Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Báo cáo liên kết trong ngành chế biến gỗ - Tăng cường cơ hội, giảm rủi ro vì mục tiêu phát triển bền vững năm 2017

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 19 trang )

2017
LIÊN KẾT TRONG NGÀNH CHẾ BIẾN GỖ
Tăng cường cơ hội, giảm rủi ro vì mục tiêu
phát triển bền vững

TÔ XUÂN PHÚC

Hà Nội , tháng 4 năm 2017


Mục Lục
1.

Bối cảnh về tăng trưởng của ngành gỗ Châu Á và Việt Nam ......................................... 2

2.

Lý thuyết về lợi thế cạnh tranh và ý nghĩa đối với ngành gỗ Việt Nam .................. 3

3.

Ngành gỗ Việt Nam nhìn từ khung lý thuyết về lợi thế cạnh tranh .......................... 5

4.

3.1.

Vài nét cơ bản về ngành gỗ Việt Nam................................................................................ 5

3.2.


Ngành gỗ Việt Nam nhìn từ khung lý thuyết về lợi thế cạnh tranh .................... 8

Một số mô hình liên kết trong ngành gỗ ............................................................................... 12
4.1.

Các hạn chế cơ bản của ngành gỗ do thiếu liên kết.................................................. 12

4.2.

Tại sao đến nay liên kết chưa hình thành phổ biến ? .............................................. 14

4.3. Liên kết giữa doanh nghiệp nhập khẩu/sản xuất gỗ nguyên liệu và các
doanh nghiệp chế biến………... ........................................................................................................... 15

5.

4.4.

Liên kết giữa công ty nhập khẩu gỗ nguyên liệu và làng nghề .......................... 15

4.5.

Mô hình liên kết phát triển gỗ rừng trồng có chứng chỉ ....................................... 16

Kết luận: Làm gì để hình thành liên kết trong ngành chế biến gỗ ?........................ 17

1


1. Bối cảnh về tăng trưởng của ngành gỗ Châu Á và Việt Nam

Ngành chế biến gỗ của Việt Nam hiện đang nằm trong số các ngành có giá trị kim ngạch
xuất khẩu cao nhất, với kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ năm 2016 đạt gần 7 tỉ
USD.1 Mặc dù tốc độ tăng trưởng về kim ngạch trong những năm gần đây giảm (hiện còn
5-10%, so với 10-15% trong những đầu của thập kỷ 21) nhiều ý kiến cho rằng ngành
vẫn thường được coi là vẫn còn dư địa để phát triển.
Tại khu vực Đông Nam Á động lực phát triển của ngành chế biến gỗ của các nước như
Malaysia, Thái Lan và Indonesia có nhiều nét tương đồng. Cụ thể, kim ngạch xuất khẩu
của ngành tại các quốc gia này tăng nhanh đặc biệt trong những năm đầu của quá trình
phát triển.
Tuy nhiên, khác với những quan niệm phổ biến hiện cho rằng ngành gỗ của các nước
Châu Á, trong đó có Việt Nam vẫn còn dư địa để phát triển, một số nghiên cứu đã chỉ ra
những tồn tại mang tính chất hệ thống của ngành. Theo tác giả Ratnasingam và Ioras
(2003)2 mặc dù kim xuất khẩu vẫn gia tăng, ngành gỗ của các nước đã và đang đối mặt
với các khó khăn do năng suất (productivity) thấp. Theo các tác giả này, tăng trưởng về
kim ngạch của ngành của các nước chủ yếu là do mở rộng xuất khẩu các sản phẩm có giá
trị thấp, các hợp đồng xuất khẩu không có tính bền vững trong dài hạn bởi có sự cạnh
tranh không lành mạnh giữa các cơ sở chế biến với đầu ra là các sản phẩm giá rẻ, chất
lượng thấp. Theo các tác giả này, các tồn tại mang tính chất hệ thống của ngành gỗ Châu
Á bao gồm:
Thứ nhất, chúng ta thường bỏ qua một khía cạnh quan trọng là giá thị trường của
các sản phẩm gỗ là giá hình thành do quan niệm (perceived value) chứ không phải
giá trị thực. Hiện nay, giá của sản phẩm gỗ phụ thuộc nhiều vào các yếu tố như thiết kế
kiểu dáng mẫu mã, sự kết hợp các chất liệu trong sản phẩm và mối quan tâm của người
mua hàng về các vấn đề có liên quan đến môi trường, xã hội. Đây là các yếu tố đóng vai
trò quan trọng trong việc hình thành giá sản phẩm và lợi nhuận thu được trên mỗi sản
phẩm.
Thứ hai, quan niệm sai lầm có tính chất phổ biến về lợi thế cạnh tranh của ngành.
Quan niệm này thường cho rằng chi phí sản xuất thấp là lợi thế cạnh tranh căn bản của
ngành. Tuy nhiên, chi phí sản xuất thấp, đặc biệt là chi chi phí về giá nhân công và
nguyên liệu đầu vào không nhất thiết là những yếu tố cơ bản hình thành lợi thế cạnh

tranh. Ngành chế biến gỗ Đài Loan, với giá nhân công đắt đỏ và nguyên liệu đầu vào
khan hiếm nhưng hiện là một trong những quốc gia đứng đầu tại Châu Á về lợi thế cạnh
tranh là một minh chứng điển hình cho những quan niệm sai lầm về lợi thế cạnh tranh.
Điều này cũng nhấn mạnh vai trò của các yếu tố về mẫu mã, kết hợp chất liệu, mối quan
tâm của người mua hàng trong việc hình thành giá trị sản phẩm.

1

/>2
Ratnasingam, J & F. Ioras. The sustainability of the Asian wooden industry, Originals, 61(2003), 233-237.

2


Thứ ba, chính sách hỗ trợ ngành quan trọng nhưng điều này chưa đủ. Chính sách,
bao gồm cả các chính sách bảo hộ các công ty trong nước khỏi các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài, chính sách có liên qquan đến các khoản trợ cấp, ưu đãi thuế quan,
v.v. có thể dẫn đến hạn chế năng lưc cạnh tranh và kìm hãm năng xuất.
Thứ tư, năng suất lao động của ngành thấp. Năng suất lao động không phải chỉ dựa
trên các yếu tố nguyên liệu đầu vào, mà còn phụ thuộc vào mẫu mã sản phẩm và các
yêu cầu khác nhau của thị trường – điều mà ngành gỗ Châu Á thường thiếu. Trừ Đài
Loan, các quốc gia khác trong khu vực Châu Á có năng suất lao động trong ngành gỗ thấp
hơn nhiều so với năng suất của ngành tại các quốc gia như Mỹ, Đức, nơi năng suất lao
động cao chủ yếu là do mẫu mã thiết kế, sử dụng lao động có hàm lượng khoa học và
công nghệ cao và sản phẩm đáp ứng các thị hiếu khác nhau của thị trường.
Thứ năm, thiếu đầu tư và ưu tiên về phát triển nguồn nhân lực và trong nghiên cứu
và phát triển. Như đề cập ở trên, giá trị của sản phẩm gỗ không chỉ hình thành bởi các
yếu tố nguyên liệu đầu vào mà quan trọng hơn là do kiểm soát thiết kế mẫu mã và thị
trường. Điều này có nghĩa là ai kiểm soát các yếu tố mẫu mã, thị trường sẽ là người đạt
được lợi nhuận cao hơn. Nhìn chung ngành chế biến gỗ ở các nước Châu Á thiếu các ưu

tiên về phát triển nguồn nhân lực và hạn chế trong đầu tư nghiên cứu và phát triển sản
phẩm. Kết quả là lợi nhuận trên một đơn vị sản phẩm chủ yếu tập trung cho nhóm kiểm
soát thiết kế mẫu mã và thị trường chứ không phải là các nhà chế biến tại Châu Á.
Mặc dù ngành gỗ Việt Nam vẫn đang trên đà phát triển, hiện ngành đang đối mặt với các
hạn chế mang tính chất hệ thống liệt kê ở trên. Cần làm gì để có thể giảm thiểu và tiến
tới xóa bỏ các hạn chế nêu trên, nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành, góp
phần thúc đẩy ngành phát triển bền vững?
2. Lý thuyết về lợi thế cạnh tranh và ý nghĩa đối với ngành gỗ Việt Nam
Năng suất (productivity) chứ không phải tài nguyên thiên nhiên hay xuất khẩu quyết
định sự thịnh vượng của một quốc gia (Ratnasingam và Ioras 2003). Năng suất được đo
bằng giá trị sản phẩm đầu ra được tính trên một đơn vị lao động (ví dụ một ngày lao
động) và một đơn vi vốn đầu tư cho sản suất. Nâng cao năng suất đòi hỏi cần phải nâng
cao năng lực cạnh tranh của ngành.
Giáo sư kinh tế của Đại học Harvard Michael Porter (1990)3 đưa ra lý thuyết về lợi thế
cạnh tranh dựa trên bốn hợp phần cơ bản:





