1
GIỚI THIỆU NGHIÊN CỨU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Thị trường chứng khoán Việt Nam trong những năm gần đây đã có sự biến đổi
mạnh mẽ về số lượng các công ty niêm yết. Tính đến ngày 31/12/2015 cả nước có
660 doanh nghiệp được niêm yết trên hai sàn chứng khoán Hà Nội (HNX) và Thành
2
doanh nghiệp kiểm toán?”
Câu hỏi nghiên cứu cụ thể:
Câu hỏi 1: Quy mô công ty được kiểm toán có ảnh hưởng như thế nào tới quyết
định lựa chọn doanh nghiệp kiểm toán?
phố Hồ Chí Minh (HOSE). Kiểm toán độc lập có vai trò quan trọng thị trường chứng
Câu hỏi 2: Mức độ phức tạp trong hoạt động của công ty có ảnh hưởng tới
quyết định lựa chọn doanh nghiệp kiểm toán như thể nào?
khoán ở Việt Nam, là một trong các căn cứ quan trọng trong việc cung cấp thông tin
hỗ trợ các đối tượng sử dụng thông tin ra quyết định. Với mong muốn tìm hiểu các căn
Câu hỏi 3: Tỷ lệ sở hữu của các nhà đầu tư nước ngoài có ảnh hưởng ra sao đối
với quyết định lựa chọn doanh nghiệp kiểm toán?
cứ mà doanh nghiệp ở Việt Nam sử dụng để lựa chọn doanh nghiệp kiểm toán cung
cấp các dịch vụ kiểm toán báo cáo tài chính và các dịch vụ khác, tác giả thực hiện
nghiên cứu “Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng tới quyết định lựa chọn doanh
Câu hỏi 4: Tỷ lệ Nợ phải trả của công ty có ảnh hưởng như thế nào đến việc lựa
chọn công ty kiểm toán?
nghiệp kiểm toán của các công ty phi tài chính niêm yết trên thị trường chứng
khoán Việt Nam”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Thứ nhất, tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến lựa chọn doanh nghiệp kiểm toán
của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán ở Việt Nam.
Thứ hai, xây dựng mô hình nghiên cứu, giả thuyết nghiên cứu về các nhân tố
ảnh hưởng tới quyết định lựa chọn doanh nghiệp kiểm toán ; đánh giá mức độ ảnh
hưởng của từng yếu tố
Thứ ba, giúp người sử dụng thông tin nhận diện được thực tiễn lựa chọn doanh
nghiệp kiểm toán độc lập, đánh giá được độ tin cậy của thông tin tài chính làm cơ sở
cho việc ra các quyết định.
Thứ tư, cung cấp những thông tin đáng tin cậy cho các doanh nghiệp kiểm toán
độc lập về căn cứ lựa chọn doanh nghiệp kiểm toán của các công ty, những mong
muốn và yêu cầu đối với dịch vụ kiểm toán mà doanh nghiệp kiểm toán cung cấp, giúp
Câu hỏi 5: Tỷ lệ lãi ròng có ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn doanh nghiệp
kiểm toán hay không?
Câu hỏi 6: Công ty niêm yết trên sàn chứng khoán HNX và công ty niêm yết
trên sàn chứng khoán HOSE có khác nhau trong lựa chọn doanh nghiệp kiểm toán hay
không?
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận án nghiên cứu các yếu tố thuộc về đặc điểm của
doanh nghiệp như quy mô doanh nghiệp, tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài trong
doanh nghiệp, tính chất phức tạp trong hoạt động của doanh nghiệp, tỷ lệ Nợ phải trả
trong tổng tài sản, tỷ lệ lãi ròng của doanh nghiệp, nơi doanh nghiệp niêm yết.
Phạm vi nghiên cứu: Luận án tập trung nghiên cứu về các yếu tố có ảnh hưởng
tới quyết định lựa chọn công ty kiểm của các doanh nghiệp phi tài chính niêm yết trên
thị trường chứng khoán Việt Nam mà có báo cáo tài chính năm phải được kiểm toán
bởi các doanh nghiệp kiểm toán độc lập.
các doanh nghiệp kiểm toán có cơ sở đề xuất các chính sách kinh doanh, quản lý chất
lượng dịch vụ kiểm toán, tìm cách cải thiện và đáp ứng như cầu, mong muốn của
khách hàng đối với dịch vụ kiểm toán.
