Khóa luận tốt nghiệp Môn Luật đất đai
TinCanBan.Com
Giải thích từ ngữ
GPMB: giải phóng mặt bằng
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
SDĐ: Sử dụng đất
KT: Kinh tế
SXKD: Sản xuất doanh
UBND: Ủy ban nhân dân
NN: Nhà nước
BT: Bồi thường
QH, KHSDĐ: Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
HT: Hỗ trợ
LĐĐ: Luật đất đai
TĐC: Tái định cư
BQL: Ban quản lý
HTX: Hợp tỏc xó
GCNQSDĐ: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
HT&TĐC: Hỗ trợ và tái định cư
CNH: Công nghiệp hóa
HĐH: Hiện đại hóa
TN,MT&NĐ: Tài nguyên, môi trường, nhà đất
HTKT: Hỗ trợ kinh tế
Nguyễn Văn Chiến KT31H 025
Khóa luận tốt nghiệp Môn Luật đất đai
TinCanBan.Com
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU...........................................................................................................................3
NỘI DUNG................................................................................................................................7
Chương 1..........................................................................................................................................7
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ
NƯỚC THU HỒI ĐẤT VÀ PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ TÁI ĐỊNH CƯ KHI
NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT..........................................................................................................7
1.1. Khái niệm về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất..........................................7
1.1.1. Quan niệm về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất;.................................7
1.1.2. Mục đích, ý nghĩa của việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất...........10
1.2. Cơ sở của việc quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.................11
1.3. Khái quát lịch sử hình thành các quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất...................................................................................................................................................................14
1.3.1. Giai đoạn trước năm 1993..............................................................................................................14
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1993 đến nay......................................................................................................15
1.4. Thực tiễn pháp lý về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất của Trung Quốc và
bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam........................................................................................................17
1.4.1. Thực tiễn pháp lý về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất của Trung
Quốc...........................................................................................................................................................17
1.4.2. Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam.........................................................................................20
Chương 2........................................................................................................................................21
2.1. Thực trạng áp dụng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa
bàn thành phố Hà Nội....................................................................................................................................21
2.1.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của Hà Nội.......................................................21
2.1.2. Tình hình thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư...................................................22
2.2. Các nguyên tắc chung về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo quy định
của Luật đất đai năm 2003............................................................................................................................23
2.2.1. Về phạm vi và đối tượng được bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất...........................23
2.2.2. Nguyên tắc chung về chi trả bồi thường, hỗ trợ và tái định cư....................................................25
2.3. Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ về đất................................................................................................26
2.3.1. Nguyên tắc bồi thường, hỗ trợ về đất...........................................................................................26
2.3.2. Điều kiện để được bồi thường, hỗ trợ về đất.............................................................................28
2.3.3. Giá đất để tính bồi thường và chi phí đầu tư vào đất còn lại......................................................38
2.3.4. Bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất của hộ gia đình, cá nhân........................................................43
2.3.5. Về bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất của tổ chức......................................................................47
2.4. Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ về tài sản...........................................................................................47
2.4.1. Nguyên tắc bồi thường, hỗ trợ về tài sản.....................................................................................47
2.4.2. Bồi thường, hỗ trợ về nhà, công trình xây dựng trên đất.............................................................48
2.4.3. Bồi thường, hỗ trợ di chuyển mồ mả, công trình văn hoá, di tích lịch sử, nhà thờ, đền, chùa, am
miếu...........................................................................................................................................................50
2.4.4. Về bồi thường, hỗ trợ đối với cây trồng, vật nuôi.......................................................................51
2.5. Về các chính sách hỗ trợ di chuyển, ổn định đời sống, ổn định SX, chuyển đổi nghề nghiệp và tạo
việc làm cho người bị thu hồi đất.................................................................................................................55
2.5.1. Hỗ trợ di chuyển, ổn định đời sống, ổn định SX..........................................................................55
2.5.2. Hỗ trợ chuyển đổi nghề và tạo việc làm.......................................................................................55
2.6. Pháp luật về TĐC cho người bị thu hồi đất phải di chuyển chỗ ở.....................................................57
Nguyễn Văn Chiến KT31H 025
Khóa luận tốt nghiệp Môn Luật đất đai
TinCanBan.Com
2.6.1. Các nguyên tắc bố trí TĐC cho người bị thu hồi đất....................................................................57
2.6.2. Thực tế áp dụng các quy định về TĐC cho người bị thu hồi đất phải di chuyển chỗ ở trên địa
bàn TP Hà Nội...........................................................................................................................................59
Chương 3..........................................................................................................................................1
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ
KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT TRấN CƠ SỞ ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG ÁP DỤNG
TẠI HÀ NỘI.....................................................................................................................................1
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên
cơ sở đánh giá thực trạng áp dụng tại Hà Nội...............................................................................................1
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên cơ
sở đánh giá thực trạng áp dụng tại Hà Nội....................................................................................................2
3.2.1. Xác định và giải quyết hài hòa mối quan hệ lợi ích giữa Nhà nước, người sử dụng đất và
người hưởng lợi từ việc thu hồi đất trong việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất................................................................................................................................................................2
3.2.2. Tiếp tục sửa đổi, bổ sung các quy định về khung giá đất cho phù hợp với thực tế, theo đúng cơ
chế thị trường..............................................................................................................................................4
3.2.3. Xác lập cơ chế pháp lý cho doanh nghiệp dịch vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng hoạt động
......................................................................................................................................................................5
LỜI KẾT....................................................................................................................................6
PHỤ LỤC..................................................................................................................................8
Bảng tổng hợp tình hình thực hiện các dự án có liên quan đến giải phóng mặt bằng từ
năm 2005 đến năm 2009..................................................................................................................8
Tổng hợp kết quả thực hiện bồi thường, hỗ trợ và tái định cư năm 2009..........................10
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................13
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Hiện nay, Việt Nam đang tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành
một nước công nghiệp phát triển theo hướng hiện đại. Với những lợi thế của
Nguyễn Văn Chiến KT31H 025
Khóa luận tốt nghiệp Môn Luật đất đai
TinCanBan.Com
một thủ đô có bề dày lịch sử 1.000 năm tuổi, Hà Nội đang diễn ra quá trình công
nghiệp hóa, đô thị hóa mạnh mẽ. Hàng ngàn dự án đã và đang được triển khai
trên địa bàn thành phố Hà Nội với kế hoạch dự kiến thu hồi hàng vạn héc ta đất
canh tác ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của hàng chục nghìn hộ gia đình
nông dân. Công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng (GPMB), hỗ trợ, đào tạo
chuyển đổi nghề, bố trí công ăn việc làm mới cho người nông dân bị mất đất
sản xuất đang là những thách thức không nhỏ cho các cấp Uỷ Đảng và chính
quyền từ thành phố đến cơ sở. Thực tế giải quyết vấn đề này cho thấy đây là
công việc khó khăn, phức tạp nảy sinh nhiều tranh chấp, khi ếu kiện kéo dài và
dễ phát sinh thành những điểm nóng gây mất ổn định về chính trị. Nhận thức sâu
sắc được những khó khăn, thách thức của công tác bồi thường, GPMB, Hà Nội
đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, văn bản nhằm thực thi có hiệu quả
pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất phù hợp
với điều kiện, hoàn cảnh thực tế của thủ đô. Tuy nhiên trong điều kiện Hà Nội
mở rộng địa giới hành chính và triển khai nhiều dự án lớn để chào mừng Đại lễ
1.000 năm Thăng Long Hà Nội và phát triển Hà Nội trở thành một thủ đô hiện
đại, văn minh của một đất nước có dân số 100 triệu dân trong tương lai không xa
thì việc thực thi pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất trên địa bàn thủ đô vẫn còn bộc lộ nhiều thiếu xót, khiếm khuyết cần
được nghiên cứu để chỉ ra những nguyên nhân khách quan và chủ quan. Trên cơ
sở đó, kiến nghị, đề xuất với chính quyền thành phố Hà Nội những giải pháp
khắc phục nhằm đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án góp phần xây dựng Hà
Nội trở thành thủ đô văn minh, giàu đẹp đáp ứng với lòng tin yêu của đồng bào
cả nước và ban bè quốc tế. Với những lý do trên, em lựa chọn đề tài “Thực
trạng áp dụng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất trên địa bàn thành phố Hà Nội” làm khóa luận tốt nghiệp Đại học
Luật.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu nhằm đạt được những mục đích cơ bản sau đây:
Tập hợp, hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng các
quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất (sau đây
gọi là các quy định về bồi thường, GPMB);
Tìm hiểu những đặc điểm và nội dung cơ bản của mảng pháp luật về
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất;
Nguyễn Văn Chiến KT31H 025
Khóa luận tốt nghiệp Môn Luật đất đai
TinCanBan.Com
Đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất trong điều kiện, hoàn cảnh đặc thù của thủ đô Hà Nội;
Chỉ ra những thành công và những tồn tại, khiếm khuyết và nguyên nhân
của những hạn chế của việc áp dụng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố Hà Nội;
Đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; cũng như đưa ra những kiến nghị
nhằm nâng cao hiệu quả công tác thực thi pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố Hà Nội;
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đây là một đề tài có nội dung nghiên cứu rộng, phức tạp và giải quyết
nhiều yêu cầu trờn cỏc khía cạnh chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, tâm lý, tập
quán truyền thống v.v. Tuy nhiên trong khuôn khổ của một bản khóa luận tốt
nghiệp cử nhân luật, tác giả giới hạn đối tượng và phạm vi nghiên cứu ở những
nội dung cụ thể sau đây:
Nghiên cứu các quy định hiện hành về bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư khi Nhà nước thu hồi đất được đề cập trong Luật đất đai năm 2003 và các
văn bản hướng dẫn thi hành;
Nghiên cứu các quy định hiện hành của Uỷ ban nhân dân (UBND)
thành phố Hà Nội nhằm tổ chức triển khai pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố Hà Nội;
Nghiên cứu, đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố Hà Nội;
Nghiên cứu quan điểm, chủ trương, đường lối, chinh sách của
Đảng và Nhà nước ta về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất;
Nghiên cứu chủ trương, đường lối của Thành ủy Hà Nội về lãnh
đạo, chỉ đạo việc thi hành pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố Hà Nội v.v;
4. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết các yêu cầu mà đề tài đặt ra, trong quá trình nghiên cứu
khóa luận đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau đây:
Nguyễn Văn Chiến KT31H 025
Khóa luận tốt nghiệp Môn Luật đất đai
TinCanBan.Com
Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của Chủ nghĩa Mác Lê nin;
Bên cạnh đó, khóa luận còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể
sau:
(i) Phương pháp luận giải, phương pháp phân tích, phương pháp lịch sử
v.v
được sử dụng trong Chương 1 khi nghiên cứu một số vấn đề lý luận về
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ;
(ii) Phương pháp phân tích, phương pháp so sánh luật học, phương pháp
đối chiếu v.v v được sử dụng trong Chương 2 khi nghiên cứu pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và thực trạng áp dụng trên
địa bàn thành phố Hà Nội;
(iii) Phương pháp bình luận, phương pháp tổng hợp, phương pháp quy nạp
v.v v được sử dụng trong Chương 3 khi nghiên cứu một số giải pháp hoàn thiện
pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và kiến
nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố Hà Nội;
5. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mục lục, mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo,
khóa luận kết cấu gồm các chương sau:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất và pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất ;
Chương 2. Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất và thực trạng áp dụng trên địa bàn thành phố Hà Nội;
Chương 3. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả
thực thi pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
trên địa bàn thành phố Hà Nội;
Nguyễn Văn Chiến KT31H 025
Khóa luận tốt nghiệp Môn Luật đất đai
TinCanBan.Com
NỘI DUNG
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, TÁI
ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT VÀ PHÁP LUẬT
VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ
NƯỚC THU HỒI ĐẤT
1.1. Khái niệm về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất
1.1.1. Quan niệm về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất;
1.1.1.1. Khái niệm về bồi thường
Trong đời sống hàng ngày, “ bồi thường” là thuật ngữ được sử dụng trong
trường hợp một người có hành vi gây thiệt hại cho người khác và họ phải có
trách nhiệm bồi thường cho người bị thiệt hại do hành vi của mình gây ra;
Theo Từ điển tiếng Việt thông dụng: “Bồi thường” là “Đền bù những tổn
hại gây ra”;
Trong lĩnh vực pháp luật, trách nhiệm bồi thường được đặt ra khi một chủ
thể có hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại cho chủ thể khác trong xã hội.
Trong lĩnh vực pháp luật đất đai thuật ngữ bồi thường (hay đền bù) khi Nhà
nước thu hồi đất được đặt ra từ rất sớm. Nghị định số 151/TTg ngày 14/01/1959
của Hội đồng Chính phủ quy định Thể lệ tam thời về trưng dụng ruộng đất, tại
Chương II đã đề cập việc “Bồi thường cho người có ruộng đất bị trưng dụng”.
Tiếp đến Thông tư số 1792/TTg ngày 11/01/1970 của Thủ tướng Chính phủ về
quy định một số điểm tạm thời về bồi thường nhà cửa, đất đai, cây cối lõu
niờn, cỏc hoa màu cho nhân dân ở những vùng xây dựng kinh tế mở rộng thành
phố cũng đề cập vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Đặc biệt khi
Luật đất đai năm 1987 ra đời, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban
hành quyết định số 186/HĐBT ngày 31/05/1990 quy định về đền bù thiệt hại đất
nông nghiệp, đất có rừng khi chuyển sang sử dụng vào mục đích khác, thuật ngữ
“bồi thường” được thay thế bằng thuật ngữ “đền bù”. Thuật ngữ này tiếp tục
được sử dụng trong Luật đất đai năm 1993, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật đất đai năm 1998 và các nghị định hướng dẫn thi hành như Nghị định
Nguyễn Văn Chiến KT31H 025
Khóa luận tốt nghiệp Môn Luật đất đai
TinCanBan.Com
số 90/CP ngày 17/08/1994 của Chính phủ ban hành quy định về việc đền bù thiệt
hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi
ích quốc gia lợi ích công cộng; Nghị định số 22/1998/NĐCP ngày 22/04/1998
của Chính Phủ về đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất sử dụng vào mục
đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng… Tuy nhiên khi
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật đất đai năm 2001 được Quốc hội ban
hành, thuật ngữ “bồi thường” được sử dụng trở lại và tiếp tục xuất hiện trong
Luật đất đai năm 2003; Nghị định số 197/2004/NĐCP ngày 03/12/2004 của
Chính Phủ quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất,
Nghị định số 84/2007NĐCP ngày 25/05/2007 của Chính Phủ quy định bổ sung
về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền
sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai;
Theo Khoản 6 Điều 4 Luật đất đai 2003: “Bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất
bị thu hồi cho người bị thu hồi đất”. Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất có
một số đặc trưng cơ bản sau đây:
Bồi thường là trách nhiệm của Nhà nước nhằm bù đắp tổn thất
về quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất do hành vi thu hồi đất của
Nhà nước gây ra. Trách nhiệm này được quy định trong Luật đất đai;
Bồi thường là hậu quả pháp lý trực tiếp do hành vi thu hồi đất
của Nhà nước gây ra. Điều này có nghĩa là chỉ phát sinh sau khi có quyết định
hành chính về thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
Bồi thường được thực hiện trong mối quan hệ song phương giữa
một bên là Nhà nước (chủ thể có hành vi thu hồi đất) với bên kia là người chịu
tổn hại về quyền và lợi ích hợp pháp do hành vi thu hồi đất của Nhà nước gây
ra;
Căn cứ để xác định bồi thường là diện tích thực tế bị thu hồi;
thiệt hại thực tế về tài sản, cây cối, hoa màu trên đất và khung giá đất do Nhà
nước quy định tại thời điểm thu hồi đất;
Người sử dụng đất khi bị Nhà nước thu hồi đất muốn được bồi
thường về đất phải thỏa mãn các điều kiện do pháp luật quy định;
Người bị Nhà nước thu hồi đất không chỉ được bồi thường về đất
mà còn được bồi thường thiệt hại về tài sản trên đất và được hưởng các chính
Nguyễn Văn Chiến KT31H 025
Khóa luận tốt nghiệp Môn Luật đất đai
TinCanBan.Com
sách hỗ trợ, tái định cư của Nhà nước nhằm nhanh chóng ổn định đời sống và
sản xuất;
1.1.1.2. Khái niệm hỗ trợ, tái định cư
Bên cạnh thuật ngữ bồi thường, trong các văn bản pháp luật hiện hành
còn đề cập đến khái niệm hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Hỗ trợ,
tái định cư thể hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước và biểu hiện bản chất
“của dân, do dân và vỡ dõn” của Nhà nước ta nhằm hỗ trợ, chia sẻ khó khăn với
người bị thu hồi đất và giúp họ nhanh chóng ổn định cuộc sống. Vậy hỗ trợ, tái
định cư khi Nhà nước là gì?;
Theo khoản 7 Điều 4 Luật đất đai năm 2003: “Hỗ trợ khi Nhà nước thu
hồi đất là việc Nhà nước giúp đỡ người bị thu hồi đất thông qua đào tạo nghề
mới, bố trí việc làm mới, cấp kinh phí để di dời đến địa điểm mới”; [6, tr1]
Còn đối với khái niệm tái định cư thì Luật đất đai năm 2003 và các văn
bản hướng dẫn thi hành lại không đề cập cụ thể về khái niệm này. Hay nói cách
khác, pháp luật đất đai hiện hành chỉ đề cập đến thuật ngữ tái định cư mà không
giải thích cụ thể nội hàm của khái niệm “tỏi định cư” là gì ? Thậm chí trong các
cuốn từ điển tiếng Việt và từ điển Luật học, thuật ngữ này cũng chưa được
định nghĩa. Theo Nghị định số 197/2004/NĐCP ngày 03/12/2004 của Chính phủ
về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất thì tái định cư
được giải thích là: “Người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất theo quy định
tại Nghị định này mà phải di chuyển chỗ ở thì được bố trí tái định cư bằng một
trong các hình thức sau:
