Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Đề bài: Phân tích thực trạng phân hóa giàu nghèo ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (527.9 KB, 18 trang )

Họ tên: Tăng Tùng Lâm.
Lớp: XH15C.
MSSV: 124D1031962.

MÔN: CÁC VẤN ĐỀ XàHỘI ĐƯƠNG ĐẠI.
Đề bài: Phân tích thực trạng phân hóa giàu nghèo ở Việt Nam.
Bài làm
Trong 10 năm gần đây (2002 ­ 2012), Việt Nam đã đạt được những thành 
tựu đáng khích lệ trên tất cả các lĩnh vực: Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân  
hàng   năm   trong   giai   đoạn   này   là   6,5%,   tỷ   lệ   nghèo   đã   giảm   mạnh   từ 
22,3% năm 2002 xuống còn 11,1% năm 2012. Đời sống của các hộ gia đình đã 
được cải thiện, thu nhập bình quân đầu người tăng lên nhanh chóng. Mặc dù 
thu nhập của mọi tầng lớp dân cư, các địa phương, các vùng lãnh thổ  và khu 
vực đều tăng lên, nhưng sự  gia tăng này lại diễn ra theo các tốc độ  và chiều 
hướng khác nhau. Điều này đã dẫn đến sự  gia tăng chênh lệch giàu ­ nghèo 
trong từng địa phương, từng khu vực cũng như trên phạm vi cả nước. Cụ thể 
nếu năm 2002 hệ  số  chênh lệch thu nhập giữa 20% dân số  thuộc nhóm giàu  
so với 20% dân số  ở  nhóm nghèo của Việt Nam là 8,1 lần, đến năm 2012 thì 
hệ  số  này là 9,4 lần. Với tốc độ  gia tăng khoảng cách giàu nghèo bình quân 
1,6% năm như  hiện nay, nếu không có các chính sách điều chỉnh hợp lý thì 
Việt Nam sẽ  nhanh chóng bước vào ngưỡng bất bình đẳng cao. Điều này 
không những sẽ  gây ra sự bất lợi về tăng trưởng kinh tế  mà còn ảnh hưởng  
tiêu cực đến quá trình phát triển bền vững, đặc biệt là trong bối cảnh hội  
nhập quốc tế sâu rộng như hiện nay. 

1


1. Hệ số chênh lệch thu nhập giữa thành thị nông thôn đang được rút  
ngắn, nhưng mức chênh lệch tuyệt đối lại đang tăng lên.
Ở giai đoạn 1992 ­ 1998, tăng trưởng về chi tiêu bình quân của người dân 


sống  ở  khu vực thành thị  gấp đôi người dân  ở  khu vực nông thôn, cụ  thể  từ 
năm 1992 đến 1998 mặc dù chi tiêu bình quân đầu người  ở  nông thôn tăng 
30% (trung bình mỗi năm tăng 5,4%) nhưng  ở  thành thị  tăng 61% (trung bình  
9,9%/năm), dẫn đến mức sống của người dân ở  hai khu vực có sự  khác biệt 
lớn. Nguyên nhân chủ yếu là  trong giai đoạn này phần lớn các loại hình dịch 
vụ, các doanh nghiệp, khu chế  xuất chỉ tập trung phát triển ở  các khu đô thị.  
Trong khi đó  ở  vùng nông thôn chủ  yếu là sản xuất nông nghiệp, gặp nhiều 
rủi  ro thiên tai  và những diễn biến bất lợi về  giá cả  cho sản xuất nông 
nghiệp. Mặt khác khả năng tiếp cận các cơ hội, việc làm tốt của người nông  
dân  thấp. Hậu quả là khoảng cách giữa thành thị với nông thôn đã nới rộng ra  
trong thời kỳ này từ 1,8 lần lên 2,2 lần.
Trước nguy cơ  gia tăng khoảng cách giữa thành thị  ­ nông thôn, chính 
sách công nghiệp hóa đất nước đã hướng sự  chú ý vào khu vực nông thôn. 
Trong thời gian gần đây, hàng loạt các khu công nghiệp, khu chế  xuất được  
xây dựng  ở  khu vực nông thôn, tạo ra nhiều công ăn việc làm cho lao động  
nhàn rỗi trong nông nghiệp và góp phần cải thiện thu nhập cho các hộ  gia  
đình trong khu vực. Điều này được thể hiện một cách rõ nét nhất qua chỉ tiêu 
thu nhập bình quân đầu người một tháng của từng khu vực thành thị, nông 
thôn  ở  giai đoạn 2002 – 2012. Nếu năm 2002 thu nhập bình quân đầu người  
một tháng  ở  nông thôn là 275,1 nghìn đồng thì đến năm 2012 là 1579,4 nghìn 
đồng (gấp 5,74 lần so với năm 2002); còn  ở  khu vực thành thị  thu nhập bình  
quân đầu người một tháng năm 2012 là 2989,1 nghìn đồng gấp 4,80 lần so với  
năm 2002 (622,1 nghìn đồng). Mặc dù thu nhập của thành thị  vẫn cao hơn  ở 
nông thôn nhưng tốc độ  tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người qua các  
2


năm  ở  giai  đoạn này của khu vực nông thôn luôn cao hơn khu vực thành 
thị.Hệ số chênh lệch thu nhập giữa thành thị với nông thôn giảm 17,4%; từ 2,3  
lần năm 2002 giảm xuống còn 1,9 lần năm 2012. Riêng thời kỳ  từ  2006 đến  

