ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP NGỮ VĂN 8 HỌC KÌ I
Năm học : 2019 2020
I. Phần văn bản:
Bảng thống kê các văn bản đã học:
TT
Tác
phẩm
Tác giả
1
Tôi đi Thanh Tịnh (19111988)
học
2
Trong Nguyên Hồng (19181982)
lòng
mẹ
3
Tức
nước
vớ bờ
Ngô Tất Tố (18931954)
Giá trị nội
dung
Tuổi học trò
sâu lắng
đáng yêu cần
cảm ơn công
lao sinh
thành của
cha mẹ.
Giá trị nghệ thuật
Ý nghĩa
Văn tự sự kết hợp Buổi tựu trường đầu
hài hòa chặt chẽ với tiên sẽ măi măi không
miêu tả và biểu
thể nào quên trong kí
cảm, làm cho truyện ức của nhà văn
ngắn đậm chất trữ Thanh Tịnh.
tình
Tài sử dụng ngôn
ngữ ngắn của nhà
văn với những hồi
ức sâu lắng đáng
yêu.
Là bài ca
Phương thức tự sự
Tình mẫu tử là
chân tình
và biểu cảm kết
mạch nguồn tình
cảm động về hợp với lời văn chân cảm khơng bao giờ
tình mẫu tử, tình giàu cảm xúc,
vơi trong tâm hồn
đó là những với những thủ pháp con người.
cay đáng tủi so sánh độc đáo.
nhục, cùng
tình yêu
thương cháy
bỏng của
nhà văn đối
với người
mẹ.
Tác phẩm đã Khắc họa nhân vật Với cảm quan nhạy
vạch trần bộ rõ nét, ngôn ngữ kể bén, nhà văn Ngô tất
mặt tàn ác
chuyện miêu tả đối Tố đã phản ánh hiện
bất nhân của thoại đặc sắc.
thực về sức phản
xã hội thực
kháng mãnh liệt chống
dân phong
lại áp bức của những
kiến, Vẻ
người nông dân hiền
đẹp của một
lành chất phác.
tâm hồn đầy
yêu thương,
dịu dàng,
chịu đựng,
ngang tàng,
4
Lão
hạc
Nam Cao (19171951)
5
Cô bé
bán
diêm
Anđécxen (18051875)
bất khuất
của người
phụ nữ trước
cách mạng
tháng 8 tư
thế là người
rất đẹp của
chị dậu là ko
chịu sống
quỳ.
Truyện ngắn
đã thể hiện
một cách
chân thực và
cảm động số
phận đau
thương của
người nông
dân trong xã
hội cũ và
phẩm chất
cao quý tiềm
tàng của họ.
Đồng thời
truyện ngắn
còn cho thấy
tấm lòng yêu
thương trân
trọng đối với
người nông
dân.
Niềm
thương cảm
sâu sắc đối
với những
con người
bất hạnh,
niềm tin của
con người và
tấm lòng
nhân ái của
nhà văn.
Tạo dựng tình
huống truyện bất
ngờ, ngôn ngữ phù
hợp với từng nhân
vật, con chó vàng
mang màu sắc triết
lí, xây dựng nhân
vật bằng miêu tả
ngoại hình để bộc
lộ nội tâm, tâm lí
của nhân vật.
Văn bản thể hiện
phẩm chất của
người nông dân
không thể bị hoen ố
dù phải sống trong
cảnh khốn cùng.
Cách kể chuyện
hấp dẫn đan xen
giữa mộng tưởng và
thực tế, sử dụng
hình ảnh tương
phản đối lập đặc
sắc.
Sự kết hợp chặt
chẽ giữa yếu tố kể,
tả, biểu cảm.
Xây dựng tình
huống truyện độc
đáo, hấp dẫn phù
hợp với tâm lí trẻ
thơ.
Truyện thể hiện
niềm thương cảm
sâu sắc của nhà văn
đối với những số
phận bất hạnh
6
Đánh
nhau
với
cối
xay
gió
Xécvantéc (15471616)
7
Chiếc O henri (18621910)
lá
cuối
cùng
8
Hai
cây
phong
Aima tốp (19282008)
9
Ôn
dịch,
thuốc
lá
Nguyễn Khắc Viện
Sử dụng
Sử dụng phép tương
tiếng cười
phản trong xây
khôi hài để
dựng nhân vật.
diễu cợt cái
hoang tưởng,
tầm thường
đề cao thực
tế và sự cao
thượng.
Ca ngợi tình
bạn, tình
người đằm
thắm, tha
thiết, thủy
chung, trong
sáng nghệ
thuật chân
chính phục
vụ con
người, hãy
yêu thương
trân trọng
con người
nhất là
những con
người nghèo
khổ.
Vẻ đẹp thân
thuộc cao
quý của hai
cây phong
gắn liền với
tình thương
tha thiết của
tác giả.
Kể câu chuyện về sự
thất bại của Đôn Ki
– hô – tê đánh nhau
với cối xay gió, nhà
văn chế giễu lí tưởng
hiệp sĩ phiêu lưu, hão
huyền, phê phán thói
thực dụng thiển cận
của con người trong
đời sống xã hội
Xây dựng cốt
Là câu chuyện cảm
truyện đơn giản,
động về tình yêu
giàu kịch tính, kết
thương giữa nghững
cấu truyện tương
người nghệ sĩ
phản, tinh tế hai lần nghèo. Qua đó, tác
đảo ngược kết thúc giả thể hiện quan
truyện bất ngờ,
niệm của mình về
ngôn ngữ kể truyện mục đích của sáng
giản dị nhẹ nhàng
tạo nghệ thuật.
và sâu sắc.
Nhân vật kể
chuyện kết hợp với
hai mạch kể, gắn
với hai đại từ nhân
xưng là tôi và chúng
tôi.
Phương thức biểu
đạt kết hợp với
miêu tả, nhân hóa
cao độ.
Nạn hút
Kết hợp lập luận
thuốc lá lây chặt chẽ, dẫn
lan, gây tổn chướng sinh động,
thất to lớn
với thuyết minh cụ
cho sức khỏe thể, phân tích trên
của con
cơ sở khoa học. Sử
người, cho
dụng thủ pháp so
cuộc sống
sánh để thuyết minh
của gia đình một cách thuyết
và xã hội nên phục một vấn đề y
phải quyết
học có liên quan
Hai cây phong là biểu
tượng của tình yêu
quê hương sâu nặng
gắn liền với những
kĩ niệm tuổi thơ đẹp
đẽ của người họa sĩ
làng KuKurêu
Với những phân tích
khoa học, tác giả đã
chỉ ra tác hại của
việc hút thuốc lá đối
với đời sống con
người, từ đó phê
phán và kêu gọi mọi
người ngăn ngừa tệ
nạn hút thuốc lá
tâm để
đến xã hội.
chống lại
nạn dịch này.
10
Bài
Thái An
toán
dân số
11
Thông
tin về
ngày
trái
đất
năm
2000
12
Đập
đá ở
Côn
Lôn
Văn bản đã
nêu lên vấn
đề thời sự
của nhân
loại, dân số
và tương lai
của dân tộc
nhân loại.
Tác giả đã đưa ra
các con số buộc
người đọc phải tinh
tưởng và suy ngẫm
về sự gia tăng dân
số đang lo ngại của
thế giới, nhất là
những nước chậm
phát triển.
Tác hại của Bố cục chặt chẽ lô
bao bì ni
rích, lối lí lẽ ngắn
lông, lợi ích gọn, giải thích đơn
của việc hạn giản, kết hợp
chế sử dụng phương pháp liệt kê
bao bì ni lông phân tích.
để bảo vệ
môi trường
sống.
Hình tượng Hình ảnh thơ mạnh
đẹp đẽ
mẽ khoáng đạt,
ngang tàng
giọng thơ hào hùng,
của người
sử dụng hình ảnh
anh hùng cứu đối lập.
nước. Dù
gian nan thử
thất nhưng
ko sờn lòng
đổi chí, khí
phách hiên
ngang, kiên
cường, ý chí,
nghị lực lớn
lao của
người chiến
sĩ cách
mạng.
Phan Châu Trinh
(18721926)
Văn bản nêu lên vấn
đề thời sự của đời
sống hiện đại : Dân
số và tương lai của
dân tộc, nhân loại.
Nhận thức về tác
dụng của một hành
động nhỏ, có tính
khả thi trong việc
bảo vệ môi trường
trái đất.
Nhà tù của đế quốc,
thực dân không thể
khuất phục ý chí,
nghị lực và niềm tin,
lí tưởng của người
chí sĩ cách mạng.
II.Phần tiếng việt:
1: Lập bảng thống kê các kiến thức đã học:
TT
Tên từ
vựng, câu,
dấu câu
Khái niệm
Dấu hiệu, hình thức, chức năng
Ví dụ
Câu ghép là những
câu do hai hoặc
nhiều cụm CV
không bao chứa
nhau tạo thành.
Mỗi cụm CV này
được gọi là một
vế câu
1
Câu ghép
2
Cấp độ
khái quát
của nghĩa
từ ngữ
3
Trường từ Trường từ vựng là
vựng
tập hợp của
những từ có ít
nhất một nét
*Có hai cách nối các vế câu:
Dùng những từ có tác dụng
nối.Cụ thể:
+Nối bằng một quan hệ từ;
+Nối bằng một cặp quan hệ từ;
+Nối bằng một cặp phó từ, đại
từ hay chỉ từ thường đi đôi với
nhau (cặp từ hô ứng).
Không dùng từ nối: Trong
trường hợp này, giữa các vế câu
cần có dấu phẩy, dấu chấm
phẩy hoặc dấu hai chấm.
*Các vế của câu ghép có quan
hệ ý nghĩa với nhau khá chặt
chẽ. Những quan hệ thường gặp
là: qh nguyên nhân, qh điều
kiện(giả thiết), qh tương phản,
qh tăng tiến, qh lựa chọn, qh bổ
sung, qh tiếp nối, qh đồng thời,
qh giải thích.
*Mối quan hệ thường được
đánh dấu bằng cặp quan hệ từ,
những quan hệ từ hoặc cặp từ
hô ứng nhất định. Tuy nhiên, để
nhận biết chính xác quan hệ ý
nghĩa giữa các vế câu, trong
nhiều trường hợp ta phải đựa
vào văn cảnh hoặc hoàn cảnh
giao tiếp.
Nghĩa của một từ ngữ có thể
rộng hơn(khái quát hơn) hoặc
hẹp hơn (ít khái quát hơn)nghĩa
của từ khác:
Một từ ngữ được coi là có nghĩa
rộng khi phạm vi nghĩa của từ
ngữ đó bao hàm phạm vi nghĩa
của một số từ ngữ khác.
Một từ ngữ được coi là có nghĩa
hẹp khi phạm vi nghĩa của từ đó
được bao hàm trong phạm vi
nghĩa của một từ ngữ khác.
Một từ ngữ có nghĩa rộng đối
với những từ ngữ này, đồng thời
có nghĩa hẹp đối với từ ngữ
khác.
+Mây đen kéo kính bầu trời,
gió giật mạnh từng cơn.
+Nắng ấm, sân rộng và sạch.
+Giá trời không mưa thì chúng
tôi sẽ đi chơi.
+Vì mẹ ốm nên bạn Nghĩa
phải nghĩ học.
+ Xăng, dầu hoả, ga, than,
củi… được bao hàm trong
phạm vi nghĩa của từ "nhiên
liệu".
+ "Lúa"có nghĩa rộng hơn các
từ ngữ: lúa nếp, lúa tẻ, lúa
tám thơm…
+ Lúa lại có nghĩa hẹp hơn
với từ "ngũ cốc"
+ Các từ: thầy giáo, công nhân
nông dân, thầy thuốc, kỹ sư…
đều có một nét nghĩa chung là:
người nói chung xét về nghề
chung về nghĩa
4
5
6
Từ tượng
hình, từ
tượng
thanh
Từ ngữ
địa
phương,
biệt ngữ
xã hội
Trợ từ,
thán từ
*Từ tượng hình là
từ gợi tả hình
ảnh, dáng vẻ,
trạng thái của sự
vật.