1. Bồi thường bằng nhà ở.
2. Bồi thường bằng giao đất ở mới.
3. Bồi thường bằng tiền để tự lo chỗ ở mới.” (Điều 4); [9, tr1]
Căn cứ vào quy định này và nội dung các quy định về bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất của Luật đất đai năm 2003 và các văn bản
hướng dẫn thi hành, chúng ta có thể hiểu: “Tỏi định cư là việc người sử dụng
đất được bố trí nơi ở mới bằng một trong các hình thức: bồi thường bằng nhà ở
mới hoặc bồi thường bằng giao đất ở hoặc bồi thường bằng tiền để tự lo chỗ ở
mới khi họ bị Nhà nước thu hồi đất ở và phải di chuyển chỗ ở”. [16, tr2]
Nguyễn Văn Chiến KT31H 025
Khóa luận tốt nghiệp Môn Luật đất đai
TinCanBan.Com
1.1.2. Mục đích, ý nghĩa của việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất
Thu hồi đất không chỉ làm chấm dứt quan hệ pháp luật đất đai (làm chấm
dứt quyền sử dụng đất của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất) mà
còn “đụng chạm” đến lợi ích hợp pháp của các bên có liên quan: Lợi ích của
người bị thu hồi đất; lợi ích của Nhà nước, của xã hội; lợi ích của người hưởng
lợi từ việc thu hồi đất (các nhà đầu tư, doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, cá nhân
…). Do vậy trên thực tế việc giải quyết hậu quả của việc thu hồi đất (thực chất
là xử lý hài hòa lợi ích kinh tế giữa cỏc bờn) gặp rất khó khăn, phức tạp. Việc
giải quyết tốt vấn đề bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
sẽ mang lại ý nghĩa to lớn trên nhiều phương diện;
1.2.1.1. Về phương diện chính trị
Là một nước nông nghiệp với khoảng 70% dân số là nông dân, vấn đề đất
đai ở Việt Nam có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và nhạy cảm. Các chính sách,
pháp luật về đất đai có ảnh hưởng rất lớn đến sự ổn định về chính trị. Điều này
có nghĩa là nếu chủ trương, chính sách pháp luật đất đai đúng đắn, phù hợp với
thực tiễn và được thực thi nghiêm túc sẽ góp phần vào việc duy trì và củng cố
sự ổn định chính trị. Ngược lại, sẽ làm phát sinh những điểm nóng tiềm ẩn nguy
cơ gây mất ổn định về chính trị. Một trong các chính sách, pháp luật về đất đai
được xã hội đặc biệt quan tâm đó là chính sách, pháp luật về bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; bởi lẽ mảng chính sách, pháp luật này ảnh
hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của người bị thu hồi đất. Trong
trường hợp bị thu hồi đất nói chung và thu hồi đất ở nói riêng, quyền và lợi ích
hợp pháp của người sử dụng đất trực tiếp bị xâm hại. Họ không chỉ mất quyền
sử dụng đất mà còn buộc phải di chuyển chỗ ở. Hậu quả là cuộc sống thường
nhật của họ bị đảo lộn. Với quan niệm truyền thống của người Việt Nam “cú
an cư mới lạc nghiệp” thì việc bị mất đất đai, nhà cửa thực sự là một “cỳ sốc”
đối với người bị thu hồi đất. Do vậy, họ phản ứng rất gay gắt, quyết liệt thông
qua việc khiếu kiện đông người, khiếu kiện vượt cấp, kéo dài nếu không được
bồi thường, tái định cư thỏa đáng. Các khiếu kiện về đất đai nói chung và khiếu
kiện về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất nói riêng tiềm
ẩn nguy cơ gây mất ổn định chính trị và dễ phát sinh thành các “điểm núng”; cho
nên việc giải quyết tốt vấn đề bồi thường, hỗ trợ, tái định cư là thực hiện tốt
chính sách an dân để phát triển kinh tế xã hội góp phần vào việc duy trì, củng cố
sự ổn định về chính trị.
