Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

Bảo đảm quyền của phụ nữ sau khi ly hôn trên địa bàn thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (443.32 KB, 92 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

VŨ THỊ NAM TRANG

BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA PHỤ NỮ
SAU KHI LY HÔN TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

VŨ THỊ NAM TRANG

BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA PHỤ NỮ
SAU KHI LY HÔN TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Chuyên ngành: Pháp luật về Quyền con người
Mã số: 8380101.07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. VŨ CÔNG GIAO

HÀ NỘI- 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng cá nhân tôi.
Những số liệu, ví dụ và trích dẫn được nêu trong luận văn là trung thực, bảo
đảm tính chính xác, tin cậy. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng
được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tôi đã hoàn thành tất cả các
môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của
Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Vũ Thị Nam Trang


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành và lòng biết ơn sâu sắc tới
PGS.TS Vũ Công Giao, người hướng dẫn khoa học giúp tôi thực hiện luận
văn này.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến các thầy cô giáo đã
giảng dạy lớp Cao học Luật về Quyền con người khóa 5 đã giúp tôi có những
kiến thức cơ bản về chuyên ngành này.
Xin trân trọng cảm ơn Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, các thầy cô
giáo Khoa Luật, Phòng Đào tạo và Bộ môn Luật Hiến pháp - Hành chính đã
tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt thời gian khóa học và thực hiện luận văn.
Cuối cùng, xin cảm ơn các bạn học viên lớp Cao học Luật về Quyền
con người khóa 5, gia đình và những người bạn đã ủng hộ, động viên, khích lệ
tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn.
Xin chân thành cảm ơn!


Hà Nội, tháng 8 năm 2019

Vũ Thị Nam Trang


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN...................................................................................................2
MỤC LỤC........................................................................................................3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT...............................................................5
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ................................................................6
PHẦN MỞ ĐẦU..............................................................................................1
CHƯƠNG 1......................................................................................................8
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN. PHÁP LÝ VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA
PHỤ NỮ SAU KHI LY HÔN...........................................................................8
1.1. Khái niệm, đặc điểm, nội dung quyền của phụ nữ sau khi ly hôn.............8
1.1.1. Khái niệm quyền của phụ nữ sau khi ly hôn..........................................8
1.1.2. Đặc điểm quyền của phụ nữ sau khi ly hôn..........................................10
1.1.3. Nội dung quyền của phụ nữ sau khi ly hôn..........................................12
1.2. Khái niệm, phương thức, vai trò, ý nghĩa của việc bảo đảm quyền của
phụ nữ sau ly hôn...........................................................................................20
1.2.1. Khái niệm, phương thức bảo đảm quyền của phụ nữ sau ly hôn.........20
1.2.2. Vai trò, ý nghĩa của việc bảo đảm quyền của phụ nữ sau khi ly hôn....26
1.3. Khung khổ pháp luật quốc tế và pháp luật hiện hành của Việt Nam liên
quan đến việc bảo đảm quyền của phụ nữ sau ly hôn....................................28
1.3.1. Các quy định pháp luật quốc tế về quyền của phụ nữ sau ly hôn.........28
1.3.2. Các quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam về quyền của phụ nữ
sau khi ly hôn..................................................................................................32
CHƯƠNG 2....................................................................................................36
THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA PHỤ NỮ SAU KHI LY HÔN Ở

THÀNH PHỐ HÀ NỘI..................................................................................36
2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội ở thành phố Hà Nội tác động đến việc
bảo đảm quyền của phụ nữ sau khi ly hôn.....................................................36
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên................................................................................36
2.1.2. Đặc điểm về kinh tế - xã hội.................................................................37
2.2. Hoạt động bảo đảm quyền của phụ nữ sau ly hôn ở thành phố Hà Nội. .40
2.2.1. Xây dựng pháp luật và tuyên truyền, giáo dục về quyền của phụ nữ sau
khi ly hôn ở thành phố Hà Nội.......................................................................40
2.2.2. Hỗ trợ bảo đảm quyền của phụ nữ sau khi ly hôn ở thành phố Hà Nội
........................................................................................................................46


2.2.3. Bảo vệ quyền của phụ nữ sau khi ly hôn thông qua hoạt động xét xử ở
thành phố Hà Nội............................................................................................49
2.3. Những hạn chế trong việc bảo đảm quyền của phụ nữ sau ly hôn ở thành
phố Hà Nội và nguyên nhân...........................................................................52
CHƯƠNG 3....................................................................................................65
QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA PHỤ NỮ SAU KHI
LY HÔN Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI...............................................................65
3.1. Quan điểm bảo đảm quyền của phụ nữ sau khi ly hôn ở thành phố Hà
Nội..................................................................................................................65
3.1.1. Bảo đảm quyền của phụ nữ sau khi ly hôn phải đi đôi với quá trình
phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa.................................................................65
3.1.3. Bảo đảm quyền của phụ nữ sau khi ly hôn phải gắn liền với bảo đảm
quyền bình đẳng, phát huy vai trò và khả năng của phụ nữ trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước..................................................................66
3.1.4. Bảo đảm quyền của phụ nữ sau khi ly hôn phải đặt trong mối quan hệ
với việc bảo đảm quyền của phụ nữ nói chung..............................................67
3.2. Giải pháp bảo đảm quyền của phụ nữ sau ly hôn ở thành phố Hà Nội...68
3.2.1.Tăng cường trách nhiệm của các cơ quan Đảng, Nhà nước trong việc