*Từ tượng thanh
là từ mô phỏng âm
thanh của tự nhiên
của con người.
*Khác với từ ngữ
toàn dân, từ ngữ
địa phương là từ
ngữ chỉ sử dụng ở
một (hoặc một số)
địa phương nhất
định.
* Khác với từ ngữ
toàn dân,biệt ngữ
xã hội chỉ được
dùng trong một
tầng lớp xã hội
nhất định
*Trợ từ là những
từ chuyên đi kèm
với một từ ngữ
trong câu để nhấn
mạnh hoặc biểu
thị thái độ đánh
giá sự vật, sự việc
được nói đến ở từ
ngữ đó.
*Thán từ là những
từ dùng để bộc lộ
tình cảm, cảm xúc
của người nói
hoặc dùng để gọi
đáp.
nghiệp.
Từ tượng hình, từ tượng thanh
gợi được hình ảnh, âm thanh cụ
thể, sinh động, có giá trị biểu
cảm cao; thường được dùng
trong văn miêu tả và văn tự sự.
+Từ tượng thanh: soàn soạt,
bịch, đánh bốp, nham nhảm.
+ Từ tượng hình: rón rén, lực
điền, chỏng queo.
*Việc sử dụng từ ngữ địa
*Ngái_xa,chộ_thấy
phương và biệt ngữ xã hội phải Mẹ_mạ,rào_sông, …
phù hợp với tình huống giao tiếp.
Trong thơ văn tác giả có thể sử
*Mợ_mẹ,trứng_điểm 0
dụng một số từ ngữ thuộc hai
lớp từ này để tô đậm màu sắc
địa phương, màu sắc tầng lớp xã
hội của ngôn ngữ, tính cách nhân
vật.
*Muốn tránh lạm dụng từ ngữ
địa phương và biệt ngữ xã hội,
cần tìm hiểu các từ ngữ toàn dân
có nghĩa tương ứng để sử dụng
khi cần thiết.
*Ví dụ trợ từ: những, có,
chính, đích, ngay…
* Thán từ thường đứng ở đầu
câu, có khi được tách ra thành
một câu đặc biệt.
* Thán từ gồm hai loại chính:
+ Thán từ bộc lộ tình cảm cảm
xúc:
+Thán từ gọi đáp:
A, ái, ơ, ôi, ô hay, than ơi, trời
ơi…
Này, ơi, vâng, dạ, ừ
…
7
8
9
10
11
Tình thái
từ
Tình thái từ là
những từ được
thêm vào câu để
tạo câu nghi vấn,
cầu khiến, cảm
thán và để biệu thị
sắc thái tình cảm
của người nói.
*Tình thái từ gồm một số loại
đáng chú ý như sau:
Tình thái từ nghi vấn:
Tình thái từ cầu khiến:
Tình thái từ cảm thán:
Tình thái từ biểu thị sắc thái tình
cảm:
*Khi nói khi viết cần chú ý sử
dụng tình thái từ phù hợp với
hoàn cảnh giao tiếp (quan hệ
tuổi tác, thứ bậc xã hội, tình
cảm…)
Nói quá là biện
pháp tu từ phóng
đại mức độ, quy
mô, tính chất của
sự vật, hiện
tượng được miêu
tả để nhấn mạnh,
gây ấn tượng, tăng
sức biểu cảm.
Nói giảm, Nói giảm nói tránh
nói tránh
là một biện pháp
tu từ dùng cách
diễn đạt tế nhị,
uyển chuyển,
tránh gây cảm giá
đau buồn, ghê sợ,
nặng nề; tránh thô
tục, thiếu lịch sự.
+Bọn giặc hoảng hồn vắt
chân lên cổ mà chạy.
+Cô Nam tính tình xởi lởi,
ruột để ngoài da.
Nói quá
Dấu
ngoặc
đơn, dấu
hai chấm
Dấu
ngoặc kép
À, ư, hả, chứ, chăng…
Đi, nào, với…
Thay, sao…
Ạ, nhé, cơ, mà…
+ "Chị ấy xấu" có thể thay
bằng "Chị ấy không đẹp
lắm".
+
"Anh ấy hát dở" có thể thay
bằng "Anh ấy hát chưa hay"
+"Ông ấy sắp chết" có thể
thay bằng " Ông ấy chỉ nay
mai thôi"
*Dấu ngoặc đơn dùng để đánh
dấu phần chú thích (giải thích,
thuyết minh, bổ sung thêm)
*Dấu hai chấm dùng để:
Đánh dấu (báo trước) phần giải
thích, thuyết minh cho một phần
trước đó.
Đánh dấu (báo trước) lời dẫn
trực tiếp (dùng với dấu ngoặc
kép) hay lời đối thoại (dùng với
dấu gạch ngang).
Dấu ngoặc kép dùng để:
Đánh dấu từ ngữ, câu, đoạn dẫn
trực tiếp;
Đánh dấu từ ngử được hiểu
theo nghĩa đặc biệt hay có hàm ý
*Ví dụ: Lí Bạch (701762)
+Vì chính lòng tôi đang có sự
thay đổi: hôm nay tôi đi học.
+Người xưa có câu: “trúc dẫu
cháy, đốt ngay vẫn thẳng”
“A, lão già tệ lắm”
Cầu Long Biên như một
“giải lụa”.
Tác phẩm “Tắt Đèn” của
mỉa mai;
Đánh dấu tên tác phẩm, tờ báo,
tập san,… được dẫn.
“Ngô Tất Tố”
III. Phần tập làm văn:
1.
Lý thuyết:
Câu 1: Nêu tính thống nhất về chủ đề của văn bản?
Chủ đề là đối tượng và vấn đè chinh mà văn bản muốn biểu đạt.
Văn bản có tính thống nhất về chủ đề khi chỉ biểu đạt chủ đề đã xác định, không rời xa hay lạc sang
chủ đề khác.
Câu 2: Bố cục của văn bản?
Bố cục của văn bản là sự tổ chức các đoạn văn để thể hiện chủ đề. Văn bản thường cá bố cục 3 phần:
mở bài, thân bài, kết bài.
+ Mở bài: giới thiệu nội dung sẽ triển khai, dẫn dắt người đọc nhập cuộc;
+ Thân bài: triển khai nội dung đã giới thiệu ở mở bài, giải quyết nhiệm vụ đã đặt ra;
+ Kết bài: khẳng định và nâng cao vấn đề đã trình bày ở phần nội dung.
Câu 3: Thế nào là liên kết các đoạn văn trong văn bản?
Khi chuyển từ đoạn văn này sang đoạn văn khác cần sử dụng các phương tiện liên kết để thể hiện
quan hệ ý nhgĩa của chúng
Câu 4:Nêu khái niệm về đoạn văn trong văn bản, từ ngữ chủ đề và câu chủ đề?
Đoạn văn là đơn vị trực tiếp tạo nên văn bản, bắt đầu bằng chữ viết hoa lùi đầu dòng và kết thúc bằng
dấu chấm xuống dòng và thường biểu đạt một ý tương đối hoàn chỉnh. Đoạn văn thường do nhiều câu
tạo thành.
Từ ngữ chủ đề là các từ ngữ được dùng làm đề mục hoặc các từ ngữ được lặp lại nhiều lần nhằm duy
trì đối tượng được biểu đạt.
Câu chủ đề mang nội dung khái quát, lời lẽ ngắn gọn thường đủ hai thành phần chính và đứng ở đầu
hoặc cuối đoạn văn.
Câu 5:Tóm tắt văn bản tự sự và các bước tóm tắt?
Tóm tắt văn bản tự sự là dùng lời văn của mình trình bày một cách ngắn ngọn nội dung chính (bao gồm
sự việc tiêu biểu và nhân vật quan trọng) của văn bản đó.
Các bước tóm tắt văn bản tự sự:
B1: Đọc kĩ văn bản gốc, chọn các sự việc cơ bản xảy ra với nhân vật chính và diễn biến của các sự
việc đó.
B2:Tóm tắt rõ các hành động, lời nói, tâm trạng của nhân vật theo diễn biến của cốt truyện (một vài
chỗ có thể kết hợp dẫn nguyên văn một số từ ngữ, câu văn trong văn bản gốc).
Câu 6:Văn bản tự sự có yếu tố miêu tả, biểu cảm.
Trong văn bản tự sự rất ít khi tác giả chỉ thuần kể người, kể việc(kể chuyện) mà khi kể thường đan
xen các yếu tố miêu tả, biểu cảm.
Các yếu tố miêu tả biểu cảm làm cho việc kể chuyện sinh động và sâu sắc hơn.
Câu 7:Thế nào là văn thuyết minh?
Văn thuyết minh là kiểu văn bản thông dụng trong mọi lĩnh vực của đời sống nhằm cung cấp tri thức
(kiến thức) về đặc điểm, tính chất, nguyên nhân,...của các hiện tượng và sự vật trong tự nhiên, xã hội
bằng phương thức trình bày, giới thiệu, giải thích.
Câu 8:Các phương pháp thuyết minh thường gặp:
Để bài văn thuyết minh có súc thuyết phục, dễ hiểu,rõ ràng, người ta có thể sử dụng phối hợp nhiều
phương pháp thuyết minh như: nên định nghĩa, giải thích, liệt kê, nêu ví dụ, dùng số liệu, so sánh, phân
tích, phân loại,...
Câu 9: Đề văn thuyết minh và cách làm bài văn thuyết minh?
Đề văn thuyết minh nêu các đối tượng để người làm bài trình bày tri thức về chúng.
Để làm bài văn thuyết minh cần tìm hiểu kĩ đối tượng thuyết minh, xác định rõ phạm vi tri thức về đối
tượng đó, sử dụng phương pháp thuyết minh thich hợp, ngôn ngữ chính xác, dễ hiểu.
Bố cục bài văn thuyết minh gồm có ba phần;
MB:Giới thiệu đối tượng thuyết minh.
TB: Trình bày cấu tạo, các đặc điểm, lợi ích,... của đối tượng.
KB: Bày tỏ thái độ đối với đối tượng.
Câu 10: Cách thuyết minh về một thể loại văn học?
Trước hết phải quan sát, nhận xét sau đó khái quát thành những đặc điểm.
Khi nêu các đặc điểm cần lựa chon các đặc điểm tiêu biểu quan trọng và cần có các ví dụ cụ thể để làm
sáng tỏ các đặc điểm ấy.
Ôn tập các đề văn sau
Đề 1: Giới thiệu về một vật dụng trong gia đình.
Đề 2: Thuyết minh về một loài hoa mà em yêu thích.
Đề 3: Giới thiệu về một cảnh đẹp quê hương em.
Đề 4: Giới thiệu về một tác phẩm văn học.
Đề 5: Thuyết minh về cây bút bi
Đề 6: Thuyết minh về chiếc nón lá Việt Nam
Đề 7: Thuyết minh về chiếc áo dài Việt Nam
2.Bài tập:
Câu 1: Viết đoạn văn giới thiệu về các tác giả Nguyên Hồng, Nam Cao, Ngô Tất Tố ?
Nguyên Hồng:
Nhà văn Nguyên Hồng sinh năm 1918 mất năm 1982. Tên khai sinh của ông là Nguyễn Nguyên Hồng, quê
ở thành phố Nam Định. Nguyên Hồng sống chủ yếu ở thành phố cảng Hải Phòng. Nguyên Hồng từng có
một tuổi thơ bất hạnh. Hồi kí Những ngày thơ ấu được coi là những dòng hồi ức sinh động, chân thực
đầy cay đắng về tuổi thơ không êm đềm của nhà văn.Ông viết nhiều thể loại truyện ngắn, tiểu thuyết,
kí, thơ. Các tác phẩm chính của Nguyên Hồng: Bỉ vỏ (tiểu thuyết, 1938); Những ngày thơ ấu (hồi kí,
1938); Trời xanh (tập thơ, 1960); Cửa biển (bộ tiểu thuyết 4 tập: 1961, 1967, 1973, 1976); Núi rừng Yên
Thế (bộ tiểu thuyết lịch sử nhiều tập chưa viết xong); Bước đường viết văn (hồi kí, 1970).Trong những
tác phẩm của Nguyên Hồng, hình ảnh người phụ nữ và trẻ em trong xã hội cũ được nhà văn dành nhiều
niềm yêu thương, đồng cảm. Với những đóng góp của Nguyên Hồng dành cho nền văn học dân tộc, ông
được nhà nước truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 1996.