3

Các điều kiện về nhân tố đầu vào (factor conditions)
Các điều kiện về cầu (demand conditions)
Các ngành công nghiệp phụ trợ và liên quan (related and supporting industry) và
Chiến lược, cấu trúc của công ty và cạnh tranh nội địa (firm strategy, structure
and rivalry)

Porter M.E. (1990): The Competitive Advantage of the Nations. The Free Press, New York


3


Ngoài ra còn có 2 hợp phần nữa bao gồm



Chính sách của chính phủ (governmental policy) và
Cơ hội (chance)

Thứ nhất, các điều kiện về nhân tố đầu vào, được phân ra thành 2 phần chính bao
gồm:




Loại hình các yếu tố: Bao gồm (a) các yếu tố tiên tiến như lao động tay nghề cao, vốn
đầu tư, cơ sở hạ tầng, kiến thức. Đây là các yếu tố tạo được lợi thế cạnh tranh và (b)
các yếu tố cơ bản như lao động tay nghề thấp, nguyên liệu thô đầu vào. Đây là các
yếu tố không tạo ra lợi thế cạnh tranh.
Các yếu tố riêng biệt và phổ quát: Bao gồm nguồn nhân lực có trình độ tay nghề cao,
kỹ năng cao trong một số ngành đặc biệt, chuyên gia sâu trong một số lĩnh vực. Đây
là các yếu tố tạo lợi thế cạnh tranh.

Thứ hai, các điều kiện về cầu. Bao gồm các nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng về sản
phẩm và quy mô của cầu thị trường. Nhìn chung cầu thị trường càng đa dạng, càng phức
tạp đòi hỏi công ty phải liên tục đổi mới, nhằm đáp ứng các yêu cầu của thị trường. Điều
này làm nâng cao năng lực cạnh tranh
Thứ ba, các ngành công nghiệp hỗ trợ và liên quan. Để một ngành phát triển cần có
hệ thống các ngành công nghiệp phụ trợ, bao gồm:





Các ngành công nghiệp đầu vào. Cần đảm bảo nguồn cung hiệu quả, tiếp cận nhanh
với các thông tin về thị trường, sản phẩm, với các kiến thức mới và các ý tưởng mới.
Điều này làm tăng tính cạnh tranh cho ngành
Các ngành công nghiệp có liên quan. Cần phát triển để đảm bảo các ngành kết nối với
nhau, chia sẻ các hoạt động với nhau khi tham gia chuỗi giá trị trong môi trường
cạnh tranh

Thứ tư, chiến lược, cấu trúc công ty và cạnh tranh nội địa. Các điều kiện của quốc gia
có tác động trực tiếp tới việc hình thành và hoạt động của công ty. Vận hành và quản lý
của công ty chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố như mối quan hệ giữa công ty với các cơ quan
quản lý, mối quan hệ giữa công nhân và chủ doanh nghiệp, các chuẩn mực về hành vi và
thái độ… Tất cả các yếu tố này có liên quan trực tiếp tới hệ thống giáo dục đào tạo của
quốc gia, cấu trúc gia đình và xã hội, v.v. Bên cạnh đó, vận hành của công ty còn phụ
thuộc vào mục tiêu và kỳ vọng của công ty cũng như sức ép cạnh tranh tại thị trường nội
địa và thị trường xuất khẩu. Các sức ép này đòi hỏi công ty liên tục đổi mới, nhằm đáp
ứng với các yêu cầu của thị trường.
Thứ năm, chính sách của nhà nước. Bao gồm các cơ chế, chính sách, hoặc loại bỏ các
cơ chế chính sách có tác động đến bốn hợp phần cơ bản nêu trên. Cụ thể:


Chính sách tác động đến các yếu tố đầu vào. Ví dụ các chính sách nhằm tạo mới hoặc
tăng cường các yếu tố như chất lượng lao động, các kiến thức khoa học cơ bản, phát
4









triển cơ sở hạ tầng, phát triển hoặc hỗ trợ các cơ sở đào tạo nhằm năng cao chất
lượng nguồn nhân lực, nâng cao lợi thế cạnh tranh.
Chính sách tác động đến cầu tiêu thụ sản phẩm. Các chính sách có thể điều chỉnh, tạo
mới hoặc làm giảm, mất cầu của thị trường về một số loại sản phẩm, hàng hóa. Ví dụ
chính sách mua sắm công đối với các sản phẩm hợp pháp có thể hình thành cạnh
tranh giữa các công ty sản xuất sản phẩm hợp pháp.
Chính sách có thể tác động đến các ngành công nghiệp phụ trợ và các ngành liên
quan, thông qua việc hình thành, nuôi dưỡng và thúc đẩy các ngành công nghiệp phụ
trợ phát triển.
Chính sách có thể tác động trực tiếp đến việc hình thành, vận hành và quản lý của
công ty.

Thứ sáu, cơ hội. Những thay đổi lớn về công nghệ, tình hình kinh tế vĩ mô, chính trị… có
thể dẫn đến những thay đổi về ngành, từ đó làm thay đổi những yếu tố cạnh tranh.
Lợi thế cạnh tranh bất cứ một quốc gia hoặc ngành nào cần được nhìn theo cách hệ
thống. Thay đổi của hợp phần này dẫn đến những thay đổi trực tiếp của hợp phần khác.
3. Ngành gỗ Việt Nam nhìn từ khung lý thuyết về lợi thế cạnh tranh
3.1. Vài nét cơ bản về ngành gỗ Việt Nam
Từ góc độ quy mô số lượng doanh nghiệp và lao động, ngành gỗ Việt Nam hiện tại bao
gồm khoảng 4.300 doanh nghiệp, với hàng trăm nghìn lao động hiện đang tham gia các
hoạt động khác nhau tại các doanh nghiệp chuyên về thương mại, chế biến với sản phẩm
phục vụ thị trường nội địa hoặc/và thị trường xuất khẩu. Ngành còn bao gồm hàng trăm
nghìn hộ gia đình hiện đang tham gia các hoạt động chế biến, thương mại tại các làng
nghề truyền thống, các cơ sở chế biến, thương mai quy mô hộ gia đình nằm rải rác tại
các địa phương. Khoảng trên 95% các doanh nghiệp gỗ có quy mô nhỏ, sở hữu tư nhân,

với số lượng dưới 50 lao động/doanh nghiệp.
Từ góc độ nguồn nguyên liệu và thị trường tiêu thụ sản phẩm, ngành gỗ bao gồm bốn
hợp phần cơ bản.
Thứ nhất là cung nguyên liệu trong nước. Hiện Chính phủ Việt Nam đang thực hiện
chính sách đóng cửa rừng tự nhiên do vậy nguồn cung gỗ từ nguồn này không còn (trừ
lượng gỗ khai thác lậu hiện không có con số thống kê). Nguồn cung gỗ trong nước chủ
yếu là từ nguồn gỗ rừng trồng, với lượng khai thác hàng năm khoảng trên 24 triệu m3
gỗ tròn. Tuy nhiên gỗ có kích thước lớn từ nguồn này chỉ chiếm 20-30% trong tổng
lượng khai thác. Đây là lượng gỗ có thể được đưa vào chế biến đồ gỗ phục vụ xuất khẩu
và tiêu thụ nội địa. Phần còn lại (70-80%) là gỗ nhỏ, chủ yếu được sử dụng làm nguyên
liệu dăm để xuất khẩu.
Khoảng 60-70% lượngcung gỗ rừng trồng là gỗ của các hộ gia đình (30-40% còn lại là từ
các công ty lâm nghiệp, các hợp tác xã). Chính sách giao đất giao rừng cho các hộ được
Chính phủ bắt đầu thực hiện từ thập kỷ 90, với kết quả khoảng 1,4 triệu hộ được giao
5