thực hiện bảo đảm quyền của phụ nữ sau ly hôn............................................69
3.2.2. Hoàn thiện quy định pháp luật về bảo vệ quyền của phụ nữ sau ly hôn
........................................................................................................................72
3.2.3. Lồng ghép công tác bảo vệ quyền của phụ nữ sau ly hôn với các mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội.........................................................................73
3.2.4. Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, thông tin về bình
đẳng giới, nâng cao nhận thực pháp luật với các chủ thể thực hiện...............73
3.2.5. Nâng cao khả năng tự bảo vệ của người phụ nữ trong việc bảo đảm
quyền của phụ nữ sau ly hôn..........................................................................75
KẾT LUẬN....................................................................................................77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................80


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS
CEDAW
CRC
HN&GĐ
ICCPR
OHCHR
TAND
TTDS

Bộ luật Dân sự
Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại
phụ nữ, 1979
Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em, 1989
Hôn nhân và Gia đình
Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị, 1966
Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về nhân quyền

Tòa án Nhân dân
Tố tụng dân sự


DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
Tên bảng

Trang

Bảng 2.1: Tỷ lệ ly hôn trong các năm từ 2014-2019

49

Bảng 2.2: Phân chia con cái sau ly hôn năm 2000-2009

51

Bảng 2.3: Phân chia nhà ở sau ly hôn năm 2000-2009

51


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phụ nữ đóng vai trò rất quan trọng trong việc phát triển kinh tế nhưng
trên thế giới họ thường phải tham gia các công việc không chính thức và dễ
bị tổn thương. Nhiều phụ nữ phải tự tạo việc làm hoặc làm việc trong gia
đình mà không được trả công. Phụ nữ làm việc trong khu vực không chính
thức có tiền công thấp hơn, tay nghề thấp hơn và ít có cơ hội nâng cao tay
nghề hoặc được đào tạo. Trong khi đó, trách nhiệm song song của người phụ

nữ là vừa chăm sóc con cái, làm nội trợ, vừa phải tự tạo ra thu nhập cho gia
đình, khiến cho người phụ nữ không có điều kiện tham gia các công việc
được trả công cao. Ngoài ra, phụ nữ cũng thường phải đối mặt với việc bị
phân biệt đối xử trong thị trường lao động, trong việc thụ hưởng quyền lợi
kinh tế.
Trong các quyền của con người thì quyền của phụ nữ được bình đẳng
với nam giới luôn là nhu cầu, khát vọng của phụ nữ trên toàn thế giới. Việc
Việt Nam tham gia Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với
phụ nữ (Công ước CEDAW) đã góp phần hạn chế sự bất bình đẳng giới và
bảo đảm quyền của phụ nữ, góp phần khẳng định vị trí của người phụ nữ
trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình ở nước ta. Thông qua việc
thực hiện CEDAW đã tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt hơn vai trò của
mình - người công dân - người mẹ - người lao động. Mặc dù vậy, việc áp
dụng, thực thi pháp luật về quyền bình đẳng của phụ nữ vào các lĩnh vực cụ
thể của đời sống xã hội ở nước ta hiện còn chưa đồng đều, trong đó một số
quy định vẫn chưa được áp dụng đầy đủ trong thực tế.

1


Hôn nhân là một trong những yếu tố cơ bản góp phần duy trì và phát
triển xã hội. Trong nhận thức của con người về các mối quan hệ gắn kết, lâu
dài thì ly hôn được xem là một sự kiện gây tác động tiêu cực đối với xã hội
nói chung và gia đình nói riêng. Mặc dù ý nghĩa của ly hôn là giải thoát cho
mối quan hệ giữa hai bên trong quan hệ hôn nhân khi mục đích hôn nhân
không đạt được hoặc không thể đạt được như mong muốn, song việc ly hôn
trong thực tế có ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của người phụ nữ và sự
phát triển toàn diện của trẻ em, là những đối tượng được coi là những nhóm
yếu thế trong xã hội.
Thông thường khi gia đình bất hòa, mâu thuẫn sâu sắc dẫn đến việc ly