1.2.1.2. Về phương diện kinh tế xã hội
Nguyễn Văn Chiến KT31H 025
Khóa luận tốt nghiệp Môn Luật đất đai
TinCanBan.Com
Thực tiễn cho thấy bồi thường, giải phóng mặt bằng luôn là công việc
khó khăn, phức tạp. Các dự án chậm triển khai thực hiện theo tiến độ đề ra có
nguyên nhân do công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng không nhận được sự
đồng thuận từ phía người dân. Xét dưới góc độ kinh tế, dự án chậm triển khai
thực hiện ngày nào là chủ đầu tư, các doanh nghiệp bị thiệt hại đáng kể về lợi
ích kinh tế do máy móc, vật tư, thiết bị bị “đắp chiếu”, người lao động không có
việc làm trong khi doanh nghiệp vẫn phải trả lương, trả chi phí duy trì các hoạt
động thường xuyên và trả lãi suất vay vốn cho Ngân hàng… Vì vậy, thực hiện
tốt công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất là điều
kiện để doanh nghiệp sớm có mặt bằng triển khai các dự án đầu tư góp phần
vào việc thúc đẩy tăng trưởng của nền kinh tế và nâng cao tính hấp dẫn của môi
trường đầu tư, kinh doanh ở nước ta. Hơn nữa, duy trì được tốc độ tăng trưởng
cao và bền vững sẽ có điều kiện để thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, góp
phần vào công cuộc “xúa đúi, giảm nghốo” và tạo tiền đề cho các bước phát
triển tiếp theo;
Về phía người sử dụng đất, thực hiện tốt bồi thường, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất sẽ giúp cho họ và các thành viên khác trong gia đình nhanh
chóng ổn định cuộc sống để tập trung sản xuất góp phần cải thiện và nâng cao
mức sống. Hơn nữa điều này cũn giỳp củng cố niềm tin của người bị thu hồi
đất vào đường lối, chủ trương, chính sách; pháp luật của Đảng và Nhà nước;
đồng thời loại trừ cơ hội để kẻ xấu lợi dụng, tuyên truyền, kích động quần
chúng nhân dân khiếu kiện, đối đầu với chính quyền nhằm gây mất ổn định tình
hình trật tự an toàn xã hội và làm đình trệ sản xuất;
1.2. Cơ sở của việc quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất
Các quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
được xây dựng dựa trên những cơ sở lý luận và thực tiễn chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất được
đặt ra dựa trên cơ sở quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo
hộ. Hiến pháp năm 1946 đã ghi nhận và bảo hộ quyền sở hữu tư nhân về tài
sản: “Quyền sở hữu về tài sản của công dân Việt Nam được bảo đảm” (Điều
12). Quyền này tiếp tục được khẳng định trong Hiến pháp năm 1992: “Cụng dõn
có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh
hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và các tài sản khác trong doanh nghiệp… Nhà nước
bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dõn” ( Điều 58) [5,
tr1]. Hơn nữa, Hiến pháp năm 1992 còn ghi nhận: “Tài sản hợp pháp của cá
Nguyễn Văn Chiến KT31H 025
Khóa luận tốt nghiệp Môn Luật đất đai
TinCanBan.Com
nhân, tổ chức không bị quốc hữu hóa. Trong trường hợp thật cần thiết vì lý do
quốc phòng, an ninh và vì lợi ích quốc gia, Nhà nước trưng mua hoặc trưng
dụng có bồi thường tài sản của cá nhân hoặc tổ chức theo thời giá thị trường…”
(Điều 23); [5, tr1]
Như vậy quyền sở hữu về tài sản hợp pháp của mọi cá nhân và tổ chức
đã được Hiến pháp ghi nhận và bảo hộ. Khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng
vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng thì toàn bộ
tài sản hợp pháp gắn liền với đất bị thu hồi do người sử dụng đất tạo ra được
xác định là tài sản hợp pháp của cá nhân và phải được bồi thường theo giá thị
trường. Đối với trường hợp người sử dụng đất bị thu hồi đất ở phải di chuyển
chỗ ở, Nhà nước thực hiện chính sách tái định cư cho các đối tượng này;
Thứ hai, xét về bản chất, Nhà nước ta do nhân dân lao động thiết lập nên,
đại diện cho ý chí, nguyện vọng và lợi ích của nhân dân. Nhà nước theo đuổi sứ
mạng cao cả và mang đầy tính nhân văn là phục vụ và chăm lo cho lợi ích, sự
phồn vinh của nhân dân. Đặt trong ý nghĩa đó, khi Nhà nước thu hồi đất ở của
người dân để sử dụng bất kì vào mục đích gì (cho dù sử dụng vào mục đích
quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và phát triển kinh tế) mà
họ phải di chuyển chỗ ở thì Nhà nước phải có bổn phận và nghĩa vụ bồi thường
và thực hiện việc tái định cư nhằm làm cho người sử dụng đất sớm ổn định
cuộc sống;
Thứ ba, xét về phương diện lý luận, thiệt hại về lợi ích của người sử
dụng đất là hậu quả phát sinh trực tiếp từ hành vi thu hồi đất của Nhà nước gây
ra. Hơn nữa trong điều kiện Nhà nước pháp quyền, mọi chủ thể trong xã hội bao
gồm Nhà nước, công dân, tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị xã hội… đều bình
đẳng với nhau trước pháp luật. Nước ta đang từng bước xây dựng một xã hội
văn minh và hiện đại nơi mà ở đó quyền lợi hợp pháp của mọi thành viên trong
xã hội phải được luật pháp tôn trọng và bảo vệ. Với cách hiểu như vậy, khi Nhà
nước thu hồi đất ở mà làm phương hại đến lợi ích hợp pháp của người sử dụng
đất thì Nhà nước không những có trách nhiệm bồi thường thiệt hại mà còn phải
thực hiện việc tái định cư cho họ;
Thứ tư, nước ta đã và đang xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) hướng
tới mục tiêu “dõn giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”
trong điều kiện chịu rất nhiều thách thức do quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
đem lại. Để tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức của xu thế toàn cầu hóa về
kinh tế, chúng ta phải biết phát huy nội lực, tinh thần đoàn kết dân tộc và khơi
Nguyễn Văn Chiến KT31H 025
Khóa luận tốt nghiệp Môn Luật đất đai
TinCanBan.Com
dậy lòng yêu nước, tính năng động, sáng tạo của mỗi người dân đóng góp vào sự
nghiệp chấn hưng đất nước. Điều này chỉ có thể thực hiện được khi Nhà nước
biết tôn trọng và bảo hộ những quyền lợi chính đáng của người dân. Đây cũng là
một lý do dẫn đến việc ra đời các quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất;
Thứ năm, vấn đề bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
được xây dựng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân về đất đai, Nhà nước giao đất
cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài;
Nhìn lại thành tựu 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước có thể
nhận thấy rằng những thành tựu này là kết quả của quá trình đổi mới tư duy mà
hạt nhân cơ bản là đổi mới tư duy về sở hữu tài sản. Để giải phóng mọi năng
lực sản xuất của người lao động, tạo ra một động lực mới cho sản xuất nông
nghiệp, Đảng ta đã rất sáng suốt khi lựa chọn và thực hiện việc đổi mới cơ chế
quản lý kinh tế trong nông nghiệp làm khâu đột phá cho toàn bộ quá trình cải
cách kinh tế với việc từng bước xác lập địa vị làm chủ của hộ gia đình, cá nhân
đối với đất đai thông qua việc giao đất cho họ sử dụng ổn định, lâu dài và mở
rộng các quyền năng cho người sử dụng đất. Như vậy, “kể từ đây quyền sử
dụng đất đã tách khỏi quyền sở hữu đất đai được chủ sở hữu đất đai chuyển
giao cho người sử dụng đất thực hiện và trở thành một loại quyền về tài sản
thuộc sở hữu của người sử dụng đất” hay nói cách khác “Quyền sở hữu đất đai
thuộc về toàn dân do Nhà nước đại diện, còn quyền sử dụng đất thuộc quyền sở
hữu của người sử dụng đất”. Chính nhờ việc tìm ra cách thức giao quyền sử
dụng đất cho người lao động trên cơ sở vẫn giữ nguyên chế độ sở hữu toàn dân
về đất đai nhằm duy trì sự ổn định về chính trị xã hội tạo tiền đề cho việc phát
triển kinh tế mà Việt Nam và Trung Quốc “gặp nhau” ở điểm chung này và hai