2008 hệ số này dường như chững lại, không có sự biến đổi là do tốc độ tăng 
thu nhập của 2 khu vực tương đương nhau. Tuy nhiên, mức chệnh lệch tuyệt  
đối về  thu nhập bình quân đầu người hàng tháng giữa hai khu vực lại đang 
ngày càng tăng lên. Nếu như năm 2002, chênh lệch này chỉ là 347 nghìn đồng,  
thì đến năm 2012, nó đã lên đến 1.409,7 nghìn đồng (Bảng 1).
Bảng 1:Thu nhập bình quân đầu người 1 tháng chia theo khu vực thành 
thị ­ nông thôn ở Việt Nam thời kỳ 2002 ­ 2012
Năm

2002 2004

2006

2008

2010

2012

TNBQ ở thành thị (1.000 đ) 622,1 815,4 1058,4 1605,2 2129,5 2989,1
TNBQ ở nông thôn (1.000 đ) 275,1 378,1 505,7
Hệ số chênh lệch TT­NT 
2,3
2,2
2,1
(lần)
Chệnh lệch tuyệt đối TT­
347,0 437,3 552,7
NT (1.000đ)


762,2 1070,4 1579,4
2,1

2,0

1,9

843,0 1059,1 1409,7

 (Nguồn:Kết quả điều tra mức sống hộ gia đình ­Tổng cục Thống kê)
Số  liệu thống kê thời kỳ  này cũng chỉ  rõ: 60% dân số  có thu nhập thấp 
(thuộc 3 nhóm nghèo, cận nghèo và trung bình) chỉ  chiếm khoảng 30% tổng 
thu nhập của cả xã hội, mà đại bộ phận  trong số này sống ở nông thôn. Còn 
lại 40% dân số có thu nhập cao chủ yếu là người giàu có sống ở đô thị lại  sở 
hữu đến 70% tổng thu nhập của cả  nước. Để  rút ngắn khoảng cách giữa 
thành thị  và nông thôn, trong những năm gần đây Chính phủ  đã xây dựng và  
điều tiết các chính sách nhằm phát triển nông thôn và tạo điều kiện thuận lợi  
cho các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa bàn như: công  
nghiệp hóa – hiện đại hóa nông thôn, xây dựng nông thôn mới, các chính sách 
3


ưu đãi nhằm thu hút vốn đầu tư, xây dựng hành lang pháp lý thông thoáng để 
phát triển nông thôn... Vì vậy nhiều địa phương có sự chuyển dịch cơ cấu lao  
động từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Điều này đã góp phần tạo 
công ăn việc làm, tăng thu nhập và nâng cao đời sống của người dân nông 
thôn hơn.
2. Cơ  cấu thu nhập bình quân đầu người  ở  khu vực nông thôn thay  
đổi theo chiều hướng tiến bộ  đã làm thu nhập bình quân đầu người  ở  
khu vực này tăng lên, và giảm bớt hệ số chênh lệch so với thành thị

Bảng 2: Cơ  cấu thu nhập bình quân đầu người 1 tháng chia theo nguồn 
thu và khu vực thành thị ­ nông thôn thời kỳ 2002 ­ 2012
                                                                                Đơn vị: %
Nguồn 
Tiền 
thu
lương, 
Chung
Khu 
tiền 
vực
công
2002 100.0
2004 100.0
2006 100.0
Thành  2008 100.0
2010 100.0
thị
2012 100.0
2002 100.0
2004 100.0
2006 100.0
Nông 
2008 100.0
Thôn
2010 100.0
2012 100.0

Nông, 
Thươn

Lâm,  CN & 
g  Dịch vụ
Thủy  XD
nghiệp
sản
44.2
6.8
6.6
12.4
42.5
5.9
5.8
12.5
42.9
5.5
6.8
12.2
42.6
4.8
5.5
11.9
54.9
4.5
5.8
12.2
55.8
4.9
4.4
11.6
24.8

43.4
5.6
7.8
26.0
42.0
5.8
8.1
27.7
39.4
5.5
8.0
28.4
39.4
5.7
7.6
36.4
33.4
5.6
9.4
38.4
31.8
5.1
9.0

Khác
10.7
11.0
11.0
11.3
10.3

10.4
4.4
3.8
4.1
4.5
4.7
4.5

19.3
22.3
21.6
23.9
12.3
12.9
14.0
14.3
15.3
14.4
10.5
11.2

(Nguồn:Kết quả các cuộc điều tra MSHGĐ ­ Tổng cục Thống kê)
Bảng 2 đã chỉ ra rằng phần lớn nguồn thu nhập của người dân ở khu vực 
thành thị  là từ  tiền lương, tiền công (chiếm khoảng hơn ½ trong tổng thu  
nhập của thời kỳ  2010 ­ 2012) và thu nhập từ  các hoạt động sản xuất kinh 
4


doanh thương nghiệp, dịch vụ (chiếm khoảng 22% ­ 24% thu nhập). Còn thu 
nhập từ  hoạt động sản xuất nông, lâm­ thủy sản chỉ  chiếm từ  4,5%  đến 