hôn thì người phụ nữ là người chịu nhiều thiệt thòi hơn. Vì vậy, việc bảo vệ
quyền lợi của phụ nữ sau ly hôn là rất cần thiết và quan trọng trong xã hội
ngày nay. Tuy nhiên, trong thực tế quyền của phụ nữ sau ly hôn chưa được
chú ý đúng mức, dẫn đến sự thiệt thòi của phụ nữ trong trường hợp này.
Pháp luật hôn nhân và gia đình ở Việt Nam từ trước đến nay luôn dựa
trên nguyên tắc bình đẳng nam nữ và đã có những quy định nhằm bảo đảm
quyền lợi của phụ nữ sau ly hôn theo hướng ngày càng hoàn thiện tốt đẹp
hơn. Luật Hôn nhân và Gia đình (Luật HN&GĐ) năm 2014 hiện là văn bản
pháp luật cơ bản của nước ta trong việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp
của các thành viên trong gia đình, trong đó có phụ nữ, kể cả khi hôn nhân tồn
tại hoặc khi tan vỡ. Luật quy định rõ các quyền, nghĩa vụ, đồng thời điều
chỉnh quan hệ giữa các bên trên nguyên tắc tiến bộ và bình đẳng, kể cả khi ly
hôn. Dù vậy, khung pháp luật về vấn đề này của nước ta vẫn chưa thực sự
hoàn thiện. Đơn cử, trong thực tế, đàn ông thường là người đứng tên những
tài sản có giá trị trong gia đình, phụ nữ khi lấy chồng thường không được gia
đình mình hay gia đình chồng cho tài sản riêng, vì vậy, khi quan hệ hôn nhân
2


gia đình chấm dứt, một số phụ nữ vẫn phải chịu thiệt thòi trong việc phân
chia tài sản.
Trong những thập kỷ gần đây khi tình trạng ly hôn xảy ra nhiều hơn và
có xu hướng ngày càng tăng, khiến cho những bất cập, hạn chế trong việc
bảo vệ quyền của phụ nữ sau khi ly hôn ở nước ta càng bộc lộ rõ.
Bối cảnh trên cho thấy việc bảo vệ quyền của phụ nữ sau ly hôn là một
vấn đề rất quan trọng và cấp thiết ở nước ta nhưng còn thiếu những nghiên
cứu chuyên sâu. Vì vậy, học viên quyết định chọn đề tài “Bảo dảm quyền
của phụ nữ sau khi ly hôn trên địa bàn thành phố Hà Nội” để thực hiện
luận văn thạc sĩ chuyên ngành quyền con người, thông qua đó góp phần đánh
giá rõ hơn về thực trạng và đề xuất những giải pháp tăng cường bảo vệ quyền

của phụ nữ sau khi ly hôn ở nước ta trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề bảo vệ quyền của phụ nữ sau khi ly hôn trong pháp luật hôn
nhân và gia đình Việt Nam đã được một số tác giả nghiên cứu, trong đó có
thể nêu một số công trình đã đề cập đến vấn đề này như sau:
- Luận văn thạc sĩ “Bảo vệ quyền của người phụ nữ theo Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2000” của tác giả Lương Thị Kim Dung năm 2003.
Luận văn đã khái quát hoá các quy định pháp luật về quyền của phụ nữ trong
pháp luật hôn nhân, gia đình của Việt Nam, đưa ra những nhận định, đánh giá
về những ưu điểm, hạn chế và đề xuất giải pháp hoàn thiện. Luận văn cũng
đã đề cập đến quyền của phụ nữ sau khi ly hôn nhưng mới ở mức độ khái
quát. Do thực hiện từ 2003 nên có nhiều vấn đề và quy định được phân tích
trong luận văn hiện đã được thay thế bởi luật mới.
- Luận văn thạc sĩ “Nguyên tắc bảo vệ quyền chính đáng của vợ và các
con khi vợ chồng ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm
3


2000” của tác giả Lê Thu Trang năm 2012. Luận văn tập trung phân tích các
quy định liên quan đến quyền của phụ nữ và trẻ em sau khi ly hôn trong pháp
luật hôn nhân, gia đình của Việt Nam. Tác giả đã khái quát các quy định pháp
luật có liên quan, phân tích và đưa ra những nhận định, đánh giá về những ưu
điểm, hạn chế và đề xuất giải pháp hoàn thiện. Luận văn đề cập khá toàn diện
đến đến quyền của phụ nữ sau khi ly hôn nhưng do thực hiện từ 2012 nên hầu
hết những quy định được phân tích trong luận văn cũng đã được thay thế bởi
luật mới.
- Luận văn thạc sĩ “Bảo vệ quyền của người phụ nữ trong quan hệ tài
sản giữa vợ và chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000” của tác giả
Trần Thị Hồng Nhung năm 2013. Luận văn tập trung phân tích, đánh giá và
nêu ra một số giải pháp sửa đổi các quy định liên quan đến quyền tài sản của

phụ nữ trong quan hệ hôn nhân, gia đình, bao gồm khi ly hôn. Mặc dù vậy,
do thực hiện từ 2013 nên những quy định pháp luật có liên quan được phân
tích trong luận văn cũng không còn hiệu lực pháp lý.
- Luận văn thạc sĩ “Bảo vệ quyền của người phụ nữ trong quan hệ nhân
thân giữa vợ và chồng theo Luật Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014” của
tác giả Phạm Thị Chuyên năm 2015. Luận văn tập trung phân tích, đánh giá
và nêu ra một số giải pháp sửa đổi các quy định liên quan đến quyền nhân
thân của phụ nữ trong quan hệ hôn nhân, gia đình, bao gồm khi ly hôn. Do
thực hiện vào năm 2015 nên những quy định pháp luật có liên quan được
phân tích trong luận văn hiện vẫn đang có hiệu lực pháp lý (phân tích Luật
HN&GĐ năm 2014). Mặc dù vậy, luận văn chỉ tập trung đề cập đến các
quyền nhân thân của phụ nữ sau ly hôn và việc phân tích còn ở mức độ khái
quát.

4


Bên cạnh các công trình nêu trên, liên quan đến chủ đề của luận văn,
còn có một số công trình nghiên cứu khác như: Bài viết “Một số vấn đề về
bảo vệ quyền của phụ nữ sau khi ly hôn ở Việt Nam” (2014) Phạm Thị Bích
Phượng - Học viện Tòa án; Bài viết “Phụ nữ thụ động với quyền tài sản sau
khi ly hôn: trắng tay, không nhà cửa” (2015) Thanh Nhung, báo Lao động và
xã hội…
Như vậy, có thể thấy vấn đề bảo vệ quyền của phụ nữ sau khi ly hôn đã
được nghiên cứu khá nhiều, song đa phần các đề tài nghiên cứu đã công bố
đều phân tích các quy định của luật cũ (Luật Hôn nhân và gia đình năm
2000), chỉ có một đề tài nghiên cứu phân tích nội dung của luật mới (Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2014) nhưng còn ở mức độ khái quát và chỉ đề
cập đến quyền nhân thân. Ngoài ra, các công trình nghiên cứu đã công bố đều
đề cập đến những vấn đề chung, trên phạm vi cả nước, còn thiếu các công

trình nghiên cứu từ thực tiễn địa phương. Vì vậy, có thể khẳng định đề tài
“Bảo vệ quyền của phụ nữ sau khi ly hôn trên địa bàn thành phố Hà Nội”
vẫn có tính thời sự, cấp thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ hơn những vấn đề lý luận
và pháp lý về bảo vệ quyền của phụ nữ sau ly hôn từ thực tiễn thành phố Hà
Nội, qua đó góp phần thúc đẩy việc bảo đảm quyền này của phụ nữ ở Việt
Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ sau đây:
- Phân tích làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về việc bảo đảm quyền
của phụ nữ sau khi ly hôn.
5


- Tập hợp và phân tích hệ thống các quy phạm pháp luật liên quan đến
việc bảo đảm quyền của phụ nữ sau khi ly hôn ở Việt Nam.
- Phân tích, đánh giá thực trạng bảo đảm quyền của phụ nữ sau khi ly
hôn tại thành phố Hà Nội.
- Đề xuất các quan điểm và giải pháp nhằm tăng cường bảo đảm quyền
của phụ nữ sau khi ly hôn tại thành phố Hà Nội hiện nay.
4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1.Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận, pháp lý và
thực tiễn về bảo vệ quyền của phụ nữ sau ly hôn ở thành phố Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về nội dung: Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề quyền của
phụ nữ sau khi ly hôn, không mở rộng đến các quyền khác của phụ nữ trong
hôn nhân.

Phạm vi về không gian: Đề tài chỉ khảo sát thực trạng bảo đảm quyền
của phụ nữ sau khi ly hôn ở thành phố Hà Nội, không mở rộng đến các địa
phương khác của Việt Nam.
Phạm vi về thời gian: Đề tài chỉ khảo sát thực trạng bảo đảm quyền của
phụ nữ sau khi ly hôn ở thành phố Hà Nội trong khoảng 05 năm gần đây.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin và các lý thuyết về bình đẳng giới và quyền
con người.
Tác giả kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu phổ biến của
khoa học xã hội như tổng hợp, thống kê, phân tích, so sánh để giải quyết các
câu hỏi nghiên cứu đặt ra.
6


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ và củng cố cơ sở lý luận và pháp lý của việc
bảo đảm quyền của phụ nữ sau khi ly hôn ở Việt Nam.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan
nhà nước hữu quan, đặc biệt ở thành phố Hà Nội, trong việc hoạch định, thực
thi chính sách, pháp luật về bảo đảm quyền của phụ nữ sau khi ly hôn. Ngoài
ra, luận văn có thể được sử dụng làm học liệu tham khảo cho việc giảng dạy,
nghiên cứu về quyền con người ở Khoa Luật ĐHQG Hà Nội và các cơ sở đào
tạo khác ở Việt Nam.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Mục lục, Phụ lục và Danh mục tài liệu
tham khảo, luận văn được cấu trúc thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận, pháp lý về bảo đảm quyền của phụ
nữ sau khi ly hôn.
Chương 2: Thực trạng bảo đảm quyền của phụ nữ sau khi ly hôn ở

thành phố Hà Nội.
Chương 3: Quan điểm, giải pháp bảo đảm quyền của phụ nũ sau khi ly
hôn ở thành phố Hà Nội.

7


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN. PHÁP LÝ VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA
PHỤ NỮ SAU KHI LY HÔN
1.1. Khái niệm, đặc điểm, nội dung quyền của phụ nữ sau khi ly
hôn
1.1.1. Khái niệm quyền của phụ nữ sau khi ly hôn
Theo Lời nói đầu của Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền (UDHR) năm
1948: việc thừa nhận phẩm giá vốn có, các quyền bình đẳng và không thể
tách rời của mọi thành viên trong gia đình nhân loại là cơ sở cho tự do, công
bằng và hòa bình trên thế giới [8, tr.44]. Điều cốt yếu là quyền con người cần
phải được pháp luật bảo vệ để con người không buộc phải nổi dậy như là
một biện pháp cuối cùng nhằm chống lai sự độc tài và áp bức [8, tr.44]. Quy
định này có tính chất là nền tảng cho việc khẳng định và bảo vệ quyền con
người của tất cả cá nhân, bao gồm phụ nữ, trên tất cả lĩnh vực, bao gồm hôn
nhân - gia đình.
Trước khi làm rõ khái niệm quyền của phụ nữ sau khi ly hôn, cần đề
cập đến các khái niệm quyền con người và quyền của phụ nữ.
Quyền con người (Human Rights - hay nhân quyền) theo định nghĩa
của OHCHR: … là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các
cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc làm tổn
hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con người [7,
tr.27].


8


Theo Tuyên bố Viên và Chương trình hành động được thông qua tại
Hội nghị thế giới về nhân quyền lần thứ 2, tổ chức tại Viên, thủ đô nước Áo,
vào năm 1993 thì quyền phụ nữ cũng là quyền con người [29].
Với tư cách bình đẳng với nam giới, các quyền con người của phụ nữ
được ghi nhận trong tất cả các văn kiện quốc tế phổ quát về nhân quyền,
trong đó bao gồm UDHR và Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị
(ICPPR) 1966, và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hoá
(ICESCR) 1966. Đặc biệt, vấn đề quyền bình đẳng của phụ nữ được thể hiện
tập trung trong Công ước về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ
nữ (CEDAW), được Đại Hội Đồng Liên hợp quốc thông qua năm 1979. Hiện
tại, đây là văn kiện quốc tế quan trọng nhất về quyền con người của phụ nữ.
Mặc dù không phải là một công ước xác định những quyền con người của
phụ nữ, xong CEDAW đã chỉ ra những cách thức, biện pháp để hiện thực hóa
các quyền con người của phụ nữ trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã
hội, văn hoá. Điều 1 CEDAW đã xác định rõ khái niệm “sự phân biệt đối
xử” với phụ nữ là: “...bất kỳ sự phân biệt, loại trừ hay hạn chế nào được đề
ra dựa trên cơ sở giới tính, mà có tác dụng hoặc nhằm mục đích làm tổn hại
hoặc vô hiệu hóa việc phụ nữ, bất kể tình trạng hôn nhân của họ như thế
nào, được công nhận, thụ hưởng hay thực hiện các quyền con người và tự do
cơ bản trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, dân sự hay bất kể
lĩnh vực nào khác, trên cơ sở bình đẳng giữa nam giới và phụ nữ”.
Công ước CEDAW cũng bao gồm một loạt quy định về việc bảo đảm
sự bình đẳng về quyền của phụ nữ với nam giới trong các lĩnh vực như:
Chính trị; Giáo dục; Lao động - việc làm; Tư cách pháp lý (dân sự, kinh tế,
quốc tịch); Bảo trợ xã hội; Chăm sóc sức khỏe; Hoạt động xã hội, văn hóa,
vui chơi, giải trí và Hôn nhân - gia đình. Bên cạnh đó, CEDAW còn có những
9



quy định về bảo vệ quyền của các nhóm phụ nữ có hoàn cảnh đặc biệt như:
Phụ nữ nông thôn; Phụ nữ là nạn nhân của tình trạng buôn bán, mại dâm, bạo
lực gia đình…Nguyên tắc chung đóng vai trò nền tảng trong việc đảm quyền
bình đẳng của phụ nữ theo CEDAW đó là: Phụ nữ cũng là những con người,
do đó cũng được hưởng các quyền của con người như đàn ông. Bên cạnh đó,
do đặc thù về giới, phụ nữ cần phải được ưu tiên bảo vệ, bảo đảm một số
quyền trong một số lĩnh vực để tạo cơ hội cho họ được hưởng thụ đầy đủ các
quyền con người như nam giới.
Tóm lại, về mặt lý luận, khái niệm quyền của phụ nữ được xem là một
chỉnh thể bao gồm tất cả các quyền mà phụ nữ được hưởng như một con
người - một thành viên của gia đình nhân loại - cũng như với ý nghĩa như
một nhóm xã hội. Theo nghĩa đó, những gì mà phụ nữ sau khi ly hôn được
hưởng và được bảo vệ, bảo đảm cũng chính là các quyền của phụ nữ. Nói
cách khác, có thể hiểu quyền của phụ nữ sau khi ly hôn là “những gì mà theo
pháp luật quốc tế, pháp luật quốc gia và theo lẽ công bằng, chính đáng, một
người phụ nữ phải được bảo vệ, bảo đảm sau khi hôn nhân tan vỡ, trên cơ sở
bình đẳng với người chồng và tính đến đặc thù về giới của phụ nữ”.
1.1.2. Đặc điểm quyền của phụ nữ sau khi ly hôn
Như đã đề cập, ngày nay, ly hôn đã được nhìn nhận một cách khách
quan như là một cách thức để giải quyết mối quan hệ giữa các bên trong quan
hệ vợ chồng một cách có tình, có lý, giúp các bên thoát khỏi sự ràng buộc khi
mối quan hệ giữa vợ và chồng không diễn ra đúng mục đích của hôn nhân,
qua đó bảo đảm các quyền dân sự cơ bản của mỗi bên.
Quyền của phụ nữ sau khi ly hôn cũng là quyền của phụ nữ nói chung,
tuy nhiên, xuất phát từ tính chất của quan hệ xã hội phát sinh ra nó, quyền
của phụ nữ sau khi ly hôn có một số đặc điểm nổi bật như sau:
10



Thứ nhất, các quyền của phụ nữ sau khi ly hôn xuất phát từ nguyên tắc
bình đẳng nam nữ trong luật nhân quyền quốc tế.
Từ cách tiếp cận mới về ly hôn như đã nêu ở trên, và theo tinh thần của
luật nhân quyền quốc tế, phụ nữ ly hôn phải được hưởng đầy đủ, bình đẳng
tất cả các quyền con người, quyền công dân như nam giới. Điều này là để
phù hợp với nguyên tắc chung đó là phụ nữ và nam giới nói chung đều có
quyền bình đẳng trước pháp luật, không ai có thể bị phân biệt đối xử trong
đời sống chính trị, kinh tế, dân sự, văn hóa, xã hội. Đó là bởi kết hôn, hôn
nhân, ly hôn cũng là các quan hệ xã hội mà trong đó phụ nữ (cùng với đàn
ông) là các chủ thể cùng tham gia.
Thứ hai, quyền của phụ nữ sau khi ly hôn mang tính chất là các quyền
dân sự, bao gồm cả quyền dân sự về nhân thân và quyền dân sự về tài sản.
Thông thường, các quyền của phụ nữ sau khi ly hôn sẽ bao gồm các
quyền nhân thân như quyền được quyết định ly hôn, quyền được chăm sóc,
nuôi dưỡng con chung, quyền được tái hôn…Bên cạnh đó, khi ly hôn, người
phụ nữ cũng có những quyền dân sự về tài sản, trong đó đặc biệt là quyền
được chia tài sản chung trên cơ sở công bằng với người chồng.
Mặc dù quyền của phụ nữ sau khi ly hôn chủ yếu là các quyền dân sự,
song trong một số trường hợp cũng liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến việc
bảo đảm các nhóm quyền khác của phụ nữ. Ví dụ, ở một số quốc gia, người
phụ nữ nguồn gốc nước ngoài khi ly hôn có thể mất quốc tịch của chồng - từ
đó phát sinh yêu cầu bảo vệ quyền có quốc tịch - là một quyền chính trị của
người phụ nữ đó. Hoặc, ở các quốc gia khác, phụ nữ khi ly hôn có thể bị mất
những cơ hội nhận trợ cấp xã hội (thuộc nhóm quyền kinh tế, xã hội, văn
hoá) - vì thế đặt ra vấn đề bảo vệ nhóm quyền này cho họ.

11



Thứ ba, quyền của phụ nữ sau khi ly hôn gắn liền với vị thế đặc thù
của phụ nữ là làm mẹ, nuôi con.
Trong xã hội loài người, thiên chức của phụ nữ là làm mẹ và đóng vai
trò chính trong việc chăm sóc con cái. Đàn ông có thể góp phần cùng phụ nữ
trong việc sinh sản nhưng không thể thay thế phụ nữ trong việc sinh nở theo
nghĩa tự nhiên. Bên cạnh đó, tuy đàn ông có thể và có nghĩa vụ cùng phụ nữ
chăm sóc con cái, song trong thực tế, công việc này chủ yếu do phụ nữ đảm
nhiệm, đặc biệt khi con cái còn nhỏ.
Thiên chức đó đặt ra yêu cầu bảo vệ đặc biệt với quyền của phụ nữ sau
khi ly hôn. Xét trên phương diện bình đẳng hình thức, khi hôn nhân tan vỡ,
các vấn đề chung, đặc biệt là tài sản chung, sẽ được chia đôi giữa vợ và
chồng. Tuy nhiên, từ thiên chức làm mẹ của phụ nữ, việc phân chia tài sản
phải tính đến đặc thù của phụ nữ là làm mẹ và nuôi con để từ đó ưu tiên cho
phụ nữ. Không chỉ vậy, các quyền khác về nhân thân khi ly hôn cũng phải
thực hiện dựa trên nguyên tắc ưu tiên cho phụ nữ. Sự ưu tiên này không có
nghĩa là đối xử bất bình đẳng với đàn ông (người chồng) mà là để bảo đảm sự
cân bằng (bình đẳng thực chất) với phụ nữ (người vợ), cũng như để bảo đảm
sự chăm sóc tốt nhất với trẻ em - là tương lai không chỉ của các bậc cha mẹ
mà của cả xã hội, dân tộc. Đây chính là lý do mà pháp luật hôn nhân gia đình
của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam, thường dành cho người vợ có ý
kiến quyết định về việc ly hôn, cũng như ưu tiên cho người vợ trong việc
phân chia tài sản chung của hai vợ chồng.
1.1.3. Nội dung quyền của phụ nữ sau khi ly hôn
Như đã đề cập, các quyền của phụ nữ sau khi ly hôn bao gồm cả quyền
nhân thân và tài sản. Khái niệm quyền của phụ nữ sau khi ly hôn mang tính
chất tổ hợp, bao gồm những quyền hàm chứa, mà thông thường là:
12


- Quyền nuôi con

Con cái là “báu vật” chung của các cặp vợ chồng. Khi hôn nhân còn
tồn tại, vợ và chồng cùng chăm sóc con cái. Tuy nhiên, khi hôn nhân tan vỡ,
xuất hiện vấn đề là cần quyết định ai trong số họ có quyền nuôi con (người
khác có nghĩa vụ cấp dưỡng).
Về mặt tự nhiên, việc bảo đảm quyền của phụ nữ sau ly hôn được nuôi
con sẽ tạo điều kiện cho con cái, đặc biệt khi còn nhỏ, được chăm sóc, nuôi
dưỡng tốt hơn, vì chỉ có người phụ nữ mới có thể thực hiện đầy đủ thiên chức
làm mẹ. Tuy nhiên, trong thời kỳ phong kiến, con cái thường được xem là
của người cha (do ảnh hưởng bởi chế độ gia trưởng), vì thế người phụ nữ
thường không được quyền nuôi con. Chỉ trong trường hợp đặc biệt tiến bộ (ví
dụ như Bộ luật Hồng Đức của Việt Nam), quyền này mới được phân chia cho
người vợ. Cụ thể, theo Điều 310 Bộ Luật Hồng Đức,“khi ly hôn, con cái
thường thuộc về chồng, nhưng nếu muốn giữ con, người vợ có quyền đòi chia
một nửa số con”.
Trong thời kỳ hiện đại, pháp luật của các quốc gia có xu hướng ưu tiên
người mẹ được quyền nuôi con, do tính đến yêu cầu khoa học trong việc
chăm sóc trẻ em. Ví dụ, khoản 2, khoản 3, Điều 81, Luật HN&GĐ năm 2014
của Việt Nam quy định về việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục
con sau khi ly hôn sau khi ly hôn như sau:
2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền
của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được
thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền
lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện
vọng của con.

13


3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường
hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi

dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của
con [24, tr.45].
Quy định nêu trên thể hiện quyền ưu tiên nuôi con về phía người mẹ
trong trường hợp ly hôn - bảo đảm thiên chức làm mẹ của người phụ nữ,
trong giai đoạn nhạy cảm của cuộc đời. Đồng thời, quy định này cũng nhằm
bảo đảm cho đứa con được lớn lên trong vòng tay của người mẹ cho đến khi
đứa con đủ cứng cáp.
- Quyền được thăm nom con sau khi ly hôn
Mặc dù được ưu tiên song không phải khi nào phụ nữ khi ly hôn cũng
được toà án quyết định trao quyền nuôi con. Đó là bởi ngoài vấn đề thiên
chức làm mẹ, việc nuôi dưỡng một đứa trẻ còn đòi hỏi nhiều điều kiện khác
như về kinh tế, tinh thần, xã hội…Chính vì vậy, ở tất cả quốc gia, đều có
những trường hợp khi ly hôn toà án quyết định việc nuôi con thuộc về người
chồng chứ không phải người vợ.
Trong bối cảnh nêu trên, người vợ phải được hưởng quyền được thăm
nom con cái sau khi ly hôn. Đây là quy định mang tính chất phổ biến trong
luật hôn nhân gia đình của các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Cụ thể, ở Việt
Nam, khoản 3, Điều 82 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định: Sau khi ly hôn,
người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không
ai được cản trở [24, tr.45].
Quy định trên không những tạo cho người phụ nữ được thực hiện
quyền của mình mà còn bảo đảm cho người con được hưởng sự quan tâm,
chăm sóc của người mẹ cho sự tăng trưởng và phát triển của con cái.
- Quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn
14


Gắn với quyền được nuôi và thăm nom con chung, pháp luật của nhiều
quốc gia, trong đó có Việt Nam, còn quy định quyền yêu cầu thay đổi người
trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn. Cụ thể, theo khoản 1, Điều 84 Luật

HN&GĐ năm 2014 của Việt Nam thì sau khi ly hôn: trong trường hợp có yêu
cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều này.
Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con [24, tr.46].
Quyền này áp dụng cho cả vợ và chồng nhưng có ý nghĩa quan trọng
hơn với người vợ. Đó là bởi nó cho phép người phụ nữ không được trực tiếp
nuôi con khi có thỏa thuận về việc thay đổi hoặc người trực tiếp nuôi dưỡng
không còn đủ điều kiện chăm nom, nuôi dưỡng, giáo dục con thì có quyền
yêu cầu Tòa án xem xét thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn. Điều
này giúp người phụ nữ có cơ hội được chăm sóc con mình sau khi ly hôn
trong trường hợp trước đó họ không có đủ điều kiện để được nuôi dưỡng,
chăm sóc con của mình. Việc đó chỉ có thể thực hiện trên cơ sở pháp luật quy
định, bởi nếu không người phụ nữ, với tính chất yếu thế của mình, sẽ khó có
thể giành được quyền nuôi con với người chồng đã ly hôn.
- Quyền chia tài sản vợ chồng sau khi ly hôn
Tài sản chung là một vấn đề cốt lõi cần giải quyết trong các vụ việc ly
hôn. Trong thời kỳ phong kiến, người phụ nữ thường phải chịu thiệt thòi về
quyền này, vì họ không được xem là người làm ra của cải vật chất trong gia
đình, do chủ yếu làm các công việc nội trợ và chăm sóc con cái.
Tuy nhiên, trong thời kỳ hiện đại, các công việc nội trợ và chăm sóc
con cái cũng được xem là những công việc gián tiếp tạo ra tài sản chung của
vợ chồng trong hôn nhân. Thêm vào đó, do vị trí của người phụ nữ trong gia
đình trong xã hội hiện đại đã không còn bó hẹp ở các công việc bếp núc,
chăm sóc con cái, mà họ cũng tham gia lao động, sản xuất đóng góp vào kinh
15


tế gia đình, nên việc phân chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn là một
yêu cầu không thể thiếu.
Nhìn chung, từ cách tiếp cận hiện đại nêu trên, pháp luật hôn nhân gia
đình của hầu hết quốc gia trên thế giới, trong đó bao gồm Việt Nam, đều quy

định nguyên tắc tài sản chung của vợ chồng. Cụ thể, Điều 59 Luật HN&GĐ
năm 2014 nêu rõ:
1. Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì
việc giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì
theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng…
2. Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các
yếu tố sau đây:
a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;
b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát
triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi
như lao động có thu nhập;
c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh
và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.
3. Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không
chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản
bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán
cho bên kia phần chênh lệch.
4. Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ
trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định của Luật
này.

16


Trong trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài
sản chung mà vợ, chồng có yêu cầu về chia tài sản thì được thanh toán phần
giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ
chồng có thỏa thuận khác [24, tr.32,33].
Quy định nêu trên của pháp luật Việt Nam phản ánh rất rõ nguyên tắc

bình đẳng nam nữ về mặt tài sản trong hôn nhân và thể hiện sự công bằng,
hợp lý khi xét đến đóng góp giữa các bên. Thông thường, trừ trường hợp có
thỏa thuận, tài sản chung của vợ chồng được chia đôi và tính đến các yêu tố
sau: hoàn cảnh gia đình và của vợ, chồng; công sức đóng góp của vợ, chồng;
lao động của vợ, chồng trong gia đình; bảo vệ lọi ích chính đáng của mỗi bên
để tiếp tục lao động tạo thu nhập; lỗi vi phạm quyền, nghĩa vụ của mỗi bên.
Bên cạnh đó, khi chia tài sản chung của vợ chồng, pháp luật các nước,
bao gồm pháp luật Việt Nam còn đặt ra yêu cầu bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự
hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Điều
đó có nghĩa là nếu người vợ, khi ly hôn, mà phải nuôi con chưa thành niên,
con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao
động và không có tài sản để tự nuôi mình thì phải được nhận số tài sản chung
nhiều hơn so với người chồng.
- Quyền lưu cư
Nơi cư trú cũng là vấn đề quan trọng cần giải quyết trong các vụ ly
hôn. Điều này là bởi khi hôn nhân còn tồn tại, vợ chồng và con cái thường
sống cùng nhau dưới một mái nhà. Tuy nhiên, khi ly hôn, cách thức tổ chức
cuộc sống như vậy không còn phù hợp nữa, dẫn đến yêu cầu quyết định trong
hai vợ chồng ai là người được quyền tiếp tục sinh sống trên mái nhà xưa của
họ.
17


×