nước đã thực hiện thành công cuộc cải cách kinh tế mà không gặp thất bại như
Liờn xụ (cũ) và các nước XHCN Đông Âu trước đây. Đánh giá về vấn đề này,
PGS.TS. Phạm Duy Nghĩa cho rằng: “Sỏng tạo ra khái niệm “quyền sử dụng
đất” cả người Việt Nam và người Trung Quốc dường như đã tạo ra một khái
niệm sở hữu kép, một khái niệm sở hữu đa tầng: đất đai thuộc sở hữu toàn dân,
song quyền sử dụng lại thuộc về cá nhân hay tổ chức”. Cùng chung quan điểm
này, GS.TSKH. Đặng Hùng Võ, nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi
trường nhận xét: “Chế độ sở hữu toàn dân về đất đai của nước ta chỉ mang tính
thuật ngữ… Quyền lợi và nghĩa vụ của người sử dụng đất ở nước ta khụng
khỏc so với quyền lợi và nghĩa vụ của chủ sở hữu đất đai ở các nước”; [14, tr2]
Như vậy, bằng việc pháp luật ghi nhận và bảo hộ quyền của người sử
dụng đất thì dường như người sử dụng đất ở nước ta là người “sở hữu” một
Nguyễn Văn Chiến KT31H 025
Khóa luận tốt nghiệp Môn Luật đất đai
TinCanBan.Com
loại quyền về tài sản đó là “quyền sử dụng đất”. Bởi lẽ, người sử dụng đất
được pháp luật trao cho các quyền năng liên quan đến quyền sử dụng đất: quyền
chuyển nhượng, quyền chuyển đổi, cho thuê, cho thuê lại, tặng cho, thừa kế
quyền sử dụng đất; quyền thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng
đất. Một khi pháp luật đã thừa nhận quyền sử dụng đất là một loại quyền về tài
sản của người sử dụng đất, thì khi Nhà nước thu hồi đất nói chung (có nghĩa là
người sử dụng đất bị mất quyền sử dụng đất do hành vi thu hồi đất của Nhà
nước gây ra) và thu hồi đất ở nói riêng, Nhà nước phải bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư cho người sử dụng đất;
1.3. Khái quát lịch sử hình thành các quy định về bồi thường, hỗ trợ và
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
1.3.1. Giai đoạn trước năm 1993
Trước năm 1987, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, ở nước
ta pháp luật đất đai chưa phát triển. Trong thời kỳ này chỉ có một số văn bản quy
phạm pháp luật về đất đai mà tiêu biểu là Nghị định số 151/TTg ngày
14/01/1959 của Hội đồng Chính phủ quy định Thể lệ tạm thời về trưng dụng
ruộng đất, tại Chương II đã đề cập việc “Bồi thường cho người có ruộng đất bị
trưng dụng”. Tiếp đến Thông tư số 1792/TTg ngày 11/01/1970 của Thủ tướng
Chính phủ về quy định một số điểm tạm thời về bồi thường nhà cửa, đất đai,
cây cối lõu niờn, cỏc hoa màu cho nhân dân ở những vùng xây dựng kinh tế mở
rộng thành phố đề cập vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất; Quyết định
số 201/CP ngày 1/7/1980 của Hội đồng Chớnh phủ về tăng cường công tác quản
lý ruộng đất trong cả nước. Các quy định về bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất mặc dù được ban hành song chưa đầy đủ, thống nhất;
Ngày 29/12/1987, Quốc hội khóa VIII kỳ họp thứ hai đã thông qua Luật
đất đai; trong đó quy định: “Khi đất đang sử dụng bị thu hồi vì nhu cầu của Nhà
nước hoặc của xã hội thì được đền bù thiệt hại thực tế và được giao đất khỏc”
(Khoản 5 Điều 49). Tuy nhiên quy định này mới dừng lại ở mức độ khái quát
chưa nêu cụ thể các trường hợp được bồi thường hay không được bồi thường;
mức độ bồi thường như thế nào v.v. Cụ thể hóa quy định này của Luật đất đai
năm 1987, Quyết định số 186/HĐBT ngày 31/05/1990 của Hội đồng Bộ trưởng
(nay là Chính phủ) quy định về vấn đề bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu
hồi đất trong trường hợp chuyển mục đích từ đất nông nghiệp, lâm nghiệp sang
sử dụng vào mục đích khác. Theo đó, người được Nhà nước cho phép chuyển
mục đích sử dụng đất phải nộp một khoản tiền vào ngân sách nhà nước. Nhà
Nguyễn Văn Chiến KT31H 025
Khóa luận tốt nghiệp Môn Luật đất đai
TinCanBan.Com
nước dùng khoản tiền này để khai hoang mở rộng diện tích đất nông nghiệp bù
đắp vào số diện tích phải chuyển mục đích sử dụng đất.
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1993 đến nay
Luật đất đai năm 1993 được Quốc hội khóa X thông qua ngày 14/07/1993
đã quy định rõ hơn về vấn đề bồi thường; cụ thể: “Người sử dụng đất có quyền
được bồi thường thiệt hại về đất đai bị thu hồi” (Khoản 6 Điều 73); và “Trong
trường hợp cần thiết Nhà nước thu hồi đất đang sử dụng của người sử dụng đất
để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công
cộng thì người bị thu hồi đất được đền bù thiệt hại” (Điều 27); “Trước khi thu
hồi phải thông báo cho người đang sử dụng đất biết về lý do thu hồi, thời gian,
kế hoạch di chuyển, phương án đền bù thiệt hại” (Điều 28). Tuy nhiên vẫn còn
thiếu các quy định về việc giải quyết vấn đề tái định cư, vấn đề đào tạo chuyển
đổi ngành, nghề, tìm kiếm việc làm mới cho người có đất bị thu hồi. Cụ thể hóa
các quy định này, ngày 17/08/1994, Chính phủ ban hành Nghị định số 90/CP quy
định về việc đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục
đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng. Thực tiễn triển
khai thực hiện Nghị định này cho thấy còn tồn tại nhiều bất cập mà hạn chế lớn
nhất là quy định về giá đất bồi thường quá thấp nên người bị thu hồi đất không
đồng thuận với phương án bồi thường, phát sinh tranh chấp, khiếu kiện kéo dài.
Để khắc phục những tồn tại này, ngày 24/04/1998, Chính phủ đã ban hành Nghị
định số 22/1998/NĐ CP thay thế Nghị định số 90/CP. Tiếp đó, Bộ Tài chính ra
Thông tư số 145/1998/TTBTC ngày 04/11/1998 hướng dẫn thi hành Nghị định
số 22/1998/NĐCP. Các văn bản này đó cú những sửa đổi, bổ sung chủ yếu sau
đây:
Quy định rõ tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê
đất có trách nhiệm đền bù thiệt hại ( Điều 2 Nghị định số 22/1998/NĐCP);
Giá đất để tính đền bù thiệt hại được xác định trên cơ sở giá đất
do UBND cấp tỉnh ban hành theo khung giá của Chính phủ nhân với hệ số K
nhằm đảm bảo giá đền bù phù hợp với khả năng sinh lợi và không quá thấp so
với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên thị trường (Điều 8 Nghị Định số
22/1998/NĐCP);
Ngoài việc được đền bù, người bị thu hồi đất còn được trợ cấp
nhằm ổn định đời sống trong trường hợp phải di chuyển chỗ ở, di chuyển địa
điểm sản xuất kinh doanh; trả chi phí chuyển đổi nghề nghiệp, được chuyển
đến khu tái định cư nếu họ có nhu cầu… (Điều 25, Điều 28 Nghị định số
22/1998/NĐCP);
Nguyễn Văn Chiến KT31H 025
Khóa luận tốt nghiệp Môn Luật đất đai
TinCanBan.Com
Tuy nhiên, trên thực tế do việc xác định hệ số K quá phức tạp nên nhiều
địa phương xác định giá bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất vẫn thấp hơn
nhiều giá đất chuyển nhượng trên thị trường. Điều này đã gây ra nhiều tranh
chấp, khiếu kiện về đất đai phức tạp, kéo dài. Để khắc phục những hạn chế
này và sửa đổi một số quy định của pháp luật đất đai cho phù hợp với yêu cầu
của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, ngày 26/11/2003, Quốc
hội khóa XI kỳ họp thứ 4 đã thông qua Luật đất đai 2003 thay thế Luật đất đai
năm 1993; trong đó cú cỏc quy định sửa đổi, bổ sung về bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Cụ thể hóa các quy định này, ngày 03/12/2004,
Chính phủ ban hành Nghị định số 197/2004/NĐCP về bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Bộ Tài chính ra Thông tư số 116/2004/TT
BTC ngày 07/12/2004 hướng thực hiện Nghị định số 197/2004/NĐCP về bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Các quy định về vấn đề
này đã có những sửa đổi, bổ sung đáng chú ý sau đây:
Quy định rừ cỏc trường hợp người bị Nhà nước thu hồi đất được
bồi thường về đất và bồi thường thiệt hại về tài sản trên đất và các trường hợp