3,4 triệu ha đất lâm nghiệp không chỉ góp phần quan trọng trong việc cải thiện sinh kế
cho nhiều hộ gia đình vùng núi, bao gồm các hộ nghèo là đồng bào dân tộc thông qua tạo
nguồn thu nhập từ gỗ rừng trồng, mà còn góp phần tăng độ che phủ rừng của quốc gia.
Trong bối cảnh nguồn cung gỗ từ rừng tự nhiên trong nước không còn và ngành gỗ vẫn
tiếp tục được mở rộng, nguồn cung gỗ từ rừng trồng ngày càng trở nên quan trọng. Nói
cách khác, đẩy mạnh giao đất lâm nghiệp cho hộ không những trực tiếp góp phần tạo
nguồn cung nguyên liệu quan trọng cho ngành gỗ, tăng độ che phủ của rừng, góp phần
xóa đói giảm nghèo.
Nguồn cung trong nước hiện cũng bao gồm nguồn từ các loại cây phân tán (ví dụ từ
vườn nhà) và từ các rừng cao su thanh lý. Con số thống kê về lượng cung từ nguồn cây
phân tán không thống nhất, tuy nhiên một số ý kiến cho rằng lượng cung từ nguồn này
khoảng 3,3 triệu m3/năm (Nguyễn Tôn Quyền và cộng sự, 2016).4 Lượng cung gỗ từ
nguồn các rừng cao su thanh lý hiện ở mức gần tương đương (3,2 triệu m3/năm) và có

thể đạt mức 8 triệu m3 năm 2040 (Trần Thị Thúy Hoa, 2016).5 Gỗ từ nguồn cây phân
tán và các vườn cao su thanh lý được đưa vào chế biến phục vụ tiêu thụ trong nước và
xuất khẩu. Một lượng gỗ cao su nguyên liệu được xuất khẩu sang Trung Quốc.
Thứ hai là nguồn cung gỗ từ nhập khẩu. Hàng năm Việt Nam nhập khẩu khoảng 4-5
triệu m3 gỗ nguyên liệu quy tròn, bao gồm gỗ tròn và gỗ xẻ, từ trên 100 quốc gia và
vùng lãnh thổ khác nhau, với số lượng loài nhập khẩu đa dạng (150-170 loài). Giá trị
nhập khẩu gỗ nguyên liệu tương đương với khoảng 2,2-2,3 tỉ USD/năm. Gỗ nhập khẩu
có nguồn gốc từ các khu vực rừng tự nhiên là rừng nhiệt đới (ví dụ các nước thuộc Tiểu
vùng Sông Mê Kông, Châu Phi) và gỗ (tự nhiên, rừng trồng) tại các khu vực ôn đới (ví dụ
Châu Âu, Hoa Kỳ). Đối với nguồn cung gỗ nhiệt đới, các quốc gia cung gỗ quan trọng cho
Việt Nam bao gồm Lào (kể từ đầu 2016 trở về trước)6, Campuchia, Cameroon, Kenya,
Mozambique. Gỗ nhập khẩu từ các nguồn này chủ yếu là các loài gỗ quý như Trắc,
Hương, Cẩm Lai, Căm Xe, Lim… Tính hợp pháp của các loài gỗ từ các nguồn này hiện
đang còn rất nhiều tranh cãi.
Gỗ nhập khẩu từ các quốc gia ôn đới như Hoa Kỳ, Châu Âu chủ yếu là các loại gỗ như Sồi,
Tần Bì, Dương, Thông… Gỗ nhập khẩu từ các nguồn này thường có tính pháp lý rõ ràng.
Lượng cung gỗ từ các nguồn này có tính ổn định cao, cả về số lượng và thành phần các
loài nhập khẩu.
Lượng cung gỗ có nguồn gốc từ rừng tự nhiên từ các khu vực nhiệt đới có sự biến động
lớn trong những năm gần đây. Cụ thể, lượng cung các loài gỗ quý từ các nước Tiểu vùng
4

Báo cáo Thực trạng sử dụng nguyên liệu trong chế biến gỗ
( />5
Trần Thị Thúy Hoa. Nguồn cung gỗ cao su tại Việt Nam. Bài trình bày tại Hội thảo Nguồn nguyên liệu gỗ của
Việt Nam 2016, được tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh ngày 14/12/2016.
6
Chính phủ Lào bắt đầu áp dụng chính sách cấm xuất khẩu gỗ tròn và xẻ từ tháng 4/2016. Chính sách này đã
làm cho nguồn cung gỗ từ Lào vào Việt Nam suy giảm nghiêm trọng. Thông tin chi tiết về thay đổi nguồn cung
gỗ từ Lào vào Việt Nam tham khảo tại Báo cáo Laos log and sawnwood export ban: Impacts on Vietnam – Laos

timber trade ( />
6


Sông Mê Kông sụt giảm nghiêm trọng, chủ yếu do các chính sách cấm xuất khẩu từ các
quốc gia này. Biến động còn thể hiện do xu hướng dịch chuyển nguồn cung sang các
nước Châu Phi, chủ yếu nhằm bù đắp lại một phần nguồn cung sụt giảm từ khu vực Tiểu
vùng Sông Mê Kông.
Thứ ba là thị trường xuất khẩu gỗ và các sản phẩm gỗ. Các sản phẩm gỗ của Việt
Nam được tiêu thụ tại thị trường xuất khẩu và nội địa. Hiện các sản phẩm gỗ đa dạng từ
Việt Nam có mặt tại trên 120 quốc gia và vùng lãnh thổ, với kim ngạch xuất khẩu trung
bình hàng năm đạt khoảng 6-7 tỉ USD. Các thị trường xuất khẩu chính bao gồm Hoa Kỳ,
Trung Quốc, EU và Nhật Bản. Các sản phẩm xuất khẩu chính bao gồm bàn, ghế, đồ gỗ nội
thất thuộc chương 94 với kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm thuộc nhóm này chiếm
70% trong tổng lượng kim ngạch xuất khẩu hàng năm (30% kim ngạch còn lại là các sản
phẩm thuộc nhóm đồ gỗ, chương 44). Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản là các thị trường tiêu thụ
chính đối với các sản phẩm thuộc chương 94. Trung Quốc là thị trường tiêu thụ nhiều
các sản phẩm thuộc chương 44, bao gồm cả gỗ tròn và gỗ xẻ.
Trong khi thị trường tiêu thụ các sản phẩm gỗ của Việt Nam tại Hoa Kỳ tiếp tục được mở
rộng, thị trường tại EU giảm, đặc biệt là tại các quốc gia có lượng cầu lớn như Đức, Anh,
Hà Lan. Cầu tại thị trường Trung Quốc với các sản phẩm gỗ của Việt Nam rất lớn, tuy
nhiên đây cũng là thị trường có tính biến động cao. Cụ thể, xuất khẩu các sản phẩm được
làm từ các loài gỗ quý có nguồn gốc từ rừng tự nhiên được nhập khẩu vào Việt Nam sang
Trung Quốc giảm sâu trong những năm gần đây. Tuy nhiên xuất khẩu các sản phẩm như
ván bóc, ván ghép thành, v.v. sang thị trường này lại tăng.
Thứ tư là thị trường tiêu thụ nội địa. Với dân số trên 90 triệu dân và tầng lớp trung
lưu lớn và không ngừng mở rộng, thị trường nội địa đóng vai trò quan trọng trong việc
tiêu thụ các sản phẩm gỗ của Việt Nam. Cầu sản phẩm gỗ từ thị trường nội địa đa dạng,
bao gồm các sản phẩm gỗ trong xây dựng, đồ gỗ nội, ngoại thất, gỗ sử dụng làm tàu
thuyền… Hiện các thông tin về tổng cầu tại thị trường nội địa chưa thống nhất, nhưng

một số ý kiến cho rằng quy mô về cầu của thị trường là khoảng 7 triệu m3 gỗ nguyên
liệu quy tròn và kim ngạch khoảng 2 tỉ USD/năm (Nguyễn Tôn Quyền và cộng sự, 2016).
Thị trường nội địa hiện cũng đang là nơi tiêu thụ nhiều sản phẩm gỗ, đặc biệt là các sản
phẩm đồ gỗ nội thất có nguồn gốc từ nhập khẩu. Nhiều ý kiến cho rằng hiện các sản
phẩm nội thất nhập khẩu đã bao chiếm toàn bộ thị trường nội địa.
Phần 3.2 dưới đây sẽ đánh giá một số thực trạng của ngành gỗ theo góc nhìn khung lý
thuyết về lợi thế cạnh tranh. Các đánh giá tập trung phản ánh cả các điểm mạnh và điểm
yếu trong các hợp phần. Các đánh giá này chỉ là sơ bộ, chưa bao trùm được hết các khía
cạnh chi tiết. Kết quả của các đánh giá này được kỳ vọng sẽ làm nền để tạo ra các thảo
luận trong tương lai, nhằm góp phần nâng cao lợi thế cạnh tranh của ngành theo hướng
phát triển bền vững.

7


3.2.

