Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Tóm tắt Luận án tiến sĩ Kinh tế: Nghiên cứu phát triển sản xuất dâu tằm bền vững tại tỉnh Thái Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (481.72 KB, 27 trang )

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

LÊ HỒNG VÂN

NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT
DÂU TẰM BỀN VỮNG TẠI TỈNH THÁI BÌNH

Chuyên ngành:
Mã số:

Kinh tế nông nghiệp
9.62.01.15

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ

NHÀ XUẤT BẢN HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP - 2018


Công trình hoàn thành tại:
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

Người hướng dẫn: 1. TS. NGUYỄN TẤT THẮNG
2. PGS.TS. TRẦN HỮU CƯỜNG

Phản biện 1: GS. TS. Hoàng Ngọc Việt
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Phản biện 2: PGS. TS. Phạm Bảo Dương
Học viện Nông nghiệp Việt Nam

Phản biện 3: PGS. TS. Trần Quang Huy
Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh,


Đại học Thái Nguyên

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng đánh giá luận án cấp Học viện họp tại:
Học viện Nông nghiệp Việt Nam
Vào hồi

giờ, ngày

tháng

năm 2018

Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Trung tâm Thông tin - Thư viện Lương Định Của, Học viện Nông
nghiệp Việt Nam


PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Trồng dâu, nuôi tằm là một nghề truyền thống đã đi cùng với đất nước trong
suốt chiều dài lịch sử và gắn liền với người nông dân Việt nam, nhất là ở vùng
Đồng bằng sông Hồng. Sản xuất dâu tằm có bộ mặt hoàn toàn khác biệt với các hoạt
động nông nghiệp khác. Nó vừa mang đặc điểm của trồng trọt vừa có đặc điểm của
chăn nuôi, vừa kết hợp với công nghiệp chế biến. Trải qua hàng ngàn năm sản xuất
dâu tằm có ý nghĩa xã hội rất sâu sắc và mang đậm tính nhân văn.
Thái Bình là một tỉnh đồng bằng, địa hình bằng phẳng. Điều kiện tự nhiên, xã
hội tương đối thuận lợi cho sản xuất dâu tằm. Hiện nay, Thái Bình có tổng diện tích
dâu là 406,5 ha. Sản xuất dâu tằm đem lại việc làm, thu nhập cho 2.905 hộ dân. Năm
2015, Thái Bình sản xuất được 857 tấn kén; năng suất kén tằm đạt 2.108 kg/ha dâu,

giá trị sản xuất dâu tằm đạt 81,84 tỷ đồng. Sản xuất dâu tằm đã khai thác tốt tiềm
năng sẵn có của địa phương và góp phần phát triển kinh tế xã hội của Tỉnh.
Tuy nhiên, sản xuất dâu tằm tỉnh Thái Bình luôn biến động và phát triển
không bền vững. Thời kỳ phong kiến, với 2.000ha dâu, sản phẩm của nghề đã đáp
ứng hầu như toàn bộ nhu cầu mặc từ áo the, quần đũi cho đến gấm vóc lụa là. Giai
đoạn Pháp thuộc, dâu tằm sa sút nhanh chóng, có lúc chỉ còn 650ha. Sau 1954, sản
xuất phát triển nhanh, diện tích dâu đạt gần 1.500ha. Từ năm 1985, dâu tằm lại giảm
dần. Trong 10 năm gần đây, diện tích dâu đã giảm tới 65,1%.
Mặc dù là nghề truyền thống nhưng sản xuất dâu tằm như bị quên lãng và gặp
phải nhiều khó khăn như: sản xuất nhỏ lẻ cả về quy mô diện tích, đầu tư cơ sở vật chất
cũng như trang bị kỹ thuật. Xu thế công nghiệp hóa và hiện đại hóa ngày càng mạnh mẽ
nhưng sản xuất dâu tằm vẫn nặng tính thủ công và được thực hiện hoàn toàn tại các nông
hộ theo kiểu mạnh ai nấy làm. Việc mở rộng quy mô hoặc liên kết giữa các hộ để sử
dụng hiệu quả hơn các yếu tố sản xuất gặp rất nhiều trở ngại. Vì vậy, sản xuất kém phát
triển và thiếu bền vững, rất cần quan tâm nghiên cứu.
Từ trước đến nay đã có một số nghiên cứu về sản xuất dâu tằm nhưng mới chỉ
tập trung làm rõ những vấn đề cụ thể về sản xuất, về các biện pháp kỹ thuật, hay chỉ
đánh giá về kết quả, hiệu quả kinh tế mà chưa có nghiên cứu nào đi sâu về phát triển
sản xuất, để thấy được thuận lợi, khó khăn, giải pháp thúc đẩy phát triển sản xuất
dâu tằm bền vững và từng bước khắc phục tình trạng kém phát triển, thiếu bền vững
mà Thái Bình lâu nay chưa giải quyết được.
1.2. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI
1.2.1. Mục tiêu chung
Đánh giá thực trạng phát triển, mức độ bền vững sản xuất dâu tằm trên địa bàn
tỉnh Thái Bình, phân tích các yếu tố ảnh hưởng. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải
pháp chủ yếu nhằm phát triển sản xuất dâu tằm bền vững tại tỉnh Thái Bình trong thời
gian tới.
1



1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa và làm rõ được các vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển sản
xuất dâu tằm bền vững.
- Đánh giá thực trạng phát triển, tính bền vững, chỉ ra những kết quả đạt được,
những tồn tại, hạn chế và phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển sản
xuất dâu tằm bền vững trên địa bàn tỉnh Thái Bình.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển sản xuất dâu tằm bền vững
tại tỉnh Thái Bình trong thời gian tới.
1.2.3. Câu hỏi nghiên cứu
1) Khái niệm, vị trí vai trò, đặc điểm, nội dung và các tiêu chí đánh giá phát
triển sản xuất dâu tằm bền vững là gì?
2) Những bài học kinh nghiệm nào từ thực tiễn trong và ngoài nước có thể áp
dụng cho tỉnh Thái Bình?
3) Thực trạng phát triển sản xuất dâu tằm tỉnh Thái Bình như thế nào? mức độ
bền vững ra sao? Còn tồn tại những hạn chế, bất cập gì?
4) Những yếu tố nào ảnh hưởng đến phát triển sản xuất dâu tằm bền vững và
ảnh hưởng như thế nào trên địa bàn tỉnh?
5) Cần có những giải pháp nào nhằm phát triển sản xuất dâu tằm tỉnh Thái
Bình theo hướng bền vững trong thời gian tới?
1.3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển
sản xuất dâu tằm bền vững trên địa bàn tỉnh, được cụ thể hóa ở các đối tượng khảo
sát là các hộ nông dân, các tổ chức kinh tế xã hội và các cơ chế chính sách.
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Về nội dung: Nghiên cứu thực trạng phát triển, tính bền vững; đánh giá kết quả
đạt được, tồn tại hạn chế; phân tích các yếu tố ảnh hưởng; xác định mục tiêu, định
hướng và các giải pháp chủ yếu nhằm phát triển sản xuất dâu tằm bền vững trên địa
bàn nghiên cứu. Đề tài nghiên cứu giới hạn trong phạm vi trồng dâu nuôi tằm sản
xuất kén.