người bị thu hồi đõt không được bồi thường về đất mà chỉ được bồi thường
thiệt hại về tài sản trên đất;
Quy định nguyên tắc công khai, minh bạch trong việc thu hồi đất;
theo đó: “Trước khi thu hồi đất, chậm nhất là 90 ngày đối với đất nông nghiệp,
180 ngày đối với đất phi nông nghiệp, cơ quan có thẩm quyền thu hồi đất phải
thông báo cho người sử dụng đất biết lý do thu hồi, thời gian, kế hoạch di
chuyển, phương án tổng thể về bồi thường, giải phóng mặt bằng, tái định cư”;
Quy định chính sách tái định cư, theo đó, UBND tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương lập và thực hiện các dự án tái định cư trước khi thu hồi
đất để bồi thường bằng nhà ở, đất ở cho người bị thu hồi đất ở mà phải di
chuyển chỗ ở. Khu tái định cư được quy hoạch chung cho nhiều dự án trên cùng
một địa bàn và phải có điều kiện phát triển bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ;
Quy định chính sách hỗ trợ, đào tạo chuyển đổi ngành nghề, bố trí
việc làm mới cho người bị thu hồi đất nông nghiệp mà không có đất để bồi
thường cho việc tiếp tục sản xuất …;
Tiếp đó, để xử lý những vấn để mới nảy sinh trong quá trình thu hồi đất,
GPMB, ngày 25/05/2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 84/2007NĐCP quy
định bổ sung về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực
hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
Nguyễn Văn Chiến KT31H 025
Khóa luận tốt nghiệp Môn Luật đất đai
TinCanBan.Com
nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai. Mặc dù thường xuyên
được sửa đổi, bổ sung song những quy định trên đây cũng chỉ giải quyết một số
vấn đề bức xúc nảy sinh từ công tác bồi thường, GPMB khi Nhà nước thu hồi
đất. Do đây là công việc liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của
người dân nếu các quy định được xây dựng không hợp lý và thường xuyên được
sửa đổi, bổ sung thì sẽ tiềm ẩn nguy cơ phát sinh tranh chấp, khiếu kiện kéo dài,
gây mất ổn định về chính trị. Nhận thức được vấn đề này, ngày 13/08/2009,
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 69/2009/NĐCP quy định bổ sung về quy
hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư... Nghị
định này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/10/2009, gồm 3 chương, 41 điều quy
định cụ thể về quy hoạch sử dụng đất; giá đất; bồi thường, hỗ trợ, tái định cư;
trình tự, thủ tục thu hồi đất, giao đất và cho thuê đất; phát triển quỹ đất, cấp
GCNQSDĐ, sử dụng đất công trình ngầm và gia hạn sử dụng đất. Ngày
01/10/2009, Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành Thông tư số 14/2009/TT
BTNMT quy định chi tiết về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và trình tự, thủ tục
thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất nhằm xử lý các tình huống mới nảy sinh trong
quá trình thu hồi đất, GPMB thời gian vừa qua.;
Tóm lại: Song hành với sự phát triển của pháp luật đất đai, các quy định
về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất luôn được xây dựng,
sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện nhằm xử lý hài hòa mối quan hệ về lợi ích kinh
tế giữa Nhà nước, người bị thu hồi đất và chủ đầu tư. Ở một chừng mực nhất
định, các quy định này đã đạt được mục đích nêu trên và tạo ra quỹ đất sạch đáp
ứng nhu cầu sử dụng của xã hội và góp phần vào việc thực hiện thắng lợi các
mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước ở từng thời kỳ lịch sử.
1.4. Thực tiễn pháp lý về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất của Trung Quốc và bài học kinh nghiệm đối với
Việt Nam
1.4.1. Thực tiễn pháp lý về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất của Trung Quốc
Trung Quốc là nước láng giềng có nhiều điểm tương đồng về chính trị,
kinh tế, văn hóa với Việt Nam. Pháp luật đất đai của Trung Quốc cũng có nhiều
điểm tương đồng với pháp luật đất đai của Việt Nam. Trong 3 thập kỷ qua,
Trung Quốc đó cú bước phát triển thần kỳ về kinh tế trở thành nền kinh tế lớn
thứ 3 thế giới. Có được thành tựu to lớn này không thể không kể đến những
đóng góp của pháp luật đất đai nói chung và các quy định về bồi thường, hỗ trợ,
Nguyễn Văn Chiến KT31H 025
Khóa luận tốt nghiệp Môn Luật đất đai
TinCanBan.Com
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất nói riêng. Vì vậy tìm hiểu, học tập kinh
nghiệm về thực tiễn pháp lý về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư của Trung
Quốc là rất cần thiết đối với Việt Nam;
1.4.1.1. Về thẩm quyền thu hồi đất
Theo pháp luật đất đai Trung Quốc thì chỉ có Chính phủ và chính quyền
cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương mới có thẩm quyền thu hồi đất. Quốc
vụ viện (Chính phủ) có thẩm quyền thu hồi đất nông nghiệp từ 35 ha trở lên và
70 ha trở lên đối với các loại đất khác. Dưới hạn mức đất này, chính quyền cấp
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ra quyết định thu hồi. Đất nông nghiệp sau
khi thu hồi sẽ chuyển từ đất thuộc sở hữu tập thể thành đất thuộc sở hữu nhà
nước.
1.4.1.2. Về trách nhiệm bồi thường
Pháp luật Trung Quốc quy định người nào sử dụng đất thì người đó có
trách nhiệm bồi thường. Phần lớn tiền bồi thường do người sử dụng đất trả.
Tiền bồi thường này bao gồm: Lệ phí sử dụng đất phải nộp cho Nhà nước và
các khoản tiền trả cho người có đất bị thu hồi;
Lệ phí sử dụng đất phải nộp cho Nhà nước: Theo quy định của pháp
luật, 70% mức lệ phí này được giữ lại ở ngõn sách cấp tỉnh và 30% còn lại nộp
về ngõn sách trung ương;
Các khoản đền bù cho người có đất bị thu hồi: Theo quy định, khi thu
hồi đất phải trả cho người bị thu hồi các loại tiền sau đây: Tiền bồi thường đất
đai; tiền trợ cấp về tái định cư; tiền trợ cấp bồi thường hoa màu trên đất. Theo
đó, cách tính tiền bồi thường đất đai và tiền trợ cấp tái định cư căn cứ theo giá
trị tổng sản lượng của đất đai những năm trước đõy nhõn với một hệ số do Nhà
nước quy định. Đối với tiền bồi thường hoa màu và tài sản trên đất thì xác định
theo giá thị trường tại thời điểm thu hồi đất. Ví dụ: ở Bắc Kinh, khoản tiền bồi
thường hoa màu này được tính bằng 6 10 lần sản lượng trung bình của 3 năm
trước đó. Tuy nhiên, tổng 2 khoản tiền này không được vượt quá 30 lần sản
lượng trung bình của 3 năm trước của thửa đất đó.
1.4.1.3. Về nguyên tắc bồi thường
Pháp luật Trung Quốc quy định khoản tiền bồi thường cho GPMB phải
đảm bảo cho người bị thu hồi đất ở có chỗ ở bằng hoặc cao hơn so với nơi ở
cũ; Thực tế ở Bắc Kinh cho thấy, phần lớn các gia đình dùng số tiền bồi thường
đó cộng với khoản tiền tiết kiệm, họ có thể mua được căn hộ mới. Còn đối với
Nguyễn Văn Chiến KT31H 025
Khóa luận tốt nghiệp Môn Luật đất đai
TinCanBan.Com
người dân thuộc khu vực nông thôn có thể dùng khoản tiền đó mua được 2 căn
hộ ở cùng một nơi. Tuy nhiên, ở thành thị, cá biệt cũng có một số gia đình sau
khi được đền bù cũng không mua nổi một căn hộ để ở. Những đối tượng trong
diện GPMB được hưởng chính sách mua nhà ưu đãi của Nhà nước, song trên
thực tế họ thường mua nhà bên ngoài thị trường.
1.4.1.4. Về thời điểm bồi thường
Thời điểm xác định bồi thường cho người sử dụng đất bị thu hồi đất
được tính theo ngày cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
1.4.1.5. Cơ quan quản lý giải tỏa mặt bằng
Cục Quản lý tài nguyên đất đai tại các địa phương thực hiện việc quản lý
giải tỏa mặt bằng. Người nhận khu đất thu hồi sẽ thuê một đơn vị xây dựng
giải tỏa mặt bằng khu đất đó (thông thường là các đơn vị chịu trách nhiệm thi
công công trình trên khu đất giải tỏa).