Ngành gỗ Việt Nam nhìn từ khung lý thuyết về lợi thế cạnh tranh

Thứ nhất là về hợp phần các điều kiện nhân tố đầu vào. Các khía cạnh quan trọng bao
gồm vốn, lao động, hàm lượng khoa học công nghệ và các yếu tố có liên quan đến cơ sở
hạ tầng, kiến thức. Các yếu tố này trực tiếp tác động đến hiệu quả của năng suất của
ngành.
Thông tin khảo sát từ một số doanh nghiệp cho thấy tiếp cận với nguồn vốn của các
doanh nghiệp, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp nhỏ gặp nhiều khó khăn. Tiếp cận
vốn yếu hạn chế khả năng đầu tư của doanh nghiệp. Thông tin từ các doanh nghiệp này
còn cho thấy theo quy định các doanh nghiệp không trực tiếp tham gia xuất khẩu thì
không được tiếp cận với nguồn vốn vay bằng ngoại tệ. Điều này tạo ra khó khăn lớn đặc
biệt đối với các doanh nghiệp không trực tiếp tham gia xuất khẩu nhưng phải sử dụng
ngoại tệ để nhập khẩu nguyên liệu đầu vào. Theo một số doanh nghiệp, điều này thể

hiện sự cạnh tranh không bình đẳng giữa các doanh nghiệp trực tiếp tham gia xuất khẩu,
bao gồm cả các doanh nghiệp FDI, và doanh nghiệp không trực tiếp tham gia xuất khẩu
(bao gồm các doanh nghiệp chỉ bán sản phẩm tại thị trường nội địa).
Việt Nam đang ở trong giai đoạn dân số vàng, với một lượng rất lớn số người nằm trong
độ tuổi lao động.7 Đây thường được coi như là một trong những lợi thế cạnh tranh của
ngành gỗ hiện nay. Hiện lượng lao động tham gia trực tiếp ngành chế biến gỗ khoảng
300.000 nghìn người. Con số này chưa bao gồm hàng triệu người hiện đang làm việc tại
các làng nghề và các cơ sở sản xuất quy mô hộ gia đình trong cả nước. Tuy nhiên, giai
đoạn dân số vàng sẽ không còn nhiều. Điều này có nghĩa rằng lợi thế cạnh tranh này sẽ
mất đi trong tương lai.
Ở một số quốc gia như Thái Lan, Malaysia hiện đang trả qua giai đoạn thiếu hụt lao động
trong ngành gỗ. Điều này tạo ra sự canh tranh lớn giữa các doanh nghiệp có mức lương
trả cho người lao động cao (đặc biệt là các doanh nghiệp FDI) và các doanh nghiệp có
mức lương thấp hơn. Ở mức độ doanh nghiệp, cạnh tranh về lao động có thể làm cho các
doanh nghiệp yếu không phát triển, thậm chí bị xóa sổ. Tuy nhiên ở góc độ của ngành,
cạnh tranh sẽ là động lực để ngành phát triển theo hướng bền vững trong tương lai.
Đến nay ở Việt Nam lao động trong ngành gỗ vẫn chưa có tín hiệu bị thiếu hụt. Tuy
nhiên, cạnh tranh về lao động đang và sẽ tiếp tục diễn ra, giữa các doanh nghiệp có mức
lương cao hơn và thấp hơn. Thông thường, các doanh nghiệp FDI (khoảng 600 doanh
nghiệp) với mức lương cao so với các doanh nghiệp khác là nơi hút lao động, đặc biệt là
các lao động đã thành thạo trong nghề. Điều này phần nào làm hạn chế trong đầu tư của
chủ doanh nghiệp vào người lao động và kết nối bền vững giữa hai bên.
Khoảng 70-80% lao động của ngành chế biến gỗ hiện nay đều có xuất phát điểm là lao
động phổ thông. Phần còn lại là kỹ sư ngành chế biến gỗ (1-2%) và công nhân kỹ thuật

7

/>
8



được đào tạo bài bản (18-29%) (Nguyễn Tôn Quyền, 2016).8 Mặc dù nguồn lao động
phổ thông dồi dào, lượng lao động có tay nghề thiếu. Các doanh nghiệp thường phải đầu
tư các nguồn lực để đào tạo công nhân khi các công nhân bắt đầu bước vào nghề. Hiện
tượng lao động sau khi đã được nâng cao tay nghề chạy sang các cơ sở sản xuất chế biến
có mức lương cao hơn (ví dụ FDI) vẫn diễn ra phổ biến. Điều này làm hạn chế mong
muốn đầu tư vào nâng cao tay nghề cho người lao động và mức độ gắn kết giữa chủ
doanh nghiệp và người lao động.
Hiện đã hình thành hệ thống các trường đại học và cao đẳng nghề trên cả nước đào tạo
kỹ sư và công nhân ngành lâm nghiệp, với lượng sinh viên lên tới hàng chục nghìn mỗi
năm (Nguyễn Tôn Quyền, 2016).9 Tuy nhiên, kết nối giữa các cơ sở đào tạo và các doanh
nghiệp thường yếu. Doanh nghiệp thường phải đào tạo lại các công nhân đào tạo bởi các
cơ sở này.
Liên kết giữa cơ sở đào tạo và doanh nghiệp cần được ưu tiên hình thành và phát triển
trong tương lai. Mô hình liên kết của Thái Lan với sự tham gia của các cơ sở đào tạo
(trường đại học), Phòng thương mại và Công nghiệp Thái Lan, và doanh nghiệp chế biến
gỗ nên được tham khảo. Trong mô hình này, một số doanh nghiệp chế biến với sự hỗ trợ
của Phòng thương mại và Công nghiệp đã xây dựng nội dung chương trình đào tạo tại
cấp doanh nghiệp. Các sinh viên được lựa chọn tham gia vào các chương trình đào tạo lý
thuyết tại các trường, sau đó được gửi xuống các doanh nghiệp và được đào tạo trực tiếp
thông qua thực hành công việc tại các cơ sở chế biến. Toàn bộ các chi phí đào tạo, bao
gồm cả học bổng cho sinh viên được các doanh nghiệp chi trả. Sau quá trình đào tạo, các
sinh viên sẽ được nhận làm việc trực tiếp trong các doanh nghiệp. Mô hình kết nối đào
tạo này đã tạo được kết nối cung – cầu, với sản phẩm đầu ra của đào tạo đáp ứng trực
tiếp với các nhu cầu công việc tại doanh nghiệp.
Cung gỗ là một trong những điều kiện quan trọng của các điều kiện đầu vào. Như đã đề
cập ở trên, cung gỗ từ nguồn rừng trồng càng ngày càng trở nên quan trọng. Tại Việt
Nam, cung gỗ rừng trồng chủ yếu là để phục vụ ngành dăm và ngành chế biến gỗ. Đến
nay đang có sự cạnh tranh gay gắt về nguồn nguyên liệu giữa 2 ngành này. Hiện đang
còn nhiều quan điểm trái chiều về sự phát triển của ngành dăm, ngành được coi là xuất

khẩu nguyên liệu thô, với giá trị gia tăng thấp (so với ngành chế biến gỗ) và ngành làm
kìm hãm sự phát triển của ngành chế biến gỗ, do vấn đề cạnh tranh nguyên liệu. Một số
chính sách đã được đưa ra nhằm hạn chế ngành dăm phát triển. Tuy nhiên trong dài
hạn, ưu tiên về nguồn nguyên liệu cho ngành dăm hay chế biến gỗ nên để cho thị trường
quyết định. Các biện pháp can thiệp bằng các mệnh lệnh hành chính có thể gây ra méo
mó về thị trường, và có thể đem lại các tác động không mong muốn cho hàng triệu hộ
trồng rừng, bao gồm nhiều hộ đồng bào dân tộc.

8

Nguyễn Tôn Quyền, 2016. Báo cáo Đánh giá nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực ngành công nghiệp chế biến
thương mại lâm sản Việt Nam từ góc độ sản xuất kinh doanh và hội nhập kinh tế Quốc tế.
9
Nguồn: Cùng với footnote 8.