5. Phương pháp nghiên cứu
Thứ năm, đề xuất các kiến nghị với các cơ quan Nhà nước trong lĩnh vực kế
toán, kiểm toán trong việc đổi mới và hoàn thiện các chính sách quản lý vĩ mô nhằm
kiểm soát và giám sát thị trường dịch vụ kiểm toán tại Việt Nam.
nghiệp kiểm toán của các doanh nghiệp nước ngoài, xác định các yếu tố lựa chọn
tương đồng với đặc điểm của Việt Nam.
3. Câu hỏi nghiên cứu:
Câu hỏi nghiên cứu chung: “Những yếu tố nào ảnh hưởng tới quyết định lựa chọn
- Nghiên cứu tài liệu và tổng quan các công trình nghiên cứu của các tác giả
trong, ngoài nước nhằm tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn doanh
- Phỏng vấn sâu một số nhà quản lý doanh nghiệp ở Việt Nam để nhận diện các
căn cứ lựa chọn doanh nghiệp kiểm toán của các doanh nghiệp, xây dựng mô hình
nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn
doanh nghiệp kiểm toán của các doanh nghiệp ở Việt Nam.
3
- Thu thập dữ liệu của 276 doanh nghiệp niêm yết trên Sở giao dịch chứng
khoán Thành phố Hồ Chí Minh và Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội trong 3 năm
2013, 2014, 2015 và thực hiện kiểm định mô hình nghiên cứu
6. Ý nghĩa của Luận án
Về mặt lý luận: nghiên cứu được thực hiện nhằm hệ thống hóa lại các lý thuyết
nghiên cứu về sự lựa chọn dịch vụ nói chung và dịch vụ kiểm toán độc lập nói riêng,
xây dựng được mô hình nghiên cứu với các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn
doanh nghiệp kiểm toán của các doanh nghiệp Việt Nam.
4
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ
LỰA CHỌN DOANH NGHIỆP KIỂM TOÁN
1.1 Cơ sở lý thuyết về nhu cầu đối với dịch vụ kiểm toán
1.1.1 Lý thuyết hành vi mua
Theo Sheth et al. (1991) khi người mua quyết định mua một sản phẩm, dịch vụ, sẽ
có năm giá trị tiêu dùng tác động đến hành vi mua, bao gồm giá trị chức năng, giá trị
điều kiện, giá trị xã hội, giá trị tri thức và giá trị cảm xúc.
Về mặt thực tiễn:
Thứ nhất, các nghiên cứu về kiểm toán có liên quan đến các nhân tố cơ bản tác
động đến quyết định lựa chọn doanh nghiệp kiểm toán của các doanh nghiệp tại Việt
Mô hình của Sheth hoàn toàn có thể được vận dụng vào mô tả sự lựa chọn đối với
dịch vụ kiểm toán độc lập. Theo đó, giá trị của dịch vụ kiểm toán độc lập thể hiện ở cả
năm nội dung chính là giá trị chức năng và giá trị xã hội, giá trị điều kiện, giá trị tri
Nam chưa được các nhà nghiên cứu thực hiện.
Thứ hai, Kết quả nghiên cứu chỉ ra những căn cứ lựa chọn doanh nghiệp kiểm
toán của các doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay một cách đầy đủ, có căn cứ khoa học
và luận giải rõ ràng dựa trên kết quả phỏng vấn sâu và dữ liệu của 276 doanh nghiệp
niêm yết trên thị trường chứng khoán trong năm 2015.
Thứ ba, kết quả nghiên cứu cũng là cơ sở để các cơ quan quản lý nhà nước về
lĩnh vực kế toán kiểm toán, các hiệp hội nghề nghiệp có một cái nhìn đầy đủ và rõ ràng
thức và giá trị cảm xúc. Giá trị chức năng của kiểm toán theo quan điểm của Sheth, thể
hiện tính hữu ích của dịch vụ kiểm toán không chỉ đối với doanh nghiệp được kiểm
toán mà còn hữu ích cả đối với các đối tượng sử dụng thông tin, các cơ quan quản lý
nhà nước. Giá trị xã hội của kiểm toán thể hiện qua việc lựa chọn các thương hiệu
đúng đắn và phù hợp, mang lại tính minh bạch cho thông tin tài chính. Giá trị điều
kiện của kiểm toán được hiểu là độ hữu dụng nhận được từ một phương án lựa chọn
doanh nghiệp kiểm toán trong điều kiện có rất nhiều nhà cung cấp dịch vụ kiểm toán.