6,8%. Ngược lại, với người dân  ở  nông thôn nguồn thu nhập từ  hoạt động 
sản xuất nông ­ lâm­ thủy sản, chiếm khoảng 40% tổng thu nhập ở giai đoạn 
2002 – 2008 và giảm xuống còn khoảng hơn 30% trong mấy năm gần đây.  
Bên cạnh đó thu nhập từ tiền lương, tiền công ở  khu vực nông thôn đã tăng 
mạnh trong giai đoạn này, chỉ chiếm 1/4 tổng các loại thu nhập ở những năm  
đầu của thập niên đầu tiên của thế  kỷ  21 và đến những năm đầu của thập  
niên thứ hai đã tăng đến gần 2/5 tổng các loại thu nhập. Bên cạnh đó tỷ lệ thu 
nhập từ  các hoạt động thương nghiệp và dịch vụ  cũng tăng lên đáng kể.  
Chính nhờ sự thay đổi cơ cấu thu nhập theo chiều hướng tiến bộ này (tăng tỷ 
trọng thu nhập từ tiền lương, tiền công, từ hoạt động thương mại, dịch vụ và  
giảm bớt tỷ  trọng thu nhập từ nông – lâm – thủy sản, khu vực có năng suất 
lao động thấp) đã làm cho thu nhập của các hộ gia đình nông thôn tăng nhanh 
hơn khu vực đô thị (5,74 lần so với 4,8 lần trong giai đoạn 2002­2012) và góp 
phần làm cho bất bình đẳng về thu nhập giữa thành thị với nông thôn giảm đi 
hay khoảng cách giàu nghèo giữa hai khu vực này được thu hẹp.    
3. Trong khi khoảng cách chênh lệch giàu/nghèo ở  khu vực thành thị  
đang có xu hướng giảm dần, thì ngược lại, ở khu vực nông thôn lại đang  
tăng dần đã làm cho chênh lệch giàu/nghèo trên phạm vi cả  nước có xu  
hướng gia tăng.
Nhìn một cách tổng quát, trên phạm vi cả  nước, bất bình đẳng về  thu 
nhập trong giai đoạn 2002­2012 diễn biến theo đường vòng cung. Ở đầu giai  
đoạn, nó liên tục tăng và tăng cao nhất vào năm 2008. Từ 2008 đến cuối giai  
đoạn lại giảm khá đều. Nên  ở  cuối thời kỳ, gần như tăng không đáng kể  so 
với đầu kỳ. Tuy nhiên, nếu xét theo từng khu vực thành thị  và nông thôn, thì 
nó lại diễn biến hoàn toàn trái ngược nhau.

5


Bảng 3: Hệ số Gini tính theo thu nhập chia theo khu vực thành thị ­ nông 

thôn ở Việt Nam thời kỳ 2002 – 2012 (Đơn vị: lần)
Năm
Khu vực

2002

2004

2006

2008

2010

2012

Thành thị

0.410 0.410

0.393

0.404

0.402

0.385

Nông Thôn


0.360 0.370

0.378

0.385

0.395

0.399

Chung cả nước 0.421 0.423

0.424

0.434

0.433

0.424

 Nguồn: Kết quả điều tra MSHGĐ các năm ­ Tổng cục Thống kê
Từ  năm 2002 đến năm 2010 hệ  số  Gini của thành thị  luôn cao hơn của  
nông thôn, nhưng đến năm 2012 đã có sự  “đổi ngôi”. Nghĩa là khu vực thành 
thị luôn có bất bình đẳng thu nhập cao hơn khu vực nông thôn. Tuy nhiên sự 
bất bình đẳng  ở  thành thị  trong giai đoạn này đã giảm một cách đáng kể  từ 
0,41 vào những năm 2002­ 2004 sau đó đến năm 2012 giảm xuống còn 0,385, 
tức giảm 6,1%. Trái lại ở khu vực nông thôn,  bất bình đẳng về thu nhập đang 
ngày càng gia tăng. Chỉ  trong vòng 10 năm hệ  số  Gini tăng từ  0,36 lên 0,399  
hay tăng 10,83%. Chính sự gia tăng bất bình đẳng ở khu vực nông thôn diễn ra 
nhanh chóng, dẫn đến năm 2012 chênh lệch giàu nghèo trong khu vực này trở 

lên nghiêm trọng hơn so với khu vực đô thị.
Bảng 4: Thu nhập bình quân đầu người một tháng ở khu vực thành thị và 
nông thôn chia theo 5 nhóm thu nhập của thời kỳ 2002 ­2012
Năm
Thu 
Nhóm  nhập 
TN
BÌNH 
QUÂN 
ĐẦU 
NGƯỜI 
6

So sánh 2012/2002 (lần)


1 tháng 
(nghìn 
đồng)
2002 2004
184,2 236,9

Nghèo
Cận 
324,1
nghèo
Trung 
459,8
bình
Khá

663,6
Thành  Giàu 1479,2
thị
Chênh 
lệch
8,0
Giàu/Ng
hèo
Nghèo 100,3
Cận 
159,8
nghèo
Trung 
217,7
bình
299,4
Nông  Khá
Giàu
598,6
Thôn
Chênh 
lệch
6,0
Giàu/Ng
hèo
Nghèo TT/Nghèo 
1,84
NT
Giàu TT/Giàu NT 2,47


2006
304

2008
453,2

2010 2012
632,6 951,5

5,17

437,3

575,4

867,8

1153,5

1672,2

5,16

616,1

808,1

1229,9

1611,5


2332,9

5,07

876,7
1914,1

1116,1 1722,2 2268,4 3198,3
2488,3 3752,4 4983,4 6794,4

4,82
4,59

8,1

8,2

8,3

7,9

7,1

131,2

172,1

251,2


330,0

450,2

4,49

215,1

287

415,4

568,4

817,8

5,12

297,6

394,4

583,1

820,5

1227,7

5,64


416,2
835,0

552,4
1122,5

828,7
1733,9

1174,6
2461,8

1788,9
3614,8

5,97
6,04

6,4

6,5

6,9

7,5

8,0

1,81


1,77

1,80

1,92

2,11

2,29

2,22

2,16

2,02

1,88

  (Nguồn: Kết quả điều tra MSHGĐ ­ Tổng cục Thống kê)    
Tuy nhiên, theo hệ  số  chênh lệch thu nhập giữa nhóm giàu với nhóm 
nghèo trong nội bộ  từng khu vực  ở  bảng 4 có thể  rút ra một số  điểm chính 
sau:
7


