các từ “ khóc, mỉm cười, vui mừng” thuộc trường từ vựng nào? ( 1  điểm) 
PHẦN II: 7  điểm 
Câu 1: Đoạn trích “ Trong lòng mẹ” thuộc tác phẩm cùng tên của nhà văn Nguyên Hồng là bài ca về  tình 
mẫu tử thiêng liêng, bất diệt. Em hãy viết một đoạn văn làm rõ điều đó. ( 3  điểm). 
Câu 2: Em hãy thuyết minh về một truyện ngắn Cô bé bán diêm của nhà văn An đéc xen. ( 4  điểm). 
Đề tham khảo số 2 
Phần I: (3đ) 

Đọc đoạn thơ sau và trả lời các câu hỏi bên dưới: 
Ông vật thi với cháu 
Keo nào ông cũng thua 
Cháu vỗ tay hoan hô: 
 
“Ông thua cháu, ông nhỉ?” 
Bế cháu ông thủ thỉ: 
“Cháu khỏe hơn ông nhiều! 
Ông là buổi trời chiều 
Cháu là ngày rạng sáng” 
(Phạm Cúc) 
1. Hãy đặt tên nhan đề cho bài thơ (0.5đ) 
2. Giải thích công dụng của dấu hai chấm (: ) và dấu ngoặc kép “...” trong đoạn trích (1.5) 
3. Viết một vài câu văn nêu cảm nhận của em về những điều ông muốn nói với qua 4 câu thơ cuối (1đ) 
Phần II: (7đ) 
Câu 1. Tác phẩm “Lão Hạc” của nhà văn Nam Cao cho thấy lão Hạc là người có lòng tự trọng rất đáng quý.  
Em hãy viết một đoạn văn làm rõ điều đó. (3đ) 
Câu 2. Thuyết minh về truyện ngắn lão Hạc của nhà văn Nam Cao. (4đ) 


Đề tham khảo số 3 
PHẦN I: (3  điểm) 
Đọc đoạn văn sau và trả lời câu hỏi: 
Bạn có bao giờ  bực bội khi cha mẹ lúc nào cũng nhắc mình hàng tỉ  lần phải đi ngủ  sớm? Bạn có bao giờ 
khó chịu khi cha mẹ lúc nào cũng dặn ra đường phải đi xe cộ cẩn thận, la mắng khi một mình về  trễ  giữa 
đêm...? Bạn thấy đấy, khi chính bạn còn không thèm lo cho bạn, thì cha mẹ  vẫn kiên trì. Hãy thử  tưởng  
tượng xem, một hôm khi đi học về, căn nhà trống trải im lìm, cha mẹ  không còn tồn tại nữa. Bạn sẽ cảm  
thấy thế nào? Có vui không khi không còn nghe những lời phiền phức ấy?Tiền có thể nhiều, bạn bè cũng có  
nhiều, nhưng mà cha mẹ  chỉ  có một mà thôi. Nếu có người nào đáng để  yêu thương nhất trên đời, thì đó 
chính

 

