Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Công tác xã hội với người nghèo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (454.17 KB, 6 trang )

Câu 2. Chuẩn nghèo theo thu nhập tại Thành phố Hồ Chí Minh
Hộ  nghèo của Thành phố  Hồ  Chí Minh (có hộ  khẩu trường trú và tạm trú  
KT3) là những hộ có một hoặc cả  hai tiêu chí, gồm thu nhập bình quân từ  21 triệu 
đồng/người/năm trở  xuống; có tổng số  điểm thiếu hụt của 5 chiều nghèo từ  40 
điểm trở lên.
Hộ cận nghèo (có hộ khẩu trường trú và tạm trú KT3) có hai tiêu chí gồm có 
thu nhập bình quân từ trên 21 triệu đồng/người/năm đến 28 triệu đồng/người/năm;  
có tổng số điểm thiếu hụt của 5 chiều nghèo dưới 40 điểm (từ 0 đến 35 điểm).
Theo quyết định của  Ủy ban Nhân dân Thành phố  Hồ  Chí Minh, tiêu chí về 
mức độ thiếu hụt của các chiều nghèo (các dịch vụ xã hội cơ bản) có 5 chiều nghèo  
gồm giáo dục và đào tạo; y tế; việc làm và bảo hiểm xã hội; điều kiện sống; tiếp 
cận thông tin.
Các chỉ  số  đo lường mức độ  thiếu hụt của các chiều nghèo (11 chỉ  số  với  
tổng điểm 100) gồm: trình độ  giáo dục của người lớn (10 điểm), tình trạng đi học 
của trẻ em (10 điểm), trình độ nghề (10 điểm), tiếp cận các dịch vụ y tế (10 điểm),  
bảo hiểm y tế (10 điểm), việc làm (10 điểm), bảo hiểm xã hội (10 điểm), nhà ở (10  
điểm), nguồn nước sinh hoạt (10 điểm), sử dụng viễn thông (5 điểm), tài sản phục  
vụ tiếp cận thông tin (5 điểm). Ngưỡng thiếu hụt các chiều nghèo của hộ dân là từ 
40 điểm trở lên.
Câu 3. Về tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của người nghèo tại TP. Hồ Chí 
Minh
Bước  vào  thời  đại  Công nghiệp  hóa  – Hiện  đại hóa  đang  diễn  ra  nhanh 
chóng, kỷ  nguyên máy tính, công nghệ  thông tin. Đặc biệt là nền cuộc đại cách  
mạng công nghiệp 4.0, cùng với đó và quá trình Toàn cầu hóa diễn ra nhanh chóng 
vad đa dạng. Chính vì thế, tại thời điển này, nếu có một Quốc gia nào đó, một địa 
phương nào đó, hoặc một người nào đó mà chưa thể tiếp cận với 5 dịch vụ xã hội  
cơ  bản:  Y tế, Giáo dục, Nhà  ở, Nước sạch và vệ  sinh, Thông tin. Thì rõ ràng 
chúng ta có thể khẳng định ban đầu rằng, đó là một Quốc gia, một địa phương hoặc  
một người vẫn còn lạc hậu, vẫn còn thua kém hay nói cách khác đó là vẫn còn  
nghèo.
­ Về Giáo dục: 