Về không gian: Nghiên cứu phát triển sản xuất dâu tằm bền vững trên địa bàn
tỉnh Thái Bình. Cụ thể là thực hiện trên phạm vi 5 huyện đang trồng dâu nuôi tằm của
tỉnh Thái Bình là Vũ Thư, Hưng Hà, Quỳnh Phụ, Đông Hưng và Tiền Hải
Về thời gian: Đề tài tiến hành nghiên cứu, phân tích và đánh giá thực trạng
phát triển sản xuất dâu tằm đến năm 2015. Xác định mục tiêu, đề xuất các giải pháp
phát triển bền vững đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Số liệu về tình hình
phát triển sản xuất dâu tằm qua 10 năm từ 2006 đến 2015. Số liệu điều tra được tiến
hành trong thời gian gần nhất (năm 2015).
1.4. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI
- Về lý luận: Đã làm rõ phát triển sản xuất dâu tằm bền vững là quá trình thực
hiện các nội dung như quy mô, tổ chức, đầu tư, kỹ thuật, liên kết để tạo ra sản phẩm
2


kén tằm ngày càng tăng dần về lượng, tiến bộ về chất, đồng thời có sự kết hợp chặt
chẽ, hài hòa giữa kinh tế với xã hội và môi trường trong hiện tại cũng như tương lai.
Nghiên cứu cũng đã làm rõ được các vấn đề như vai trò, đặc điểm, các yếu tố ảnh
hưởng chủ yếu, tiêu chí đánh giá phát triển sản xuất dâu tằm bền vững (về kinh tế, về
xã hội và về môi trường).
- Về phương pháp: Luận án đã sử dụng cách cho điểm theo các tiêu chí phát
triển bền vững để đánh giá mức độ phát triển bền vững của sản xuất dâu tằm tỉnh
Thái Bình. Cách đánh giá này có giá trị tham khảo tốt cho các đề tài nghiên cứu về
phát triển sản xuất bền vững những sản phẩm nông nghiệp tương tự.
- Về thực tiễn: Đã tổng kết thực tiễn phát triển sản xuất dâu tằm bền vững ở
một số nước trên thế giới và một số địa phương, từ đó đúc rút thành 7 bài học kinh
nghiệm cho sản xuất dâu tằm tỉnh Thái Bình nói riêng và cho nước ta nói chung.
Luận án đã đánh giá một cách có hệ thống thực trạng phát triển sản xuất dâu
tằm tỉnh Thái Bình, cung cấp cơ sở dữ liệu về diện tích, năng suất, sản lượng, kết quả,
hiệu quả và các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển sản xuất dâu tằm bền vững của tỉnh.
Các dữ liệu này có giá trị tham khảo tốt cho các nhà quản lý, các nhà chỉ đạo sản

xuất, các nhà nghiên cứu và giảng dạy. Các giải pháp mà luận án đề xuất cho tỉnh
Thái Bình có giá trị tham khảo cho nhiều địa phương nuôi tằm khác.
1.5. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
Luận án khẳng định rằng đối với vùng truyền thống như Thái Bình, sản xuất
dâu tằm vẫn có cơ hội để phát triển và phát triển bền vững, trái ngược với một số
quan điểm phổ biến hiện nay là sản xuất dâu tằm đã hết vai trò lịch sử.
Trong 10 năm qua, sản xuất dâu tằm tỉnh Thái Bình có bước tiến đáng kể theo
chiều sâu, nhưng suy giảm mạnh theo chiều rộng. Mức độ phát triển theo chiều sâu
chưa đủ bù đắp được mức sụt giảm theo chiều rộng. Sản xuất dâu tằm trên địa bàn
tỉnh thời gian qua là kém phát triển, thiếu bền vững.
Thực tế sản xuất dâu tằm tỉnh Thái Bình đang tồn tại rất nhiều khó khăn bất
cập trong cả sản xuất lẫn tiêu thụ sản phẩm. Trong đó, khó khăn lớn nhất là đang nuôi
tằm đa hệ kén vàng, chưa nuôi được tằm kén trắng. Trong số 06 yếu tố ảnh hưởng, thì
thị trường, giá cả là yếu tố trực tiếp làm cho sản xuất suy giảm mạnh
Để sản xuất dâu tằm phát triển bền vững, Thái Bình cần thay đổi định hướng,
quay lại nuôi tằm lấy tơ nhưng nuôi tằm lưỡng hệ kén trắng thì mới có hiệu quả, kết
hợp với ươm tơ tự động thì mới phù hợp với xu thế và nhu cầu thị trường. Để thay
đổi định hướng cần thực hiện đồng bộ 10 giải pháp, trong đó đặc biệt nhấn mạnh giải
pháp tổ chức nuôi tằm con tập trung, kiện toàn hệ thống các tác nhân, nâng cấp công
nghệ nuôi tằm và phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm.
1.6. BỐ CỤC CỦA LUẬN ÁN
Nội dung luận án gồm 5 phần được trình bày trong 148 trang. Phần mở đầu bao
gồm 5 trang, phần 2 từ trang 6 đến trang 39, phần 3 từ trang 40 đến trang 57, phần 4
từ trang 58 đến trang 145, phần 5 có 3 trang.
3