 
Cha
 
Mẹ! 
(Nguyễn Hoàng Khắc Hiếu) 
1. Cho biết nội dung của đoạn văn? (1  điểm) 
2. Câu ghép sau đây có bao nhiêu vế câu, quan hệ ý nghĩa giữa các vế câu là quan hệ gì? (1  điểm) 
Tiền có thể nhiều, bạn bè cũng có nhiều, nhưng mà cha mẹ chỉ có một mà thôi 
3. Viết vài câu văn thể hiện tình cảm của em đối với cha mẹ. (1  điểm) 
PHẦN 2: (7  điểm) 
1.Chiếc lá cụ Bơ ­ men vẽ trong truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng ­ Ô Hen­ri được xem là một kiệt tác. Hãy  
viết một đoạn văn trình bày suy nghĩ của em về điều ấy. (3  điểm). 
2.Thuyết minh về  một đồ  dùng trong các đồ  vật sau ( Chiếc kính đeo mắt, chiếc quạt, chiếc bút … ) (4 
 điểm) 
Đề tham khảo số 4 
Phần I. Đọc hiểu (3,0  điểm) 
Đọc đoạn trích sau đây và trả lời các câu hỏi : 
Tại Thế  vận hội đặc biệt Seatle (dành cho những người tàn tật) có chín vận động viên đều bị  tổn thương 
về thể chất hoặc tinh thần, cùng tập trung trước vạch xuất phát để tham dự cuộc đua 100 m. Khi súng hiệu  
nổ, tất cả đều lao đi với quyết tâm chiến thắng. Trừ một cậu bé. Cậu cứ bị vấp ngã liên tục trên đường đua. 
Và cậu bật khóc. Tám người kia nghe tiếng khóc, giảm tốc độ và ngoái lại nhìn. Rồi họ quay trở lại. Tất cả, 
không trừ một ai ! Một cô gái bị hội chứng Down dịu dàng cúi xuống hôn cậu bé: 
– Như thế này, em sẽ thấy tốt hơn. Cô gái nói xong, cả chín người cùng khoác tay nhau sánh bước về vạch  
đích. Khán giả  trong sân vận động đồng loạt đứng dậy và vỗ  tay hoan hô không ngớt. Mãi về  sau, những  
người chứng kiến vẫn còn truyền tai nhau câu chuyện cảm động này. 
(Theo Quà tặng cuộc sống) 
1. Văn bản đề cập tới chủ đề gì? (0,5đ) 
2. Điều gì khiến “Khán giả  trong sân vận động đồng loạt đứng dậy và vỗ  tay hoan hô vang dội không  

ngớt”?.(0.5đ) 
3. Cho biết công dụng của dấu ngoặc đơn và dấu hai chấm được sử dụng trong văn bản trên(1đ) 
4. Người viết bộc lộ, thái độ tình cảm gì qua câu chuyện? (0.5đ) 
5. Qua văn bản trên, em rút ra cho mình bài học nào?(0.5đ) 
PHẦN 2: (7  điểm) 
1.Hãy viết một đoạn văn cảm nhận về chi tiết xúc động nhất trong truyện ngắn Lão Hạc của nhà văn Nam  
Cao. (3đ) 
2. Học sinh chọn 1 trong 2 đề sau : 4đ 
Đề 1: Cây bút, cái cặp hay chiếc xe đạp là những đồ vật đến trường cùng em hàng ngày. Hãy thuyết minh  
một trong những đồ vật ấy. 
Đề 2: Thuyết minh một truyện ngắn đã học. 
Đề tham khảo số 5 
Phần 1: 3 điểm 
Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi: 


Có lẽ thời nào cũng vậy, con người luôn đặt chữ nhân lên hàng đầu, con người coi trọng chữ nhân hơn cả.  
Dù thời xưa hay thời nay chữ nhân đó vẫn thể  hiện trong cách sống của mỗi con người. Nhân là cách đối  
nhân xử thế, tấm lòng của con người giữa đời thường, cũng như  vai trò trách nhiệm của mỗi cá nhân trong  
xã hội. Chữ  nhân và chữ  nghĩa thường đi đôi với nhau. Nghĩa  ở  đây thể  hiện vai trò, trách nhiệm của con  
người với con người, giữa người với đời, với xã hội hiện tại. Sống ở đời cần có một trách nhiệm với đời,  
cũng chính vì vậy mà cần có nghĩa, sống có trách nhiệm với quê hương đất nước, với gia đình cũng là  
nghĩa. 
(Bàn về Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín ­ Ái Hữu Biên Hòa) 
a. Cho biết phương thức biểu đạt của đoạn trích trên.(0.5 điểm) 
b. Nội dung đoạn trích trên đề cập đến vấn đề gì? (0,5 điểm) 
c. Em hãy tìm trợ từ và câu ghép trong đoạn trích trên.(1 điểm) 
d. Từ đoạn trích trên , em hiểu thế nào là nhân nghĩa? (1 điểm) 
Phần 2: (7 điểm)
Câu 1: (3 điểm)