toàn cảnh bức tranh lựa chọn doanh nghiệp kiểm toán của các doanh nghiệp Việt Nam,
qua đó đề ra các chính sách quản lý vĩ mô nhằm kiểm soát và giám sát thị trường dịch
vụ kiểm toán độc lập tại Việt Nam
Giá trị điều kiện này có thể hiểu là những lợi ích khác mà các doanh nghiệp kiểm toán
có thể mang lại cho khách hàng ngoài dịch vụ chính là kiểm toán báo cáo tài chính.
Giá trị tri thức của kiểm toán theo quan điểm của tác giả, được thể hiện thông qua
Thứ tư, Kết quả nghiên cứu là cơ sở giúp các doanh nghiệp kiểm toán độc lập
đưa ra các chiến lược và chính sách kinh doanh phù hợp
Thứ năm, nghiên cứu thực hiện phân tích và đánh giá những điểm riêng khác
biệt trong mô hình sự lựa chọn doanh nghiệp kiểm toán của các doanh nghiệp Việt
mong muốn về chất lượng dịch vụ kiểm toán báo cáo tài chính và các dịch vụ khác.
Còn giá trị cảm xúc của dịch vụ kiểm toán đó là sự hài lòng với nhà cung cấp dịch vụ,
hài lòng với nhân viên, từ đó kích thích các nhà quản lý tiếp tục lựa chọn mua cho các
lần tiếp sau. Năm lợi ích hay giá trị của dịch vụ kiểm toán là căn cứ để các doanh
Nam so với các nước có hoạt động kiểm toán phát triển trên thế giới với luận cứ khoa
học rõ ràng, đầy đủ.
nghiệp ra quyết định lựa chọn doanh nghiệp kiểm toán.
7. Kết cấu của Luận án: Luận án có kết cấu gồm 4 chương:
Chương 1: Cơ sở lý thuyết và tổng quan nghiên cứu về lựa chọn doanh
nghiệp kiểm toán
Chương 2: Phương pháp nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu
Chương 3: Kết quả nghiên cứu
Chương 4: Kết luận và khuyến nghị
1.1.2 Vai trò của kiểm toán độc lập
Các nhà quản lý doanh nghiệp đưa ra quyết định thuê kiểm toán với mục đích
giảm các chi phí đại diện do sự bất cân xứng thông tin gia tăng trong môi trường nội
bộ. Bất cân xứng về thông tin xảy ra theo bốn cấp độ:
Cấp độ thứ nhất là sự bất cân xứng giữa những người điều hành và những
người đại diện cho các cổ đông – Hội đồng quản trị.
Cấp độ thứ hai là sự bất cân xứng về thông tin giữa các cổ đông và các thành
viên hội đồng quản trị (người đại diện cho các cổ đông).
5
6
Cấp độ bất cân xứng về thông tin thứ ba xuất hiện khi các cổ đông của một
doanh nghiệp ngày càng tăng. Kiểm toán viên sẽ giúp khôi phục lại sự cân bằng nội
công ty muốn phát hành cổ phiếu ra công chúng, sự bất cân xứng về thông tin giữa
những người điều hành, chủ sở hữu và những nhà đầu tư tương lai là lớn nhất bởi vì
thực tế là giá cổ phiếu không phụ thuộc vào giá trị sổ sách của tài sản.
bộ, nâng cao hiệu quả trong các doanh nghiệp được kiểm toán và giảm sự khác biệt
trong các hoạt động, các bộ phận doanh nghiệp (Knechel et al., 2008).
Cấp độ thứ tư là sự bất cân xứng về thông tin giữa các bên hữu quan (Nhà
nước, ngân hàng, nhà cung cấp, người lao động…) và những người sở hữu và điều
hành công ty.
Kinney and McDaniel (1989) rằng khi quy mô của một doanh nghiệp tăng lên,
khả năng kiểm soát các quy trình kinh doanh và kiểm soát doanh nghiệp của các nhà
quản lý giảm. Thuê kiểm toán viên độc lập giúp khôi phục lại sự cân bằng trong nội bộ
doanh nghiệp vì kiểm toán giúp nâng cao hiệu quả trong các công ty được kiểm toán
và làm giảm sự phân tán của các phòng ban (Knechel et al., 2008).