Thứ  nhất, sự  chênh lệch giàu nghèo  ở  khu vực thành thị   đang có  xu 
hướng giảm trong những năm gần đây. Từ năm 2002 đến năm 2008 thu nhập 
của người giàu luôn gấp hơn 8 lần thu nhập của người nghèo và mức chênh 
lệch này tăng khá chậm. Nhưng từ  năm 2008 đến năm 2010 mức chênh lệch 
này đã giảm tương đối nhanh từ 8,3 lần xuống 7,9 lần và đến 2012 thì giảm 

mạnh chỉ  còn 7,1 lần. Mặc dù sự  chênh lệch giàu nghèo  ở  nội bộ  khu vực  
thành thị vẫn còn tương đối cao nhưng nó đang diễn ra theo chiều hướng tích  
cực ­ giảm dần. Đồng thời thu nhập của các nhóm nghèo trong khu vực này 
ngày càng được cải thiện hơn, tốc độ tăng thu nhập của các nhóm nghèo cao  
hơn tất cả  các nhóm còn lại. Điều này đã tác động làm cho bất bình đẳng 
trong nội bộ khu vực thành thị giảm.
Thứ  hai, chênh lệch giàu nghèo  ở  khu vực nông thôn, diễn ra theo xu 
hướng trái ngược với khu vực thành thị.. Trong những năm đầu của giai đoạn  
2002 – 2012, hệ  số  chênh lệch thu nhập giữa 2 nhóm giàu ­ nghèo là hơn 6 
lần, thấp hơn hệ  số  này  ở  nội bộ  khu vực thành thị. Tuy nhiên, trong những 
năm gần đây các nhóm khá và nhóm giàu  ở  khu vực nông thôn càng trở  lên  
giàu hơn so với dân cư trong khu vực của mình, tốc độ tăng thu nhập của các  
nhóm này cũng nhanh hơn và cao hơn các nhóm nghèo khá nhiều. Chính điều 
này đã làm cho hệ  số  chênh lệch giàu nghèo tăng mạnh, từ  gấp 6 lần (năm 
2002) lên gấp 8 lần (năm 2012) cao hơn cả  ở khu vực thành thị. Nghĩa là bất  
bình đẳng về  thu nhập  ở  nội bộ  khu vực nông thôn ngày càng tăng và tăng  
nhanh. Nguyên nhân của sự gia tăng này có thể do tác động của công nghiệp 
hóa, hiện đại hóa nông thôn đã tạo ra nhiều công ăn việc làm và thu hút được  
nhiều lao động ở khu vực này, do đó nguồn thu nhập từ tiền lương, tiền công 
đã làm cho tổng thu nhập của hộ tăng lên. Đồng thời bảng 2 cũng cho biết có  
sự   chuyển dịch  mạnh về   cơ  cấu  thu nhập trong khu  vực  nông  thôn theo  
hướng tăng tỷ  trọng thu nhập từ  tiền lương, tiền công, giảm tỷ  trọng thu  
nhập từ nông, lâm, thủy sản. Mà thu nhập của nhóm giàu trong khu vực này 
chủ yếu là từ tiền công, tiền lương và một số nguồn thu khác như được đền  
8


bù do đất nông nghiệp bị  thu hồi vào hoạt động công nghiệp,... Bên cạnh đó 
thu nhập của các hộ  gia đình thuộc nhóm nghèo trong khu vực chủ yếu là từ 
nông, lâm nghiệp, thủy sản (chiếm khoảng 50% đến 60% tổng thu nhập của 

hộ). Sự  phát triển không đều của các vùng nông thôn trong cả  nước cũng là 
một nguyên nhân của tình trạng trên. Trong khi nhiều vùng nông thôn  ở  các 
khu vực đồng bằng đã có sự  phát triển khá mạnh, thì tại các vùng sâu, vùng 
xa, miền núi, vùng đồng báo các dân tộc ít người… trình độ phát triển còn rất 
thấp, người dân còn gặp nhiều khó khăn thiếu thốn, tỷ  lệ  hộ  nghèo còn rất 
cao. Đây chính là những lý do dẫn đến chênh lệch giàu nghèo trong nội bộ khu 
vực nông thôn ngày càng cao và tốc độ gia tăng mạnh. Sự gia tăng chênh lệch  
giàu/nghèo ở khu vực nông thôn, nơi chiếm gần 70% dân số  cả  nước đã làm  
cho tình trạng chệnh lệch giàu/nghèo của cả  nước ngày càng tăng lên, tuy 
không nhiều.  
Thứ  ba, sự  chênh lệch giữa thành thị  với nông thôn đang dần được rút 
ngắn lại. Tuy nhiên, nếu so sánh thu nhập trong cùng nhóm giàu hoặc cùng 
nhóm nghèo giữa hai khu vực này với nhau, cho thấy dù là người giàu hay 
người nghèo, thì thu nhập ở thành thị luôn cao gấp 2 lần thu nhập của các hộ 
gia đình cùng nhóm ở khu vực nông thôn. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng  
này là ở khu vực nông thôn phần lớn các hộ gia đình có thu nhập chủ yếu dựa 
vào hoạt động sản xuất nông nghiệp. Đồng thời nơi đây có tỷ  lệ  nghèo cao 
(năm 2012 là 22,1%), tập trung nhiều người nghèo (năm 2012 tỷ trọng người 
nghèo ở nông thôn chiếm 90,8% trong tổng số  người nghèo của cả  nước) và 
hơn một nửa số  họ  là người dân tộc thiểu số. Trong khi đó tỷ  lệ  nghèo của 
thành thị chỉ bằng ¼ tỷ lệ nghèo nông thôn (5,4% năm 2012) và tỷ trọng người  
nghèo chỉ  có 9,2% trong tổng số  nghèo. Do đó sự  chênh lệch thu nhập giữa  
nhóm nghèo thành thị  với nghèo nông thôn có xu hướng tăng lên. Năm 2002 
thu nhập của nhóm nghèo ở thành thị vẫn cao gấp 1,84 lần so với nhóm nghèo  
ở nông thôn, đến năm 2010 con số này là 1,92 lần và năm 2012 là 2,11 lần. Rõ 
ràng là, mặc dù đều thuộc nhóm có thu nhập thấp nhất nhưng khả năng thoát  
9