Từ  nội dung đoạn trích trên, em hãy viết một đoạn văn nghị  luận (từ  150 đến 200 chữ) nêu suy nghĩ của 
mình về vấn đề sống có trách nhiệm. 
Câu 2: (4 điểm) 
Em hãy giới thiệu đồ dùng học tập gần gũi với em.
2: Nêu điểm giống nhau và khác nhau của các tác phẩm truyện kí Việt Nam đã học năm 30­45  ?
Giống nhau:
­Thể loại: đều là văn bản tự sự, là truyện kí hiện đại
­Thời gian ra đời trước CMT8 năm: 1930­1945
­ Đều lấy đề tài về cuộc sống và con người của xã hội thực dụng phong kiến, miêu tả số phận cực khổ của 
những người nghèo khổ bị vùi dập trong xã hội ấy.
­Giá trị tư tưởng: Đều chan chứa tinh thần nhân đạo cao cả (yêu thương, trân trọng những tình cảm, phẩm 
chất đẹp đẽ của con người, tố cáo những gì tàn ác xấu xa)
­Giá trị nghệ thuật: bút pháp hiện thực, lối viết chân thực, gần gũi với đời sống, ngôn ngữ giản dị, kể 
chuyện và miêu tả cụ thể sinh động.
­ Khác nhau: Mỗi tác phẩm có nhừng điểm khác về các mặt như: thể loại, phương thức biểu đạt, nội dung 
chủ yếu và đặc sắc nghệ thuật.

Một số nội dung cần nhớ trong tác phẩm truyện kí Việt Nam 
1. Truyện ngắn ­ Lão Hạc 
­ Cùng với Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng,... Nam Cao là một cái tên không thể  thiếu khi nhắc tới những nhà 
văn hiện thực nhân đạo. Các sáng tác của ông vừa rất mực chân thực, vừa có một ý vị triết lí mang ý nghĩa  
nhân bản sâu sắc. Truyện ngắn “Lão Hạc” là một trong những tác phẩm tiêu biểu như thế! Truyện đã thể 
hiện một cách chân thực, cảm động số  phận người nông dân trong xã hội cũ và phẩm chất cao quý tiềm 
tàng của họ.
­ Xuất hiện lần đầu trên tuần báo “Tiểu thuyết thứ bảy” năm 1943, “Lão Hạc” của Nam Cao được đánh giá 
là một trong những truyện ngắn xuất sắc viết tình cảnh của người nông dân trước Cách mạng. 
* Nhân vật Lão Hạc


(Tùy vào yêu cầu của đề để nhấn mạnh nội dung cần làm )