Việc mở rộng quy mô doanh nghiệp ra quốc tế cũng có thể nảy sinh vấn đề như
tuân thủ quy định khác nhau về thuế ở các nước. Lợi ích khác phát sinh từ một cuộc
kiểm toán bao gồm cải thiện hiệu quả hoạt động do kiểm toán viên đánh giá các quy
trình nội bộ, ngăn chặn các hành động phi pháp quản lý hoạt động, tăng tuân thủ các
quy định pháp lý.
1.1.4 Giả thuyết thông tin về vai trò cung cấp thông tin tài chính tin cậy của
kiểm toán
Theo "Giả thuyết Thông tin", kiểm toán viên bên ngoài có thể nâng cao chất lượng
thông tin được doanh nghiệp cung cấp, do đó nâng cao chất lượng của các thông tin tài
chính cung cấp cho người sử dụng hỗ trợ người sử dụng thông tin trong việc ra các
quyết định kinh tế.
Giả thuyết về thông tin này có giá trị bao hàm cả việc các nhà quản lý doanh
nghiệp muốn thay đổi doanh nghiệp kiểm toán hiện tại sang một doanh nghiệp kiểm
toán khác với mong muốn trì hoãn việc công bố thông tin tài chính không tốt của
doanh nghiệp.
1.1.5 Giả thuyết bảo hiểm về vai trò bảo đảm độ tin cậy thông tin tài chính với
người sử dụng thông tin
Giả thuyết này đề cập đến hoạt động kiểm toán của một tổ chức như là một
“Giả thuyết bảo hiểm” (Insurance Hypothesis) đề xuất rằng cuộc kiểm toán
được coi là một chính sách bảo hiểm đối với nhà đầu tư. Giả thuyết này cho rằng các
doanh nghiệp kiểm toán hoạt động như một công ty bảo hiểm đối với các nhà đầu tư,
với các ngân hàng, các nhà quản lý...
phương tiện để làm giảm chi phí phát sinh từ những xung đột về lợi ích giữa những
người chủ sở hữu và người quản lý (Jensen and Meckling, 1976), Watts and
Zimmerman, 1983).
Giả thuyết bảo hiểm cho thấy nhu cầu về kiểm toán được bắt nguồn từ trách nhiệm
của các bên tham gia vào các hoạt động tài chính, liên quan đến công bố thông tin cho
nhà đầu tư (Wallace, 1980). Bằng cách sử dụng một doanh nghiệp kiểm toán tham gia
Trong môi trường của một doanh nghiệp, DeFond (1992) xác định hai nhân tố
vào kiểm tra các hoạt động tài chính có thể giảm tổn thất dự kiến về tranh tụng của
doanh nghiệp bằng cách chuyển một phần tổn thất dự kiến về các doanh nghiệp kiểm
toán.
1.1.3 Giả thuyết quản lý về vai trò kiểm toán đối với hoạt động quản lý doanh
nghiệp
liên quan tới nhu cầu về giám sát bên ngoài của doanh nghiệp đó là (1) sự khác nhau
trong vai trò giữa người quản lý và chủ sở hữu, người sở hữu phải tôn trọng các hành
động của người quản lý và (2), khả năng quan sát không hoàn hảo của chủ sở hữu đối
với các hành động của các nhà quản lý.
1.2 Tổng quan nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến lựa chọn doanh nghiệp
kiểm toán
Hoàn thiện kiểm soát về quản lý nội bộ của doanh nghiệp cũng được coi là một lý
do giải thích cho các nhu cầu kiểm toán của doanh nghiệp.
Quá trình phỏng vấn sâu các nhà quản lý doanh nghiệp cho thấy, sự lựa chọn
doanh nghiệp kiểm toán có thể chịu tác động từ 3 nhóm yếu tố:
Công việc kiểm toán có thể cung cấp một số lợi ích nội bộ cho một công ty chẳng
Một là, các yếu tố thuộc về đặc điểm của các doanh nghiệp kiểm toán bao gồm
chất lượng kiểm toán, danh tiếng, giá phí của doanh nghiệp kiểm toán.
hạn như cải thiện hiệu quả quá trình, tăng sự tuân thủ pháp luật và các quy định hoặc
giảm bất đối xứng thông tin nội bộ.