+ Hộ gia đình có ít nhất 1 thành viên đủ  15 tuổi sinh từ năm 1986 trở 
lại không tốt nghiệp trung học cơ sở và hiện không đi học. (Nghị quyết 41/2000/QH  
bổ sung Nghị định số 88/2001/NĐ­CP về một số vấn đề chính sách xã hội)
+ Hộ gia đình có ít nhất 1 trẻ em trong độ tuổi đi học (5 ­ 14 tuổi) hiện 
không đi học. (Luật Giáo dục 2005 và Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em)
­ Về Y Tế:
+ Tiếp cận các dịch vụ  y tế: Hộ  gia đình có người bị   ốm đau nhưng 
không đủ  điều kiện đi khám chữa bệnh (ốm đau được xác định là bị  bệnh/ chấn 
thương nặng đến mức phải nằm một chỗ  và phải có người chăm sóc tại giường 
hoặc nghỉ việc/học không tham gia được các hoạt động bình thường).  (Luật Khám  
chữa bệnh 2011)
+ Bảo hiểm y tế: Hộ gia đình có ít nhất 1 thành viên từ 6 tuổi trở  lên 
hiện tại không có bảo hiểm y tế. (Luật bảo hiểm y tế 2014)
­ Về Nhà ở:
+  Chất lượng nhà ở: Hộ gia đình đang ở trong nhà thiếu kiên cố hoặc  
nhà đơn sơ, nhà tạm bợ. (Luật Nhà ở 2014)
+ Diện tích nhà ở bình quân đầu người: Diện tích nhà ở bình quân đầu  
người của hộ  gia đình nhỏ  hơn 8m2.  (Quyết định 2127/QĐ­Ttg của Thủ  tướng  
Chính phủ  Phê duyệt Chiến lược phát triển nhà ở  quốc gia đến năm 2020 và tầm  
nhìn đến năm 2030)
­ Về Nước sạch và vệ sinh: (NQ 15/NQ­TW Một số vấn đề chính sách xã hội  
giai đoạn 2012 ­ 2020)
+ Nguồn nước: Hộ gia đình không được tiếp cận nguồn nước hợp vệ 
sinh
+ Vệ sinh: Hộ gia đình không sử dụng hố xí/nhà tiêu hợp vệ sinh
­ Về Tiếp cận thông tin: 
+ Sử dụng dịch vụ viễn thông: Hộ gia đình không có thành viên nào sử 
dụng thuê bao điện thoại và internet. (Luật Viễn thông 2009)

+ Tài sản phục vụ tiếp cận thông tin: Hộ gia đình không có tài sản nào  
trong số  các tài sản: Tivi, đài, máy vi tính; và không nghe được hệ  thống loa đài 
truyền thanh xã/thôn. (Luật Thông tin Truyền thông 2015)


Tại TP. Hồ Chí Minh, hộ nghèo là hộ có 1 hoặc cả 2 tiêu chí: thu nhập bình  
quân từ 21 triệu đồng/người/năm trở xuống; có tổng số điểm thiếu hụt của 5 chiều  
nghèo từ 40 điểm trở lên.
Hộ cận nghèo là hộ có 2 tiêu chí: thu nhập từ trên 21 triệu đồng/người/năm đến 28  
triệu đồng/người/năm; có tổng số điểm thiếu hụt của 5 chiều nghèo dưới 40 điểm.

Câu 4. Tư tưởng, tâm lý, của người nghèo tại TP. Hồ Chí Minh
­ Cuộc sống toàn những việc bất ngờ xảy đến
+ Đổ lỗi cho thị trường, quy trách nhiệm cho chính phủ và nền kinh tế thay vì nhận  
trách nhiệm với chính mình.
+ Biện minh cho sự  bất lực của mình trong việc kiếm tiền bằng cách viện dẫn 
những phép so sánh khập khiễng thay vì hiểu đúng tầm quan trọng và bản chất của 
tiền.
+ Than thân trách phận, chú tâm vào những rắc rối thay vì tìm cách giải quyết nó.
+ Mỗi khi đổ  lỗi, biện minh hay oán trách người khác là bạn đang tự  đặt thêm  
những tấm rào chắn trên con đường tài chính vốn đã chật hẹp của mình.
­  Người   nghèo  chỉ   cần   kiếm  đủ   tiền  để   thanh  toán   các   chi   phí  mỗi  
tháng.
­  Muốn mình giàu  có:  Tuy nhiên thường hay lúng túng và mâu thuẫn với 
chính mình, lúc mong muốn giàu có, lúc lại e ngại điều đó. Không thật sự quyết tâm  
làm giàu thì không bao giờ bạn giàu lên được.
­ Tập trung vào những khó khăn: Người nghèo luôn nghĩ đến thất bại, họ 
thiếu tự tin vào bản thân cũng như năng lực của mình. Họ luôn thấy trở ngại nên họ 
không sẵn sàng mạo hiểm.
­ Người nghèo luôn nhỏ bé hơn những vấn đề của họ: Người nghèo luôn 

giữ thói quen trách móc, than phiền về những khó khăn trước mắt.
­ Để nỗi sợ hãi ngăn cản họ: Người nghèo thường để cho nỗi sợ hãi ngăn 
cản hành động của mình.  
5. Vị trí, vị thế, vai trò xã hội