­ Lão Hạc là một lão nông dân nghèo nhưng có nhiều phẩm chất tốt đẹp, đáng quý. 
a, Lão Hạc có một tấm lòng vị tha, nhân hậu: 
­ Ở lão có một tấm lòng vị tha, nhân hậu.Tình cảm của lão với "cậu Vàng" được tác giả thể hiện thật cảm  
động. Lão gọi nó là "cậu Vàng" như  “một bà hiếm hoi gọi đứa con cầu tự". Lão bắt rận, cho nó ăn cơm  
trong một cái bát như nhà giàu.Lão ăn gì cũng không quên phần nó, gắp cho nó một miếng; lão ăn bao nhiêu,  
nó cũng ăn như  thế, thậm chí còn hơn phần lão...Lão coi nó như  một người bạn,ngày ngày lão tâm sự, trò 
chuyện với nó như thể nó cũng là con người.Tình thế cùng đường khiến lão phải bán nó thì trong lão diễn ra  
sự  dằn vặt, đau khổ  tột độ. Lão kể  cho ông giáo nghe về  việc bán "cậu Vàng" với tâm trạng vô cùng đau  
đớn: "lão cười như mếu và đôi mắt ầng ậng nước". Đến nỗi ông giáo thương quá, "muốn ôm chầm lấy lão  
mà òa lên khóc".Khi nhắc đến việc "cậu Vàng" bị lừa rồi bị bắt, lão Hạc không nén nỗi đau đớn cứ dội lên 
"Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo  
về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc...". Lão Hạc đau đớn đến thế 
không phải chỉ vì quá thương con chó mà còn vì không thể tha thứ cho mình vì đã trót lừa một con chó. Ông  
lão quá lương thiện ấy cảm thấy lương tâm đau nhói khi nhận thấy trong đôi mắt con chó có cái nhìn trách  
móc. Phải có trái tim vô cùng nhân hậu, trong sạch thì mới bị giày vò lương tâm đến thế, mới cảm thấy có 
lỗi với một con chó như vậy! 
b, Tình yêu thương con sâu sắc (dẫn chứng) 
Đối với cậu Vàng, lão yêu qúy như vậy, thì đối với anh con trai của lão, thì tình cảm ấy còn được nhân lên  
gấp vạn lần. Chỉ vì nhà nghèo, không cưới được vợ cho con, làm con uất chí, bỏ đi đồn điền cao su mà lão  
tự  dằn vặt mình mãi. Để cưới vợ, anh con trai đòi bán mảnh vườn, nhưng lão không cho không phải vì lão 
muốn giữ mảnh vườn cho lão, mà lão nghĩ nếu cưới vợ về, vườn bán rồi thì ở  đâu mà làm ăn sinh sống, và 
rồi có bán thì cũng làm sao mà đủ tiền. Lão nghĩ thế, nhưng anh con trai có thấu cho lão?Anh bỏ đi đồn điền  
cao su, để lại lão ở nhà vò võ chờ con. Lão nghĩ tốt, lo cho tương lai con, nhưng khi con trai bỏ đi, lão lại tự 
dằn vặt mình, đày đọa tinh thần mình.Những câu nói lão nói với cậu Vàng, nhưng lại chất chứa biết bao  
nhiêu tình cảm nhớ thương cho anh con trai. Lão nói với cậu Vàng đấy, nhưng lại như nói với con mình. Lão  
làm việc gì, lão suy nghĩ gì cũng là hướng về con trai mình. Tiền bòn vườn lão để dành, không tiêu tới để khi  
con trai về, lão nhẩm tính sẽ  có gần trăm đồng bạc, thêm vào cho con cưới vợ  và làm kế  sinh nhai.Thế 
nhưng, lão lại  ốm. Một cơn  ốm kéo dài buộc lão phải tiêu tới số  tiền đó. Chỉ  vậy thôi mà lão đã thấy đau 
lòng.Lão ăn vào tiền của con trai lão ­ số tiền mà khi con trai về lão định trả con. Điều này làm lão khổ tâm  
hết sức. Hành động của lão gửi ông giáo mảnh vườn, nhờ ông giáo giữ  hộ  cũng là để  giữ  hộ  cho con lão : 

“của mẹ  nó thì nó hưởng”. Mọi suy nghĩ, việc làm của lão đều hướng tới con trai. Thậm chí, cái chết của  
lão cũng là vì con.Lão chết để mở ra đường sống cho con lão, lão chết một cái chết trong sạch để lại tiếng 
thơm cho con vì lão sống ngày nào là ăn vào tiền, vào đường sống của con ngày ấy. Xưa nay, không ít người  
cha, người mẹ hi sinh cơm ăn, áo mặc vì con, hi sinh một phần thân thể vì con nhưng hi sinh cả mạng sống  
của mình như lão Hạc lại là một trường hợp hiếm thấy. Tình yêu con của lão Hạc thật đặc biệt. Không ồn  
ào, sôi nổi, không thể hiện qua hành động hay lời nói, lão lặng lẽ yêu con trong tâm tưởng, mọi hành động  
của con lão đều cho là do lão. Là do lão đẩy con tới những hành động ấy rồi tự dằn vặt mình, tự  gánh lấy  
những suy nghĩ, hành động để chuộc lại lỗi lầm. Quả thật, tình yêu thương con của lão khiến chúng thật vô  
cùng cảm động. 
c, Lòng tự trọng: ( dẫn chứng ) 
­ Lão Hạc mang một tấm lòng tự trọng cao cả. Lão tự trọng từ với một con chó, với con trai lão, với bà con  
hàng xóm, với ông giáo và với cả  chính bản thân mình.Khi bán con chó, lão đau khổ, vì lão “bằng này tuổi 
đầu mà còn trót lừa một con chó”. Lão nhớ ánh mắt của cậu Vàng, mà theo như lời lão là một ánh mắt đầy  
trách móc, mắng lão tệ  hại: “A!Lão già tệ  lắm!Tôi ăn ở  với lão thế  mà lão đối xử  với tôi thế  này à”. Ánh 
nhìn đó làm lão ám ảnh và day dứt không nguôi. Lão từ chối mọi sự giúp đỡ của ông giáo, lão lại chuẩn bị 
sẵn tiền làm ma cho bản thân, gửi ông giáo, để khi lão có việc thì ông giáo đưa ra, coi như là của lão có chút 
ít, còn lại thì nhờ  bà con hàng xóm cả. Lão làm vậy để  không phiền lụy tới ai. Từ  đó, lão bòn vườn, mò  
cua,ốc, trai ăn để sống qua ngày, thà chết chứ không chịu mắc nợ ai. Có lẽ hành động bán cậu Vàng của lão 