Nam Cao:
Nam Cao (19151951) là một trong những nhà văn Việt Nam tiêu biểu nhất thế kỉ 20. Nhiều truyện ngắn của
ông được xem như là khuôn thước cho thể loại này. Đặc biệt một số nhân vật của Nam Cao trở thành
những hình tượng điển hình.
“Lão Hạc” của Nam Cao ra mắt bạn đọc năm 1943. Câu chuyện về số phận thê thảm của người nông dân
Việt Nam trong bối cảnh đe doạ của nạn đói và cuộc sống cùng túng đã để lại xúc động sâu xa trong lòng
độc giả. Đặc biệt, tác giả đã diễn tả tập trung vào tâm trạng nhân vật chính – lão Hạc – xoay quanh việc
bán cho' đã giúp ta hiểu thêm tấm lòng của một người cha đáng thương, một con người có nhân cách đáng
quý và một sự thực phũ phàng phủ chụp lên những cuộc đời lương thiện
Kết thúc bi kịch cũng là thật sự chấm dứt những dằn vặt riêng tư của lão Hạc, nhưng để lại bao suy ngẫm
về số phận những con người nghèo khổ lương thiện trong xã hội cũ.
Ngô Tất Tố:
Nhà vàn Ngô Tất Tố sinh năm 1893 mất năm 1954 quê ở làng Lộc Há (nay thuộc huyện Đông Anh, ngoại
thành Hà Nội), ông không đến ngay với nghề viết như nhiều nhà văn khác. Trước năm 1945, Ngô Tất Tố
từng làm nhiều nghề như dạy học, bốc thuốc, rồi sau đó mới làm báo, viết văn. Trong Cách mạng tháng
Tám, ông tham gia Uỷ ban Giải phóng xã (Lộc Hà). Năm 1946 ông gia nhập Hội Văn hoá Cứu quốc và
lên chiến khu Việt Bắc tham gia kháng chiến chống Pháp; từng là Chi hội trưởng Chi hội Văn nghệ Việt
Bắc, hoạt động ở Sở Thông tin khu XII, tham gia viết các báo Cứu quốc khu VII, Thông tin khu VII, Tạp
chí Văn nghệ, báo Cứu quốc Trung ương... và viết văn. Ông đã là Uỷ viên Ban chấp hành Hội văn nghệ
Việt Nam (trong Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ I 1948). Tác phẩm của Ngô Tất Tố sau này được
tập hợp trong tuyển tập: Ngô Tất Tố và tác phẩm, gồm 2 tập, do Nhà Xuất bản Văn học ấn hành, 1971
1976. Nhà văn đã được nhận hai giải thưởng trong giải thưởng văn nghệ 1949 1952 của Hội Văn nghệ
Việt Nam: Giải ba dịch (Trời hửng, Trước lửa chiến đấu) và giải khuyến khích (vở chèo Nữ chiến sĩ
Bùi Thị Phác); Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (năm 1996).
Câu 2:Viết đoạn văn cảm nhận về nhân vật chị Dậu, Lão Hạc, cậu bé Hồng, Cô Bé Bán Diêm.
Chị Dậu:
Đảm đang, tháo vát, chung thủy, giàu lòng hi sinh, đó là những đặc điểm có tính chất truyền thống của
người phụ nữ Việt Nam trước đây. Cái mới của chị Dậu là sức chiến đấu mạnh khỏe, lạc quan và tinh
thần phản kháng gan dạ trước kẻ thù. Nhiều người đàn bà khác rơi vào tình cảm quẫn bách như chị
Dậu, có khi đành chịu buông tay khuất phục, nhắm mắt cho cuộc đời trôi theo số mệnh. Nhưng người
đàn bà nông dân này cứ thấy lăn xả vào bóng tối như mực, kiếm cách phá tung ra đế tìm đường sống. Và
chống trả một cách mộc mạc, hồn nhiên, không cần lí lẽ, dường như hành động quyết liệt đó, ngôn ngữ
nhân vật nhuần nhị đó là sản phẩm tất yếu của một cuộc đời lương thiện vốn đã cơ cực lại còn bị giày
xéo tàn nhẫn: “ Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem!” “ Ô! Nhà ông này mới hay chứ! Có
buông ra không thì tôi kêu lên bây giờ!”.. “ Cháu cũng biết rằng đàn bà mà hành hung như thế là hư thân
lắm, nhưng... cụ tính nhà cháu đau ốm như thế, mà cả hai đứa cứ xông vào đánh thì phỏng cả còn gì là
người! Vì thế cháu phải liều với chúng nó”. Thái độ chống trả của chị Dậu (“Cháu phải liều với chúng
nó”) là một hành động đấu tranh tự phát đơn độc, chưa có ý thức, chưa có phương hướng. Nhưng trong
văn học công khai đương thời, nhân vật này vẫn là một cái cột mốc cao nhất, một hình tượng phụ nữ
mạnh khỏe và tươi sáng nhất.
Lão Hạc:
Lão Hạc là một người nông nghèo khó nhưng giàu lòng yêu thương, sống nhân hậu, tình nghĩa, và có
lòng tự trọng, không muốn khi mình chết phải phiền tới hàng xóm. Sau khi bán cậu Vàng, người bạn duy
nhất của ông khi về già, ông thấy rất hối hận.vì là ng` có lòng tự trọng, không muốn khi mình chết phải
phiền tới hàng xóm nên ông đã tự kết liểu mình bằng chính cái chết mà chó hay nhận được đó là bả chó.
Không ai hiểu vì sao lão chết ,chỉ có binh Tư và ông Giáo hiểu. Qua cái chết của Lão ta cũng có thể thấy
dc một ý nghĩa rất sâu sắc. Đó là vì lòng yêu thương con trai mình, dành dụm tiền cho con, vì muốn tạ
tội với cậu vàng.Cái chết của lão còn mang một hàm ý là muốn tố cáo xã cũ nửa phong kiến và qua đó
chứng minh dc rằng lão là một con ng` nghèo khó nhưng giàu lòng yêu thương, sống nhân hậu, tình
nghĩa, và có lòng tự trọng.
Cậu Bé Hồng:
Bé Hồng là một cậu bé có một tuổi thơ bất hạnh nhưng cậu có một tâm hồn vô cùng trong sáng và dạt
dào tình yêu thương. Bố cậu ăn chơi , nghiện ngập mất sớm, mẹ cậu phải tha hương cầu thực .Còn
cậu , cậu phải sống với bà cô cay nhiệt ,ghẻ lạnh,luôn gieo rắc vào đầu óc non nớt của đứa chấu những
hình ảnh xấu về người mẹ để cậu ruồng rẫy mẹ của mình.Nhưng Hồng đã ruồng bỏ những lời nói
thâm độc của bà cô, cậu đặt 1 niềm tin mãnh liệt vào người mẹ của mình , cậu căm hận những thành
kiến tàn ác đã khiến cho mẹ con Hồng phải xa lìa .Hơn ai hết , cậu luôn muốn sống trong tình yêu
thương , được mẹ vỗ về, được làm nũng được chiều chuộng,....như bao đứa trẻ khác .Gio đây mẹ là
niềm hạnh phúc, là khát khao duy nhất của cậu.Và rồi , vào hôm giỗ đầu thầy cậu . Mẹ đã về. Hồng
sung sướng vô bờ. Dạt dào , miên man khi được nằm trong lòng mẹ, được mẹ âu yếm vỗ về.tất acr
những khổ đau , những lời nói của bà cô đều bị lãng quên trôi đi nhẹ như một đám mây.Trong lòng cậu
lúc này chỉ còn niềm hạnh phúc .Qua đây, ta thấy được Hồng là một chú bé hiếu thảo , có tâm hồn trong
sáng và hơn nữa cậu có một tình yêu thương cháy bỏng dành cho người mẹ bất hạnh của mìnhtình mẫu
tử thiêng liêng.........
Cô Bé Bán Diêm
Em bé bán diêm thật tội nghiệp. Người đời đối xử tàn nhẫn với em biết mấy. Họ chẳng thèm để ý đến
những lời chào hàng tha thiết của em thậm chí đến lúc chết, cái thi thể lạnh cóng của em cũng chỉ nhận
được những ánh nhìn lạnh nhạt. Trong cái xã hội thiếu tình thương ấy, nhà văn Anđécxen đã tỏ lòng
thương cảm sâu sắc đối với em bé bất hạnh. Chính tình yêu ấy đã khiến nhà văn miêu tả thi thể em với đôi
má hồng và đôi môi đang mỉm cười, đồng thời tưởng tượng ra cảnh huy hoàng của hai bà cháu lúc về trời.
Song nhìn chung cả câu chuyện nói chung và đoạn kết của truyện nói riêng là một cảnh tượng thương tâm
thực sự. Nó gợi lên ở chúng ta bao nỗi xót xa cho những kiếp người nghèo khổ...
Câu 3:Giới thiệu về một vật dụng trong gia đình.
Bài làm
Đời sống của con người thì ngày càng tiến bộ.Các vật dụng trong gia đình đáp ứng cho cuộc sống
của con người cũng ngày một tiến bộ theo.Trong số đó,phích nước là một vật liệu thông dụng trong gia đình
mà chắc hẳn gia đình nào cũng phải sử dụng đến..
Phích nước là một đồ dùng trong gia đình dùng để giữ cho nước được nóng lâu.Hiện nay trên thị
trường có rất nhiều loại phích có mẫu mã,kiểu dáng khác nhau,có loại phích điện hiệ đại mà chỉ có các gia
đình có kinh tế khá mới sử dụng.Nhưng loại phích dạng thông thường vẫn được sử dụng nhiếu hơn cả.
Phích nước có dạng hình trụ,cao khoảng 49 đến 50 cm.Cấu tạo gồm hai phần :vỏ phích và ruột phích.Vỏ
phích có thể được làm bằng nhựa hoặc nhôm.Bên ngoài vỏ phích người ta thường trang trí hoa văn,hình vẽ
trông rất đẹp mắt.Dọc theo thân vỏ có một cái quai cầm để người sử dụnh dễ cầm,mang,xách và thuận lợi
cho việc chế nước từ trong phích ra ngoài.Ngoài ra,trên vỏ phích còn có một cái quai xách chắc chắn để
thuận tiện cho việc di chuyển phích nước.Bên trong vỏ phích được làm làm bằng thủy tinh có tráng thủy để
giử độ nóng cho nước trong 1 thời gian nào đó.Nút phích là một bộ phận dùng đậy ruột phích ,nút phích có
thể là nhựa,gỗ hoặc bằng nút thủy tinh tròn.Nút phích còn được bao đậy bởi nắp phích.Nắp phích được làm
bằng nhực hoặc làm bằng nhôm tùy theo chất liệu của vỏ phích.
Cách sử dung phích nước thì rất đơn giản.Ta chỉ cần chế nước sôi vào ruột phích,sau đó đậy chặt
nuts phích và nắp phích lại,khi nào cần thì mới mở nắp phích ra để lấy nước.Thông thường,các loại phích
dạng này chỉ giữ đươc nước nóng không quá 6 tiếng.Khi mới mua về,chúng ta không nên sử dụng ngay mà
phải cho nước ấm hoặc một ít nước giấm khoảng từ 5060 độ C vào ruột phích,tráng đều để ruột có khả
năng giữ nhiệt cao.Ruột phích là một bộ phận quan trọng nhất của phích nước,vì thế khi mua,ta phải quan
sát thử xem ruột phích có bị nứt hay không.Một kinh nghiệm để chọn phích nước là áp tai vào miệng
phích,nếu nghe tiêng"o..o"thì là phích tốt.Khi lựa mua phích nước,người tiêu dùng cần phải lưạchọn thạt kĩ
và chính xác thì mới có thể xài phích được lâu.
Phích nước rất thuận lợi cho chúng ta.Nhờ phích,ta có thể sử dung nước nóng bất cứ khi nào.Không
phải tốn nhiều thời gian đun nước.Mỗi lần như vậy không những mất nhiều thời gian của ta mà còn hao tốn
gas,điện..
Việc bảo quản phích nước thì cũng rất đơn giản.Sử dụng lâu,ruột phích sẽ bẩn và có nhiều cặn.Vì
thế chiúng ta nên lau rửa thường xuyên.Có thể cho một ít giấm hoặc chanh vào để rửa,sau đó rửa lại bằng
nước sạch.Đặc biệt khi sử dụng phải chú ý nhẹ nhàng cẩn thận khi đặt phích xuống.Hơn nữa,phải đặt
phích ở một vị trí thật an toàn,không nên đẻ quá thấp,tránh xa tầm tay trẻ em và cũng không nên để quá cao
khi lấy sẽ khó khăn và có thể gây ra tai nạn nước sôi.Tốt nhất là nên đặt ở một độ cao nhất định và dễ lấy.
Phích nước là một vật dụng vô cùng hữu ích và thông dụng đối với mỗi gia đình.Cuộc sống ngày một hiện
đại,trong tương lai sẽ có nhiều loại phích hiện đại hơn thế nữa được ra đời có khả năng giữ nhiệt cao hơn
loại phích thông thường này
Câu 4
: Thuyết minh về một loài hoa mà em yêu thích.
Bài làm
Không biết tự bao giờ, cây hoa hồng đã trở thành một loài hoa tôn quý, vẻ đẹp của nó không thanh cao như
hoa mai, không sặc sỡ như hoa ngũ sắc. Nhưng nó mang một vẻ đẹp mềm mại mà nhẹ nhàng, êm đềm như
tình cảm của con người.
Cây hoa hồng có tên khoa học là Rose, thuộc họ hoa hồng, có xuất xứ ôn đới và á nhiệt đới, vùng bắc bán
cầu. Theo các nhà khoa học, thực vật học thì hoa hồng đã xuất hiện trên trái đất khoảng vài chục triệu năm,
còn cây hoa hồng được con người thuần chủng đưa vào trồng trọt cũng đã cách nay khoảng vài ngàn năm.
Người ta khẳng định hoa hồng đầu tiên ở Trung Quốc và Tiểu Á, sau đó mới du nhập vào châu Âu, nhưng
người châu Âu lại có công lai tạo ta giống hoa hồng hiện đại ngày nay. Trên thế giới, mỗi khi nhắc đến đất
nước Bungari, người ta lại nhắc đến cây hoa hồng. Nếu như nói Nhật Bản là xứ sở của hoa anh đào thì
Bungari lại là xứ sở của hoa hồng. Cây hoa hồng được trồng ở hầu khắp cả nước ta, đặc biệt là Đà Lạt.
Hoa Hồng thuộc họ rễ chùm, là loại cây thân gỗ bụi, thân và cành có gai nhọn, đó là một trong những nét
đặc trưng của cây hoa hồng. Lá hoa hình bầu dục, rìa lá có răng cưa, gân lá hình mạng. Cánh hoa còn tùy
thuộc vào từng loại hoa hồng. Hồng nhung Đà Lạt có thể xem là loại hồng đẹp nhất nước ta, cánh hoa mềm
mại, xếp chồng xen kẽ lên nhau, gần như hình trái tim mang một màu đỏ tươi thắm, nó như hội tụ tất cả
những tinh túy của đất trời, của cuộc sống, của thế giới các loài hoa. Hoa hồng có ba loại chính, đó là: hoa
hồng dại, hoa hồng cổ điển và hoa hồng hiện đại.Hồng dại thường được thấy ở những nơi hoang dã, mọc
ngoằn nghèo nên còn gọi là hồng leo. Hồng cổ điển là những giống hồng được thuần chủng, lai tạo từ
trước năm 1867. Còn hồng hiện đại là những giống hồng được lai tạo từ sau năm 1867. Ở nước ta, hoa hồng
còn được phân loại theo đặc tính của cây như: hồng cứng, hồng thạch, hồng quế, hồng cánh sen, hồng
vàng...
Cây hoa hồng như một món quà thiên nhiên đã ban tặng cho con người chúng ta, nó làm phong phú thêm đời
sống vật chất và tinh thần của con người. Người ta nói, hoa hồng tượng trưng cho tình yêu: tình yêu gia
đình, tình mẫu tử, tình thầy trò, tình yêu đôi lứa... Cây hoa hồng như mang trong nó tâm linh của loài người,
mỗi cánh hoa như ấp ủ một nỗi niềm, một tình cảm sâu lắng nào đó của con người. Trong ngày lễ "vu lan",
vào chùa chúng ta thường thấy những bông hồng cài trên ngực áo thể hiện tình mẫu tử thiêng liêng, rồi đến
ngày Nhà giáo Việt Nam, từng lớp học trò lần lượt mang những canh hồng đỏ thắm dâng tặng lên thầy, cô
kính yêu như thể hiện lòng biết ơn. Ngày lễ Valentin, ngày 8/3... chúng ta cũng không quên những bông hồng
xinh xắn tặng cho các mẹ, các chị và đặc biệt là người yêu mình. Cứ như thế, cây hoa hồng đi vào thơ ca
một cách tự nhiên không biết từ lúc nào, chúng ta thường nghe câu nói dân gian Hoa đẹp là hoa có gai, câu
nói đó ám chỉ cây hoa hồng, rồi ta cũng thường nghe bài hát Bông hồng cài áo, đọc tác phẩm Hoa hồng
Bungari...
Không những phục vụ cho đời sống tinh thần, hoa hồng được phục vụ cho đời sống vật chất của con
người. Một phòng họp, một phòng khách, một quán trà... có thêm một cành hồng trên bàn cùng đủ làm cho
không gian thêm trang trọng và lãng mạn. Có thể nói rằng hoa hồng có tính trang trí cao. Hương hoa hồng
không thơm ngát như hoa lài mà ngược lại rất nhẹ nhàng, dễ chịu. Vì vậy, hoa hồng được nhiều nước chọn
nguyên liệu để làm nước hoa, mĩ phẩm, góp phần tôn lên vẻ đẹp của con người. Hoa hồng cũng được trồng
kể kinh doanh, thu lợi nhuận.
Nhìn chung, hoa hồng ở Việt Nam thích nghi nhiệt độ trung bình từ 18 25oC, độ ẩm tối đa 85%, lượng
mưa trung bình hàng năm từ 10002000 mm, độ pH từ 5,6 6,5. Trong mùa hè, do nhiệt độ lên cao, độ ẩm
lớn cây hoa hồng có nguy cơ xuất hiện các loại bênh như gỉ sắt, phấn trắng, rệp. Nếu cây bị nấm phấn
trắng trong vụ xuân thì dùng đồng sulfat 1% để tưới, đồng thời phải cắt bỏ những cành bị bệnh nặng và đốt
đi. Đất dùng để trồng hoa hồng phải bằng phẳng, tơi xốp.Hoa hồng thường được nhân giống theo ba cách:
giâm cành, chiết cành hoặc ghép cành.
Như thế, cây hoa hồng là loài hoa tượng trưng cho sắc đẹp và tâm tình, nó không thể thiếu trong đời sống
vật chất lẫn tinh thần của con người. Vì vậy, bảo vệ và phát triển giống hoa hồng là điều cần thiết mà con
người cần làm hiện nay.
Câu 5
: Giới thiệu về một cảnh đẹp quê hương em.
Bài làm
Cách thành phố Bảo Lộc (Lâm Đồng) 18km theo hướng Đông Bắc, chạy qua con đường uốn lượn với hai
bên là những đồi chè và cà phê xanh ngát, thác Dambri trắng xóa từ trên cao đổ xuống như một dải lụa nằm
vắt trên vách đá cheo leo giữa lưng chừng núi và cỏ hoa.
Cái tên Dambri bắt nguồn từ câu chuyện tình huyền thoại của một đôi trai gái mà người K’ho đặt cho dòng
thác này.
Theo truyền thuyết, ngày xưa có một đôi trai gái K’ho yêu nhau và thường hẹn hò bên thác nước. Họ hẹn
mùa lúa chín, trăng tròn năm sau sẽ làm lễ cưới.
Nhưng, hạnh phúc đã không đến với họ. Cha của cô gái không muốn gả nàng cho chàng trai nghèo khổ. Để
ngăn cách tình yêu của họ, già làng đã sai người bắt chàng trai phải bỏ làng đi tới một nơi xa, thật xa không
có lối về.
Từ khi vắng bóng chàng trai, nàng H'Bi buồn lắm. Đêm đêm, H'Bi lặng lẽ ra khu rừng, nơi họ thường hẹn
hò mà khóc than cho duyên tình cách trở với hy vọng nước mắt sẽ gọi được chàng trai trở về sống với nàng.
H'Bi khóc mãi, chờ mãi nhưng không thấy người yêu quay lại. Lâu ngày, nước mắt của cô gái đọng lại và
chảy thành dòng thác lớn.
Dambri có nghĩa là "đợi chờ." Tiếng thác Dambri ngày đêm réo rắt giữa núi rừng như lời của nàng H'Bi đang
kể về chuyện tình đã vỡ từ nghìn năm.
Là một phần của quần thể du lịch sinh thái có tổng diện tích gần 1.000ha, thác Dambri nằm giữa khung
cảnh hoang sơ và hùng vĩ cùng khí hậu trong mát của rừng nguyên sinh Nam Tây Nguyên.
Có hai cách để bạn có thể xuống thác Dambri là đi bộ hoặc đi thang máy. Nếu đi bộ, du khách đi xuyên qua
bóng râm âm u của những tán cây rừng theo con đường xuống chân thác với những bậc thang đổ bêtông phủ
lớp rêu thời gian. Còn với thang máy, từ độ cao 60m cho bạn ngắm nhìn toàn cảnh thác Dambri từ trên cao
xuống chân thác.
Thác Dambri mang đến cho bạn một sự thích thú lạ thường. Khung cảnh nơi đây quả là tuyệt diệu. Một
dòng nước trắng xóa đổ từ trên cao xuống thẳng đứng, quanh thác là những bông hoa dại màu tím, vàng li ti
chen nhau mọc trên đá.
Dưới chân thác gập ghềnh là cây cầu nhỏ bắc ngang những mỏm đá. Bước chân qua cầu, bạn có thể cảm
nhận cái lạnh ngọt ngào của vô số hạt bụi nước nhỏ li ti thấm qua làn áo.
Từ đỉnh thác nhìn xuống, những hạt nước bụi phản chiếu ánh mặt trời thành chiếc cầu vồng lấp lánh bắc
ngang qua ghềnh đá càng làm cho cảnh vật thêm phần lung linh, huyền ảo.
Rời Dambri, bạn tiếp tục hành trình theo con đường mòn đến thăm làng của dân tộc Mạ. Khám phá những
nét đẹp đặc trưng trong văn hóa của họ, như điệu múa cồng chiêng đầy cảm xúc, kiến trúc nhà sàn, những
công cụ lao động, những khoảnh khắc đẹp trong cuộc sống được các nhiếp ảnh gia lưu lại và trưng bày tại
nhà truyền thống.
Bạn còn biết thêm về kỹ thuật dệt thổ cẩm không cần khung cửi của người Mạ và tìm cho mình một món
quà kỷ niệm như chiếc áo, chiếc váy...