9


Dự địa phát triển nguồn cung gỗ rừng trồng vẫn còn và điều này có tiềm năng trong việc
xóa đói giảm nghèo cho các hộ đồng bào dân tộc. Với vai trò trọng tâm của các hộ trong
việc phát triển rừng trồng, chương trình tái cơ cấu ngành lâm nghiệp của Chính phủ nên
ưu tiên cho việc mở rộng tiếp cận đất đai cho các hộ thông qua việc giảm quỹ đất hiện
đang được quản lý bởi các công ty lâm nghiệp nhà nước. Thực tế cho thấy các hộ đầu tư
vào trồng rừng sau khi có đất có tiềm năng đạt được các mục tiêu về môi trường, xã hội
và kinh tế.
Phát triển nguồn nguyên liệu gỗ rừng trồng càng cần được ưu tiên hơn trong bối cảnh
Chính phủ Trung Quốc bắt đầu thực hiện việc đóng cửa rừng tự nhiên. Thông tin chi tiết
về chính sách đóng của rừng của Trung Quốc và tác động của chính sách này đến nguồn
gỗ rừng trồng của Việt Nam được thể hiện trong Báo cáo Ngành công nghiệp gỗ của
Trung Quốc: Thị trường, chính sách và ý nghĩa đối với Việt Nam

( />ua%20Trung%20Quoc%20.pdf). Báo cáo chỉ ra rằng chính sách đóng của rừng tự nhiên
của Trung Quốc sẽ dẫn thiếu hụt khoảng 50 triệu m3 gỗ nguyên liệu mỗi năm tại quốc
gia này, và điều này có thể tạo ra một lực hút rất lớn về gỗ nguyên liệu từ Việt Nam vào
Trung Quốc trong tương lai. Nếu điều này xảy ra, cạnh tranh gỗ rừng trồng ở Việt Nam
sẽ trở nên mạnh mẽ hơn. Chính sách cần ưu tiên để đẩy mạnh nguồn cung gỗ từ nguồn
này, đặc biệt thông qua việc tạo nguồn đất trồng rừng cho hộ.
Gỗ nhập khẩu là gỗ tự nhiên, có nguồn gốc từ các khu vực rừng nhiệt đới, từ khu vực
Tiểu vùng Sông Mê Kông sẽ dần bị mất đi. Trong tương lai, cung gỗ từ nguồn này sẽ
không còn nữa. Một phần lượng cung mất đi từ khu vực này sẽ được bù đắp bởi lượng
cung thay thế từ khu vực Châu Phi. Tuy nhiên, lượng thay thế sẽ nhỏ hơn rất nhiều và
nhiều loài mất đi sẽ không thể thay thế do khác biệt về địa lý. Điều này sẽ tác động trực
tiếp tới hoạt động của các làng nghề, đặc biệt là các làng nghề vùng Đồng Bằng Sông
Hồng có sử dụng gỗ quý phục vụ xuất khẩu. Chuyển đổi hoạt động của các làng nghề
theo hướng sử dụng các loại gỗ sẵn có hơn, với mức giá rẻ hơn và trọng tâm vào thị
trường nội địa nên được ưu tiên.
Gỗ nhập khẩu từ các nguồn ‘sạch’ với tính hợp pháp rõ ràng là nguồn cung quan trọng
cho ngành gỗ. Gỗ từ nguồn này sau nhập khẩu được đưa vào chế biến và xuất khẩu
ngược trở lại các quốc gia cung gỗ. Lượng cung từ nguồn này tương đối ổn định, tuy
nhiên có thể sẽ có những thay đổi trong tương lai, do gia tăng sức hút gỗ nguyên liệu vào
Trung Quốc là hệ quả của chính sách đóng cửa rừng tự nhiên tại quốc gia này.
Trong các nhân tố đầu vào của ngành gỗ còn có một hợp phần quan trọng là công nghệ,
được chia ra làm công nghệ sơ chế và tinh chế. Nhìn chung, công nghệ sơ chế còn lạc
hậu, hiệu quả sử dụng nguyên liệu và năng lượng thấp, từ đó dẫn đến năng suất lao động
không cao. Công nghệ trong mảng tinh chế hiện đại hơn, tuy nhiên công nghệ thực sự
hiện đại chủ yếu nằm ở các doanh nghiệp FDI.
Thứ hai, các điều kiện về cầu, bao gồm các nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng về sản
phẩm và quy mô của cầu thị trường. Cầu thị trường càng đa dạng, càng phức tạp đòi hỏi
10



công ty phải liên tục đổi mới, nhằm đáp ứng các yêu cầu của thị trường. Điều này làm
nâng cao năng lực cạnh tranh.
Việt Nam xuất khẩu sản phẩm gỗ đa dạng, sang nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ. Tuy
nhiên cầu từ thị trường xuất khẩu, bao gồm cả về chủng loại sản phẩm, thiết kế mẫu mã,
kiểu dáng … lại phụ thuộc gần như hoàn toàn vào người mua nước ngoài. Nói cách khác,
mặc dù cầu đa dạng và ngành gỗ Việt Nam được coi là hội nhập sâu với thị trường quốc
tế, ngành chế biến gỗ Việt Nam chưa tạo được thương hiệu riêng cho mình và hầu như
chưa có ảnh hưởng đến cầu thế giới. Điều này hạn chế sự cạnh tranh của ngành trên
trường quốc tế.
Thị trường nội địa với trên 90 triệu dân có sự đa dạng lớn về cầu. Tuy nhiên, đến nay các
thông tin về thị trường nội địa như quy mô, nhu cầu và chủng loại sản phẩm rất hạn chế.
Một số ý kiến cho sản hiện nay cung các sản phẩm nội thất tại thị trường nội địa chủ yếu
là từ nguồn nhập khẩu với sản phẩm của các công ty nội địa, trừ đối với một số sản
phẩm của làng nghề, lại hầu như vắng bóng trên thị trường. Điều này là nguyên nhân
hình thành một số quan niệm cho rằng các doanh nghiệp Việt đang ‘bỏ ngỏ’ thị trường
nội địa. Bài học từ Thái Lan cho thấy thị trường nội địa là thị trường màu mỡ cho doanh
nghiệp, và có độ ổn định rất lớn, khác hẳn so với thị trường xuất khẩu. Chen chân vào thị
trường nội địa sẽ là khó khăn rất lớn cho nhiều doanh nghiệp Việt hiện nay. Tuy nhiên,
cần phải có những quan tâm lớn hơn, cả từ phía các cơ quan quản lý và từ doanh nghiệp
trong việc phát triển thị trường nội địa trong tương lai.
Thứ 3 là các ngành công nghiệp hỗ trợ và các ngành công nghiệp có liên quan. Có
thể nói, ngành chế biến gỗ hiện nay thiếu vắng ngành công nghiệp phụ trợ và các ngành
khác có liên quan. Các liên kết dọc (các các khâu trong chuỗi cung theo chiều dọc) và liên
kết ngang (giữa các công ty cùng trong mảng chế biến) hầu như chưa được hình thành
(xem phần 4 dưới đây về một số mô hình mới được hình thành ở giai đoạn đầu). Hạn
chế trong liên kết hạn chế tính hiệu quản của nguồn cung, sử dụng các nguồn lực và hạn
chế tiếp cận thông tin thị trường, từ đó làm giảm tính cạnh tranh cho ngành.
Liên kết giữa các khâu trong chuỗi giá trị là một nhu cầu tất yếu, góp phần tăng hiệu quả
sử dụng nguồn lực, nâng cao lợi nhuận cho các bên liên quan. Tuy nhiên, liên kết cần tập
hợp các điều kiện, bao gồm môi trường thể chế thông thoáng, minh bạch, điều kiện tự

nhiên phù hợp và thời gian để xây dựng lòng tin. Thiếu vắng liên kết trong ngành gỗ
hiện nay không những làm hạn chế hiệu quả sử dụng nguồn lực, giảm lợi nhuận cho các
bên liên quan mà còn làm mất cơ hội thị trường trong việc đáp ứng các yêu cầu đơn
hàng lớn (xem phần 4).
Các hiệp hội gỗ đại diện cho các doanh nghiệp của ngành có vai trò quan trọng trong việc
hình thành và thúc đẩy liên kết. Tuy nhiên vai trò này hiện đang còn hạn chế, bởi các khó
khăn do nguồn lực con người và tài chính, tiếp cận thông tin, thực quyền được trao cho
các hiệp hội bởi các cơ quan quản lý. Bên cạnh đó, mâu thuẫn về lợi ích còn tồn tại giữa
các thành viên trong cùng một hiệp hội và giữa các hiệp hội với nhau. Tất cả các yếu tố
này làm cản trở đến việc hình thành các liên kết trong ngành.
11