Xu hướng quốc tế hóa theo định hướng toàn cầu hóa đang gia tăng, sự mở rộng
các mối quan hệ với các bên tham gia bên ngoài đã khiến cho sự phức tạp trong nội bộ
7
Hai là, nhóm yếu tố thuộc về đặc điểm của doanh nghiệp như quy mô, tính
phức tạp trong hoạt động của doanh nghiệp, tỷ lệ sở hữu, lợi nhuận của doanh
nghiệp…
Ba là, nhóm yếu tố khác như yếu tố về thể chế, văn hóa, trình độ, nhận thức của
các nhà quản lý doanh nghiệp.
Tuy nhiên, trong khuôn khổ nghiên cứu của mình, tác giả chỉ đề cập đến ảnh
hưởng của hai nhóm yếu tố đến sự lựa chọn doanh nghiệp kiểm toán của doanh nghiệp
đó là nhóm yếu tố thuộc về doanh nghiệp kiểm toán và nhóm yếu tố thuộc về các công
8
Abdel- Khalik (1993) tìm thấy một mối quan hệ tích cực giữa nhu cầu cho kiểm toán
viên bên ngoài và mức độ phức tạp trong tổ chức của doanh nghiệp.
1.2.4 Nghiên cứu nhu cầu nợ của doanh nghiệp và sự lựa chọn doanh nghiệp
kiểm toán
Reed và cộng sự (2000) dự đoán rằng các công ty lựa chọn một doanh nghiệp
kiểm toán thuộc các công ty "Big Four" để giúp cho việc đàm phán nợ được nhiều
1.2.1 Chất lượng kiểm toán và danh tiếng doanh nghiệp kiểm toán, giá phí
hơn. Titman and Trueman (1986) cho thấy các nhà quản lý của các công ty có tỷ lệ nợ
nhiều nhất có nhiều khả năng lựa chọn doanh nghiệp kiểm toán có chất lượng thấp.
Theo Jensen (1993), khoản nợ là một yếu tố có thể xác định được các chi phí vay nợ
của doanh nghiệp rõ ràng, cụ thể hơn, có thể kiểm soát được các cuộc xung đột giữa
kiểm toán trong quá trình lựa chọn doanh nghiệp kiểm toán
lợi ích của các cổ đông và các nhà quản lý.
ty được kiểm toán.
Klein and Leffler (1981) đã đưa ra định nghĩa về chất lượng: “Chất lượng đề
cập đến mức độ một số đặc tính mong muốn là tốt”. DeAngelo (1981) cũng đã đưa ra
một định nghĩa ngắn gọn về chất lượng kiểm toán “Chất lượng dịch vụ kiểm toán được
định nghĩa là việc đánh giá doanh nghiệp kiểm toán trên 2 đặc khía cạnh: Thứ nhất:
Đó là việc doanh nghiệp kiểm toán có phát hiện ra những sai phạm của khách hàng
hay không? Thứ hai: là việc doanh nghiệp kiểm toán báo cáo những sai phạm này”
1.2.2 Nghiên cứu về tác động về sở hữu trong doanh nghiệp đối với sự lựa
chọn doanh nghiệp kiểm toán
Theo El Ghoul và cộng sự (2007), khi cơ cấu sở hữu của doanh nghiệp gồm
nhiều cổ đông thì có sự sụt giảm trong nhu cầu về doanh nghiệp kiểm toán chất lượng
cao. Điều này phù hợp với nghiên cứu của Laeven and Levine (2005) cho rằng khi
doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu kiểm soát, hoạt động giám sát nội bộ sẽ tốt hơn, và
do đó, theo Thornton and Moore (1993) doanh nghiệp ưu tiên thuê một doanh nghiệp
kiểm toán chất lượng thấp hơn.
Các doanh nghiệp tìm kiếm tài chính ở nước ngoài hoặc các đối tác nước ngoài
có nhiều khả năng để thuê một doanh nghiệp kiểm toán quốc tế, bởi các doanh nghiệp
kiểm toán này có sự hiểu biết với hệ thống kế toán và chuẩn mực kế toán quốc tế.