Nếu thích khám phá hương vị ẩm thực của người Mạ, bạn có thể vào nhà hàng Kơnia để thử các món thịt
lợn rừng, cơm lam, rau rừng và rượu cần ngọt ngào bên bếp lửa rực hồng, bên tiếng suối reo róc rách và
tiếng chim rừng vọng lại từ ngàn xa. Đêm đến, bạn thuê nhà chòi để nghỉ và hòa mình vào thiên nhiên hoang
dã.
Đi một vòng quanh quần thể du lịch sinh thái, bạn dừng chân bên hồ nước Dambri rộng hàng nghìn mét
vuông, thuê một chiếc thuyền để giải trí với thú câu cá trên hồ hay tổ chức sinh hoạt dã ngoại./
Câu 6: Giới thiệu về một tác phẩm văn học.
Bài làm
"Tắt đèn" là cuốn tiểu thuyết tiêu biểu của Ngô Tất Tố, cây bút truyện kí tiêu biểu của văn học Việt Nam
trước Cách mạng tháng Tám.
Tác phẩm có 26 chương mà chương XVIII là chương xảy ra xung đột cơ bản nhất của người nông dân với
bọn cường hào ác bá trong làng. Qua “Tức nước vỡ bờ" (một đoạn trích của chương XVIII), Ngô Tất Tố đã
vẽ lên bức tranh xã hội đương thời, một xã hội thối nát tàn bạo và bẩn thỉu ghê tởm. Cái xã hội thực dân
phong kiến đã đày đoạ người nông dân đến đường cùng mà biểu hiện trong "Tức nước vỡ bờ" chính là tên
cai lệ hông hách, tàn ác; bọn người nhà lý trưởng hèn yếu mà cũng dã man không kém. Chúng như những
con chuột ma ranh cố mà đục, mà khoét. Từ những của cải vật chất nhỏ nhoi của người nông dân đến
những người sức lực điền mạnh mẽ nay chỉ còn là những hơi tàn sức kiệt chúng vẫn không buông tha, vẫn
"dai như đỉa" mà hành hạ.
Cũng qua vài trang ngắn ngủi mà đậm nét chân thực, sinh động của "Tức nước vỡ. bờ", Ngô Tất Tố đã lên
án gay gắt, căm ghét tột cùng cái xã hội thực dân phong kiến tàn ác, dã man kia để cho một kết thúc chị Dậu
quật ngã tên cai lệ và người nhà lý trưởng; đồng thời tác giả cũng bày tỏ một sự cảm thông sâu sắc chân
thành với số phận cùng quẫn, bi thưởng của người nông dần mà cụ thể là chị Dậu. Ôi! Cái gia đình đầm ấm
yên vui của chị đã bị chính sách sưu thuế ác nghiệt kia làm cho tan nát. Số phận và tiền đồ của chị thật tối
tăm như bầu trời đêm 30 không trăng sao vậy.
Không chỉ lên án gay gắt xã hội thực dân phong kiến, cảm thông sâu sắc với người nông dân, Ngô Tất Tố
còn đề cao những nhân phẩm cao quý của họ với những nét đẹp truyền thống tiềm tăng: phẩm chất thương
yêu chồng con tha thiết của chị Dậu, sẵn sàng hy sinh để bảo vệ người chồng ốm yếu; phẩm chất thanh cao
"gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn" không hám danh lợi tiền tài của chị và đặc biệt là sức sống tiềm tàng
đã ấp ủ bấy lâu trong lòng người phụ nữ nông dân đã bùng cháy đúng lúc để cứu chồng thoát khỏi nanh vuốt
của lũ hùm sói cai lệ và người nhà lý trưởng. Và cuối cùng qua "Tức nước vỡ bờ" Ngô Tất Tố đã quan tâm
đến vấn đề hết sức bức thiết trong cuộc sống đương thời, đó là nhu cầu được sống những ngay bình yên,
được hưởng hạnh phúc trong mái ấm gia đình bình dị của người nông dân. Đặc sắc nghệ thuật trong "Tức
nước vờ bờ" của Ngô Tất Tố thực sự làm chúng ta khâm phục. Nhà văn đã xây dựng một nhân vật chị Dậu
điển hình, là tượng trưng cho tất cả những người phụ nữ nông dân với những phẩm chất cao đẹp, đáng quý
nhất của loài người chúng ta. Và đặc biệt nhà văn đã sử dụng những lời lẽ hết sức dân dã, đời thường mà
sinh động, chân thực, làm chúng ta như đang sống giữa cuộc sống bất công đương thời để chứng kiến
những điều ngang trái. Và chính sự kết hợp tài tình giữa 3 phương thức: tự sự, miêu tả và biểu cảm để làm
nổi bật tình huống máu thuần cơ bản của tác phẩm giữa hai giai cấp đối kháng đã thực sự thể hiện tài năng
tiểu thuyết xuất chúng của Ngô Tất Tố.
"Tức nước vỡ bờ" nói riêng và "Tắt đèn" nói chung sẽ mãi là một tác phẩm đặc sắc trong nền văn học hiện
đại nước ta. Nó đã có những thành công vang dội và ảnh hưởng rõ rệt đến xã hội đương thời. Song vẫn còn
có những hạn chế nho nhỏ. Nhưng "Tức nước vờ bờ", "Tắt đèn'' sẽ luôn là một tuyệt tác để chúng ta khâm
phục và nhớ đến Ngô Tất Tố nhà văn hiện thực xuất sắc.
Câu 7: Thuyết minh về cây bút bi
Trong cuộc sống hiện đại hiện nay, việc sử dụng các loại viết để học tập và làm việc là không thể thiếu
nhưng để lựa chọn loại viết phù hợp với thời đại công nghệ thông tin sao cho vừa nhanh, tiện lợi và ít tốn
kém cũng là điều vô cùng quan trọng và sự ra đời của bút bi đáp ứng nhu cầu đó.
Từ những năm bắt đầu việc học người ta đã biết sử dụng các công cụ để có thể viết chữ. Thô sơ nhất là sử
dụng lông vịt, lông ngỗng chấm vào mực, mực được bào chế từ các loại lá, quả, hoa có màu sắc giã nát ra.
Nhưng đó là trong những năm còn lạc hậu việc sử dụng viết lông ngỗng để viết rất bất tiện vì lúc nào cũng
phải mang theo lọ mực, sử dụng xong lại phải lau sạch và việc cứ phải liên tục chấm đầu lông ngỗng vào
mực cũng rất mất thời gian và sau đó một nhà báo người Hungary đã chế tạo ra cây viết mực Lazso Biro.
Việc sử dụng bút mực để rèn chữ là một điều rất tốt vì nét chữ sẽ đẹp song giá thành một cây bút máy khá
đắt, nặng và khi viết khá chậm. Cho đến những năm gần đây người ta mới phát minh ra bút bi. Nó vừa đáp
ứng nhu cầu rẻ, tiện lợi và nhẹ nữa phù hợp với nhiều đối tượng, nhất là học sinh, sinh viên.
Cấu tạo bên trong của bút cũng khá là đơn giản: vỏ bút được làm bằng nhựa hoặc bằng các kim loại dẻo
trong suốt. Bên trong là ruột bút, ống dẫn mực, ngòi bút, lò xo. Ngòi bút có đường kính từ 0,25mm đến
0,7mm tùy theo nhu cầu của người sử dụng. Còn về việc sử dụng bút cũng khá là dễ dàng, khi cần thiết chỉ
cần ấn vào đầu bút ngòi bút sẽ tự động lộ ra để chúng ta có thể sử dụng. Khi không sử dụng nữa ta chỉ cần
ấn lại đầu bút, ngòi bút sẽ tự động thụt lại, lúc đó bạn có thể mang bút đi khắp mọi nơi mà vẫn yên tâm
tránh được các tác nhân bên ngoài va chạm vào ngòi bút.
Hiện nay người ta còn tìm ra cách để chế tạo những bút lạ hơn như bút nhũ, bút nước, bút dạ quang… phù
hợp với người tiêu dùng, vừa phù hợp với túi tiền vừa có thể theo học sinh đến trường, theo các nhân viên
văn phòng đến cơ quan,… Ngoài ra còn có các phát minh về một số loại viết có thể viết được dưới nước, ở
những nơi có áp suất khí quyển thấp. Nói gì thì nói, ta cũng không thể phủ nhận những khuyết điểm còn có
ở bút bi là rất khó rèn chữ vì ngòi bút nhỏ, trơn và rất cứng không phù hợp với những học sinh cấp Một
đang luyện chữ vì khi nào nét chữ đã cứng và đẹp ta hãy sử dụng, ngoài ra bút còn rất dễ bị tắc nghẽn mực
trong khi sử dụng có thể là do lỗi của các nhà sản xuất hoặc cũng có thể do chúng ta làm rơi viết xuống đất
và làm ngòi bút va chạm vào các vật cứng.
Do vậy, sử dụng bút tuy là đơn giản nhưng chúng ta cũng nên biết cách bảo quản bút sao cho bút có thể sử
dụng được lâu và bền hơn như: sau khi sử dụng bút xong thì nên bấm đầu bút thụt lại để không bị rớt
xuống đất, khô mực hoặc va chạm vào các vật cứng sẽ dễ làm vỡ vỏ bút hoặc làm bể đầu bi.
Một đặc điểm nhỏ mà ít ai nghĩ đến là có thể biến những cây bút bi thành những món quà nhỏ, xinh xắn, dễ
thương và vô cùng ý nghĩa để làm món quà tặng người thân, bạn bè, thầy cô. Bút còn là người bạn đồng
hành với những anh chiến sĩ ngoài mặt trận, để các anh có thể viết nhật kí, viết thư về cho gia đình. Viết
xong, các anh có thể giắt cây bút vào túi áo không sợ rơi mất, khi cần thiết có thể lấy ra dễ dàng và sử dụng
ngay.
Bút là người bạn nhỏ, luôn sát cánh đồng hành trong công việc, học tập của mọi người, không tốn kém
nhiều chi phí lại có thể sử dụng trong mọi hoàn cảnh, điều kiện ở mọi lúc mọi nơi. Chúng ta hãy biết ơn
những người đã chế tạo ra cây bút để nhờ đó chúng ta có sự hỗ trợ đắc lực trong học tập và trong công việc
hiện nay vẫn đáp ứng được theo xu hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
Câu 8: Thuyết minh về áo dài
Nhắc đến trang phục truyền thống của đất nước Việt Nam chúng ta người ta nghĩ ngay đến tà áo dài, áo dài
thường được sử dụng ở các ngày lễ lớn, tà áo dài thướt tha, kín đáo nhiều màu sắc làm tôn thêm vẻ đẹp yêu
kiều dịu dàng của người con gái Việt Nam, đã từ lâu áo dài được coi là trang phục truyền thống của đất
nước Việt Nam.
Từ xa xưa, dân ta đã thiết kế nhiều loại áo dài đa dạng và phong phú như áo dài truyền thống, áo dài tứ thân
và áo dài giao lãnh, áo dài ngũ thân, áo dài truyền thống có cổ hình chữ V dài từ bốn đến năm xentimet, làm
nổi bật nên vẻ đẹp của chiếc cổ trắng ngần của người phụ nữ Việt Nam và cũng rất là duyên dáng, kín đáo,
ngày này chiếc áo dài truyền thống được thiết kế thêm nhiều kiểu hơn, cổ chữ U, cổ trái tim, và cổ tròn làm
đa dạng thêm tà áo dài truyền thống.
Có năm phần chính trên một chiếc áo dài, phần cổ áo, phần thân áo, phần tà áo, phần tay áo, và phần quần,
thân áo được tính từ cổ đến eo, thân áo gồm 2 mảnh bó sát eo làm tôn thêm vẻ đẹp thon gọn của người phụ
nữ, tà áo được chia làm hai phần tà áo tước và tà áo sau, được chia làm hai phần ngăn cách bởi hai bên hồng,
tà áo thì phải dài hơn đầu gối, phần tay áo là phần từ vai đến qua cổ tay, có thể may chung với phần thân áo
hoặc may bằng một loại vải riêng biệt, phần quần áo được may theo kiểu quần ống rộng, có thể là vải
đồng màu với chiếc áo dài hay khác màu, thường thì quần có màu trắng làm tôn lên sự mềm mại, thướt tha
cho bộ trang phục và thêm duyên dáng, đằm thắm đáng yêu của tà áo dài Việt Nam.