nghèo của người nghèo  ở  nông thôn ngày càng khó khăn hơn so với khu vực 

thành thị, thu nhập của họ rất thấp và tốc độ tăng thu nhập cũng rất chậm.
Như vậy, dựa trên thu nhập bình quân đầu người chung của hai khu vực 
thành thị  ­ nông thôn thì  thấy khoảng cách giữa hai khu vực này dường như 
đang rút ngắn. Nhưng khi so sánh trực tiếp giữa các nhóm giàu, nghèo của hai 
khu vực này với nhau, kết quả  cho thấy có sự  chênh lệch giàu nghèo tương  
đối lớn và ngày càng tăng. Điều này cho thấy sự khác biệt về mức sống giữa  
các nhóm dân cư, các tầng lớp xã hội và phân hóa giàu nghèo chung  ở  Việt 
Nam có xu hướng tăng lên.
4. Sự  gia tăng chênh lệch giàu nghèo  ở  Việt Nam thời kỳ  2002­2012  
chủ yếu là do sự phát triển không đồng đều trong nội bộ từng khu vực
Để  tìm ra được nguyên nhân gây ra chênh lệch giàu nghèo  ở  Việt Nam  
cũng như sự gia tăng của nó trong thời gian qua, có thể sử dụng chỉ số Theil L 
để  phân tích. Chỉ  số  Theil L cho phép phân tích bất bình đẳng chung do  ảnh  
hưởng bởi sự bất bình đẳng giữa các nhóm, các khu vực và trong nội bộ từng  
nhóm, từng khu vực. Đồng thời còn giúp phân tích biến động của nó theo thời  
gian.
Bảng 5: Phân tích tình trạng chênh lệch giàu nghèo  ở  nông thôn ­ thành 
thị theo chỉ số Theil L thời kỳ 2002 ­  2012
Năm
Chỉ tiêu

Năm

Sự chênh  
lệch  
2008/2002

Sự chênh lệch 2012/2008

2002


2008

2012

Theil L của TT

0,282

0,282

0,255

0

­0,027

Theil L của NT

0,208

0,246

0,270

+0,038

+0,024

Phân tích tình trạng phát triển không đồng đều

+0,023
Mức chênh lệch chung ở  0,293
0,316
0,311
Việt Nam
(100%) (100%) (100%) (100%)
0,067
0,06
0,045
Trong đó:
­0,007
a. Sự phát triển không  (22,87%) (18,99%) (14,47%) (­30,4%)
10

­0,005
(100%)
­0,015
(+300%)


đồng đều giữa NT và TT
b. Sự phát triển không 
+0,03
0,226
0,256
0,266
đồng đều trong nội  
(77,13%) (81,01%) (85,53%) (130,4%)
bộ từng khu vực


+0,01
(­200%)

 (Nguồn: Tác giả  tự  tính dựa trên bộ  số  liệu VHLSS năm 2002, 2008,  
2012)
Bảng 5 cho thấy đánh giá thực trạng chênh lệch giàu nghèo ở Việt Nam 
và cho từng khu vực nông thôn – thành thị  dựa trên chỉ  số  Theil L trong giai 
đoạn này cũng có cùng xu hướng giống như các chỉ số đã sử dụng phân tích ở 
trên. Đó là bất bình đẳng chung của Việt Nam trong cả thời kỳ dài 10 năm từ 
2002 đến 2012 có xu hướng tăng lên (tăng 6,14%), nhưng trong mấy năm gần 
đây đang có xu hướng chững lại và giảm dần. Nếu tách thời kỳ này thành hai  
giai đoạn thì chênh lệch giàu nghèo của hai giai đoạn này biểu hiện xu hướng  
phát triển trái ngược nhau, cụ  thể:  ở  giai đoạn 2002 – 2008 chênh lệch giàu 
nghèo tăng lên (tăng 7,85% hay tăng 0,023 lần) và giảm dần  ở thời kỳ 2008 ­ 
2012 (giảm 1,58% hay giảm 0,005 lần). Đối với từng khu vực cho thấy thành 
thị từ 2002 đến 2008 có mức độ bất bình đẳng lớn hơn nông thôn nhưng đến 
giai đoạn 2008 ­2012 thì ngược lại. Cũng trong thời kỳ  này mức độ  bất bình  
đẳng của thành thị  chững lại và giảm (giảm 9,6%), còn của nông thôn thì 
ngày càng tăng và tăng nhanh (tăng 29,81%).
Mặt khác, bảng 5 cũng cho biết sự gia tăng chênh lệch giàu nghèo ở Việt 
Nam của thời kỳ  này chủ  yếu là do sự  phát triển không đồng đều trong nội 
bộ  từng khu vực (giai đoạn 2002 ­2008 chiếm 130,4% và từ  2008 đến 2012 
chiếm 200%) Trái ngược hoàn toàn với 10 năm trước (thời kỳ  1993 – 2002)  
chênh lệch giàu nghèo tăng lên chủ yếu là do sự gia tăng chênh lệch thu nhập  
giữa   nông   thôn   với   thành   thị   hay   chính   là   do   sự   phát   triển   không   đồng 
đều giữa hai khu vực (chiếm 96% thời kỳ 1993 – 1998 và chiếm 107% thời kỳ 
1998 – 2002)[3].
11