1.2.3 Nghiên cứu về ảnh hưởng các đặc điểm nội bộ của doanh nghiệp đối với
sự lựa chọn doanh nghiệp kiểm toán
Lennox (2005), với nghiên cứu về mối quan hệ giữa quy mô doanh nghiệp và
nhu cầu doanh nghiệp kiểm toán có chất lượng cao, cho thấy một có mối quan hệ tích
cực giữa quy mô doanh nghiệp và sự lựa chọn doanh nghiệp kiểm toán chất lượng cao.
1.2.5 Nghiên cứu về thay đổi doanh nghiệp kiểm toán
Nghiên cứu của Bagherpour (2004) về sự thay đổi doanh nghiệp kiểm toán của
các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Iran cho thấy, khi các công ty có sự
thay đổi quyền sở hữu và thay đổi các thành viên trong hội đồng quản trị thì dẫn tới sự
thay đổi doanh nghiệp kiểm toán. Philip and Siegel (2008) cho rằng lý do mà các
doanh nghiệp kiểm toán không tiếp tục thực hiện kiểm toán cho khách hàng nữa và
buộc khách hàng của doanh nghiệp kiểm toán phải thay đổi doanh nghiệp kiểm toán
xuất phát từ các lý do của khách hàng như kiểm soát nội bộ yếu kém, phát sinh các vấn
đề tranh chấp kiện tụng. Stefaniak và cộng sự (2009) chỉ ra rằng chi phí kiểm toán
cũng là một trong nhiều nguyên nhân chính dẫn đến việc thay đổi doanh nghiệp kiểm
toán.
9
10
CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ GIẢ THUYẾT
NGHIÊN CỨU
2.1 Quy trình nghiên cứu
Ý tưởng
nghiên
cứu
Nghiên cứu
tài liệu, tổng
quan nghiên
cứu
Phỏng vấn
sâu các
nhà quản
lý
Xây dựng mô
hình nghiên cứu
và giả thuyết
nghiên cứu
2.2.3 Giả thuyết nghiên cứu và mô hình nghiên cứu
2.2.3.1 Quyết định chọn doanh nghiệp kiểm toán
Big Four là các doanh nghiệp kiểm toán có tổng doanh số lớn nhất 2.394 tỷ
trong tổng số 2.847 tỷ của 10 công ty, chiếm 84,1% doanh thu của 10 công ty lớn nhất,
và cũng là 4 doanh nghiệp có tổng số lượng khách hàng, tổng số nhân viên nhiều nhất.
Đây là lý do tác giả chọn biến phụ thuộc là sự lựa chọn doanh nghiệp kiểm toán thuộc
Big Four hay nhóm doanh nghiệp kiểm toán không phải là Big Four.
2.2.3.2 Mức độ phức tạp trong hoạt động của doanh nghiệp ảnh hưởng đến việc
Kết luận
Kiểm định
giả thuyết,
mô hình
nghiên cứu
Thu thập
dữ liệu, mã
hóa dữ liệu
Chọn mẫu
Thiết kế
nghiên cứu
và mẫu
lựa chọn doanh nghiệp kiểm toán
Sự phức tạp của doanh nghiệp được đo lường qua: Quy mô doanh nghiệp, doanh
nghiệp có công ty con, tỷ lệ hàng tồn kho và nợ phải thu trong tổng tài sản. Các nghiên
Hình 2.1 Quy trình nghiên cứu
cứu Abbott and Parker (2000), Piot (2001), Fan and Wong (2005), Kane and Velury
2.2 Khung lý thuyết nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định lựa
chọn doanh nghiệp kiểm toán
tố có ảnh hưởng tới sự lựa chọn doanh nghiệp kiểm toán có uy tín. Quy mô doanh
2.1.1 Quy định của pháp luật về kiểm toán báo cáo tài chính công ty đại
chúng
được đề cập trong tài liệu của các nhà nghiên cứu như Chow, 1982; DeFond, 1992;
Pháp luật về chứng khoán (Quyết định số 89/2007/QĐ-BTC) quy định báo cáo
tài chính năm của công ty đại chúng là các tổ chức niêm yết, tổ chức phát hành chứng
khoán phải được kiểm toán bởi doanh nghiệp kiểm toán được chấp thuận.
Chương VI Luật kiểm toán độc lập (năm 2011) đã quy định về kiểm toán báo
cáo tài chính báo cáo tài chính đơn vị có lợi ích công chúng, trong đó có công ty niêm
yết.