Những người nghèo thường bị đối xử không công bằng, bị gạt ra ngoài lề xã 
hội do vậy họ thường không có tiếng nói quyết định trong các công việc chung của 
cộng đồng cũng như  các công việc liên quan đến chính bản thân họ. Trong cuộc 
sống những người nghèo chịu nhiều bất công do sự  phân biệt đối xử, chịu sự  thô  
bạo,   nhục   mạ,   họ   bị   tước   đi  những  quyền  mà   những   người  bình  thường  khác 
nghiễm nhiên được hưởng.
Người nghèo luôn cảm thấy bị sống phụ thuộc, luôn nơm nớp lo sợ mọi thứ, 
trở  nên tự  ti, không kiểm soát được cuộc sống của mình. Đó chính là kết quả  mà  
nguyên nhân không có tiếng nói và quyền lực đem lại. Kể cả khi họ tham gia được 
các cuộc họp của cộng đồng thì họ  cũng không thể  quyết định được vấn đề  gì dù 
rằng vấn đề đó liên quan đến lợi ích của chính họ.

6. Trinh đô hoc vân, Nghê nghiêp
̀
̣ ̣
́
̀
̣
Người   nghèo   thường   làm   những   công   việc   đơn   giản,   lao   động   chân   tay 
nhiều, công việc cực nhọc nhưng thu nhập chẳng được là bao. Hơn thế nữa, những  
công việc này lại thường rất bấp bênh, không ổn định, nhiều công việc phụ  thuộc  
vào thời vụ  và có tính rủi ro cao do liên quan nhiều đến thời tiết (chẳng hạn như 
mưa,  nắng,  lũ  lụt,  hạn  hán,  động  đất...).  Các  nghề   thuộc  về  nông nghiệp,  lâm  
nghiệp, ngư nghiệp là những ví dụ cho vấn đề này. Do thu nhập thấp nên việc chi  

tiêu cho cuộc sống của những người nghèo là rất hạn chế. 
Hầu hết những người nghèo không đủ điều kiện học đến nơi đến chốn. Tỷ 
lệ  thất học, mù chữ   ở  hộ  nghèo, đói cao. Có tình trạng như  vậy là do các gia đình 
này không thể trang trải được các chi phí về  học tập của con cái họ  như  tiền học  
phí, tiền sách vở... đi học, họ sẽ mất đi một lao động trong gia đình. Những người  
nghèo cũng đã nhận thức rõ được tầm quan trọng của học thức với nghèo đói nhưng  
vấn đề  học phí của con em họ  quả là vấn đề  quá khó khăn với tình hình tài chính  
của gia đình. 
Câu 7. Sức khỏe, dinh dưỡng
­ Sức khỏe:
Nhìn chung người nghèo là những người thường xuyên làm những công việc 
nặng nhọc, môi trường độc hại nên tình hình sức khỏe và thể lực của họ tương đối  
không được tốt, thường xuyên làm việc một cách lao lực.