PHẦN 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
2.1.1. Khái niệm

Phát triển là phạm trù triết học chỉ ra tính chất của những biến đổi đang diễn ra
trong thế giới. Triết học siêu hình xem phát triển chỉ là sự tăng lên đơn thuần về
lượng. Triết học duy vật biện chứng quan niệm “Phát triển là sự gia tăng dần về
lượng và tiến bộ về chất của sự vật, hiện tượng”. Đó là quá trình vận động tiến lên từ
thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Sản xuất, theo Từ điển tiếng Việt, là hoạt động tạo ra của cải vật chất nói chung.
Trên thế giới, đã có nhiều học giả đưa ra khái niệm sản xuất dựa trên các cách tiếp
cận khác nhau như: nguồn gốc của cải, phạm vi hoạt động tạo ra của cải ... Dưới góc
độ nội dung của nó, các nhà kinh doanh cho rằng: “Sản xuất là quá trình phối hợp và
điều hòa các yếu tố đầu vào để tạo ra sản phẩm hàng hóa hoặc dịch vụ đầu ra”. Đó
chính là quá trình thực hiện các nội dung như tổ chức, quy mô, đầu tư, kỹ thuật, liên
kết... để tạo ra sản phẩm.
Thuật ngữ “Phát triển bền vững” xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1980 trong
“Chiến lược bảo tồn Thế giới”, của Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên quốc
tế (IUCN). Sau đó được phổ biến rộng rãi vào năm 1987 nhờ báo cáo “Tương lai
chung của chúng ta” (còn gọi là báo cáo Brundtland). Nội hàm về phát triển bền vững
được tái khẳng định tại Rio De Janeiro, Brasil và được bổ sung hoàn chỉnh tại hội
nghị Johannesburg, Cộng hoà Nam Phi năm 2002: “Phát triển bền vững là quá trình
phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý, hài hòa giữa 3 mặt của sự phát triển, gồm
phát triển kinh tế, cải thiện các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường”.
Từ các khái niệm kể trên, tác giả đưa ra khái niệm: “Phát triển sản xuất dâu tằm bền
vững là quá trình thực hiện các nội dung như quy mô, tổ chức, đầu tư, kỹ thuật, liên kết để
tạo ra sản phẩm kén tằm ngày càng tăng dần về lượng và tiến bộ về chất, đồng thời có sự
kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa mục tiêu kinh tế với việc thực hiện tốt các vấn đề
xã hội và bảo vệ môi trường trong hiện tại cũng như tương lai”.
2.1.2. Vai trò phát triển sản xuất dâu tằm bền vững
Phát triển sản xuất dâu tằm bền vững đóng vai trò quan trọng đối với người nông
dân, doanh nghiệp, hợp tác xã và tư thương. Vai trò của phát triển sản xuất dâu tằm bền
vững thể hiện trên các khía cạnh: (1) Giúp cho sản xuất dâu tằm tăng tiến, ổn định; (2)
Khai thác tốt các nguồn lực, nâng cao hiệu quả kinh tế; (3) Gắn kết các tác nhân, giúp họ

có thu nhập ổn định; (4) Tạo công ăn, việc làm ổn định, góp phần xóa đói giảm nghèo bền
vững; (5) Phát huy kinh nghiệm sản xuất, củng cố nghề truyền thống, góp phần ổn định an
ninh, an toàn xã hội; (6) Góp phần cải thiện môi trường.
2.1.3. Đặc điểm phát triển sản xuất dâu tằm bền vững
Sản xuất dâu tằm có bộ mặt hoàn toàn khác biệt với các hoạt động nông nghiệp
khác. Phát triển sản xuất dâu tằm bền vững có một số đặc điểm sau: (1) Phát triển kết
hợp giữa chăn nuôi và trồng trọt; (2) Sản xuất mang tính thời vụ rất cao; (3) Sản
4


phẩm mang tính hàng hóa cao; (4) Gắn kết chặt chẽ giữa sản xuất, thu mua và chế
biến; (5) Sản xuất sử dụng nhiều lao động; và (6) Nguy cơ dịch bệnh rất cao.
2.1.4. Nội dung phát triển sản xuất dâu tằm bền vững
Dựa trên khái niệm, đặc điểm đối tượng nghiên cứu, luận án đã xác định rõ nội
dung phát triển sản xuất dâu tằm bền vững gồm: 1) Phát triển quy mô sản xuất; 2)
Phát triển các hình thức tổ chức sản xuất; 3) Phát triển đầu tư cho sản xuất; 4) Phát
triển kỹ thuật sản xuất; 5) Phát triển liên kết trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm; 6) Kết
quả và hiệu quả phát triển sản xuất.
2.1.5. Tiêu chí đánh giá phát triển sản xuất dâu tằm bền vững
Đối với sản xuất dâu tằm, phát triển bền vững về kinh tế: thể hiện phát triển có
hiệu quả các nguồn lực hiện có về đất đai, đầu tư, kỹ thuật, tổ chức, liên kết để tăng
quy mô sản xuất, chuyển dịch về cơ cấu, tạo ra kết quả ngày càng tăng và hiệu quả
sản xuất theo hướng tiến bộ; Phát triển bền vững về xã hội: biểu hiện giải quyết được
công ăn việc làm, góp phần xóa đói giảm nghèo, đảm bảo bình đẳng cơ hội việc làm,
thu nhập cho phụ nữ; Phát triển bền vững về môi trường: bảo đảm khai thác tài
nguyên hợp lý, sử dụng các dạng tài nguyên thiên nhiên tái tạo trong phạm vi chịu tải
của chúng. Hoạt động sản xuất không gây ô nhiễm và làm tổn hại đến môi trường.
Ngược lại, môi trường không tác động tiêu cực đến sản xuất.
2.1.6. Các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển sản xuất dâu tằm bền vững
Luận án đã xác định 6 yếu tố có ảnh hưởng lớn đến phát triển sản xuất dâu tằm

bền vững là: i) Chủ trương, chính sách; ii) Quy hoạch cho phát triển; iii) Năng lực
trình độ của cán bộ; iv) Nhận thức, hiểu biết của người sản xuất; v) Sự hỗ trợ, trợ
giúp của các cấp, các ngành, các tác nhân; và vi) Thị trường, giá cả.
2.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN
2.2.1. Thực tiễn về phát triển sản xuất dâu tằm bền vững trên thế giới
Nghiên cứu phát triển sản xuất dâu tằm bền vững tại một số nước trên thế giới
cho thấy sức sống mãnh liệt của sản xuất dâu tằm mặc dù đã phải đối mặt với 3 cuộc
khủng hoảng lớn, có lúc tưởng chừng như khó vượt qua là khủng hoảng về dịch bệnh,
khủng hoảng tâm lý khi xuất hiện tơ nhân tạo và khủng hoảng về kỹ thuật khi sợi
nilông được phổ biến. Thấy được sản xuất dâu tằm không còn nguy cơ bị tiêu diệt nữa
và nhu cầu ngày càng tăng nhanh một cách đặc biệt. Qua nghiên cứu đã thấy rõ xu
hướng nuôi tằm lưỡng hệ kén trắng, gắn kết chặt chẽ với ươm tơ tự động chất lượng
cao, thấy được tầm quan trọng của cơ quan phụ trách, sự cần thiết của công tác quy
hoạch, chính sách huy động sức dân và doanh nghiệp. Đã có được bài học về tổ chức
nuôi tằm con tập trung, về đầu tư vốn, hạ tầng, đổi mới kỹ thuật về giống, chăm sóc,
nuôi tằm trên nền nhà, phòng bệnh; về đào tạo nông dân và thị trường tiêu thụ.
2.2.2. Thực tiễn về phát triển sản xuất dâu tằm bền vững ở Việt Nam
Sau nhiều giai đoạn thăng trầm, từ năm 2009 đến nay sản xuất dâu tằm đã dần
đi vào ổn định và có triển vọng. Đã xuất hiện nhiều địa phương sản xuất dâu tằm phát
triển tốt như Lâm Đồng diện tích dâu tằm tăng 12,1 %/năm; Yên Bái 26,8 %/năm và
Sơn La 5,5 %/năm. Các địa phương nói trên đều có khí hậu ôn hòa, mát mẻ thích hợp
5


nuôi tằm lưỡng hệ kén trắng chất lượng cao. Qua nghiên cứu ở các địa phương này đã
thấy rõ tầm quan trọng của chính quyền, vai trò của cán bộ trong phát triển sản xuất.
Để có bước tiến mạnh mẽ trong thời gian qua, các địa phương đã có nhiều biện pháp
như quy hoạch sản xuất, phát triển nuôi tằm con tập trung, áp dụng kỹ thuật nuôi tằm
lớn trên nền nhà, thay đổi giống dâu mới năng suất cao cùng các biện pháp kỹ thuật,
đầu tư thâm canh cao hơn và phòng trừ bệnh hại có hiệu quả hơn. Trong khi đó công

nghiệp ươm tơ đang chuyển biến nhanh theo hướng ươm tơ tự động đã tạo ra thị
trường tiêu thụ ổn định cho sản xuất.
2.2.3. Bài học kinh nghiệm rút ra từ nghiên cứu phát triển sản xuất dâu tằm bền
vững cho tỉnh Thái Bình
Qua nghiên cứu thực tiễn về phát triển sản xuất dâu tằm bền vững trong và
ngoài nước, thấy rằng đối với vùng truyền thống như Thái Bình sản xuất dâu tằm vẫn
có thể phát triển và phát triển bền vững. Bài học kinh nghiệm được rút ra cho Thái
Bình là: (1) Thái Bình cần xem dâu tằm là vốn quý, từ đó có chủ trương, quy hoạch,
kế hoạch phát triển bài bản, chính sách hỗ trợ rõ nét; (2) Chuyển sang nuôi tằm lưỡng
hệ kén trắng thì mới có hiệu quả, kết hợp với ươm tơ tự động thì mới phù hợp với xu
thế; (3) Tổ chức sản xuất thành hai giai đoạn tằm con và tằm lớn; (4) Áp dụng mạnh
mẽ tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất; (5) Nâng cao nhận thức, hiểu biết của người sản
xuất là hết sức cần thiết; (6) Gắn kết chặt chẽ sản xuất với thị trường tiêu thụ; (7)
Nâng cao ý thức trong bảo vệ môi trường, phòng trừ dịch bệnh.
PHẦN 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
Luận án đã khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế-xã hội, vị trí sản xuất dâu tằm
trong ngành nông nghiệp để phân tích, đánh giá những mặt thuận lợi, khó khăn và các
yếu tố tác động đến sự phát triển sản xuất dâu tằm bền vững của tỉnh. Dâu tằm là
nghề truyền thống nên được chính quyền địa phương ủng hộ. Trình độ dân trí cao và
kinh nghiệm nuôi tằm là những thuận lợi cơ bản cần được khai thác. Tuy nhiên, diện
tích dâu của nông hộ không nhiều, khó khăn trong việc tích tụ để có thể trở thành sản
xuất lớn; tâm lý sản xuất nhỏ, mạnh mún, tận dụng, luôn xem nuôi tằm là hoạt động
sản xuất phụ nhằm kiếm thêm thu nhập trong lúc nông nhàn; khí hậu nóng ẩm không
thuận lợi cho nuôi tằm nhất là tằm lưỡng hệ; lực lượng lao động nông nghiệp đang
giảm là những khó khăn chính cần từng bước khắc phục.
3.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.2.1. Phương pháp tiếp cận
Nghiên cứu áp dụng các phương pháp tiếp cận như tiếp cận theo hệ thống sản
xuất, tiếp cận phát triển bền vững, tiếp cận theo các tác nhân và tiếp cận có sự tham

gia để nghiên cứu phát triển sản xuất dâu tằm bền vững tại tỉnh Thái Bình.
3.2.2. Khung phân tích
Trên cơ sở các nội dung đã được xác định, các yếu tố ảnh hưởng và hướng đề
xuất các giải pháp, khung phân tích được thể hiện tại hình 3.1.
6


Lý luận
phát triển
sản xuất
dâu tằm
bền vững

Thực tiễn
phát triển
sản xuất
dâu tằm
bền vững

THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT
DÂU TẰM TỈNH THÁI BÌNH
-Phát triển quy mô sản xuất
-Phát triển các hình thức tổ chức
-Phát triển đầu tư cho sản xuất
-Phát triển kỹ thuật trong sản xuất
-Phát triển liên kết sản xuất và tiêu thụ
-Kết quả hiệu quả phát triển sản xuất

Đánh giá
theo tiêu

chí PTBV
-Về kinh tế
-Về Xã hội
-Về môi
trường

YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN PTBV SX DÂU TẰM
- Chủ trương chính sách
- Quy hoạch
- Năng lực của cán bộ
- Nhận thức của người SX
- Hỗ trợ của các cấp, các ngành, các tác nhân
- Thị trường giá cả

Quan
điểm,
định
hướng,
mục tiêu
yêu cầu
PT sản
xuất dâu
tằm bền
vững tỉnh
THÁI
BÌNH

GIẢI
PHÁP
PHÁT

TRIỂN
SX DÂU
TẰM
BỀN
VỮNG
TỈNH
THÁI
BÌNH

Điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức
PTBV sản xuất dâu tằm tỉnh Thái Bình

Hình 3.1. Khung phân tích phát triển sản xuất dâu tằm bền vững
3.2.3. Phương pháp chọn điểm, chọn mẫu nghiên cứu
Phương pháp chọn điểm: 5 huyện sản xuất dâu tằm của tỉnh được chọn làm
điểm nghiên cứu là Vũ Thư, Hưng Hà, Quỳnh Phụ, Đông Hưng và Tiền Hải.
Số lượng mẫu điều tra: 352 hộ sản xuất dâu tằm; 30 người thu gom kén, ươm
tơ; 15 cán bộ có liên quan ở cấp tỉnh, huyện và xã (công thức Yamane, 1973)
Phương pháp chọn mẫu điều tra: chọn ngẫu nhiên theo tỷ lệ tại các điểm.
3.2.4. Phương pháp thu thập thông tin và dữ liệu
Thông tin thứ cấp: Là các thông tin đã công bố qua các nguồn khác nhau như
báo cáo, số liệu thống kê, sách, báo, internet... có liên quan đến nội dung nghiên cứu.
Thông tin sơ cấp: Được thu thập bằng 2 phương pháp: Điều tra chọn mẫu bằng
phỏng vấn trực tiếp đối tượng điều tra với bảng câu hỏi đã chuẩn bị sẵn. Phương pháp
đánh giá nhanh nông thôn có sự tham gia của người dân nhằm thu thập các thông tin
trong việc lựa chọn các ý kiến để xác định những vấn đề bất cập trong sản xuất.
3.2.5. Phương pháp phân tích thông tin
Số liệu thu thập được xử lý bằng phần mềm Excel. Các phương pháp phân tích
được sử dụng như thống kê mô tả, so sánh, phân tích kinh tế, phân tích SWOT để thấy
được thực trạng sản xuất và đưa ra các giải pháp cho địa bàn. Đánh giá mức độ phát

triển bền vững bằng phương pháp cho điểm theo 3 tiêu chí về kinh tế, xã hội và môi
trường. Trong từng tiêu chí, cho điểm từng chỉ tiêu theo thang đo: Rất bền vững (4
điểm), bền vững (3 điểm), kém bền vững (2 điểm) và không bền vững (1 điểm). Tổng số
điểm của các tiêu chí (E) được phân tích để đánh giá mức độ bền vững như sau: Rất
bền vững: 40 điểm ≥ E ≥ 35 điểm; Bền vững: 35 điểm > E ≥ 25 điểm; Kém bền vững:
25 > E ≥ 15 điểm; Không bền vững: E < 15 điểm.
7


3.2.6. Hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu
Các chỉ tiêu nghiên cứu gồm bốn nhóm: Nhóm chỉ tiêu phản ánh tốc độ phát
triển sản xuất về kinh tế (điều kiện sản xuất của hộ, các chỉ tiêu phản ánh tình hình
sản xuất, tình hình tiêu thụ, kết quả và hiệu quả sản xuất); Nhóm chỉ tiêu phản ánh
tốc độ phát triển sản xuất về xã hội (số hộ, số lao động sản xuất dâu tằm, tuổi bình
quân, trình độ giáo dục, tỷ lệ lao động được đào tạo, khả năng tiếp cận tiến bộ kỹ
thuật, tỷ lệ hộ nghèo, sự tham gia của phụ nữ); Nhóm chỉ tiêu phản ánh tốc độ phát
triển sản xuất về môi trường (mức độ ô nhiễm đất, nước, không khí, tỷ lệ thất thu do
dịch bệnh, tỷ lệ thất thu do ảnh hưởng của thuốc trừ sâu từ các hoạt động nông nghiệp
khác). Bộ chỉ tiêu đánh giá tính bền vững phát triển sản xuất dâu tằm được xây dựng
cụ thể theo 3 tiêu chí: về kinh tế, về xã hội và về môi trường.
PHẦN 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. BỐI CẢNH VỀ SẢN XUẤT DÂU TẰM TỈNH THÁI BÌNH
Sản xuất dâu tằm được hình thành trong quá trình mở mang, khai canh, lập ấp
diễn ra vào giai đoạn triều Lý, cuối thế kỷ XII đầu thế kỷ XIII. Trong suốt thời phong
kiến, dâu tằm phát triển, đáp ứng đủ nhu cầu mặc cho nhân dân, diện tích dâu có lúc
đạt 2.000ha. Thời kỳ Pháp thuộc, đã có nhiều biện pháp khuyến khích trồng dâu, nuôi
tằm, nhưng do ảnh hưởng của tơ nhân tạo và khủng hoảng kinh tế đầu những năm 30
làm dâu tằm sa sút chỉ còn khoảng 650ha. Trong kháng chiến, sản xuất bị đình trệ do
ảnh hưởng của chiến tranh.
Sau năm 1954, nhân dân lại tiếp tục sản xuất. Hầu hết những vùng dâu lớn trong

tỉnh, các trại giống, nhà máy tơ, trạm nghiên cứu đã được xây dựng. Với sự hình thành,
trợ giúp của Cục Dâu tằm, Chi cục tằm tơ Thái Bình cũng như sự hỗ trợ của các cấp các
ngành nên dâu tằm rất hưng thịnh. Thời kỳ phát triển nhất đạt gần 1.500ha.
Năm 1985, Cục dâu tằm chuyển thành Liên hiệp các xí nghiệp dâu tằm tơ (sau
này là Tổng công ty) xác định vùng truyền thống phía bắc không phù hợp nuôi tằm
lưỡng hệ kén trắng chất lượng cao nên đã chuyển vào Lâm đồng. Tại Thái Bình, Chi cục
tằm tơ cũng giải thể từ đó kéo theo nhiều hệ lụy, trong bối cảnh áp lực cạnh tranh ngày
một tăng nên dâu tằm ngày càng giảm sút, đến năm 2006 còn 1.166ha.
Từ 2006 đến nay, sản xuất dâu tằm lấy tơ gặp trở ngại nên sụt giảm rất mạnh, diện
tích dâu tằm chỉ còn 406,5 ha, nông dân phải chuyển sang nuôi tằm lấy nhộng làm thực
phẩm. Như vậy có thể thấy rằng sản xuất dâu tằm tỉnh Thái Bình là một nghề truyền thống
có quá trình phát triển rất thăng trầm, chưa thực sự phát triển bền vững.
4.2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT DÂU TẰM TỈNH THÁI BÌNH
4.2.1. Thực trạng phát triển quy mô sản xuất dâu tằm
Giai đoạn 2006 – 2009, là thời gian khó khăn đối với sản xuất dâu tằm Thái
Bình. Thị trường tiêu thụ kén tằm lấy tơ gặp nhiều trở ngại dẫn đến diện tích dâu và
số hộ nuôi tằm trên địa bàn giảm mạnh, bình quân diện tích dâu giảm 19,4 %/năm, số

8


hộ nuôi tằm giảm 20,9 %/năm. Từ năm 2009 đến nay, thị trường tiêu thụ nhộng làm
thực phẩm mở ra đã tác động tích cực đến sản xuất giúp diện tích dâu giảm ít hơn.
Số hộ nuôi tằm (hộ)

Diện tích dâu (

10.000

2.000


8.863
8.000

1.600

6.251 6.006
6.000

1.200

4.233 4.438 4.177 4.146

1.166

3.678

4.000

854

2.911 2.905

821
595

2.000

605


596

595

528

800

400

407

0

406,5
0

2006

2007

2008

2009

2010

2011

2012


2013

2014

2015 Năm

Biểu đồ 4.1. Biến động quy mô sản xuất dâu tằm Thái Bình từ năm 2006 - 2015

Quy mô sản xuất của hộ nhỏ, diện tích dâu trung bình là 1.363m2, tăng 10,8% so
với năm 2006. Tuy nhiên, không phải các hộ trồng thêm dâu mà do diện tích dâu giảm
mạnh và giảm nhiều ở các hộ có diện tích dâu nhỏ. Cơ cấu diện tích dâu của hộ theo quy
mô có tiến bộ, thay đổi từ nhóm hộ có diện tích 720 - 1.080m2 chiếm tỷ lệ cao nhất trước
đây đã dịch chuyển sang nhóm hộ 1.080 - 1.440m2 hiện nay.
Tỷ lệ % 35
32.47

30

24.57

25

18.95

20
15

12


10
5

6.16

3.32

2.54

0

Dưới
360m2

360720m2

7201080m2

1.0801440m2

1.4401800m2

18002160m2

Trên
2160m2

Biểu đồ 4.2. Cơ cấu quy mô diện tích dâu của nông hộ năm 2015

4.2.2. Thực trạng phát triển các hình thức tổ chức sản xuất dâu tằm

Khảo sát trên địa bàn cho thấy sản xuất dâu tằm được thực hiện hoàn toàn theo
mô hình nông hộ nhỏ lẻ, không có nông hộ quy mô lớn hay trang trại nuôi tằm.
Trồng dâu và nuôi tằm thực hiện khép kín trong từng nông hộ và theo hình thức một
giai đoạn. Hợp tác xã có vai trò hạn chế trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Sản xuất
rất rời rạc và thiếu tổ chức, ngày nào cũng có hộ băng tằm, có hộ bán kén. Thái Bình
rất cần phải tổ chức sản xuất thành hai giai đoạn: tằm con riêng và tằm lớn riêng
như kinh nghiệm của nhiều địa phương khác.
4.2.3. Thực trạng đầu tư trong sản xuất dâu tằm
Của Nhà nước: cơ sở hạ tầng cho sản xuất được đầu tư tốt vào những năm 60 và
70 thế kỷ trước gồm 03 trại giống tằm, 02 nhà máy ươm tơ và 01 trạm nghiên cứu. Ngày
nay, các trại giống đã chuyển thành Công ty CP giống tằm Thái Bình. Nhà nước đang hỗ
9


trợ kinh phí nuôi giữ giống gốc với mức hỗ trợ tăng bốn lần trong 5 năm qua. Trạm
nghiên cứu Dâu tằm Việt Hùng thực hiện nhiệm vụ khoa học công nghệ do Nhà nước
giao, kinh phí nghiên cứu tăng trung bình 20,46%/năm. Các nhà máy ươm tơ đều đã giải
thể. Đầu tư cho vùng sản xuất nằm trong đầu tư chung cho nông nghiệp mà không có
các chính sách khuyến khích riêng.
Của doanh nghiệp: sức thu hút đầu tư của các doanh nghiệp rất thấp. Thời
gian qua, đầu tư chủ yếu là của các doanh nghiệp gia đình. Đối với doanh nghiệp lớn,
chỉ ghi nhận được trường hợp doanh nghiệp tơ tằm Phú Khánh đầu tư nhà máy ươm
tơ cơ khí và sản xuất sợi Spunsilk nhưng không duy trì được lâu.
Của dân: Đất đai đã được giao từ năm 1993, đến nay không có biến động lớn.
Đất trồng dâu của hộ nhỏ. Diện tích dâu hiện chiếm 78,37% tổng diện tích đất nông
nghiệp nên khả năng mở rộng có hạn. Đầu tư quan trọng là nhà nuôi tằm nhưng nhiều
hộ sử dụng nhà ở sẵn có. Số hộ có phòng nuôi riêng đạt 54,7% và đang tăng chậm.
Diện tích nhà nuôi tằm trung bình 25m2, tăng 5,06 %/năm. Số hộ đầu tư điều hòa cho
nuôi tằm tăng nhanh 189 %/năm. Chi phí đầu vào cho ruộng dâu chủ yếu là các loại
phân bón với mức đầu tư thấp. Chi phí cho nuôi tằm chiếm tỷ lệ 56%. Trong đó, chi

phí trứng tằm là chủ yếu.
Như vậy, đầu tư của nhà nước trong các giai đoạn trước ngày càng mai một.
Đầu tư cho sản xuất hiện nay vừa thấp, vừa chưa tập trung vào những vấn đề trọng
tâm. Không thu hút được đầu tư của doanh nghiệp. Nhà máy ươm tơ cũ không còn,
các cơ sở ươm tơ hiện tại nhỏ, năng lực hạn chế. Nhà nuôi tằm của dân có tiến bộ
đáng kể. Đặc biệt là số hộ đầu tư điều hòa nhiệt độ tăng nhanh (đạt 12,3%) đã mở ra
triển vọng nuôi tằm lưỡng hệ kén trắng trong điều kiện nóng ẩm của Thái Bình.
4.2.4. Thực trạng phát triển kỹ thuật trong sản xuất dâu tằm
4.2.4.1. Giống
Giống dâu: trước đây Thái Bình sử dụng các giống bản địa, năng suất thấp 12-15
tấn lá/ha. Từ 1980, có nhiều giống mới đưa vào sản xuất như tam bội số 12 trồng bằng
hom, các giống dâu lai VH9, VH13, VH15 trồng bằng hạt. Giống mới có tiềm năng đạt
năng suất 25-30 tấn/ha nhưng đòi hỏi thâm canh cao (Hà Văn Phúc, 2003). Thái Bình có
khả năng cung cấp đủ nhu cầu giống dâu nhưng hiện nay giống dâu năng suất cao mới
đạt 32,4%, tốc độ mở rộng chậm, trung bình 1,57 %/năm.
Giống tằm: Ngày trước, dân nuôi tằm đa hệ kén vàng năng suất thấp 7-8
kg/vòng trứng. Tằm đa hệ khỏe, dễ nuôi nhưng ít tơ. Từ cuối thập kỷ 60, bắt đầu nuôi
tằm lưỡng hệ kén trắng cho năng suất cao 12-13kg/vòng. Giống này kén tốt, nhiều tơ
nhưng khó nuôi trong điều kiện Thái Bình nên nông dân thường sử dụng giống đa hệ
lai với lưỡng hệ (đa hệ lai) cho năng suất, chất lượng kén cao hơn giống đa hệ nhưng
dễ nuôi hơn giống lưỡng hệ. Năng suất kén đạt 10-11 kg/vòng. Năm 2007, giống tằm
đa hệ lai chiếm 95,72%. Từ năm 2008, bắt đầu nuôi tằm lấy nhộng làm thực phẩm thì
quay trở lại nuôi giống đa hệ như trước. Hiện nay, giống tằm đa hệ chiếm 63,14%;
giống tằm đa hệ lai chỉ còn chiếm 32,58%. Khi chuyển sang nuôi tằm đa hệ thì việc
cung cấp giống dễ dàng hơn vì ngoài Công ty giống tằm Thái bình, còn có thêm 15
10


cơ sở nhân giống khác và người dân cũng có thể để được giống. Như vậy, việc quay
lại nuôi giống tằm đa hệ là một bước thụt lùi nghiêm trọng trong công tác giống. Dân

tự sản xuất giống, không kiểm soát dịch bệnh là mối đe dọa lớn đối với sản xuất cần
có giải pháp để có thể phát triển ổn định, bền vững.
100%
80%
60%

Lưỡng hệ
Đa hệ lai

40%

Đa hệ

20%
0%
2006

2007

2008

2009

2010

2011

2012

2013


2014

2015

Biểu đồ 4.3. Biến động cơ cấu giống tằm từ năm 2006 - 2015
4.2.4.2. Chăm sóc
Chăm sóc dâu: trước 2007, dâu được trồng thuần, không tưới. Chỉ có 19% số
hộ điều tra cho biết có cày xới. Phân chuồng thì dùng ngay phân tằm để bón, phân
đạm bón sau các đợt thu lá, ít bón lân và kali. Mức bón các loại phân rất thấp so với
quy trình. Năm 2007, chuyển sang trồng xen thì việc chăm sóc dâu có thay đổi tích
cực: ruộng được cày xới 2 lần/năm tương ứng 2 đợt trồng xen; phân hữu cơ ngoài
phân tằm, có thêm phân xanh sau thu hoạch rau; phân vô cơ được bón nhiều hơn; một
số vùng dâu có tưới và được làm cỏ thường xuyên hơn.
Chăm sóc tằm: duy trì nhiệt, ẩm độ thích hợp tương đối và cho tằm ăn đầy đủ
đảm bảo chất lượng. Sự tăng nhiệt trên giới hạn hoặc giảm xuống quá thấp đều không
tốt. Ẩm độ quá cao bệnh tật phát sinh, ẩm độ quá thấp làm dâu mau héo, tằm ăn đói, cơ
thể thiếu nước dẫn đến suy nhược. Khi nhiệt độ, ẩm độ quá cao hoặc quá thấp đều phải
tìm cách điều chỉnh nhưng được hay không phụ thuộc điều kiện nhà cửa, trang bị và
kinh nghiệm của người nuôi tằm. Hầu hết các hộ điều kiện chăn nuôi và chăm sóc hạn
chế nên không nuôi tằm lưỡng hệ kén trắng. Tằm đa hệ lai kén vàng mà vẫn người nuôi
được người mất. Khi quay về nuôi tằm đa hệ năng suất thấp thì dễ nuôi hơn.

Bảng 4.1. Sử dụng phân bón trong các khâu chăm sóc
TT

Phân bón

Quy
trình


1
2
3
4

Phân chuồng (tấn/ha)
Phân đạm (kg/ha)
Phân lân (kg/ha)
Phân kali (kg/ha)

25 – 30
500
510
230

Từ 2006 đến 2007
Thực
So với Q/trình
tế
(%)
7,5
27,27
250
50,00
139
27,25
56
24,35


Từ 2008 đến 2015
Thực So với Q/trình
tế
(%)
21,7
78,91
414
82,80
365
71,57
167
72,81

4.2.4.3. Áp dụng kỹ thuật mới
Về dâu: có nhiều thành tựu trong lĩnh vực kỹ thuật canh tác như: đốn rải vụ,
bón phân, tưới nước, phân NPK chuyên dụng và cơ giới hóa sản xuất. Tuy nhiên,
mức độ áp dụng còn rất hạn chế. Hiện trạng kỹ thuật sản xuất thủ công trong từng
11


công đoạn trồng, chăm sóc và thu hoạch nên rất vất vả, tính cạnh tranh thấp.
Về tằm: có tiến bộ rõ rệt về kỹ thuật chăn nuôi. Đặc biệt là nuôi tằm con tập
trung và nuôi tằm lớn trên nền nhà đã trở thành công nghệ nuôi tằm mang tính đột
phá (Vietseri, 2014). Những kỹ thuật mới này đều đã được đưa vào áp dụng tại Thái
Bình từ rất sớm. Kết quả điều tra cho thấy nuôi tằm con tập trung mới chiếm tỷ lệ
13,17%. Nuôi tằm lớn trên nền nhà mới chỉ có 3,08% số hộ áp dụng. Bắt tằm chín lên
né và thu hoạch kén vẫn còn làm thủ công.
4.2.4.4. Phòng trừ sâu bệnh
Trên cây dâu: dâu bị nhiều loại sâu bệnh gây hại. Sự phát sinh phụ thuộc giống,
chế độ phân bón, kỹ thuật canh tác, tưới nước, thời vụ đốn và biện pháp quản lý dịch hại

(Đỗ Thị Châm và Hà Văn Phúc, 1995). Trước đây, ngoại trừ yếu tố giống là có tác dụng
hạn chế sâu bệnh, các yếu tố khác đều làm tăng mức độ thiệt hại. Khi sâu bệnh vượt
ngưỡng cho phép, người dân ít khi sử dụng thuốc vì ảnh hưởng đến nuôi tằm nên mức
thiệt hại do sâu bệnh cao. Từ 2008, sự thay đổi tích cực trong chăm sóc như cày xới, bón
phân, tưới nước, thu hái đã hạn chế sâu bệnh. Một số loại thuốc của công ty Nicotex có
thời gian cách ly ngắn làm tăng cơ hội sử dụng thuốc để hạn chế tổn thất.
Trên con tằm: Trong nuôi tằm yêu cầu phòng trừ bệnh hại là rất cao vì có thể
gây ra tổn thất nghiêm trọng, nhiều khi là mất trắng. Trước năm 2007, dân nuôi hỏng
nhiều. Tằm thường chết vào lúc chuẩn bị chín làm cho người nuôi rất nản. Sau khi chuyển
sang nuôi giống tằm đa hệ thì ít bị bệnh hơn nhưng việc thực hiện các biện pháp phòng trừ
bệnh hại không tiến bộ hơn trước. Tỷ lệ hộ nuôi tằm sát trùng phòng bệnh chỉ đạt 7,24%,
thuốc phòng trị bệnh chỉ có 2,25% số hộ sử dụng. Tằm nuôi liên tục, không theo đợt như
trước, rất khó trong phòng dịch nên sản xuất tiềm ẩn nhiều rủi ro. Tổn thất do dịch bệnh
giảm nhưng vẫn còn cao, sản xuất bấp bênh.
4.2.5. Thực trạng phát triển liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm
Giai đoạn bao cấp, UBND tỉnh lập ra Chi cục tằm tơ Thái Bình vừa sản xuất
kinh doanh vừa thực hiện chức năng quản lý. Nhà nước giữ vai trò liên kết giữa các
tác nhân. Sự liên kết chính thống cả theo chiều dọc lẫn chiều ngang đảm bảo cung
cấp đủ giống, tổ chức sản xuất và thị trường tiêu thụ kén nên đã có tác động tích cực
đến sản xuất. Năm 1985, Chi cục tằm tơ giải thể, vai trò của nhà nước nhạt dần. Sau
đổi mới, nông hộ trở thành đơn vị sản xuất tự chủ đồng thời xuất hiện nhiều người
thu gom và cơ sở ươm tơ tư nhân. Tư thương tự tung tự tác, nông dân vì lợi trước mắt
bán sản phẩm cho người trả giá cao hơn bất chấp hợp đồng đã ký kết. Các nhà máy
ươm tơ mất dần chỗ đứng và đến năm 2001 thì ngừng hoạt động. Sự liên kết giữa các
tác nhân giảm sút dần ở tất cả các nội dung. Sản xuất dẫn dắt bởi các cơ sở ươm tơ
nhỏ kỹ thuật lạc hậu, năng lực yếu kém, tài chính hạn chế không đảm bảo được thị
trường tiêu thụ kén cho dân.
Năm 2007, thị trường tiêu thụ kén ươm tơ khó khăn nên người thu gom tìm
cách bán nhộng làm thực phẩm. Do nhộng có nhu cầu hàng ngày nên không nuôi tằm
đồng loạt như trước mà mạnh ai nấy làm. Vai trò của Nhà nước và hợp tác xã rất hạn