Sự  gia tăng bất bình đẳng chung  ở  Việt Nam một cách khiêm tốn trong 
10 năm qua (chỉ  số  theil L tăng 0,018 lần và hệ  số  Gini tăng 0,003 lần) là do  
chịu sự tác động tổng hợp của hai yếu tố diễn ra trái chiều nhau. Một yếu tố 
tác động làm giảm và yếu tố  kia thì tác động làm tăng bất bình đẳng. Chính  
sự  tác động tổng hợp này đã triệt tiêu lẫn nhau làm cho bất bình đẳng trong  
thời kỳ này tăng lên một cách không đáng kể.
 Trước tiên là mức tăng bất bình đẳng chung chịu sự tác động ảnh hưởng  
tích cực của sự phát triển giữa hai khu vực nông thôn – thành thị ngày càng trở 
lên đồng đều hơn. Nói một cách khác là sự  phát triển không đồng đều giữa 
nông thôn với thành thị  ngày càng giảm từ  22,87% (năm 2002) xuống còn 
14,47% (năm 2012), nghĩa là khu vực nông thôn có sự  phát triển ngày càng 
đuổi kịp thành thị, dẫn đến khoảng cách chênh lệch giữa hai khu vực này càng 
được thu hẹp lại. Chính điều này đã tác động tích cực lên sự gia tăng bất bình 
đẳng của Việt Nam, nó kìm hãm sự  gia tăng và làm cho bất bình đẳng giảm 
30,4% (2008 so với 2002) và giảm 300% (2012 so với 2008). Tiếp theo mức  
gia tăng bất bình đẳng chung chịu sự  tác động tiêu cực của yếu tố  sự  phát 
triển không đồng đều trong nội bộ từng khu vực. Có thể nói  nguyên nhân chủ 
yếu gây ra sự  gia tăng bất bình đẳng chung  ở  Việt Nam trong thời kỳ  2002 
­2012 là do bất bình đẳng hay chênh lệch giàu nghèo trong nội bộ  từng khu  
vực vẫn còn rất cao và đặc biệt do sự gia tăng bất bình đẳng trong nội bộ khu  
vực nông thôn đã tác động làm cho bất bình đẳng chung tăng lên. Kết quả 
phân tích cho thấy 130,4% mức tăng lên của tình trạng phát triển không đồng  
đều của Việt Nam ở giai đoạn 2002 ­ 2008 và 200% ở giai đoạn 2008 ­ 2012 
là do gia tăng chênh lệch trong nội bộ từng khu vực. 
Kết quả  tính toán trong bảng 5 cũng cho thấy sự  phát triển không đồng 
đều trong nội bộ  từng khu vực chiếm khoảng 4/5 sự  bất bình đẳng về  thu 
nhập của cả nước và có xu hướng ngày càng tăng, từ 77,13% ( năm 2002) lên 
85,53% (năm 2012). Còn lại khoảng 1/5 sự  bất bình đẳng thu nhập của cả 
12



nước là do sự  phát triển không đồng đều giữa hai khu vực và có xu hướng 
giảm dần (giảm 32,84% hay 0,022 lần trong cả thời kỳ).
Các phân tích trên cho thấy, chênh lệch giàu nghèo trong hai khu vực 
thành thị ­ nông thôn ở Việt Nam thời kỳ 2002 ­2012 được thể hiện theo chiều 
ngược chiều nhau.  Ở  nông thôn chênh lệch giàu nghèo có xu hướng tăng lên 
rõ ràng và tăng nhanh, còn thành thị thì có xu hướng giảm dần và giảm chậm. 
Giai đoạn đầu thành thị  có chênh lệch giàu nghèo cao hơn nông thôn, giai 
đoạn sau thì ngược lại. Bất bình đẳng trong nội bộ từng khu vực, nhất là khu 
vực nông thôn giữ vai trò chính, còn bất bình đẳng giữa hai khu vực chỉ đóng  
góp một phần nhỏ gây nên sự bất bình đẳng của cả nước. Một phần nguyên 
nhân dẫn đến sự  gia tăng chênh lệch giàu nghèo  ở  khu vực nông thôn là do 
chịu sự tác động gián tiếp của quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa nông  
thôn. 
5. Những nguyên nhân chủ  yếu làm gia tăng phân hóa giàu nghèo  ở  
Việt Nam.
Trong thập niên vừa qua Chính phủ  đã dành một khoản ngân sách đáng 
kể cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng các vùng nông thôn trong công cuộc xây 
dựng nông thôn mới, xây dựng và phát triển các khu công nghiệp, khu chế 
xuất, các loại hình dịch vụ   ở  khu vực này. Tạo điều kiện thuận lợi cho các 
doanh nghiệp đầu tư  vào vùng nông thôn đặc biệt là các doanh nghiệp nước 
ngoài nhằm tạo công ăn việc làm cho lao động nhàn rỗi  ở  các địa phương.  
Chính vì vậy đã góp phần làm tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho người  
dân nông thôn. Điều này góp phần thu hẹp khoảng cách chênh lệch giữa thành 
thị ­ nông thôn. Nhưng lại gián tiếp gây ra sự  gia tăng chênh lệch giàu nghèo 
trong khu vực nông thôn nói riêng và trên phạm vi cả nước nói chung. Sự phát 
triển không đều của các vùng nông thôn trong cả  nước cũng là một nguyên 
nhân của tình trạng trên. Trong khi nhiều vùng nông thôn ở các khu vực đồng 
bằng đã có sự  phát triển khá mạnh, thì tại các vùng sâu, vùng xa, miền núi,  
13