Họ ít quan tâm đến việc chăm sóc sức khỏe cho bản thân cũng như gia đình, 
gánh nặng cơm áo, gạo tiền mỗi ngày đều là vấn đề họ quan tâm nhất.
Đa số người nghèo đều được nhà nước hỗ trợ về BHYT nhưng hiếm khi họ 
sử dụng đến, vì họ  ít được tiếp cận đến các dịch vụ, cơ  sở y tế  chất lượng. Mặc  
khác, vì số  chi phí còn lại cũng nằm ngoài khả  năng chi trả  của người nghèo nên  
tình hình sức khỏe của họ cũng chưa được cải thiện.
­ Dinh dưỡng:
Dựa trên tháp dinh dưỡng, để đảm bảo dinh dưỡng cho cơ thể, chúng ta cần  
đáp  ứng đầy đủ  các chất dinh dưỡng. Tuy nhiên, bữa ăn của người nghèo thường  
không được đáp ứng đầy đủ như vậy.
Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng hoặc những chương trình thực tế, 
chúng ta dễ nhận thấy được những bữa ăn của họ rất đơn sơ, thậm chí chỉ có cơm 
và rau….Điều đó ảnh hưởng lớn đến sức khỏe, sức đề kháng của mình. Ảnh hưởng 
đến sự phát triển của trẻ em trong các hộ gia đình, hạn chế về thể lực và trí lực.
8. Khu vực sinh sống chủ yếu

Theo chuẩn nghèo giai đoạn 2016­2020 đã được Thủ  tướng Chính phủ  ban 
hành,   tiêu   chí   về   thu   nhập,   chuẩn   nghèo   ở   khu   vực   nông   thôn   là   8,4   triệu 
đồng/người/năm; khu vực thành thị  10,8 triệu đồng/người/năm. Riêng TP HCM đã 
nâng chuẩn nghèo của thành phố  là thu nhập bình quân đầu người lên 21 triệu  
đồng/năm. Đến nay thành phố  HCM không còn hộ  nghèo theo chuẩn nghèo chung 
của cả  nước. Đặc biệt có ba quận đó là Quận 3, Quận 5 và Quận 6 đã hoàn toàn 
xóa nghèo. Tuy nhiên, vẫn còn khoảng 19.000 hộ thuộc diện chuẩn nghèo của thành 
phố, trong đó tập trugn tại các quận/huyện như: Quận 12, huyện Hóc Môn, huyện  
Bình Chánh, huyện Cần Giờ,... Đáng chú ý nhất đó là huyện Bình Chánh có tỉ lệ cao 
nhất toàn thành phố. 
Đa số  người nghèo chủ  yếu là người di cư  từ  nông thôn ra thành thị  và  
thường sống lâu  ở đây vì mục đích kinh tế. Họ không có hộ khẩu, không có nhà ở 
ổn định, làm công nhân hoặc lang thang kiếm sống, tạo thành những khu  ổ  chuột,  
sống lênh đênh trên những con kênh, dưới gầm cầu…
Câu 9. Nguyên nhân dẫn đến nghèo đói
­ Nguồn lực còn hạn chế và nghèo nàn
Người  nghèo thường  thiếu  nhiều nguồn  lực.   Người  nghèo  ở   TP  Hồ   Chí 
Minh đa số  là sản xuất nông nghiệp, công nhân các nhà máy, xí nghiệp nhỏ  lẻ,... . 


Họ   thường   chọn   phương   án   tự   cung   tự   cấp,   người   nghèo   họ   thường   giữ   các  
phương thức sản xuất truyền thống vì vậy chỉ mang lại giá trị kinh tế thấp.
­ Trình độ học vấn thấp, thiếu việc làm và không ổn định
Trình độ  học vấn thấp khiến người nghèo ít có cơ  hội kiếm được việc làm  
tốt và ổn định.
Mức thu nhập không ổn định chỉ đủ để đảm bảo cho nhu cầu thiết yếu hàng 
ngày, vì vậy họ  đã không có điều kiện nâng cao trình độ  của mình trong tương lai  
để thoát nghèo.
Trình độ học vấn thấp không chỉ ảnh hưởng đến thu nhập mà còn liên quan 
đến các vấn đề về giáo dục, nuôi dưỡng, sinh đẻ, giáo dục con cái…

Trình độ học vấn thấp làm hạn chế khả năng kiếm việc làm trong các ngành 
nghề  khác, những công việc sẽ  mang lại thu nhập cao và  ổn định. Nếu tìm được 
chỗ  làm thì họ  chỉ  là lao động phổ  thông, khó có thể  tìm được việc làm tốt hơn  
trong các ku công nghiệp, khu chế xuất.



×