1.4.1.6. Về đối tượng được đền bù khi giải tỏa mặt bằng
Trường hợp phá nhà ở, nhà riêng của người dân nào thì người đó được bồi
thường thiệt hại. Đối với nhà tập thể, nhà không có người ở, nhà ở của thụn, xó
nhưng không thuộc sở hữu của cá nhân thì số tiền bồi thường được sử dụng để
xây dựng xí nghiệp hương, trấn (thôn). Khoản tiền này được xác định là phần
vốn góp cổ phần thôn trong xí nghiệp. Người đầu tư xây dựng xí nghiệp trên
mảnh đất giải tỏa nhà phải trả tiền bồi thường cho thụn cú mảnh đất đó
1.4.1.7. Về cách thức bồi thường về nhà ở
Trung Quốc giải quyết vấn để nhà ở cho dân sau khi giải tỏa mặt bằng
thông qua việc trả tiền bồi thường về nhà ở. Số tiền này được xác được định
bao gồm: Giá cả xây dựng lại nhà ở, sự chênh lệch giữa giá xây dựng lại nhà
mới và nhà cũ; Giá đất tiêu chuẩn; Trợ cấp về giá cả;
Giá xây lại nhà mới được xác định là khoản chênh lệch giữa giá trị còn lại
của nhà cũ và chi phí xây dựng lại nhà mới. Cũn giỏ đất tiêu chuẩn do Nhà nước
xác định căn cứ theo giá đất của những nhà thương phẩm trong cùng một khu
vực, rồi quyết định. Trợ cấp về giá cả cũng do chính quyền xác định. Khoản
tiền đền bù này được tính theo m2, cộng lại và nhân với diện tích xây dựng của
nhà ở. Người dân sẽ được nhận số tiền đó và có thể đi mua nhà trên thị trường.
Trường hợp Nhà nước có diện tích nhà tái định cư thì nếu người được bồi
Nguyễn Văn Chiến KT31H 025
Khóa luận tốt nghiệp Môn Luật đất đai
TinCanBan.Com
thường có nhu cầu sẽ được phân nhà với diện tích tương đương số tiền họ đã
được nhận bồi thường.
1.4.2. Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam
Thông qua việc tìm hiểu pháp luật Trung Quốc về bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất, chúng ta có thể rút ra một số kinh nghiệm cho
Việt Nam trong quá trình xây dựng và hoàn thiện các quy định về bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất như sau:
Thứ nhất, về thời điểm bồi thường, tái định cư. Theo quy định của pháp
luật hiện hành thì việc xác định thời điểm bồi thường, thực hiện tái định cư là
thời điểm có quyết định thu hồi đất là chưa hợp lý và chưa phù hợp với thực tế.
Để khắc phục những bất cập này, nên sửa đổi quy định về thời điểm tớnh giỏ
bồi thường và thực hiện tái định cư cho người sử dụng đất khi bị Nhà nước thu
hồi đất như sau:
Quy định về tớnh giỏ bồi thường theo thời điểm trả tiền bồi thường tái
định cư trên thực tế;
Ngoài việc bồi thường theo giá đất tại thời điểm thu hồi cần quy định
một tỷ lệ hỗ trợ để thưởng khuyến khích đối với những người bị thu hồi đất
chấp hành nghiêm chỉnh, nhanh chóng việc bàn giao mặt bằng cho nhà đầu tư,
khoản hỗ trợ này được trích từ khoản chênh lệch giữa giá đất bồi thường với
giá đất sau khi thực hiện việc thu hồi;
Thứ hai, về trách nhiệm thực hiện tái định cư. Cần quy định một cách rõ
ràng về chủ thể có trách nhiệm thực hiện công việc này khi tiến hành thu hồi
đất. Trách nhiệm đú nờn được giao cho những cá nhân, tổ chức được Nhà nước
giao sử dụng đất thực hiện. Điều này nhằm đảm bảo việc thu hồi đất, GPMB
và tái định cư được tiến hành một cách thuận lợi, nhanh chóng, đảm bảo quyền
và lợi ích hợp pháp của người bị thu hồi đất;
Thứ ba, về cách thức thực hiện tái định cư. Pháp luật Việt Nam hiện nay
chưa có quy định về trợ cấp về giá cả khi thực hiện tái định cư, thường thì giá
nhà tái định cư sau khi thu hồi đất cao hơn rất nhiều so với giá nhà trước khi thu
hồi. Chính vì vậy, cần giải quyết vấn đề nhà ở cho dân sau khi giải tỏa mặt
bằng thông qua việc trả tiền bồi thường về nhà ở. Số tiền này được xác định
bao gồm: Giá cả xây dựng lại nhà ở, sự chênh lệch giữa giá xây lại nhà mới và
nhà cũ; giá đất tiêu chuẩn; trợ cấp về giá cả. [14, tr2]
Nguyễn Văn Chiến KT31H 025
Khóa luận tốt nghiệp Môn Luật đất đai
TinCanBan.Com
Chương 2
PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ KHI
NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT VÀ THỰC TRẠNG ÁP DỤNG
TRấN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. Thực trạng áp dụng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố Hà Nội
2.1.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của Hà Nội
Vị trí, vai trò của thủ đô Hà Nội đã được Nghị quyết 15 NQ/TW của Bộ
chính trị Khóa VIII về phương hướng nhiệm vụ phát triển thủ đô Hà Nội thời kỳ
2001 2010 khẳng định: “Hà Nội là trái tim của cả nước, đầu não chính trị,
hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hóa, khoa học, giáo dục, kinh tế và
Nguyễn Văn Chiến KT31H 025
Khóa luận tốt nghiệp Môn Luật đất đai
TinCanBan.Com
giao dịch quốc tế”. Nghị quyết 15/2008/QH12 của Quốc hội có hiệu lực từ
01/08/2008, Hà Nội mở rộng bao gồm cả tỉnh Hà Tây, Huyện Mê Linh (Vĩnh
Phúc) và 4 xã thuộc Huyện Lương sơn (Hòa Bình). Hà Nội có quy mô 3.344,7km2
(rộng gấp 3,5 lần trước khi chưa mở rộng), với số dân khoảng 6.232.000 người
(gấp 2 lần khi chưa mở rộng) thành phố có 29 đơn vị hành chính cấp huyện, 409
xã, 147 phường và 21 thị trấn (so với 19 đơn vị hành chính cấp huyện bao gồm 9
quận, 5 huyện, 128 phường, 99 xã, 5 thị trấn khi chưa mở rộng). Hà Nội mở
rộng hiện nay, đã tạo cho thủ đô có nhiều tiềm năng thuận lợi vươn lên tầm cao
và vị thế mới. Tuy nhiên, trước mắt Hà Nội cũng có nhiều thách thức phải vượt
qua. Đó là thu nhập GDP bình quân đầu người phải tính lại (từ 2.300 USD, tính
toán lại còn khoảng 1500 USD). [14, tr2]
2.1.2. Tình hình thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
Thời gian vừa qua, công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho người có
đất bị thu hồi trên địa bàn TP Hà Nội về cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu SDĐ
phục vụ phát triển kinh tế xã hội ( KT XH). Số lượng các dự án phải thu hồi
đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư ngày càng tăng cả về số lượng cũng như
quy mô dự án, năm sau nhiều hơn năm trước, liên quan đến nhiều hộ dân. Nếu
như trong 5 năm (19962000), TP Hà Nội thực hiện thu hồi đất cho 227 dự án
với số tiền bồi thường là 698 tỷ đồng thì trong 6 năm (20012006), số dự án đã
hoàn thành công tác GPMB và bàn giao cho chủ đầu tư là 1.048 dự án, với diện
tích là 5.699 ha đất, liên quan đến 153.725 hộ dân, tổng số tiền bồi thường, hỗ
trợ là 9.726 tỷ đồng, bố trí tái định cư cho 10.580 hộ bị thu hồi đất phải di
chuyển chỗ ở. Bình quân mỗi năm TP Hà Nội phải thu hồi, GPMB khoảng 1.000
ha đất;
Tuy nhiên, do trước khi có Luật đất đai năm 2003, việc thực hiện quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất (SDĐ) chưa được quan tâm thực hiện; việc giao
đất, cho thuê đất không đúng thẩm quyền, SDĐ sai mục đích được giao, được
thuê còn nhiều đã gây khó khăn cho công tác bồi thường, GPMB. Nhiều dự án
còn bị kéo dài, không được giải quyết dứt điểm; bên cạnh đó, chính sách quản lý
đất đai nói chung và bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nói riêng có nhiều thay
đổi, thiếu đồng bộ và không ổn định cũng đã góp phần gây nên tình trạng khiếu
nại căng thẳng của người bị thu hồi đất;
Nguyễn Văn Chiến KT31H 025
Khóa luận tốt nghiệp Môn Luật đất đai
TinCanBan.Com
2.2. Các nguyên tắc chung về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất theo quy định của Luật đất đai năm 2003
2.2.1. Về phạm vi và đối tượng được bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước
thu hồi đất
2.2.1.1. Về phạm vi bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
Theo quy định của Luật đất đai 2003 và các Nghị định hướng dẫn thực
hiện, việc bồi thường, hỗ trợ chỉ được thực hiện trong trường hợp Nhà nước thu
hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi Ých quốc gia, lợi Ých
công cộng và phát triển KT quy định tại Khoản 1, Điều 38.