Thứ tư, chiến lược, cấu trúc công ty và cạnh tranh nội địa. Như đề cập ở trên, các
điều kiện của quốc gia có tác động trực tiếp tới việc hình thành và hoạt động của công ty.
Vận hành và quản lý của công ty chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố như mối quan hệ giữa
công ty với các cơ quan quản lý, mối quan hệ giữa công nhân và chủ doanh nghiệp, các
chuẩn mực về hành vi và thái độ…Kết quả của Báo cáo Doing Business 2017 của Ngân
hàng Thế giới đánh giá về môi trường kinh doanh của 190 nền kinh tế cho thấy Việt Nam
chỉ ở mức trung bình, đứng thứ 82 trong bảng xếp hạng. Mặc dù các tiêu chí như thành
lập doanh nghiệp, xin cấp phép xây dựng, tiếp cận điện năng, đăng kí tài sản, vay vốn,
bảo vệ nhà đầu tư nhỏ, nộp thuế, giao thương quốc tế, thực thi hợp đồng và xử lý mất
khả năng thanh toán (10 tiêu chí sử dụng đánh giá môi trường cạnh tranh) tăng, mức
xếp hạng của Việt Nam vẫn còn thua xa các quốc gia trong khu vực như Thái Lan (42)
hay Malaysia (22). Điều này cho thấy môi trường kinh doanh nói chung tại Việt Nam,
bao gồm cả môi trường cạnh tranh của ngành gỗ vẫn hạn chế.
Thứ 5 có liên quan đến các chính sách của nhà nước. Bao gồm tập hợp nhiều cơ chế
chính sách khác nau, có liên quan đến việc quản lý sử dụng các yếu tố đầu vào (ví dụ như
nguồn gỗ nguyên liệu trong nước, nhập khẩu, sử dụng lao động), đến cầu sản phẩm (ví
dụ mức thuế xuất nhập khẩu đối với các sản phẩm hàng hóa), chính sách phát triển các

ngành công nghiệp phụ trợ…
Đánh giá chung, đến nay ngành chế biến gỗ phát triển một cách tương đối tự nhiên, với
các chính sách tương đối mở, tạo cơ hội cho ngành gỗ phát triển. Tuy nhiên, hiện ngành
đang cần có các chính sách mới, trong đó tập trung ưu tiên vào việc tăng trưởng có chất
lượng và tăng trưởng bền vững, với các sản phẩm có giá trị gia tăng cao hơn. Điều này có
liên quan đến các cơ chế chính sách nhằm ổn định và bền vững về nguồn nguyên liệu
đầu vào sạch, đổi mới mô hình đào tạo thông qua việc gắn kết trực tiếp giữa các cơ sở
đào tạo lý thuyết (các trường) và thực tế (các doanh nghiệp) nhằm tạo đội ngũ lao động
có tay nghề cao. Bên cạnh đó, chính sách khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam phát
triển thị trường nội địa, khuyến khích người Việt sử dụng sản phẩm Việt cũng cần được
quan tâm, nhằm chiếm lĩnh thị trường nội địa trong tương lai.
Chính sách nhằm hình thành và thúc đẩy các mô hình liên kết trong tương lai cũng cần
nhận được ưu tiên. Các liên kết này sẽ giúp sử dụng nguồn lực hiệu quả, tạo giá trị gia
tăng cho ngành. Các liên kết này cũng có vai trò quan trọng trong việc xây dựng hình ảnh
của ngành chế biến gỗ Việt Nam. Phần 4 dưới đây sẽ đi vào mô tả thực trạng của một số
mô hình liên kết hiện nay, và đưa ra một số đánh giá về phương diện chính sách đối với
các liên kết này.
4. Một số mô hình liên kết trong ngành gỗ
4.1. Các hạn chế cơ bản của ngành gỗ do thiếu liên kết
Mặc dù kim ngạch xuất khẩu của ngành gỗ rất lớn và vẫn tiếp tục tăng, một số ý kiến cho
rằng ngành vẫn tồn tại một số vấn đề mang tính hệ thống và đã đến lúc cần có những
thay đổi lớn nhằm giải quyết các tồn tại nhằm phát triển bền vững ngành trong tương
lai. Tồn tại thể hiện qua các mặt như sử dụng lao động giá rẻ, dụng nguyên liệu đầu vào
12


chiếm tỉ lệ còn cao trong cơ cấu giá thành (40-50%) với giá trị gia tăng trong sản phẩm
thấp. Điều này làm cho năng suất lao động của ngành thấp hơn nhiều so với năng suất
lao động của ngành chế biến của các quốc gia như Thái Lan, Malaysia.
Một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến năng suất lao động của ngành thấp là

chưa có tính liên kết trong ngành. Theo nhận định của một số doanh nghiệp của ngành
chế biến, các doanh nghiệp Việt có xu hướng muốn làm từ A tới Z. Điều này dẫn tới dàn
trải trong đầu tư của doanh nghiệp, công nghệ không đồng bộ, tạo hình thành được đội
ngũ lao động chuyên môn sâu. Cụ thể:


Thiếu liên kết làm lãng phí nguồn lực trong đầu tư, đặc biệt trong khâu dự trữ nguyên
liệu của các doanh nghiệp chế biến. Chủ động về nguyên liệu gỗ đầu vào là một trong
những điều kiện quan trọng đối với các doanh nghiệp ngành chế biến, nhằm đáp ứng
chủ động các đơn hàng của người mua. Hầu hết các doanh nghiệp trong ngành chế
biến hiện nay đều phải dự trữ nguyên liệu gỗ đầu vào. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp
cần phải tập trung nguồn lực tài chính rất lớn. Thông tin từ một số doanh nghiệp cho
thấy khoảng 60-70% vốn liếng của doanh nghiệp chế biến được dành cho khâu dự
trữ nguyên liệu. Khoảng 30-40% vốn liếng còn lại tập trung vào khâu từ khi đưa cây
gỗ vào chế biến đến khi ra sản phẩm. Điều này khác hẳn với ngành gỗ của một số
quốc gia như Trung Quốc. Thông tin chia sẻ từ các doanh nghiệp này cho thấy 1
doanh nghiệp của Trung Quốc mỗi ngày xuất 60 container đồ gỗ cần dự trữ khoảng
2.000 m3 gỗ xẻ nguyên liệu. Điều này trái ngược hoàn toàn với 1 doanh nghiệp của
Việt Nam, mỗi ngày xuất khẩu 10 container hàng trong khi lượng nguyên liệu dự trữ
khoảng 10.000 m3. Lí do các doanh nghiệp Việt Nam phải dự trữ nguyên liệu là hiện
trong ngành gỗ chưa hình các doanh nghiệp chuyên phụ trách khâu dự trữ nguyên
liệu và càng chưa có liên kết giữa các doanh nghiệp kiểu này và các doanh nghiệp
trong ngành chế biến. Hệ quả là các doanh nghiệp chế biến luôn cần nguồn lực rất
lớn để dự trữ nguyên liệu. Nguồn lực không chỉ đơn thuần là tài chính mà còn đòi hỏi
một diện tích nhà xưởng rộng để dự trữ nguyên liệu.



Doanh nghiệp đầu tư dàn trải là hậu quả của việc thiếu liên kết. Thiếu liên kết dẫn đến
tình trạng các doanh nghiệp đầu tư dàn trải vào nhiều khâu khác nhau của chuỗi

cung, nhằm chủ động trong sản xuất (ví dụ đầu tư vào các khâu trồng rừng, chế biến
đồ gỗ, làm ván ép). Mặc dù đầu tư vào các khâu có thể nâng cao tính chủ động của
doanh nghiệp trong quá trình sản xuất, rủi ro hình thành do đầu tư dàn trải, từ đó
làm hạn chế hiệu quả của đầu tư đã xảy ra đối với một số doanh nghiệp trong ngành
chế biến gỗ.



Thiếu liên kết hạn chế khả năng chuyên môn hóa trong các khâu khác nhau của chuỗi
cung. Đầu tư đa dạng vào các khâu không những dẫn đến sự dàn trải về vốn mà còn
hạn chế khả năng chuyên môn hóa về lao động và công nghệ trong các khâu. Chuyên
môn hóa về lao động và công nghệ thấp dẫn đến năng suất lao động hạn chế.

13




Thiếu liên kết làm mất cơ hội thị trường cho các doanh nghiệp. Một số doanh nghiệp
có uy tín hiện nhận được những đơn hàng rất lớn và với khả năng của mình thì
không thể đáp ứng được các yêu cầu này. Thiếu liên kết làm mất cơ hội chia sẻ các
đơn hàng giữa doanh nghiệp này với các doanh nghiệp khác. Điều này đem lại tổn
thất cho ngành gỗ, đặc biệt trong bối cảnh nhiều doanh nghiệp vẫn còn thiếu đơn
hàng.

4.2.

Tại sao đến nay liên kết chưa hình thành phổ biến ?