2.2.2 Khung lý thuyết nghiên cứu về lựa chọn doanh nghiệp kiểm toán của
các công ty niêm yết
Các nhóm yếu tố có ảnh hưởng đến lựa chọn công ty kiểm toán của các doanh
(2005), Lennox (2005) cho thấy quy mô của doanh nghiệp được kiểm toán là một yếu
nghiệp là một biến xác định bởi logarit tự nhiên của tổng tài sản của một doanh nghiệp
Broye and Weill, 2008; Knechel et al. (2008). Giả thuyết nghiên cứu:
H1 Quy mô doanh nghiệp có ảnh hưởng tích cực đến việc lựa chọn doanh
nghiệp kiểm toán chất lượng cao
Phù hợp với Knechel et al. (2008), tác giả nghiên cứu sự lựa chọn doanh nghiệp
kiểm toán chất lượng cao trong mối quan hệ với sự phức tạp bên trong của tổ chức.
Knechel et al. (2008) cho rằng có một mối quan hệ giữa số lượng giao dịch thực hiện
trong doanh nghiệp và tính phức tạp của nó, hay nói cách khác số lượng các giao dịch
mua bán thể hiện tính phức tạp trong hoạt động của một doanh nghiệp, được đo lường
qua chỉ tiêu Nợ phải thu và hàng tồn kho, hợp với Stice (1991) và Hay, Knechel and
nghiệp ở Việt Nam bao gồm hai nhóm nhân tố:
Wong (2006). Giả thuyết nghiên cứu:
Một là, các nhân tố liên quan đến doanh nghiệp được kiểm toán như quy mô
doanh nghiệp, tỷ lệ nợ, tỷ lệ lãi ròng, tỷ lệ sở hữu của các nhà đầu tư nước ngoài, có
công ty con, nơi (sàn) doanh nghiệp niêm yết.
H2 : Tỷ lệ hàng tồn kho và nợ phải thu trên tổng tài sản có ảnh hưởng tích
cực đến việc lựa chọn doanh nghiệp kiểm toán chất lượng cao.
Hai là, các nhân tố thuộc về doanh nghiệp kiểm toán như chất lượng, thương
hiệu của doanh nghiệp kiểm toán.
công ty con, và nhận giá trị 0 khi một công ty không có công ty con. Theo nghiên cứu
của Ge and Mc.Vay (2005) khi doanh nghiệp có quy mô lớn với nhiều công ty con thì
thường nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp hơn và do đó sự kiểm soát của công ty mẹ với
Knechel (2004) sử dụng biến giả GROUP, sẽ nhận giá trị 1 khi một công ty có
11
12
công ty con sẽ yếu hơn. Vì vậy cần có sự gia tăng giám sát với các công ty con thông
H6: Các doanh nghiệp có Tỷ lệ lãi ròng trên tổng tài sản (ROA) cao có xu
hướng không lựa chọn các doanh nghiệp kiểm toán chất lượng cao
qua các doanh nghiệp kiểm toán chất lượng cao. Giả thuyết nghiên cứu:
H3: Doanh nghiệp có công ty con thường có xu hướng lựa chọn các doanh
nghiệp kiểm toán chất lượng cao
2.2.3.3 Tỷ lệ sở hữu của các nhà đầu tư nước ngoài với việc lựa chọn doanh
nghiệp kiểm toán
Các công ty tìm kiếm tài chính ở nước ngoài hoặc các đối tác nước ngoài có
nhiều khả năng để thuê một công ty kiểm toán quốc tế bởi tính chất toàn cầu của các
công ty kiểm toán này. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài cho
rằng các công ty kiểm toán quốc tế có sự am hiểu với hệ thống kế toán nước ngoài
hoặc chuẩn mực kế toán quốc tế. Các công ty kiểm toán quốc tế sẽ đáng tin cậy hơn,
có thể giúp doanh nghiệp gia tăng thêm độ tin cậy cho các báo cáo tài chính trong mắt
của người sử dụng thông tin này (Citrone and Manalis, 2000). Giả thuyết nghiên cứu:
H4: Tỷ lệ sở hữu của các nhà đầu tư nước ngoài có ảnh hưởng tích cực đến
quyết định lựa chọn doanh nghiệp kiểm toán chất lượng cao
2.2.3.4 Tỷ lệ nợ của doanh nghiệp trong tổng tài sản có ảnh hưởng đến việc lựa
chọn doanh nghiệp kiểm toán
Chow (1982), lý do làm cho chi phí của doanh nghiệp gia tăng đó là do việc gia
tăng tỷ lệ nợ trong cơ cấu vốn. Knechel et al., 2008, sử dụng hệ số tổng nợ phải trả
trên tổng tài sản (DEBT_ASSET) như là một biến để đo tỷ lệ nợ trong một công ty.