vùng đồng báo các dân tộc ít người… trình độ phát triển còn rất thấp, người  
dân còn gặp nhiều khó khăn thiếu thốn, tỷ  lệ  hộ  nghèo còn rất cao. Chính 
sách đối với người nghèo, người dân tộc thiểu số, các vùng sâu, vùng xa chưa 
đầy đủ, toàn diện hoặc chưa phát huy được hiệu quả  cũng là một nguyên 
nhân của việc phân hóa giàu nghèo ở nông thôn chưa được cải thiện.
Nguyên nhân chủ quan:
Có thể nói rằng vấn đề giàu cụ thể ở nước ta thế nào vẫn cha được rõ vì 
thiếu số liệu chính thức. Đó là do chúng ta cha có chủ trưương kê khai tài sản 
và thu nhập. Kết quả  do công chúng tự  khai báo, nhưng thực tế  thì ít người 
khai báo đúng thu nhập của mình, người giàu khai báo ít đi để  trốn thuế  thu 
nhập, người nghèo khai báo ít hơn để được hưởng trợ cấp từ chính sách nhà 
nước...Tuy nhiên qua điều tra cũng thấy được nguyên nhân cơ bản để  không 
ít hộ giàu lên đó là:
+  Ở  nông thôn, người giàu hiện nay chủ  yếu do khả  năng thích  ứng 
nhanh với sản xuất kinh doanh. Họ  không chỉ  làm nông nghiệp mà còn làm 
thêm các nghề khác (làm dịch vụ, làm thủ công nghiệp, công nghiệp nhỏ, chế 
biến,  xay   xát...).  Đối   với các   hộ   giàu,   phần   thu  từ   sản   xuất   nông  nghiệp 
thường dùng cho chi tiêu sinh hoạt hàng ngày, còn phần thu từ các ngành nghề 
khác thì dùng cho việc mua sắm tài sản cố  định để  nâng cao mức sống hoặc 
để tích luỹ mở rộng sản xuất kinh doanh. Một bộ phận nhỏ các gia đình giàu 
lên nhờ  có người thân sống và làm việc  ở  nước ngoài. Bằng nguồn tài trợ 
không ít gia đình có điều kiện để  nâng cao mức sống hoặc đầu tư cho sản 
xuất   kinh   doanh,   tăng   thêm   thu   nhập.   Ngoài   ra   có   một   số   hộ   giàu   vì   có  
người thân tham gia công tác quản lý, lãnh đạo các cấp. Trong số  hộ  này, 
không loại trừ những hộ  giàu lên nhờ  khôn khéo hợp thức hoá những người 
thu nhập bất chính dưới đủ loại bổng lộc.

14



+  Ở  thành phố, phần lớn người giàu là  ở  lĩnh vực buôn bán và dịch vụ 
trong lĩnh vực sản xuất, số hộ giàu rất ít. Trong số hộ giàu lên nhờ buôn bán, 
có không ít người đã lợi dụng các kẽ hở của pháp luật để trốn thuế hoặc lẩn  
tránh các khoản nộp khác.  Ở  đây phải kể  đến một bộ  phận không nhỏ  các 
viên chức Nhà nước làm" dịch vụ tổng hợp" tại các công ty trách nhiệm hữu 
hạn, các trung tâm tư  vấn...Ngoài ra là các hành vi buôn lậu, trốn thuế, làm 
hàng  giả,   tham   nhũng   cực   kỳ   nguy  hiểm   cũng  tạo   nên  một  bộ   phận   cán 
bộ, viên chức giàu lên rất nhanh. 
+ Về  tay nghề, tính chất công việc, vị  trí  quyền lực: Tay nghề  cao,  
quyền lực càng lớn thì thu nhập càng lớn. Tất nhiên tay nghề  và tính chất 
công   việc   (đòi   hỏi   là   lao   động   chân   tay,   trí   óc   nhiều,   hay   độ   phức   tạp  
của công việc...) đều đòi hỏi trình độ, tri thức của người lao động được tích 
luỹ  lâu dài mới có được và những người sở  hữu chúng có thu nhập cao là 
đúng. Tuy nhiên địa vị  xã hội hay uy tín có thể  xuất phát từ tiềm lực kinh tế 
và hiện tượng người lạm dụng để làm giàu một cách bất chính thì sẽ làm cho 
sự phân hóa giàu nghèo ngày càng tăng vì thực sự dựa trên dựa trên quyền lực 
và địa vị  xã hội, tiềm lực kinh tế  để  làm giàu chính là bóc lột giá trị  của 
những người khác. Còn nguyên nhân cơ  bản của nghèo là: thiếu kiến thức  
làm ăn, thiếu vốn hoặc không có vốn, đông con, neo đơn thiếu sức lao động.
Bên cạnh đó thì:
+ Đối với thành thị: nguyên nhân nghèo là do có thể bị phá sản, đông con, 
thiếu sức lao động,  ốm đau, lời nhác, mắc các tệ  nạn xã hội, thiếu tri thức,  
trình độ dân trí thấp...
+ Đối với nông thôn: ngoài thiếu kiến thức làm ăn, không có vốn, nghèo 
còn do đông con, không có điều kiện làm việc (thiếu ruộng, vuờn, không đủ 
phương tiện sản xuất...), không có kinh nghiệm.... 