So với Luật đất đai 1993, Luật đất đai 2003 bổ sung quy định về trường
hợp người bị thu hồi đất được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng
vào mục đích phát triển KT. Cụ thể hóa quy định này của Luật đất đai năm 2003,
Nghị định số 181/2004/NĐCP ngày 29/10/2004 “Về thi hành Luật đất đai” (Sau
đây gọi tắt là Nghị định số 181/2004/NĐCP), Nghị định số 197/2004/NĐCP
ngày 03/12/2004 “Về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất” (Sau đây gọi tắt là Nghị định 197/2004/NĐCP) đã quy định các trường hợp
Nhà nước thu hồi đất vào mục đích phát triển KT bao gồm:
(i) SDĐ để đầu tư xây dựng khu công nghiệp, khu KT, khu công nghệ cao;
(ii) SDĐ để thực hiện các dự án đầu tư có nguồn vốn hỗ trợ phát triển
chính thức (ODA);
(iii) SDĐ để thực hiện các dự án có 100% vốn đầu tư nước ngoài đã
được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xét duyệt hoặc cho phép đầu tư mà dự
án đó không thể đầu tư trong khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu kinh tế;
(iv) SDĐ để thực hiện các dự án đầu tư SXKD, dịch vụ, du lịch thuộc
nhóm A theo quy định của pháp luật đầu tư đã được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền xét duyệt hoặc cho phép đầu tư mà dự ỏn đú khụng thể đầu tư trong khu
công nghiệp, khu công nghệ cao, khu KT; [9, tr1]
Tiếp đó, Nghị định số 84/2007/NĐCP ngày 25/5/2007 về sửa đổi, bổ sung
một số điều về cấp GCNQSDĐ, về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ... đã
bổ sung thêm một số trường hợp về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất vào
mục đích phát triển KT bao gồm:
Nguyễn Văn Chiến KT31H 025
Khóa luận tốt nghiệp Môn Luật đất đai
TinCanBan.Com
(i) SDĐ để đầu tư xây dựng khu công nghiệp, khu KT, khu công nghệ cao
và khu kinh doanh tập chung khác có cùng chế độ SDĐ;
(ii) SDĐ để đầu tư xây dựng các dự án quan trọng quốc gia do Quốc hội
quyết định chủ trương đầu tư và dự án quan trọng do Thủ tướng Chính phủ
chấp thuận chủ trương đầu tư;
(iii) SDĐ để thực hiện các dự án khu dân cư (bao gồm dự án hạ tầng khu
dân cư và dự án nhà ở), trung tâm thương mại, khách sạn cao cấp trong các
trường hợp sau đây:
Các dự án trong khu đô thị hiện có được thể hiện trong quy hoạch SDĐ
hoặc quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị đã được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền phê duyệt và được Chủ tịch UBND cấp tỉnh phê duyệt chủ trương đầu tư
với từng dự án;
Các dự án trong khu vực mở rộng khu đô thị hiện có hoặc khu đô thị mới
được thể hiện trong quy hoạch SDĐ hoặc quy hoạch chung xây dựng đô thị
hoặc quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị đã được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền phê duyệt;
Các dự án trong khu dân cư nông thôn hiện có, khu dân cư nông thôn mở
rộng hoặc khu dân cư nông thôn xây dùng mới được thể hiện trong quy hoạch
SDĐ hoặc quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn đã được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền phê duyệt;
Bên cạnh đó, Nghị định số 181/2004/NĐCP còn quy định: Nhà nước
không thực hiện việc thu hồi đất vào mục đích phát triển KT đối với các dự án
không thuộc quy định trên đây hoặc trong trường hợp nhà đầu tư nhận chuyển
nhượng, thuê quyền SDĐ, nhận góp vốn bằng quyền SDĐ của người đang SDĐ.
Như vậy, bên cạnh việc quy định trừ các trường hợp bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi Ých quốc gia, lợi
Ých công cộng và phát triển KT, Luật đất đai năm 2003 và các nghị định hướng
dẫn thi hành cũng cho phép mở rộng hình thức nhà đầu tư nhận chuyển nhượng
quyền SDĐ, nhận góp vốn bằng quyÒn SDĐ hoặc trực tiếp thuê đất của người
SDĐ. Hơn nữa, LĐĐ 2003 còng bổ sung quy định việc NN giao cho Tổ chức
phát triển quỹ đất (do UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành lập)
thực hiện việc thu hồi đất, BT GPMB và trực tiếp quản lý quỹ đất đã thu hồi
đối với trường hợp sau khi QH, KHSDĐ được công bố mà chưa có dự án đầu tư;
2.1.1.2. Về đối tượng được bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
Nguyễn Văn Chiến KT31H 025
Khóa luận tốt nghiệp Môn Luật đất đai
TinCanBan.Com
Về đối tượng được BT, HT khi NN thu hồi đất theo quy định của LĐĐ
2003 và NĐ số 197/2004/NĐCP, bao gồm: Tổ chức, cộng đồng dân cư, cơ sở
tôn giáo, hộ gia đình, cá nhân trong nước; người Việt Nam định cư ở nước ngoài;
tổ chức, cá nhân nước ngoài đang SDĐ bị NN thu hồi đất.
Như vậy, so với LĐĐ 1993, đối tượng được BT, HT khi NN thu hồi đất
theo LĐĐ 2003 đã được mở rộng hơn, không chỉ có tổ chức, hộ gia đình, cá nhân
trong nước mà còn bao gồm cả cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo; người Việt
Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài đang sử dụng đất bị NN
thu hồi đất cũng được BT, HT. Việc mở rộng đối tượng được BT, HT khi NN
thu hồi đất là rất cần thiết nhằm phù hợp với thực tế SDĐ ở nước ta hiện nay;
bảo vệ quyền và lợi Ých hợp pháp của người SDĐ là cộng đồng dân cư, cơ sở
tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài.
Hơn nữa, việc mở rộng đối tượng được BT, HT khi NN thu hồi đất còn phù hợp
với mục tiêu bảo đảm tính tương thích về pháp luật trong quá trình hội nhập
kinh tế thế giới; đồng thời “xoá dần sự khác biệt về quyền SDĐ giữa người
Việt Nam trong nước và người Việt Nam định cư ở nước ngoài, động viên
người Việt nam định cư ở nước ngoài hướng về tổ quốc” [18, tr.12].
2.2.2. Nguyên tắc chung về chi trả bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
Nghiên cứu pháp luật hiện hành về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
cho thấy việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư được thực hiện dựa trên các
nguyên tắc cơ bản sau đây:
Tổ chức được Nhà nước giao đất không thu tiền SDĐ thì tiền bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư và kinh phí tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ và
tái định cư được tính vào vốn đầu tư của dự án;
Tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất có thu tiền SDĐ,
tiền thuê đất có trách nhiệm chi trả trước tiền bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
và kinh phí tổ chức thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư theo các quy
định tại Nghị định số 197/2004/NĐCP và được trừ vào tiền SDĐ, tiền thuê đất
phải nép;
Tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt nam định cư ở nước ngoài đầu
tư vào Việt Nam được Nhà nước giao đất, cho thuê đất có thu tiền SDĐ, tiền
thuê đất thì không phải trả tiền bồi thường, hỗ trợ và tái định cư; trường hợp đã
chi trả thì được trừ số tiền đã trả vào tiền SDĐ hoặc tiền thuê đất phải nép;
Nguyễn Văn Chiến KT31H 025