Một số nghiên cứu trước đây (ví dụ Sundgren, 1998; Broye and Weill, 2008), sử dụng
các định nghĩa khác nhau của đòn bẩy tài chính này, họ đã điều tra tác động của đòn
bẩy dựa vào sự lựa chọn một doanh nghiệp kiểm toán. Giả thuyết nghiên cứu:
H5 : Tỷ lệ nợ phải trả của doanh nghiệp có ảnh hưởng tích cực với việc lựa
chọn doanh nghiệp kiểm toán chất lượng cao
Sự khác biệt lớn về quy mô của các doanh nghiệp niêm yết trên hai sàn HNX và
HOSE có thể ảnh hưởng đến sự lựa chọn doanh nghiệp kiểm toán của các công ty
niêm yết. Đây là lý do tác giả đưa thêm biến HOSE vào mô hình để đánh giá xem có
sự khác biệt của các doanh nghiệp niêm yết trên hai sàn chứng khoán với sự lựa chọn
doanh nghiệp kiểm toán hay không. Biến HOSE nhận giá trị bằng 0 khi doanh nghiệp
niêm yết trên sàn HOSE và nhận giá trị là 1 khi doanh nghiệp được chọn niêm yết trên
sàn HNX.
Giả thuyết nghiên cứu:
H7: Có sự khác biệt trong việc lựa chọn doanh nghiệp kiểm toán giữa các
doanh nghiệp niêm yết trên sàn HNX và HOSE
Mô hình nghiên cứu:
AUDCHOICE = β0 + β1SIZE + β2INVREC + β3GROUP + β4FORSHA + β5
DEB_ASSETS + β6 ROA + β7 HOSE + Ui
2.3 Phương pháp thu thập và xử lý dữ liệu nghiên cứu
2.3.1 Phương pháp lấy mẫu
n=
1+
Trong đó: N: Là số lượng tổng thể, n: Cỡ mẫu, e: là sai số tiêu chuẩn
Theo đó, nếu tổng thể doanh nghiệp niêm yết trên hai sàn HNX và HOSE là 698
doanh nghiệp, độ chính xác 95%, sai số tiêu chuẩn là +-5% thì số lượng mẫu cần chọn
là: 255 doanh nghiệp. Trong quá trình lấy mẫu, số lượng mẫu được gia tăng lên 276
doanh nghiệp bởi doanh nghiệp được chọn theo tỷ lệ của từng ngành để phục vụ phân
tích đảm bảo tính khách quan cho các nhóm ngành khác nhau.
2.2.3.5 Tỷ lệ lãi ròng có ảnh hưởng đến việc lựa chọn doanh nghiệp kiểm toán
của doanh nghiệp
2.3.2 Tổng hợp và phân tích dữ liệu
Johnson và Lys (1990) xác định ROA là một biến mà có thể liên quan đến việc lựa
chọn doanh nghiệp kiểm toán. Phù hợp với lập luận này, Abbott và Parker (2000) đưa
ra giả thuyết rằng ROA có ảnh hưởng tích cực đến việc thúc đẩy ngành dịch vụ đặc
biệt, ngành kiểm toán. Một lập luận khác cho rằng, khi các công ty có lợi nhuận cao thì
AUDCHOICE là biến định tính nhận hai giá trị 0,1 (=1 Nếu doanh nghiệp chọn
một trong các công ty Big4 ; =0 nếu các doanh nghiệp không chọn các doanh nghiệp
kiểm toán thuộc Big4). Tác giả sử dụng hồi quy Binary Logistic trong SPSS20 để
kiểm định mô hình nghiên cứu.
sẽ có khả năng chi trả được những khoản phí kiểm toán cao hơn. Các nhà nghiên cứu
đã tìm thấy mối tương quan tích cực, nhưng không đáng kể giữa ROA và việc lựa
chọn các doanh nghiệp kiểm toán. Giả thuyết nghiên cứu: