Bài tập lớn học kỳ - Luật hôn nhân và gia đình
MỤC LỤC
I. LỜI MỞ ĐẦU
Trong tác phẩm "Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước"
(1884), Ph. Ăngghen đã chỉ ra rằng trong ba hình thức bất bình đẳng nhất của lịch sử
nhân loại (bất bình đẳng chủng tộc, giai cấp, giới) thì quan hệ bất bình đẳng giữa nam
và nữ chính là nguồn gốc đích thực về mặt lịch sử và xã hội của những mâu thuẫn cơ
bản, chủ yếu trong quan hệ vợ chồng. Từ dó, ông đã xây dựng quan điểm về giải
phóng phụ nữ là muốn giải phóng phụ nữ thì phải xây dựng xã hội mới - xã hội không
còn áp bức bóc lột của người này với người khác, của giai cấp này với giai cấp khác.
Như vậy để xây dựng xã hội công bằng văn minh thì vấn đề quan trọng luôn được đặt
ra là phải giải phóng phụ nữ, phải đảm bảo cho phụ nữ được bình đẳng với nam giới
trên mọi phương diện. Trên cơ sở đó vấn đề bảo vệ quyền của phụ nữ đã được nhiều
văn bản pháp lý quy định như: Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền 1948, Công ước về
các quyền kinh tế xã hội và văn hóa 1966, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và
chính trị 1966, Công ước về loại trừ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ 1979
(cedaw),... Những công ước đó đã được nhà nước ta thông qua. Bảo vệ quyền bình
Đỗ Thị Thanh Thúy - KT33D0021
Bài tập lớn học kỳ - Luật hôn nhân và gia đình
đẳng của phụ nữ cũng được ghi nhận trong các văn bản của nhà nước từ những bản
Hiến pháp 1946, 1959, 1986 đến Hiến pháp hiện hành 1992 và trong Luật hôn nhân
gia đình đầu tiên của nhà nước đến Luật hiện hành năm 2000. Pháp luật hôn nhân và
gia đình ngoài việc bảo vệ quyền bình đẳng giữa nam và nữ, giữa vợ và chồng còn
bảo vệ quyền làm mẹ của người phụ nữ, bảo vệ quyền lợi của bà mẹ trong trường hợp
ly hôn. Trong khuôn khổ bài tiểu luận của mình tôi sẽ không đi vào việc bảo vệ quyền
của phụ nữ trong Luật hôn nhân và gia đình mà chỉ đi sâu vào vấn đề "Bảo vệ quyền
của phụ nữ trong việc ly hôn" để có thể hiểu rõ được những chính sách của pháp luật
dành cho phụ nữ trong việc ly hôn.
B. NỘI DUNG
I. Một số vấn đề liên quan
1. Khái niệm quyền phụ nữ
Theo định nghĩa thông thường thì quyền phụ nữ được hiểu là điều mà pháp luật
hoặc xã hội công nhận cho họ được hưởng, được làm, được đòi hỏi.
1
Trong khoa học
luật, khái niệm về quyền phụ nữ chưa được làm sáng tỏ. Để tiếp cận khía niệm về
quyền phụ nữ chúng ta không thể tách rời nghiên cứu khái niệm về quyền con người.
Quyền con người: là những đặc quyền (quyền tự nhiên) của con người được pháp
luật côn nhận, điều chỉnh, do cá nhân con người nắm giữ trong mối liên hệ với nhà
nước và những cá nhân con người khác. Nội dung quyền con người được thể hiện
thông qua các quyền: quyền tự do dân chủ về chính trị, quyền dân sự và quyền kinh tế
xã hội.
2
Khái niệm quyền phụ nữ: trên cơ sở khái niệm quyền con người chúng tôi cho
rằng khái niệm quyền phụ nữ phải được nghiên cứu trong mối quan hệ khăng khít với
1
Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, Trung tâm từ điển học, 2003.
2
Viện thông tin khoa học xã hội, Trung tâm nghiên cứu quyền con người (1995) "Quyền con người trong thế giới hiện đại", Nhà in
viên thông tin hoa học xã hội
Đỗ Thị Thanh Thúy - KT33D0022
Bài tập lớn học kỳ - Luật hôn nhân và gia đình
con người. Quyền phụ nữ là khái niệm dùng để chỉ quyền con người của phụ nữ.
Phụ nữ là một nhóm xã hội đặc biệt dễ bị tổn thương, do đó việc xác định và ghi
nhận các quyền con người cho họ đặc biệt và bảo đảm trên cơ sở tiêu chí bình đẳng
cần thiết.
2. Bảo vệ quyền phụ nữ bằng pháp luật
Tiếp cận khái niệm “quyền con người” chúng ta nhận thấy, khi xét quyền con
người phải xuất phát từ mối quan hệ giữa cá nhân với nhà nước. Chính vì lẽ đó, quyền
con người, một mặt mang tính chất tự nhiên “quyền con người vốn có, không ai ban
tặng cho họ” nhưng mặt khác các đặc quyền “quyền tự nhiên” phải được pháp luật
chấp nhận thì mới trở thành “quyền con người”.
Như vậy, có nhiều phương thức để bảo vệ quyền con người, song phương thức
quan trọng và không thể thiếu ấy chính là việc bảo vệ quyền con người bằng pháp
luật. Theo đó, bảo vệ quyền con người nói chung và bảo vệ quyền phụ nữ bằng pháp
luật nói riêng trước hết phải hiểu được sự ghi nhận các quyền con người bằng pháp
luật và phải bảo đảm các quyền đó được thực hiện. Mặt khác do phụ nữ là một nhóm
xã hội đặc biệt, bởi vậy quyền phụ nữ phải được xem xét và ghi nhận dựa trên cơ sở
của những yếu tố đặc thù về giới, nghĩa là pháp luật ghi nhận quyền phụ nữ dựa trên
cơ sở của vấn đề bình đẳng giới. Chính vì vậy, bảo vệ quyền phụ nữ nói riêng, bảo vệ
quyền con người nói chung phải kể đến vai trò vô cùng quan trọng của Nhà nước. Nhà
nước ghi nhận các quyền con người, quyền phụ nữ và bảo đảm cho những quyền này
được thực hiện. đó chính là nội dung của bảo vệ quyền phụ nữ bằng pháp luật.
Nếu như hệ thống pháp luật nước ta dưới chế độ cũ đều thực hiện nguyên tắc bất
bình đẳng giữa nam và nữ, giữa vợ và chồng khi điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và
gia đình. Quan niệm “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” đã ăn sâu trong tư tưởng
người đàn ông trong gia đình phong kiến Việt Nam bao đời nay, lễ giáo phong kiến,
thuyết “tam tòng” đã cột chặt người phụ nữ vào người đàn ông, do đó quyền bình
đẳng của người phụ nữ không hề được biết đến. Phải tới hệ thống pháp luật của nhà
nước ta từ sau Cách mạng tháng 8/1945 với việc xây dựng pháp luật theo hướng “nam
nữ bình đẳng” thì quyền lợi của người phụ nữ mới được bảo đảm.
Trên cơ sở đó Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 (Luật HNGĐ 2000) tiếp tục kế
thừa và phát triển những quy định của Luật hôn nhân và gia đình những thời kỳ trước
Đỗ Thị Thanh Thúy - KT33D0023
Bài tập lớn học kỳ - Luật hôn nhân và gia đình
về bảo vệ quyền của phụ nữ không chỉ trong gia đình, trong quan hệ giữa vợ chồng
mà cả khi đã ly hôn.
II. BẢO VỆ QUYỀN CỦA PHỤ NỮ TRONG VIỆC LY HÔN
Ly hôn là một hiện tượng xã hộ đã nảy sinh từ rất sớm trong xã hội có giai cấp:
"Ly hôn là chấm dứt quan hệ hôn nhân do Toà án công nhận hoặc quyết định theo yêu
cầu của vợ hoặc của chồng hoặc cả hai vợ chồng" (Khoản 8 Điều 8 Luật HNGĐ
2000). Theo quan điểm của chủ nghĩa Mac-Lênin, ly hôn là một mặt của quan hệ hôn
nhân, nó là mặt trái, mặt bất bình thường, mặt không thể thiếu được của quan hệ hôn
nhân và gia đình. Thực hiện quyền tự do hôn nhân của cá nhân bao gồm quyền tự do
kết hôn nhằm xác lập quan hệ vợ cồng trước pháp luật và quyền tự do ly hôn nhằm
chất dứt quan hệ vợ chồng trước pháp luật, khi đời sống tình cảm yêu thương giữa vợ
chồng đã hết, mâu thuẫn trong gia đình sâu sắc, mục đích của hôn nhân nhằm tạo lập
cho xã hội những gia đình đã không thể đạt được.
Hệ thống pháp luật hôn nhân và gia đình của nước ta quy định vấn đề ly hôn chính
đáng của vợ chồng vừa quy định giải quyết ly hôn có lý, có tình. Luật HNGĐ 2000
liên quan đến việc giải quyết vấn đề ly hôn của người phụ nữ ngoài những quyền lợi
bình đẳng giữa vợ chồng trong việc ly hôn (vợ chồng bình đẳng về quyền yêu cầu ly
hôn, quyền cấp dưỡng sau ly hôn, quyền phân chia tài sản chung, quyền thăm nom
con sau khi ly hôn,...) đã dự liệu về căn bản các "tình huống" thực tế người phụ nữ cần
được bảo vệ: người phụ nữ được nuôi con chung nếu con còn nhỏ dưới 3 tuổi; không
áp dụng quy định về ly hôn, giải quyết ly hôn đối với trường hợp người vợ đang có
thai mà người chồng xin ly hôn; giải quyết việc chia tài sản chung theo nguyên tắc
"ưu tiên" nhằm bảo vệ quyền lợi cho người phụ nữ.
1. Về quyền yêu cầu ly hôn
Khác với pháp luật phong kiến, luật hôn nhân và gia đình Việt Nam đảm bảo
nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, tiến bộ ghi nhận quyền tự do ly hôn cho cả hai phía
vợ chồng. Quyền ly hôn là quyền nhân thân gắn liền với nhân thân của vợ, chồng; chỉ
có vợ hoặc chồng hay cả hai vợ chồng mới có quyền yêu cầu ly hôn. Theo đó, vợ
chồng bình đẳng trong việc yêu cầu tòa án chấm dứt quan hệ hôn nhân. Đảm bảo
quyền yêu cầu ly hôn của người vợ là xóa bỏ áp bức đối với phụ nữ: "Người ta không
thể là người dân chủ và xã hội chủ nghĩa nếu ngay từ bậy giờ không đòi quyền hoàn
Đỗ Thị Thanh Thúy - KT33D0024
Bài tập lớn học kỳ - Luật hôn nhân và gia đình
toàn tự do ly hôn, vì thiếu quyền tự do ấy là một sự ức hiếp lớn đối với phụ nữ. Tuy
hoàn toàn chẳng khó khăn gì mà không hiểu được rằng khi ta thừa nhận cho phụ nữ
tự do bỏ chồng thì không phải là ta khuyên tất cả họ bỏ chồng."
3
Ly hôn là mặt trái của hôn nhân nhưng là mặt không thể thiếu được bởi vì khi
quan hệ giữa vợ, chồng trở nên mâu thuẫn họ không còn tình cảm với nhau nữa thì
việc kéo dài tình trạng hôn nhân đó không còn ý nghĩa gì nữa. Đặc biệt đối với người
vợ thì tình trạng hôn nhân như vậy chính là sự hành hạ, dày vò về mặt tinh thần mà họ
không dễ gì vượt qua. Chính vì vậy, đảm bảo quyền tự do ly hôn cho cả phía người vợ
thực chất chính là góp phần giải phóng phụ nữ. Khoản 1 Điều 85 Luật HNGĐ 2000
quy định: "Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Toà án giải quyết việc ly
hôn."
Đảm bảo bình đẳng về quyền yêu cầu ly hôn của vợ, chồng, Luật HNGĐ 2000
còn ghi nhận: Trong trường hợp một trong hai bên vợ chồng bị tòa án tuyên bố mất
tích thì người còn lại có quyền yêu cầu tòa án giải quyết việc ly hôn. Theo điểm b
Mục 8 Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP của hội đồng Thẩm phán ngày 23/12/2000
quy định:
" B. Theo quy định tại khoản 2 Điều 89 thì: "trong trường hợp vợ hoặc chồng
của người bị Toà án tuyên bố mất tích xin ly hôn thì Toà án giải quyết cho ly hôn".
Thực tiễn cho thấy có thể xảy ra hai trường hợp như sau:
B.1. Người vợ hoặc người chồng đồng thời yêu cầu Toà án tuyên bố người
chồng hoặc người vợ của mình mất tích và yêu cầu Toà án giải quyết cho ly hôn.
Trong trường hợp này nếu Toà án tuyên bố người đó mất tích thì giải quyết cho ly
hôn; nếu Toà án thấy chưa đủ điều kiện tuyên bố người đó mất tích thì bác các yêu
cầu của người vợ hoặc người chồng.
B.2. Người vợ hoặc người chồng đã bị Toà án tuyên bố mất tích theo yêu cầu
của người có quyền, lợi ích liên quan. Sau khi bản án của Toà án tuyên bố người vợ
hoặc người chồng mất tích đã có hiệu lực pháp luật thì người chồng hoặc người vợ
của người đó có yêu cầu xin ly hôn với người đó. Trong trường hợp này Toà án giải
quyết cho ly hôn.
B.3. Khi Toà án giải quyết cho ly hôn với người tuyên bố mất tích thì cần chú ý
3
Ly hôn - về một sự biếm họa của chủ nghĩa Mác và về chủ nghĩa kinh tế đế quốc, toàn tập, tập 30, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva 1981,
tr. 163
Đỗ Thị Thanh Thúy - KT33D0025
Bài tập lớn học kỳ - Luật hôn nhân và gia đình
giải quyết việc quản lý tài sản của người bị tuyên bố mất tích theo đúng quy định tại
Điều 89 Bộ luật dân sự."
Có thể hiểu rằng, quy định này góp phần bảo vệ quyền tự do ly hôn của người phụ
nữ toàn diện hơn. Thực tế, có nhiều trường hợp người chồng bỏ đi, rũ bỏ mọi trách
nhiệm với vợ con một thời gian sau đó lại trở về. Người phụ nữ một mình phải gánh
vác công việc gia đình, nuôi dạy con cái. Như vậy, nếu không cho người phụ nữ ly
hôn là không công bằng đối với họ. Vì thế quy định này cũng góp phần ngăn ngừa
những hành vi vô trách nhiệm đối với vợ con của một số những ông chồng, đảm bảo
quyền và lợi ích hợp pháp cho người phụ nữ.
Trên cơ sở đảm bảo quyền tự do ly hôn của vợ chồng, những hành vi "cưỡng ép"
vợ, chồng ly hôn cũng không được chấp nhận: " Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ
50.000 đồng đến 200.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây: Cưỡng ép
người khác kết hôn, ly hôn bằng cách hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh thần hoặc
bằng thủ đoạn khác" (Điều 7 Nghị định 87/2001/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình).
Có thể nói, quy định về đảm bảo sự bình đẳng của vợ, chồng đối với quyền yêu
cầu ly hôn theo Luật HNGĐ 2000 đã thực sự giải phóng người phụ nữ, khác hẳn với
các căn cứ ly hôn trong pháp luật của Nhà nước phong kiến chỉ bảo vệ quyền ly hôn
của người chồng.
Luật HNGĐ 2000 không đặt ra điều kiện ngăn cấm quyền yêu cầu ly hôn của vợ
chồng tuy nhiên, xuất phát từ nguyên tắc bảo vệ bà mẹ, trẻ em, bảo vệ quyền lợi chính
đáng của người vợ và con chưa thành niên, phụ nữ có thai, thai nhi, cũng là bảo vệ lợi
ích của xã hội, khoản 2 Điều 85 Luật HNGĐ 2000 đã quy định: "Trong trường hợp vợ
có thai hoặc đang nuôi con dưới mười hai tháng tuổi thì chồng không có quyền yêu
cầu xin ly hôn." Khoa học pháp lý gọi đây là trường hợp hạn chế quyền yêu cầu ly
hôn của người chồng. Theo quy định này người chồng không được yêu cầu ly hôn
(với tư cách là nguyên đơn) trong trường hợp: người vợ đang có thai hoặc đang nuôi
con dưới 12 tháng tuổi, dù người vợ có thai với ai hoặc đứa con sinh ra là con của
người nào. Trường hợp người vợ có thai mà đã bị sảy thai hoặc sau khi sinh con bị
chết thì người chồng không bị hạn chế quyền ly hôn.
Cũng theo quy định tại khoản 2 Điều 85 Luật HNGĐ 2000 thì trường hợp hạn chế
Đỗ Thị Thanh Thúy - KT33D0026