chính là bước chuẩn bị cho cái chết của lão. Lão xin Binh Tư ít bả chó với lý do bắt chó nhà khác ­ một lý do  
làm Binh Tư tự nghĩ lão giả bộ hiền lành thế nhưng cũng ghê ra phết, một lý do làm ông giáo hiểu lầm lão,  
hiểu lầm một con người đã “khóc vì trót lừa một con chó, một con người nhịn ăn để  có tiền làm ma”.Vậy 
nhưng hóa ra, lão ăn bả  chó để  tử  tự, để  giữ  vẹn nguyên tấm lòng trong sáng của lão. Lão ăn bả  chó, lão  
chết như  một con chó, vật vã, quằn quại trong đau đớn, để  chuộc tội với cậu Vàng. Lão chết cũng là để 
không bị cuộc sống dồn đẩy, bị tha hóa biến chất như Binh Tư, hay Chí Phèo.Cái chết của lão cũng chính là  
sự tự trọng của lão với con lão. Lão sống mà phải dựa vào tiền của con thì thà lão chết còn hơn.Lão Hạc có  
một tấm lòng thật đáng trân trọng ­ lòng tự  trọng của lão nông nghèo nhưng trong sạch. Lão chọn “chết  
trong còn hơn sống đục” khi bị dồn vào đường cùng. 
­ Cảm thương trước số phận đau khổ, cuộc đời bế tắc của những người nông dân trong xã hội cũ. 