Một câu hỏi quan trọng đặt ra ở đây là mặc dù lợi ích của liên kết là rất rõ ràng vậy tại

sao cho đến nay các liên kết vấn chưa được hình thành, hoặc nếu được hình thành (xem
phần 4.3-4.5) lại chưa trở thành phổ biến? Thông tin phỏng vấn từ một số doanh nghiệp
thấy có 3 lý do chính, với quan điểm của các doanh nghiệp thường không đồng nhất về
các lý do này, bao gồm:


Văn hóa của người Việt nói chung và của khối doanh nghiệp nói riêng. Một số doanh
nghiệp cho rằng rằng văn hóa của người Việt, bao gồm cả các doanh nghiệp gỗ, nhấn
mạnh vào tính cá nhân, thay vì nhấn vào các yếu tố cộng đồng. Điều này, theo các
doanh nghiệp, khác hẳn với văn hóa của các doanh nghiệp Trung Quốc, nơi các
doanh nghiệp thường hội tụ lại với nhau và hành động vì những mục đích trung.
Cũng theo các doanh nghiệp này, nhấn mạnh vào yếu tố cá nhân tạo ra sự tập trung
các nguồn lực nhằm tối đa hóa lợi ích cá nhân, không quan tâm hoặc có nhưng ít đến
các lợi ích của cộng đồng. Tuy nhiên, lí do này có điểm chưa thuyết phục đó là khái
niệm ‘văn hóa’ ở đây bao gồm các yếu tố gì, và tại sao các yếu tố ‘văn hóa’ này lại là
yếu tố cản trở sự hình thành liên kết.



Ngành chế biến gỗ mới ở giai đoạn đầu của phát triển và liên kết cần nhiều thời gian
hơn để hình thành và phát triển. Một số doanh nghiệp cho rằng ngành chế biến gỗ của
Việt Nam mới được hình thành và phát triển trong 10-15 năm vừa qua, và thời gian
này là quá ngắn (so với ngành chế biến gỗ của các quốc gia khác như Trung Quốc,
Malaysia hay Thái Lan) để có thể hình thành các liên kết trong ngành gỗ. Theo các
doanh nghiệp này, một trong những yếu tố cơ bản để hình thành liên kết là lòng tin
và các doanh nghiệp cần nhiều thời gian để hình thành hệ thống lòng tin lẫn nhau.
Theo luồng quan điểm này, liên kết trong ngành gỗ chắc chắc sẽ hình thành trong
tương lai.




Vai trò của hiệp hội còn hạn chế. Theo một số doanh nghiệp, để liên kết được hình
thành và trở thành phổ biến đòi hỏi phải có vai trò của người kết nối. Là cơ quan đại
diện cho quyền lợi của các doanh nghiệp, các hiệp hội có tiềm năng quan trọng trong
việc đảm nhận vai trò này. Tuy nhiên cho đến nay, vai trò của các hiệp hội còn hạn
chế. Một trong những hạn chế cơ bản là các hiệp hội mặc dù thường được tham vấn
bởi cơ quan quản lý trong việc hoạch định các cơ chế chính sách có liên quan tới
ngành nhưng chưa được trao quyền thực sự trong việc đưa ra các đường hướng
14


chiến lược của ngành. Bên cạnh đó, một số hiệp hội còn thiếu các thiết chế cần thiết,
nhằm ràng buộc trách nhiệm của các doanh nghiệp thành viên trong việc đạt các mục
tiêu chung, cũng như thiếu chế tài đủ mạnh trong việc điều chỉnh hành vi của các
doanh nghiệp thành viên khi các thành viên này không tuân thủ các quy định chung.
Các doanh nghiệp được tham vấn đều cho rằng rằng cần có những ‘cú hích’ để liên kết
trong ngành gỗ được hình thành phát triển. Trước khi thảo luận về các cú hích, phần
dưới đây sẽ đưa ra một số thông tin sơ bộ về một số mô hình liên kết mới ở trong giai
đoạn đầu của quá trình hình thành.
4.3. Liên kết giữa doanh nghiệp nhập khẩu/sản xuất gỗ nguyên liệu và các doanh
nghiệp chế biến
Hiện mô hình này đã được nhen nhóm hình thành ở một số khu vực, đặc biệt là tại một
số tỉnh phía Nam. Có 2 dạng liên kết được hình thành. Thứ nhất là liên kết giữa công ty
nhập khẩu nguyên liệu và công ty chế biến gỗ xuất khẩu, hình thành theo hình thức tự
phát, chủ yếu do một số chủ của các doanh nghiệp, những người có mối quan hệ bạn
bè/anh em thân thiết với nhau, hiểu rõ về cung cách làm ăn, hoạt động của nhau quyết
định kết hợp với nhau. Mô hình chợ gỗ nguyên liệu của Công ty TAVICO (Đồng Nai) hay
công ty Tiến Đạt (Quy Nhơn) có thể là một ví dụ. Trong mô hình này, công ty nhập khẩu
nguyên liệu đóng vai trò là nguồn cung gỗ đầu vào (một phần) cho các doanh nghiệp chế
biến. Nguồn gỗ nguyên liệu được nhập khẩu từ nhiều nguồn khác nhau, bao gồm cả gỗ

tròn và gỗ xẻ. Tùy theo yêu cầu về chủng loại, số lượng, thời gian giao hàng của các công
ty chế biến, công ty cung nguyên liệu có thể cung trực tiếp nguồn gỗ nhập khẩu, hoặc
thực hiện việc sơ chế (xẻ theo quy cách, sấy) nhằm đáp ứng các yêu cầu của các công ty
chế biến. Hiện mô hình này mới chỉ hình thành ở những bước ban đầu.
Thứ hai, mô hình cung gỗ nguyên liệu gỗ rừng trồng (keo, tràm) cho các công ty chế
biến đồ gỗ xuất khẩu. Mô hình của công ty Thanh Hòa (TP Hồ Chí Minh) là một ví dụ.
Trong mô hình này, công ty Thanh Hòa đi tìm hiểu nhu cầu sử dụng gỗ nguyên liệu của
một số công ty chế biến, chủ yếu là các công ty quen biết. Dựa trên nhu cầu này, Thanh
Hòa kết nối với các xưởng xẻ tại các vùng nguyên liệu để đặt hàng. Nhằm tạo ra những
sản phẩm có chất lượng, đáp ứng được các yêu cầu của các doanh nghiệp chế biến,
Thanh Hòa cũng tổ chức tập huấn đào tạo cho một số xưởng xẻ, nhằm nâng cao năng
suất và chất lượng sản phẩm trong công đoạn sơ chế. Thanh Hòa cũng đầu tư tài chính
cho một số xưởng xẻ nhằm đổi mới /nâng cao công nghệ và xây dựng một số lò sấy. Hiện
Thanh Hòa đang nỗ lực mở rộng liên kết với các doanh nghiệp chế biến, nhằm tăng đơn
hàng từ các doanh nghiệp này.
4.4.

Liên kết giữa công ty nhập khẩu gỗ nguyên liệu và làng nghề

Mô hình bắt đầu được hình thành giữa Công ty TAVICO và một số hộ gia đình thuộc làng
nghề gỗ tại Hố Nai, với các sản phẩm liên kết được tiêu thụ hoàn toàn tại thị trường nội
địa. Trong mô hình liên kết này, TAVICO chịu trách nhiệm:

15


-

Đào tạo, nâng cao tay nghề cho các hộ
Phối hợp với hộ, nâng cao chất lượng của sản phẩm

Cung cấp nơi trưng bày sản phẩm của liên kết nhằm quảng bá sản phẩm và bán hàng
trực tiếp
Phát triển kênh phân phối sản phẩm liên kết ở tại địa phương, và tại các địa bàn
khác, thông qua hệ thống bán hàng online và qua hệ thống cửa hàng kí gửi.

Quyền lợi TAVICO là cung gỗ nguyên đầu vào cho các hộ làng nghề.
Theo TAVICO, điểm đặc biệt thú vị trong mô hình này là kênh phân phối sản phẩm.
TAVICO không phải tạo mới nhiều kênh phân phối, mà kênh phân phối các sản phẩm
liên kết chủ yếu được dựa trên kênh phân phối truyền thống sẵn có của hệ thống làng
nghề. Theo TAVICO, “khi vào hệ thống [bán hàng] truyền thống… hàng được bán kìn kìn”
và trong hệ thống này “không ai làm marketing [trong hệ thống phân phối truyền thống
của làng nghề] giỏi như người dân. Họ là những người biết design của thị trường cần gì,
biết hệ thống phân phối, chất lượng. Họ là những người phân phối tốt nhất, sâu nhất.”
Hình thức liên kết giữa TAVICO và các hộ thuộc làng nghề là mô hình mới, với sản phẩm
tạo ra trong liên kết đáp ứng được các yêu cầu thị hiếu của người mua thuộc thị trường
nội địa. Kênh phân phối truyền thống được tận dụng tối đa. Chất lượng của sản phẩm
được nâng lên, với hình thức kinh doanh không còn mang tính chất chộp dật như trước
kia. Chất lượng sản phẩm do liên doanh tạo ra thay đổi, đòi hỏi các hộ gia đình không
tham gia liên doanh cũng phải thay đổi chất lượng, nhằm cạnh tranh. Hình thức cạnh
tranh này sẽ thúc đẩy thị trường phát triển.
Mô hình liên kết này có thể áp dụng được đối với một số làng nghề chế biến gỗ truyền
thống khu vực phía Bắc.
4.5.