Trong các ngày lễ hội truyền thống không thể thiếu trang phục áo dài, áo dài vừa thể hiện nét đẹp, nét
duyên dáng của người phụ nữ mà còn thể hiện được nét đẹp truyền thống của dân tộc ta, trang phục áo
dài còn xuất hiện trong trường hợp, trong các trường Trung học phổ thông thứ hai hàng tuần nhìn các em nữ
sinh trong trang phục áo dài trắng đứng lên chào cờ đẹp và thiêng liêng làm sao, những giáo viên trong trang
phục áo dài đứng trên bục giảng toát lên vẻ đẹp duyên dáng, thanh lịch nhưng không kém phần thanh tao,
trang nghiêm của giáo viên. Trong các buổi văn nghệ, hay các cuộc thi lớn không thể thiếu những hình ảnh
chiếc áo dài, khi các hoa hậu của đất nước ta đi thi đấu ở đấu trường quốc tế, trong hành trang không thể
thiếu tà áo dài thướt tha, mang nét đẹp, truyền thống của dân tộc ta giới thiệu với bạn bè quốc tế.
Khi giặt áo dài phải giặt thật nhẹ tay và không được phơi ở thời tiết nắng quá lâu, ủi ở nhiệt độ vừa phải,
có như thế mới giữ được áo dài luôn mới.
Áo dài là nét đẹp là biểu tượng của nước Việt Nam, chúng ta hãy giữ gìn để áo dài mãi là trang phục truyền
thống của mỗi người Việt Nam, khi nhắc đến tà áo dài chúng ta nghĩ ngay đến nền văn hóa đậm đà bản sức
dân tộc, chúng ta hãy phát huy để bản sắc ấy ngày càng tươi đẹp hơn.
Câu 9: Thuyết minh về chiếc nón lá Việt Nam
Nón lá là hình ảnh quen thuộc, gần gũi đối với người phụ nữ Việt Nam từ xưa tới nay. Chiếc nón lá gắn với
tà áo dài truyền thống, với lời ăn tiếng nói, phong tục tập quán của Việt Nam. Và nón là chính là biểu tượng
của Việt Nam đối với bạn bè các nước năm châu, là linh hồn, là tinh hoa của nét đẹp nghìn năm văn hiến.
Thật vậy, đi đâu trên đất nước Việt Nam, chúng ta đều bắt gặp hình ảnh chiếc nón là mộc mạc, chân chất
nhưng lại ẩn chứa nhiều tầng ý nghĩa. Nón lá không chỉ là vật dụng của người phụ nữ chân quê, mà nó còn
là món quà tinh thần mà Việt Nam dành tặng các nước trên thế giới. Không phải đi đâu, người ta cũng biết
đến nón lá Việt Nam có tầng sâu ý nghĩa. Tất cả đều có nguyên do của nó.
Nón lá xuất hiện từ rất lâu, khoảng 25003000 TCN và được lưu truyền cho đến ngày nay. Đối với người
phụ nữ Việt thì nón là lá biểu tượng quan trọng trong cuộc sống của họ. Từ trong những làn điệu dân ca,
đến những lời thơ, câu văn đều thấp thoáng hình ảnh chiếc nón lá Việt Nam đi liền với tà áo dài truyền
thống.
Để tạo ra chiếc nón lá như hiện nay, cần sự tỉ mỉ và kì công của người làm nón. Phải có cái tâm, cái tình thì
mới tạo nên được những chiếc nón có thiết kế tài tình và họa tiết tỉ mỉ như vậy. Ngay từ khâu lựa chọn
nguyên liệu đã thấy được sự kì công của người đan nón. Làm nón cần cả tấm lòng chứ không phải chỉ cần
có đôi tay. Những người thổi hồn vào những chiếc nón là những người thực sự có tâm.
Nón lá có thể được làm từ lá cọ hoặc lá dứa tùy mỗi vùng miền. Sự khác nhau của nón lá ở mỗi loại được
thể hiện rõ nét trên từng sản phẩm. Rất dễ dàng để người dùng có thể nhận ra sự khác biệt này.
Ở khu vực Nam Bộ với đặc trưng trồng nhiều dừa nên nghề làm nón phát triển mạnh mẽ và được lưu
truyền từ đời này sang đời khác.Khi lựa chọn lá cọ hoặc lá dừa cũng cần phải cẩn thận chọn lá dày, màu
xanh đậm, không bị rách, có nổi gân để làm nón đẹp và chắc chắn nhất. Khi chọn lá xong cần phải phơi lá
cho thật mềm tùy thời gian để tạo độ đàn hồi cho chiếc lá trong quá trình làm ra sản phẩm.
Một khâu quan trọng không kém chính là làm vành nón, nó sẽ tạo nên chiếc khung chắc chắn có thể giữ
được lớp lá ở bên ngoài. Tre cần được gọt giũa thật mềm và dẻo dai, trau chuốt tỉ mỉ. Khi uốn cong cần cẩn
thận để không bị gãy hoặc bị bẻ cong. Bởi vậy khâu chọn tre làm vành nón cũng cần cẩn thận và thật tỉ mỉ.
Sau khi đã làm được khung nón thì người làm nón bắt đầu chằm nón, tức là gắn kết vành nón với lá nón làm
sao cho hai cái này kết dính, không tách rời khởi nhau. Làm giai đoạn này càng tỉ mỉ thì chiếc nón sẽ được
hoàn thành một cách chắc chắn và đẹp mắt nhất.
Công đoạn cuối cùng chính là phơi nón và bôi lên nón lớp dầu thông bóng loáng. Việc làm này để tạo độ
bền, tránh hư hỏng khi có mưa hoặc nắng.
Chiếc nón lá là biểu tượng của người phụ nữ Việt, gắn với đời sống tinh thần của họ. Đi đâu trên đất nước
này, chúng ta cũng sẽ bắt gặp được hình ảnh chiếc nón lá. Đó là nét đẹp, nét duyên của người phụ nữ Việt
nam mà không phải đất nước nào cũng có được. Nó là biểu tượng cho vẻ đẹp bình dị, mộc mạc, duyên dáng
của người phụ nữ. Nón lá đi liền với tà áo dài, tạo nên một vẻ đẹp rất Việt Nam.
Nón lá là sản phẩm của Việt Nam, biểu tượng cho phụ nữ Việt và cho truyền thống Việt.
Đề thi học kì 1 Văn 8 tham khảo
Đề tham khảo số 1
PHẦN I: 3 điểm
Đọc câu chuyện ” Quà tặng cuộc sống ” và trả lời các câu hỏi:
Anh dừng lại mua hoa để gửi hoa tặng mẹ qua đường bưu điện nhân ngày 8/3. Mẹ anh sống cách chỗ anh ở
khoảng 300km. Khi bước ra khỏi xe, anh thấy một bé gái đang đứng khóc bên vỉa hè. Anh đến và hỏi nó sao
lại khóc.
– Cháu muốn mua một bông hoa hồng để tặng mẹ cháu nó nức nở nhưng cháu chỉ có 75 xu trong khi giá
bán hoa hồng đến 20 dola.
Anh mỉm cười và nói với nó:
– Đến đây chú sẽ mua cho cháu.
Anh liền mua cho cô bé và đặt một bó hồng gửi cho mẹ anh. Xong xuôi, anh hỏi cô bé có cần đi nhờ xe về
nhà không. Nó vui mừng nhìn anh trả lời:
– Dạ, chú cho cháu đi nhờ đến nhà mẹ cháu.
Nó chỉ đường cho anh lái xe đến một nghĩa trang, nơi có phần mộ vừa mới đắp. Nó chỉ vào ngôi mộ và nói:
– Đây là nhà của mẹ cháu.
Nói xong, nó ân cần đặt bông hoa hồng lên mộ. Tức thì anh quay lại tiệm bán hoa hủy bỏ dịch vụ gửi hoa và
mua một bó hoa hồng thật đẹp. Suốt đêm đó anh đã lái xe một mạch 300km về nhà để trao tận tay mẹ bó
hoa.
(Quà tặng cuộc sống)
Câu 1: Nội dung câu chuyện trên là gì? ( 1 điểm)
Câu 2: Thông điệp mà văn bản muốn gửi lại cho chúng ta là gì? ( 1 điểm)
Câu 3: Các từ “ khóc, mỉm cười, vui mừng” thuộc trường từ vựng nào? ( 1 điểm)
PHẦN II: 7 điểm
Câu 1: Đoạn trích “ Trong lòng mẹ” thuộc tác phẩm cùng tên của nhà văn Nguyên Hồng là bài ca về tình
mẫu tử thiêng liêng, bất diệt. Em hãy viết một đoạn văn làm rõ điều đó. ( 3 điểm).
Câu 2: Em hãy thuyết minh về một truyện ngắn Cô bé bán diêm của nhà văn An đéc xen. ( 4 điểm).
Đề tham khảo số 2
Phần I: (3đ)
Đọc đoạn thơ sau và trả lời các câu hỏi bên dưới:
Ông vật thi với cháu
Keo nào ông cũng thua
Cháu vỗ tay hoan hô:
“Ông thua cháu, ông nhỉ?”
Bế cháu ông thủ thỉ:
“Cháu khỏe hơn ông nhiều!
Ông là buổi trời chiều
Cháu là ngày rạng sáng”
(Phạm Cúc)
1. Hãy đặt tên nhan đề cho bài thơ (0.5đ)
2. Giải thích công dụng của dấu hai chấm (: ) và dấu ngoặc kép “...” trong đoạn trích (1.5)
3. Viết một vài câu văn nêu cảm nhận của em về những điều ông muốn nói với qua 4 câu thơ cuối (1đ)
Phần II: (7đ)
Câu 1. Tác phẩm “Lão Hạc” của nhà văn Nam Cao cho thấy lão Hạc là người có lòng tự trọng rất đáng quý.
Em hãy viết một đoạn văn làm rõ điều đó. (3đ)
Câu 2. Thuyết minh về truyện ngắn lão Hạc của nhà văn Nam Cao. (4đ)
Đề tham khảo số 3
PHẦN I: (3 điểm)
Đọc đoạn văn sau và trả lời câu hỏi:
Bạn có bao giờ bực bội khi cha mẹ lúc nào cũng nhắc mình hàng tỉ lần phải đi ngủ sớm? Bạn có bao giờ
khó chịu khi cha mẹ lúc nào cũng dặn ra đường phải đi xe cộ cẩn thận, la mắng khi một mình về trễ giữa
đêm...? Bạn thấy đấy, khi chính bạn còn không thèm lo cho bạn, thì cha mẹ vẫn kiên trì. Hãy thử tưởng
tượng xem, một hôm khi đi học về, căn nhà trống trải im lìm, cha mẹ không còn tồn tại nữa. Bạn sẽ cảm
thấy thế nào? Có vui không khi không còn nghe những lời phiền phức ấy?Tiền có thể nhiều, bạn bè cũng có
nhiều, nhưng mà cha mẹ chỉ có một mà thôi. Nếu có người nào đáng để yêu thương nhất trên đời, thì đó
chính
là
Cha
Mẹ!
(Nguyễn Hoàng Khắc Hiếu)
1. Cho biết nội dung của đoạn văn? (1 điểm)
2. Câu ghép sau đây có bao nhiêu vế câu, quan hệ ý nghĩa giữa các vế câu là quan hệ gì? (1 điểm)
Tiền có thể nhiều, bạn bè cũng có nhiều, nhưng mà cha mẹ chỉ có một mà thôi
3. Viết vài câu văn thể hiện tình cảm của em đối với cha mẹ. (1 điểm)
PHẦN 2: (7 điểm)
1.Chiếc lá cụ Bơ men vẽ trong truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng Ô Henri được xem là một kiệt tác. Hãy
viết một đoạn văn trình bày suy nghĩ của em về điều ấy. (3 điểm).
2.Thuyết minh về một đồ dùng trong các đồ vật sau ( Chiếc kính đeo mắt, chiếc quạt, chiếc bút … ) (4
điểm)
Đề tham khảo số 4
Phần I. Đọc hiểu (3,0 điểm)
Đọc đoạn trích sau đây và trả lời các câu hỏi :
Tại Thế vận hội đặc biệt Seatle (dành cho những người tàn tật) có chín vận động viên đều bị tổn thương
về thể chất hoặc tinh thần, cùng tập trung trước vạch xuất phát để tham dự cuộc đua 100 m. Khi súng hiệu
nổ, tất cả đều lao đi với quyết tâm chiến thắng. Trừ một cậu bé. Cậu cứ bị vấp ngã liên tục trên đường đua.
Và cậu bật khóc. Tám người kia nghe tiếng khóc, giảm tốc độ và ngoái lại nhìn. Rồi họ quay trở lại. Tất cả,
không trừ một ai ! Một cô gái bị hội chứng Down dịu dàng cúi xuống hôn cậu bé:
– Như thế này, em sẽ thấy tốt hơn. Cô gái nói xong, cả chín người cùng khoác tay nhau sánh bước về vạch
đích. Khán giả trong sân vận động đồng loạt đứng dậy và vỗ tay hoan hô không ngớt. Mãi về sau, những
người chứng kiến vẫn còn truyền tai nhau câu chuyện cảm động này.
(Theo Quà tặng cuộc sống)
1. Văn bản đề cập tới chủ đề gì? (0,5đ)
2. Điều gì khiến “Khán giả trong sân vận động đồng loạt đứng dậy và vỗ tay hoan hô vang dội không
ngớt”?.(0.5đ)
3. Cho biết công dụng của dấu ngoặc đơn và dấu hai chấm được sử dụng trong văn bản trên(1đ)
4. Người viết bộc lộ, thái độ tình cảm gì qua câu chuyện? (0.5đ)
5. Qua văn bản trên, em rút ra cho mình bài học nào?(0.5đ)
PHẦN 2: (7 điểm)
1.Hãy viết một đoạn văn cảm nhận về chi tiết xúc động nhất trong truyện ngắn Lão Hạc của nhà văn Nam
Cao. (3đ)
2. Học sinh chọn 1 trong 2 đề sau : 4đ
Đề 1: Cây bút, cái cặp hay chiếc xe đạp là những đồ vật đến trường cùng em hàng ngày. Hãy thuyết minh
một trong những đồ vật ấy.
Đề 2: Thuyết minh một truyện ngắn đã học.
Đề tham khảo số 5
Phần 1: 3 điểm
Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi:
Có lẽ thời nào cũng vậy, con người luôn đặt chữ nhân lên hàng đầu, con người coi trọng chữ nhân hơn cả.
Dù thời xưa hay thời nay chữ nhân đó vẫn thể hiện trong cách sống của mỗi con người. Nhân là cách đối
nhân xử thế, tấm lòng của con người giữa đời thường, cũng như vai trò trách nhiệm của mỗi cá nhân trong
xã hội. Chữ nhân và chữ nghĩa thường đi đôi với nhau. Nghĩa ở đây thể hiện vai trò, trách nhiệm của con
người với con người, giữa người với đời, với xã hội hiện tại. Sống ở đời cần có một trách nhiệm với đời,
cũng chính vì vậy mà cần có nghĩa, sống có trách nhiệm với quê hương đất nước, với gia đình cũng là
nghĩa.
(Bàn về Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín Ái Hữu Biên Hòa)
a. Cho biết phương thức biểu đạt của đoạn trích trên.(0.5 điểm)
b. Nội dung đoạn trích trên đề cập đến vấn đề gì? (0,5 điểm)
c. Em hãy tìm trợ từ và câu ghép trong đoạn trích trên.(1 điểm)
d. Từ đoạn trích trên , em hiểu thế nào là nhân nghĩa? (1 điểm)
Phần 2: (7 điểm)
Câu 1: (3 điểm)
Từ nội dung đoạn trích trên, em hãy viết một đoạn văn nghị luận (từ 150 đến 200 chữ) nêu suy nghĩ của
mình về vấn đề sống có trách nhiệm.
Câu 2: (4 điểm)
Em hãy giới thiệu đồ dùng học tập gần gũi với em.
2: Nêu điểm giống nhau và khác nhau của các tác phẩm truyện kí Việt Nam đã học năm 3045 ?
Giống nhau:
Thể loại: đều là văn bản tự sự, là truyện kí hiện đại
Thời gian ra đời trước CMT8 năm: 19301945
Đều lấy đề tài về cuộc sống và con người của xã hội thực dụng phong kiến, miêu tả số phận cực khổ của
những người nghèo khổ bị vùi dập trong xã hội ấy.
Giá trị tư tưởng: Đều chan chứa tinh thần nhân đạo cao cả (yêu thương, trân trọng những tình cảm, phẩm
chất đẹp đẽ của con người, tố cáo những gì tàn ác xấu xa)
Giá trị nghệ thuật: bút pháp hiện thực, lối viết chân thực, gần gũi với đời sống, ngôn ngữ giản dị, kể
chuyện và miêu tả cụ thể sinh động.
Khác nhau: Mỗi tác phẩm có nhừng điểm khác về các mặt như: thể loại, phương thức biểu đạt, nội dung
chủ yếu và đặc sắc nghệ thuật.
Một số nội dung cần nhớ trong tác phẩm truyện kí Việt Nam
1. Truyện ngắn Lão Hạc
Cùng với Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng,... Nam Cao là một cái tên không thể thiếu khi nhắc tới những nhà
văn hiện thực nhân đạo. Các sáng tác của ông vừa rất mực chân thực, vừa có một ý vị triết lí mang ý nghĩa
nhân bản sâu sắc. Truyện ngắn “Lão Hạc” là một trong những tác phẩm tiêu biểu như thế! Truyện đã thể
hiện một cách chân thực, cảm động số phận người nông dân trong xã hội cũ và phẩm chất cao quý tiềm
tàng của họ.
Xuất hiện lần đầu trên tuần báo “Tiểu thuyết thứ bảy” năm 1943, “Lão Hạc” của Nam Cao được đánh giá
là một trong những truyện ngắn xuất sắc viết tình cảnh của người nông dân trước Cách mạng.
* Nhân vật Lão Hạc
(Tùy vào yêu cầu của đề để nhấn mạnh nội dung cần làm )
Lão Hạc là một lão nông dân nghèo nhưng có nhiều phẩm chất tốt đẹp, đáng quý.
a, Lão Hạc có một tấm lòng vị tha, nhân hậu:
Ở lão có một tấm lòng vị tha, nhân hậu.Tình cảm của lão với "cậu Vàng" được tác giả thể hiện thật cảm
động. Lão gọi nó là "cậu Vàng" như “một bà hiếm hoi gọi đứa con cầu tự". Lão bắt rận, cho nó ăn cơm
trong một cái bát như nhà giàu.Lão ăn gì cũng không quên phần nó, gắp cho nó một miếng; lão ăn bao nhiêu,
nó cũng ăn như thế, thậm chí còn hơn phần lão...Lão coi nó như một người bạn,ngày ngày lão tâm sự, trò
chuyện với nó như thể nó cũng là con người.Tình thế cùng đường khiến lão phải bán nó thì trong lão diễn ra
sự dằn vặt, đau khổ tột độ. Lão kể cho ông giáo nghe về việc bán "cậu Vàng" với tâm trạng vô cùng đau
đớn: "lão cười như mếu và đôi mắt ầng ậng nước". Đến nỗi ông giáo thương quá, "muốn ôm chầm lấy lão
mà òa lên khóc".Khi nhắc đến việc "cậu Vàng" bị lừa rồi bị bắt, lão Hạc không nén nỗi đau đớn cứ dội lên
"Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo
về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc...". Lão Hạc đau đớn đến thế
không phải chỉ vì quá thương con chó mà còn vì không thể tha thứ cho mình vì đã trót lừa một con chó. Ông
lão quá lương thiện ấy cảm thấy lương tâm đau nhói khi nhận thấy trong đôi mắt con chó có cái nhìn trách
móc. Phải có trái tim vô cùng nhân hậu, trong sạch thì mới bị giày vò lương tâm đến thế, mới cảm thấy có
lỗi với một con chó như vậy!
b, Tình yêu thương con sâu sắc (dẫn chứng)
Đối với cậu Vàng, lão yêu qúy như vậy, thì đối với anh con trai của lão, thì tình cảm ấy còn được nhân lên
gấp vạn lần. Chỉ vì nhà nghèo, không cưới được vợ cho con, làm con uất chí, bỏ đi đồn điền cao su mà lão
tự dằn vặt mình mãi. Để cưới vợ, anh con trai đòi bán mảnh vườn, nhưng lão không cho không phải vì lão
muốn giữ mảnh vườn cho lão, mà lão nghĩ nếu cưới vợ về, vườn bán rồi thì ở đâu mà làm ăn sinh sống, và
rồi có bán thì cũng làm sao mà đủ tiền. Lão nghĩ thế, nhưng anh con trai có thấu cho lão?Anh bỏ đi đồn điền
cao su, để lại lão ở nhà vò võ chờ con. Lão nghĩ tốt, lo cho tương lai con, nhưng khi con trai bỏ đi, lão lại tự
dằn vặt mình, đày đọa tinh thần mình.Những câu nói lão nói với cậu Vàng, nhưng lại chất chứa biết bao
nhiêu tình cảm nhớ thương cho anh con trai. Lão nói với cậu Vàng đấy, nhưng lại như nói với con mình. Lão
làm việc gì, lão suy nghĩ gì cũng là hướng về con trai mình. Tiền bòn vườn lão để dành, không tiêu tới để khi
con trai về, lão nhẩm tính sẽ có gần trăm đồng bạc, thêm vào cho con cưới vợ và làm kế sinh nhai.Thế
nhưng, lão lại ốm. Một cơn ốm kéo dài buộc lão phải tiêu tới số tiền đó. Chỉ vậy thôi mà lão đã thấy đau
lòng.Lão ăn vào tiền của con trai lão số tiền mà khi con trai về lão định trả con. Điều này làm lão khổ tâm
hết sức. Hành động của lão gửi ông giáo mảnh vườn, nhờ ông giáo giữ hộ cũng là để giữ hộ cho con lão :
“của mẹ nó thì nó hưởng”. Mọi suy nghĩ, việc làm của lão đều hướng tới con trai. Thậm chí, cái chết của
lão cũng là vì con.Lão chết để mở ra đường sống cho con lão, lão chết một cái chết trong sạch để lại tiếng
thơm cho con vì lão sống ngày nào là ăn vào tiền, vào đường sống của con ngày ấy. Xưa nay, không ít người
cha, người mẹ hi sinh cơm ăn, áo mặc vì con, hi sinh một phần thân thể vì con nhưng hi sinh cả mạng sống
của mình như lão Hạc lại là một trường hợp hiếm thấy. Tình yêu con của lão Hạc thật đặc biệt. Không ồn
ào, sôi nổi, không thể hiện qua hành động hay lời nói, lão lặng lẽ yêu con trong tâm tưởng, mọi hành động
của con lão đều cho là do lão. Là do lão đẩy con tới những hành động ấy rồi tự dằn vặt mình, tự gánh lấy
những suy nghĩ, hành động để chuộc lại lỗi lầm. Quả thật, tình yêu thương con của lão khiến chúng thật vô
cùng cảm động.