15



Tất cả  những nguyên nhân chủ  quan trên đã làm những người nghèo 
ngày càng nghèo thêm và những người giàu thì giàu thêm và tạo ra hố  ngăn 
giữa người giàu và người nghèo ngày càng rộng. Bên cạnh đó, những nguyên 
nhân khách quan càng làm cho sự  PHGN ngày càng tăng thêm và con người 
muốn điều chỉnh cũng khó được.
Nguyên nhân khách quan:
+ Nguyên nhân nổi bật là do nền kinh tế  nước ta đang trong tình trạng 
kém phát triển, thu nhập bình quân theo đầu người quá thấp, lại bị ảnh hởng  
bởi những hậu quả nặng nề của mấy chục năm chiến tranh liên miên tàn phá 
đất nước. Vị trí địa lí của nước ta bên cạnh mặt thuận lợi cho phát triển kinh 
tế  cũng gây nhiều khó khăn do hình thế trải dài, gây nên sự  cách biệt chênh 
lệch về phát triển kinh tế giữa các vùng lãnh thổ trong lịch sử. Nước ta lại bị 
ảnh hởng lớn bởi điều kiện tự  nhiên khắc nghiệt: thiên tai,  lũ lụt, hạn hán, 
sâu bệnh, mất mùa, đất đai cằn cỗi, diện tích canh tác ít, địa hình phức tạp 
(sở   hữu   ruộng   chua,   mặn...)   xa   xôi   hẻo   lánh,   giao   thông   đi   lại   không 
thuận tiện, cơ  sở  hạ  tầng kém luôn đe dọa và tước đi những thành quả  lao  
động, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp. 
+ Mặt khác, trong các yếu tố  mang tính tính lịch sử, truyền thống thì 
cũng có mặt tiêu cực, và tích cực  ảnh hởng đến sự  phân hoá giàu nghèo. Đó 
chính là sự  đè nặng của những truyền thống cổ  hủ, lạc hậu, cá nhân bị  hoà 
lẫn vào cộng đồng được duy trì theo cộng đồng cùng với quan niệm như "ai 
giàu ba họ, ai khó ba đời","an bần lạc đạo" hay câu "con vua rồi lại làm vua, 
con sãi ở chùa lại quét lá đa..." là triết lí một thời để an ủi người ta cam chịu 
đói nghèo, coi đó là sự thật hiển nhiên không thể thay đổi được. Chính vì vậy 
nó làm người dân trở nên nhụt chí, cam chịu trước số phận của mình, và làm 
kìm hãm sự  phát triển của đất nứơc. Nó tạo ra sự  trì trệ  nghèo nàn lạc hậu 
của nước ta nói chung, đặc biệt là người nghèo nói riêng.
16



+ Nguyên nhân thứ  ba là khi chúng ta chuyển đổi từ  cơ  chế  tập trung  
quan liêu bao cấp sang cơ  chế  thị  trờng thì những di chứng của chế  độ  bao  
cấp nh: bình quân, vừa đặc quyền, vừa đặc lợi vẫn sót lại trong ý thức con  
người, làm cho con người trở nên lười lao động, suy nghĩ không sáng tạo, 
năng động trong sản xuất. 
+ Môi trường pháp lý: hiện nay nhà nước ta đang trong giai đoạn hoàn 
thiện hệ thống pháp luật theo định hướng xã hội chủ  nghĩa chính vì vậy dễ 
nhận thấy sự bất  ổn định và nhiều khiếm khuyết. Nhiều đạo luật còn thiếu  
đang được bổ  sung. Những cái đó cũng cần được sửa đổi, hoàn thiện. Tính 
khả thi của nhiều đạo luật và văn kiện dưới luật vẫn còn yếu. Điều này dẫn 
đến còn nhiều khe hở tạo ra cơ hội, là mảnh đất cho  các hành động theo đúng 
pháp luật, làm giàu bất chính. Đây là một trong những vấn  đề  gay cấn nhất, 
có tác dụng tiêu cực, đẩy hiện tượng phân hoá giàu nghèo đôi khi trở thành 
không bình thường, thái quá trong giai đoạn hiện nay. 
+ Bên cạnh đó, đối với cả   ở  nông thôn hay thành thị, có một số  hộ  gia 
đình giàu lên nhờ  được thừa kế  một số  vốn lớn, hay có đất nằm trong khu  
quy hoạch, gần đường xá...
+   Do   cơ   chế   chính   sách   chưa   thoả   đáng:   trung   ương   cũng   như   địa  
phương chưa có chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng thoả đáng, nhất là các vùng 
núi cao, vùng sâu, vùng căn cứ kháng chiến cũ, thiếu các chính sách đồng bộ 
như: chính sách  ưu đãi, khuyến khích sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập, 
cung cấp dịch vụ y tế, giáo dục đào tạo, văn hoá cũng như chuyển giao công 
nghệ, tổ  chức chưa tốt việc chăm lo của cộng đồng xã hội đối với người 
nghèo.Các nguyên nhân trên tác  động qua lại lẫn nhau làm cho tình trạng 
nghèo đói trong từng vùng thêm trầm trọng, gay gắt khiến cho các hộ  nghèo 
khó khó có thể  vượt qua được nếu không có những chính sách và giải pháp 
riêng đối với các hộ nghèo và vùng nghèo.
17



Tóm lại, qua thực trạng Việt Nam nh hiện nay ta có thể  thấy hàng loạt  
những nguyên nhân dẫn đến sự  phân hóa giàu nghèo. Có rất nhiều nguyên 
nhân trực tiếp, gián tiếp, nguyên nhân chủ  quan, khách quan...và chúng tác 
động qua lại lẫn nhau và tạo nên vận may, cơ  hội của mỗi cá nhân, do vậy 
tạo nên sự  khác biệt chênh lệch trong thu nhập, tài sản và hàng loạt các mặt 
khác của cuộc sống tạo nên sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội.
Giải pháp cho vấn đề  phân hóa giàu nghèo giữa thành thị  ­ nông thôn và 
trong từng khu vực, nhất là khu vực nông thôn trong bối cảnh hội nhập quốc  
tế  sâu rộng như hiện nay là cần tiếp tục điều chỉnh các chính sách một cách 
phù hợp, xây dựng các chính sách phát triển nông thôn, chính sách với người 
nghèo thiết thực hơn theo hướng chú trọng nhiều hơn nữa đến các vùng kém 
phát triển, vùng sâu vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Bên cạnh việc 
thúc đẩy phát triển kinh tế   ở  khu vực nông thôn thì cũng cần quan tâm hơn  
nữa tới các vấn đề  về  an sinh xã hội, các chính sách liên quan đến những hộ 
gia đình có hoàn cảnh khó khăn để  có thể  phát triển khu vực nông thôn nói  
riêng và cả  nước nói chung toàn diện cả  về  kinh tế  và xã hội theo các mục 
tiêu thiên niên kỷ đã đề ra và phát triển một cách bền vững.  

18



×