Mô hình liên kết phát triển gỗ rừng trồng có chứng chỉ

Liên kết giữa các công ty chế biến gỗ và các hộ trồng rừng nhằm phát triển nguồn gỗ
rừng trồng có chứng chỉ FSC đã và đang được phát triển tại một số địa phương như
Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Yên Bái, Tuyên Quang…Đến nay động lực hình thành mô
hình này là do yêu cầu của tập đoàn IKEA đối với các nhà cung cấp, là các công ty gia

công chế biến gỗ cho tập đoàn này, như công ty Woodsland hay công ty Cổ phần Xuất
nhập khẩu Nam Định (NAFOCO), công ty Scan Pacific. Theo yêu cầu của tập đoàn, toàn
bộ các sản phẩm gỗ được cung bởi các nhà cung cấp phải được làm từ nguồn gỗ có
chứng chỉ quản lý rừng bền vững FSC.
Để có nguồn cung gỗ FSC này, các nhà cung cấp cho IKEA tiến hành thực hiện liên kết với
hàng nghìn hộ gia đình trồng rừng, với diện tích tham gia liên kết bình quân của mỗi hộ
khoảng 1-3 ha. Toàn bộ các diện tích này có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ đỏ).
Trong liên kết này, trách nhiệm của các nhà cung cấp của IKEA bao gồm:
-

Hỗ trợ kỹ thuật nhằm giúp các hộ đáp ứng được các tiêu chí về quản lý rừng bền
vững do FSC đưa ra
16


-

Cung cấp tín dụng ưu đãi nhằm giúp các hộ kéo dài chu kỳ phát triển của cây, nhằm
tạo nguồn nguyên liệu gỗ lớn cho chế biến gỗ
Hỗ trợ kinh phí thực hiện đánh giá chứng chỉ

Trách nhiệm của các hộ trồng rừng khi tham gia mô hình bao gồm:
-

Góp phần rừng trồng của mình vào liên kết (thông thường rừng trồng năm thứ 3-4).
Chịu trách nhiệm về chăm sóc bảo vệ cây, tuân thủ theo các quy định về chăm sóc
bảo vệ của FSC
Khi cây đến thời điểm khai thác, bán gỗ cho công ty.

Tham gia liên kết, công ty chủ động được nguồn gỗ FSC theo yêu cầu của tập đoàn IKEA.

Các nhà cung cấp cho IKEA cam kết mua gỗ đầu ra của người dân, với mức giá cao hơn
mức giá gỗ bán tại thị trường tại thời điểm khai thác khoảng 10-15%. Các hộ gia đình
tham gia liên kết được ổn định đầu ra đối với các sản phẩm gỗ của mình.
Mô hình liên kết này còn nhiều khía cạnh đáng quan tâm, trong đó đặc biệt về vấn đề chi
phí, nhằm giúp các hộ tham gia mô hình đáp ứng được các yêu cầu của FSC. Thông tin
chi tiết về mô hình này, bao gồm cả những khía cạnh cần quan tâm được thể hiện trong
Báo cáo Liên kết giữa công ty và hộ gia đình trồng rừng của Forest Trends và VIFORES
thực hiện năm 2017.
5. Kết luận: Làm gì để hình thành liên kết trong ngành chế biến gỗ ?
Liên kết các khâu trong chuỗi cung là nhu cầu tất yếu của bất cứ một ngành sản xuất
kinh doanh nào, bao gồm cả ngành chế biến gỗ. Liên kết đem lại nhiều lợi ích, từ việc sử
dụng hiệu quả các nguồn lực, tăng tính chuyên môn hóa, giảm rủi ro, mở rộng tiếp cận
thị trường và nâng cao lợi ích. Tuy nhiên cho đến nay, liên kết trong ngành chế chế biến
gỗ vẫn còn hạn chế. Một trong những lý do cơ bản là do hiện ngành gỗ còn thiếu vắng
giá trị cốt lõi hình thành liên kết, đó là hệ thống yếu tố lòng tin và chia sẻ lợi ích công
bằng giữa các bên tham gia. Xây dựng lòng tin cần thời gian. Chia sẻ lợi ích cần bằng cần
lòng tin và môi trường xã hội và thể chế lành mạnh, khuyến khích việc xây dựng lòng tin
và tạo cơ sở cho việc chia sẻ lợi ích.
Thể chế là một trong những điều kiện tiên quyết tạo ra sự thay đổi xã hội, bao gồm
những thay đổi trong ngành chế biến gỗ. Thể chế/ thay đổi thể chế có thể kìm hãm hoặc
khuyến khích sự hình thành và phát triển của liên kết. Ba mô hình liên kết trong ngành
chế biến gỗ có tiềm năng đem lại sự thay đổi theo hướng tích cực cho ngành chế biến gỗ,
bao gồm (i) liên kết giữa công ty cung cấp gỗ nguyên liệu (bao gồm cả công ty khẩu gỗ
nguyên liệu) và công ty chế biến gỗ, (ii) liên kết giữa công ty chế biến gỗ và làng nghề, và
(iii) liên kết giữa công ty chế biến gỗ và hộ trồng rừng. Thay đổi môi trường thể chế có
thể tạo động lực cho các mô hình này phát triển. Cụ thể:


Liên kết giữa công ty cung nguyên liệu và các công ty chế biến gỗ. Liên kết giữa 2 bên
sẽ giúp tăng hiệu quả của nguồn lực đầu tư, tăng tính chuyên môn hóa, giảm rủi ro,

tăng cơ hội thị trường. Môi trường thể chế cần thiết để khuyến khích mô hình này
17






phát triển có thể bao gồm việc hình thành các chợ gỗ đầu mối hoặc thành lập các
cụm công nghiệp nhằm khuyến khích cách doanh nghiệp trong ngành tập trung vào
một địa bàn tập trung. Các hỗ trợ cần thiết kế theo hình thức tránh các mệnh lệnh
hành chính mà đi theo hướng khuyến khích. Bên cạnh các cơ quan quản lý, các hiệp
hội gỗ có vai trò rất lớn trong việc phát triển và mở rộng mô hình này.
Liên kết giữa công ty chế biến/thương mại gỗ và các hộ thuộc làng nghề gỗ. Đây là mô
hình có tiềm năng rất lớn trong việc chuyển đổi các làng nghề theo hướng tạo ra các
sản phẩm gỗ hợp pháp, có chất lượng cao hơn và đẩy mạnh kênh phân phối, tập
trung vào thị trường nội địa. Môi trường thể chế nên được thiết kế theo hướng phát
triển thị trường nội địa, với mục tiêu người Việt dùng hàng Việt. Các cơ chế chính
sách cần hỗ trợ các doanh nghiệp liên kết với các làng nghề, thông qua các hỗ trợ
như đào tạo nâng cao tay nghề, thay đổi thiết kế mẫu mã, hỗ trợ kênh tiêu thụ sản
phẩm. Cơ chế chính sách cũng có thể được thiết kế theo hướng tạo cầu mới về sản
phẩm của liên kết, ví dụ thông qua các chính sách mua sắm công.
Liên kết giữa công ty chế biến gỗ và hộ trồng rừng. Những thể chế mới cần được tạo
ra nhằm khuyến khích mô hình này phát triển. Các cơ chế chính sách có thể bao gồm
tín dụng ưu đãi cho người trồng rừng, đặc biệt cho các năm ở cuối chu kỳ phát triển
của cây nhằm kéo dài chu kỳ cây, tạo rừng gỗ lớn; đẩy mạnh việc giao đất cho các hộ,
thông qua việc dịch chuyển đất đai hiện đang được các công ty lâm nghiệp sử dụng
không hiệu quả sang cho các hộ. Đảm bảo tính ổn định và hạn chế các rủi ro trong các
hợp đồng giữa công ty và hộ thông qua việc đẩy mạnh vai trò của chính quyền địa
phương và các hiệp hội.


Thay đổi thể chế góp phần thúc đẩy các mô hình phát triển. Điều này sẽ tạo được những
hiệu ứng lan tỏa trong ngành, góp phần nâng cao hiệu quả của ngành chế biến gỗ, đi theo
hướng tăng trưởng về chất lượng và bền vững trong tương lai./.

18



×