c, Lòng tự trọng: ( dẫn chứng )
Lão Hạc mang một tấm lòng tự trọng cao cả. Lão tự trọng từ với một con chó, với con trai lão, với bà con
hàng xóm, với ông giáo và với cả chính bản thân mình.Khi bán con chó, lão đau khổ, vì lão “bằng này tuổi
đầu mà còn trót lừa một con chó”. Lão nhớ ánh mắt của cậu Vàng, mà theo như lời lão là một ánh mắt đầy
trách móc, mắng lão tệ hại: “A!Lão già tệ lắm!Tôi ăn ở với lão thế mà lão đối xử với tôi thế này à”. Ánh
nhìn đó làm lão ám ảnh và day dứt không nguôi. Lão từ chối mọi sự giúp đỡ của ông giáo, lão lại chuẩn bị
sẵn tiền làm ma cho bản thân, gửi ông giáo, để khi lão có việc thì ông giáo đưa ra, coi như là của lão có chút
ít, còn lại thì nhờ bà con hàng xóm cả. Lão làm vậy để không phiền lụy tới ai. Từ đó, lão bòn vườn, mò
cua,ốc, trai ăn để sống qua ngày, thà chết chứ không chịu mắc nợ ai. Có lẽ hành động bán cậu Vàng của lão
chính là bước chuẩn bị cho cái chết của lão. Lão xin Binh Tư ít bả chó với lý do bắt chó nhà khác một lý do
làm Binh Tư tự nghĩ lão giả bộ hiền lành thế nhưng cũng ghê ra phết, một lý do làm ông giáo hiểu lầm lão,
hiểu lầm một con người đã “khóc vì trót lừa một con chó, một con người nhịn ăn để có tiền làm ma”.Vậy
nhưng hóa ra, lão ăn bả chó để tử tự, để giữ vẹn nguyên tấm lòng trong sáng của lão. Lão ăn bả chó, lão
chết như một con chó, vật vã, quằn quại trong đau đớn, để chuộc tội với cậu Vàng. Lão chết cũng là để
không bị cuộc sống dồn đẩy, bị tha hóa biến chất như Binh Tư, hay Chí Phèo.Cái chết của lão cũng chính là
sự tự trọng của lão với con lão. Lão sống mà phải dựa vào tiền của con thì thà lão chết còn hơn.Lão Hạc có
một tấm lòng thật đáng trân trọng lòng tự trọng của lão nông nghèo nhưng trong sạch. Lão chọn “chết
trong còn hơn sống đục” khi bị dồn vào đường cùng.
Cảm thương trước số phận đau khổ, cuộc đời bế tắc của những người nông dân trong xã hội cũ.
Trân trọng, đề cao vẻ đẹp tâm hồn của họ.
2. Tác phẩm Trong lòng mẹ
Dẫn chứng về lòng yêu thương mẹ của bé Hồng
Chú bé Hồng sinh ra nhiều cơ cực: cha mất vì nghiện, mẹ đi tha hương cầu thực bỏ lại hai anh em Hồng ở
lại trong sự ghẻ lạnh của họ hàng, nhưng không vì thế mà chú mất đi tình yêu thương mãnh liệt với mẹ.
Tình cảm chân thành ấy cứ tự nhiên lớn dần bởi khát khao yêu thương chứ không phải vật chất "Non một
năm ròng, mẹ tôi không gửi cho tôi lấy một lá thư, nhắn người hỏi thăm tôi lấy một lời và gửi cho tôi lấy
một đồng quà". Khi bị bà cô gieo rắc vào đầu những ý nghĩ tanh bẩn về mẹ, chú bé Hồng vẫn không giận
mẹ, luôn tin mẹ và hiểu mẹ. Chú chỉ giận những cổ tục xấu xa đã đầy đọa mẹ con sớm chia ly "Giá như
những cổ tục đã đày đọa mẹ là một vật như hòn đá hay cục thủy tinh, tôi quyết vồ lấy mà nhai, mà cắn cho
kỳ nát vụn mới thôi". Tình yêu thương không gì ngăn cản ấy còn thể hiện khi Hồng gặp mẹ.
Thoáng thấy người ngồi trên xe giống mẹ, chú đã chạy theo gọi bối rối, chứng tỏ mẹ luôn nằm trong tâm trí
chú. Khi được ngồi trên xe cùng mẹ, chú đã òa khóc. Đó là tiếng khóc dỗi hờn mà xúc động, tủi thân mà
hạnh phúc. Chú thấy mẹ "đẹp như thuở còn sung túc", chú tận hưởng cái ấm áp của tình mẹ, quên đi những
cay độc tủi hờn người cô gieo rắc để chìm trong dòng cảm xúc mơn man dào dạt. Thực sự, nhà văn Nguyên
Hồng đã viết lên một bài ca không quên một tình yêu thương bất tử, vĩ đại, thiêng liêng và ấm áp mà chú
bé Hồng chỉ dành riêng cho người mẹ bất hạnh của mình.
3. Tức nước vỡ bờ
*Dẫn chứng về tình yêu thương chồng con của Chị Dậu
Vẻ đẹp của nhân vật chị Dậu trước hết là vẻ đẹp của một người phụ nữ yêu chồng, thương con. Mở đầu
đoạn trích là cảnh chị Dậu chăm sóc người chồng ốm yếu vừa được thả sau những đánh trận đánh nhừ tử vì
không đủ tiền nộp sưu thuế. Đón chồng về trong tình trạng đau yếu tưởng như sắp chết mà trong nhà cũng
chẳng có gì ngon để tẩm bổ, may thay người hàng xóm thương tình cho vay bát gạo nấu cháo cho chồng ăn
lại sức. Cháo chín, chị ngồi quạt đợi cho cháo nguội rồi ân cần nâng chồng dậy, dịu dàng như nịnh nọt nói
với chồng: “Thầy em cố ngồi dậy húp ít cháo cho đỡ sốt ruột”. Chị hãy còn để ý xem chồng ăn có ngon
miệng hay không. Chính những hình ảnh, cử chỉ đó đã biểu lộ sự săn sóc và yêu thương của một người vợ
đối với người chồng dù đang trong cơn khốn khó.
Không những thế, khi anh Dậu vừa mới kề bát cháo lên miệng thì bọn cường hào lại tìm đến nhà lôi ra đánh
đập. Thương người chồng ốm yếu, chị không quản ngại mà qùy xuống van xin cai lệ: “Cháu xin ông”,
“Cháu van ông, nhà cháu vừa mới tỉnh được một lúc, ông tha cho!”. Tuy thế nhưng tiếng kêu van của chị
không làm cho đám cường hao có một chút động lòng, chúng cứ thế xông vào trói anh Dậu. Bị dồn vào thế
chân tường, không còn con đường nào khác, chị đã tức thì đánh trả lại bọn chúng để bảo vệ người chồng
đau yếu không còn chút sức kháng cự. Hành động ấy cũng đã chứng tỏ tình yêu thương của chị đối với
chồng bất chấp cả cường quyền bạo ngược.
*Dẫn chứng về sức sống mãnh liệt, tinh thần phản kháng của chị Dậu
Nhân hậu, giàu đức hạnh và giàu tình yêu thương chồng con nhưng đó cũng chưa phải là tất cả vẻ đẹp của
nhân vật chị Dậu. Ở người phụ nữ này còn toát lên tinh thần phản kháng mãnh liệt. Chính trong cái tình
cảnh chứng kiến người chồng chuẩn bị lôi đi, tình yêu chồng và lòng căm thù bọn ác bá cường hào đã thôi
thúc chị vùng lên dữ dội.
Khi chị đã hết lời van xin nhưng tên cai lệ vẫn không tha cho, cố tình sấn đến định bắt anh Dậu thì lúc này
chị Dậu đã cảnh cáo: “Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ”. Câu nói đầy cứng rắn, có đủ tình,
đủ lí nhưng không ngăn nổi cái ác tiếp diễn. Tên cai lệ sấn tới tát chị và chính cái tát ấy như lửa đổ thêm
dầu, làm bùng lên ngọn lửa căm hờn, chị nghiến hai hàm răng: “Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày
xem!”. Tên cai lệ chưa kịp làm gì thêm thì đã bị chị “túm lấy cổ hắn, ấn dúi ra cửa. Sức lẻo khẻo của anh
chàng nghiện chạy không kịp với sức xô đẩy của người đàn bà lực điền, hắn ngã chỏng queo trên mặt đất”.
Còn tên người nhà lí trưởng cũng bị chị Dậu “túm tóc, lẳng cho cho một cái, ngã nhào ra thềm”.
Có thể thấy sự chuyển biến tâm lý và hành động rất mạnh mẽ ở nhân vật trong tình cảnh này. Từ một
người phụ nữ nông thôn hiền lương, nghèo đói, luôn sợ sệt lũ tay sai thúc thuế, chị đã dám phản kháng
chống lại uy quyền. Đến lúc này thì nỗi căm phẫn đã lên đến đỉnh điểm, nỗi sợ hãi cố hữu của kẻ bị áp bức
phút chốc tiêu tan, thay vào đó là một bản lĩnh quật khởi rất cứng cỏi: “Thà ngồi tù. Để cho chúng nó làm
tình làm tội mãi thế, tôi không chịu được”.Tức nước thì vỡ bờ, có áp bức thì tất có đấu tranh là một quy luật
tất yếu. Tuy vậy, sự đấu tranh của chị Dậu chỉ là hành động mang tính bộc phát chứ không có tính định
hướng, cũng chưa có tính tập thể cho nên cuối cùng một mình chị vẫn không thể nào chống đỡ lại được cả
một chế độ phong kiến thối nát, độc ác, chuyên quyền. Chị vẫn phải vùng chạy, lao vào màn đêm tăm tối
như chính của cuộc đời của mình.
Đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” được coi là một trong những đoạn trích hay nhất của tác phẩm “Tắt đèn”.
Đoạn trích vừa làm nổi bật vẻ đẹp của một người phụ nữ yêu chồng thương con, giàu đức hy sinh và sức
phản kháng mãnh liệt, vừa thông qua đó để lên án một xã hội cường quyền, áp bức bất công đẩy người
nông dân thấp cổ bé họng vào đường cùng, buộc họ phải vùng lên tranh đấuỖNG
4. Tôi đi học Nguyên Hồng
Dẫn chứng cảm xúc của nhân vật “ tôi” trong ngày đầu đi học
Tôi đi học được bố cục theo dòng hồi tưởng của nhân vật "tôi” về những kỉ niệm buổi tựu trường. Tiết trời
vào những ngày cuối thu, hình ảnh các em nhỏ đến trường gợi cho nhân vật “tôi” nhớ lại ngày đầu tiên đi
học. "Tôi" nhớ lại con đường cùng mẹ đến trường, cảnh vật trên đường vốn rất quen nhưng lần này tự
nhiên thấy lạ, “tôi” cảm thấy có sự thay đổi lớn trong lòng mình. Đó là cảm giác trang trọng và đứng đắn
trong chiếc áo vải dù đen dài, cùng mấy quyển vở mới trên tay. Bàn tay cẩn thận, nâng niu mấy quyển vở,
lúng túng muốn thử sức nên xin mẹ được cầm cả bút, thước như các bạn khác. Khi nhìn thấy ngôi trường
ngày khai giảng, "tôi" thấy ngạc nhiên vì sân trường hôm nay dày đặc cả người, ai cũng ăn mặc sạch sẽ,
gương mặt tươi vui và sáng sủa. Ngôi trường vừa xinh xắn vừa oai nghiêm khác thường, “tôi” cảm thấy
mình bé nhỏ, do đó lo sợ vẩn vơ. Đặc biệt, lúc ngồi vào chỗ của mình trong giờ học đầu tiên, nghe thầy giáo
gọi tên, bắt đầu học bài học thứ nhất,... nhân vật chính của thiên truyện vừa thấy hồi hộp, ngỡ ngàng lại
vừa tự tin, sung sướng.
*Lưu ý : Dù là viết đoạn văn nhưng cũng phải có câu mở đoạn, phát triển đoạn và kết đoạn.