­ Trân trọng, đề cao vẻ đẹp tâm hồn của họ. 
2. Tác phẩm Trong lòng mẹ 
Dẫn chứng về lòng yêu thương mẹ của bé Hồng 
Chú bé Hồng sinh ra nhiều cơ cực: cha mất vì nghiện, mẹ đi tha hương cầu thực bỏ lại hai anh em Hồng ở 
lại trong sự ghẻ  lạnh của họ hàng, nhưng không vì thế  mà chú mất đi tình yêu thương mãnh liệt với mẹ.  
Tình cảm chân thành ấy cứ tự nhiên lớn dần bởi khát khao yêu thương chứ không phải vật chất "Non một  
năm ròng, mẹ tôi không gửi cho tôi lấy một lá thư, nhắn người hỏi thăm tôi lấy một lời và gửi cho tôi lấy  
một đồng quà". Khi bị bà cô gieo rắc vào đầu những ý nghĩ tanh bẩn về mẹ, chú bé Hồng vẫn không giận  
mẹ, luôn tin mẹ  và hiểu mẹ. Chú chỉ  giận những cổ tục xấu xa đã đầy đọa mẹ  con sớm chia ly "Giá như 
những cổ tục đã đày đọa mẹ là một vật như hòn đá hay cục thủy tinh, tôi quyết vồ lấy mà nhai, mà cắn cho  
kỳ nát vụn mới thôi". Tình yêu thương không gì ngăn cản ấy còn thể hiện khi Hồng gặp mẹ. 
Thoáng thấy người ngồi trên xe giống mẹ, chú đã chạy theo gọi bối rối, chứng tỏ mẹ luôn nằm trong tâm trí  
chú. Khi được ngồi trên xe cùng mẹ, chú đã òa khóc. Đó là tiếng khóc dỗi hờn mà xúc động, tủi thân mà  
hạnh phúc. Chú thấy mẹ "đẹp như thuở còn sung túc", chú tận hưởng cái ấm áp của tình mẹ, quên đi những  
cay độc tủi hờn người cô gieo rắc để chìm trong dòng cảm xúc mơn man dào dạt. Thực sự, nhà văn Nguyên 
Hồng đã viết lên một bài ca không quên ­ một tình yêu thương bất tử, vĩ đại, thiêng liêng và ấm áp mà chú  
bé Hồng chỉ dành riêng cho người mẹ bất hạnh của mình. 
3. Tức nước vỡ bờ
*Dẫn chứng về tình yêu thương chồng con của Chị Dậu 
Vẻ đẹp của nhân vật chị Dậu trước hết là vẻ đẹp của một người phụ nữ yêu chồng, thương con. Mở  đầu 
đoạn trích là cảnh chị Dậu chăm sóc người chồng ốm yếu vừa được thả sau những đánh trận đánh nhừ tử vì  
không đủ tiền nộp sưu thuế. Đón chồng về trong tình trạng đau yếu tưởng như sắp chết mà trong nhà cũng 
chẳng có gì ngon để tẩm bổ, may thay người hàng xóm thương tình cho vay bát gạo nấu cháo cho chồng ăn 
lại sức. Cháo chín, chị ngồi quạt đợi cho cháo nguội rồi ân cần nâng chồng dậy, dịu dàng như  nịnh nọt nói 
với chồng: “Thầy em cố  ngồi dậy húp ít cháo cho đỡ  sốt ruột”. Chị  hãy còn để  ý xem chồng ăn có ngon  
miệng hay không. Chính những hình ảnh, cử chỉ đó đã biểu lộ sự săn sóc và yêu thương của một người vợ 
đối với người chồng dù đang trong cơn khốn khó. 
Không những thế, khi anh Dậu vừa mới kề bát cháo lên miệng thì bọn cường hào lại tìm đến nhà lôi ra đánh 
đập. Thương người chồng  ốm yếu, chị  không quản ngại mà qùy xuống van xin cai lệ: “Cháu xin ông”, 
“Cháu van ông, nhà cháu vừa mới tỉnh được một lúc, ông tha cho!”. Tuy thế  nhưng tiếng kêu van của chị 

không làm cho đám cường hao có một chút động lòng, chúng cứ thế xông vào trói anh Dậu. Bị dồn vào thế 
chân tường, không còn con đường nào khác, chị  đã tức thì đánh trả  lại bọn chúng để  bảo vệ  người chồng 
đau yếu không còn chút sức kháng cự. Hành động  ấy cũng đã chứng tỏ  tình yêu thương của chị  đối với  
chồng bất chấp cả cường quyền bạo ngược. 
*Dẫn chứng về sức sống mãnh liệt, tinh thần phản kháng của chị Dậu 
Nhân hậu, giàu đức hạnh và giàu tình yêu thương chồng con nhưng đó cũng chưa phải là tất cả vẻ đẹp của  
nhân vật chị  Dậu.  Ở  người phụ  nữ  này còn toát lên tinh thần phản kháng mãnh liệt. Chính trong cái tình 
cảnh chứng kiến người chồng chuẩn bị lôi đi, tình yêu chồng và lòng căm thù bọn ác bá cường hào đã thôi  
thúc chị vùng lên dữ dội. 


Khi chị đã hết lời van xin nhưng tên cai lệ vẫn không tha cho, cố tình sấn đến định bắt anh Dậu thì lúc này  
chị Dậu đã cảnh cáo: “Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ”. Câu nói đầy cứng rắn, có đủ tình, 
đủ  lí nhưng không ngăn nổi cái ác tiếp diễn. Tên cai lệ  sấn tới tát chị  và chính cái tát ấy như  lửa đổ  thêm 
dầu, làm bùng lên ngọn lửa căm hờn, chị  nghiến hai hàm răng: “Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày 
xem!”. Tên cai lệ chưa kịp làm gì thêm thì đã bị  chị  “túm lấy cổ hắn,  ấn dúi ra cửa. Sức lẻo khẻo của anh 
chàng nghiện chạy không kịp với sức xô đẩy của người đàn bà lực điền, hắn ngã chỏng queo trên mặt đất”. 
Còn tên người nhà lí trưởng cũng bị chị Dậu “túm tóc, lẳng cho cho một cái, ngã nhào ra thềm”. 
Có thể  thấy sự  chuyển biến tâm lý và hành động rất mạnh mẽ   ở  nhân vật trong tình cảnh này. Từ  một  
người phụ  nữ  nông thôn hiền lương, nghèo đói, luôn sợ  sệt lũ tay sai thúc thuế, chị  đã dám phản kháng 
chống lại uy quyền. Đến lúc này thì nỗi căm phẫn đã lên đến đỉnh điểm, nỗi sợ hãi cố hữu của kẻ bị áp bức 
phút chốc tiêu tan, thay vào đó là một bản lĩnh quật khởi rất cứng cỏi: “Thà ngồi tù. Để  cho chúng nó làm 
tình làm tội mãi thế, tôi không chịu được”.Tức nước thì vỡ bờ, có áp bức thì tất có đấu tranh là một quy luật 
tất yếu. Tuy vậy, sự  đấu tranh của chị  Dậu chỉ  là hành động mang tính bộc phát chứ  không có tính định 
hướng, cũng chưa có tính tập thể cho nên cuối cùng một mình chị vẫn không thể nào chống đỡ lại được cả 
một chế  độ  phong kiến thối nát, độc ác, chuyên quyền. Chị  vẫn phải vùng chạy, lao vào màn đêm tăm tối 
như chính của cuộc đời của mình. 
Đoạn trích “Tức nước vỡ  bờ” được coi là một trong những đoạn trích hay nhất của tác phẩm  “Tắt đèn”. 
Đoạn trích vừa làm nổi bật vẻ đẹp của một người phụ nữ  yêu chồng thương con, giàu đức hy sinh và sức  
phản kháng mãnh liệt, vừa thông qua đó để  lên án một xã hội cường quyền, áp bức bất công đẩy người  

nông dân thấp cổ bé họng vào đường cùng, buộc họ phải vùng lên tranh đấuỖNG 
4. Tôi đi học ­ Nguyên Hồng
Dẫn chứng cảm xúc của nhân vật “ tôi” trong ngày đầu đi học 
Tôi đi học được bố cục theo dòng hồi tưởng của nhân vật "tôi” về những kỉ niệm buổi tựu trường. Tiết trời  
vào những ngày cuối thu, hình  ảnh các em nhỏ đến trường gợi cho nhân vật “tôi” nhớ  lại ngày đầu tiên đi  
học. "Tôi" nhớ  lại con đường cùng mẹ  đến trường, cảnh vật trên đường vốn rất quen nhưng lần này tự 
nhiên thấy lạ, “tôi” cảm thấy có sự  thay đổi lớn trong lòng mình. Đó là cảm giác trang trọng và đứng đắn  
trong chiếc áo vải dù đen dài, cùng mấy quyển vở mới trên tay. Bàn tay cẩn thận, nâng niu mấy quyển vở,  
lúng túng muốn thử sức nên xin mẹ được cầm cả  bút, thước như các bạn khác. Khi nhìn thấy ngôi trường  
ngày khai giảng, "tôi" thấy ngạc nhiên vì sân trường hôm nay dày đặc cả  người, ai cũng ăn mặc sạch sẽ,  
gương mặt tươi vui và sáng sủa. Ngôi trường vừa xinh xắn vừa oai nghiêm khác thường, “tôi” cảm thấy  
mình bé nhỏ, do đó lo sợ vẩn vơ. Đặc biệt, lúc ngồi vào chỗ của mình trong giờ học đầu tiên, nghe thầy giáo 
gọi tên, bắt đầu học bài học thứ  nhất,... nhân vật chính của thiên truyện vừa thấy hồi hộp, ngỡ  ngàng lại 
vừa tự tin, sung sướng. 
*Lưu ý : Dù là viết đoạn văn nhưng cũng phải có câu mở đoạn, phát triển đoạn và kết đoạn. 


×