chế, liên kết trong sản xuất xuống cấp. Liên kết trong cung cấp giống và tiêu thụ sản
12


phẩm dưới hình thức thỏa thuận miệng là chủ yếu. Các cai kén thường ứng trước
trứng tằm và khấu trừ khi thu kén. Sau mỗi lứa tằm, hầu hết nông dân được trả tiền
ngay. Liên kết theo chiều dọc tạm thời đảm bảo thị trường tiêu thụ kén tằm cho dân.
4.2.6. Kết quả và hiệu quả phát triển sản xuất dâu tằm tỉnh Thái Bình
4.2.6.1. Kết quả, hiệu quả kinh tế
Sản xuất dâu của Thái Bình: Năng suất dâu có tiến bộ hiện đạt 15,5 tấn/ha, tốc
độ tăng bình quân 1,5 %/năm, nhưng không thấm gì so với sự suy giảm theo chiều
rộng. Năm 2015, Thái Bình chỉ còn sản xuất được 6.038 tấn lá dâu. Tổng giá trị sản
xuất dâu là 18,11 tỷ đồng, giảm 62,1% so với 2006. Bình quân trên tổng số 2.905 hộ
trồng dâu, giá trị sản xuất dâu một hộ đạt 6.235.575 đồng/năm.
Bảng 4.2. Kết quả phát triển sản xuất dâu tằm về mặt kinh tế
Diễn giải
-Năng suất dâu
(Tấn/ha)
-Sản lượng dâu
(Tấn)
-Năng suất kén
(Kg/ha)
-Sản lượng kén
(Tấn)

Năm
2006

Năm
2007


Năm
2008

Năm
2009

Năm
2010

Năm
2011

Năm
2012

Năm
2013

Năm
2014

Năm
%
2015 * BQ

13,7
(%)

15,3

+11,7

15,0
-2,0

15.931
(%)

13.103
-17,8

12.293
-6,2

812
(%)
947
(%)

1.102
+35,7
941
-0,6

1.102
0
905
-3,8

15,0

0
8.917
-27,5
1.482
+34,5
882
-2,5

15,1
+0,7
9.118
+2,3
1.519
+2,5
919
+4,2

15,0
-0,7
8.964
-1,7
1.644
+8,2
980
+6,6

15,2
+1,3
9.045
+0,9

1.616
-1,7
961
-1,9

16,7
+9,9
8.818
-2,5
1.790
+10,8
944
-1,8

15,5
15,5
-7,2
0
+1,5
6.298
6.038
-28,6
-4,1
-9,5
2.298
2.108
+28,4
-8,3 +12,2
936
857

-0,8
-8,4
-1,0
* % : Tăng trưởng (%)

Sản xuất kén tằm của Thái Bình: Năng suất kén tăng nhanh 12,2 %/năm. Sự tăng
trưởng này là do nhiều nguyên nhân. Sự thay đổi từ nuôi tằm lấy tơ sang lấy nhộng làm
thực phẩm có đóng góp đáng kể do sử dụng giống tằm có sức sống cao, phù hợp với điều
kiện nóng ẩm nên nuôi rất được. Do năng suất kén tăng nhanh nên mặc dù diện tích dâu
giảm rất nhiều nhưng sản lượng kén tằm vẫn đạt 857 tấn (chỉ giảm 9,5% so với năm
2006). Giá trị sản xuất kén thu được 81,84 tỷ đồng. Giá trị sản xuất kén tằm/hecta dâu tăng
mạnh.
Bảng 4.3. Kết quả và hiệu quả sản xuất dâu tằm của các nhóm hộ
Nhóm hộ
Diễn giải
Giá trị sản xuất (GO)
Chi phí trung gian (IC)
Giá trị gia tăng (VA)
Thu nhập hỗn hợp (MI)
Thu nhập HH/công LĐ
Tỷ suất giá trị SX (GO/IC)
Tỷ suất giá trị GT (VA/IC)
Tỷ suất thu nhập hỗn hợp
(MI/IC)

ĐVT
Đồng
"
"
"

"
Lần
"
"

Nhóm III
Trên
1440 m2
24.008.746
2.182.000
21.826.746
21.502.746
46.889
11,00
10,00

Nhóm II
720 – 1.440
m2
21.012.038
2.172.620
18.839.418
18.534.418
45.944
9,67
8,67

9,85

8,53


13

Bình
Nhóm I
Dưới
quân
720 m2
14.260.114 19.760.299
1.593.783 1.982.801
12.666.331 17.777.498
12.448.331 17.495.165
29.085
40.639
8,95
9,87
7,95
8,87
7,81

8,73


Sản xuất dâu tằm của các hộ: Các hộ đều nuôi trên 8 lứa/1 năm. Năng suất kén
bình quân đạt 8,2-8,5kg/vòng trứng và không khác biệt giữa các nhóm hộ. Sản lượng
kén thì khác nhau nhiều vì quy mô nuôi của các hộ ở các nhóm là khác nhau. Sản
lượng kén của nhóm hộ I (dưới 720 m2) là 168kg/năm, nhóm hộ II (720 - 1440 m2) là
247kg/năm và nhóm hộ III (trên 1440 m2) sản xuất được là 267kg/năm, cao hơn
không nhiều so với nhóm II do chỉ tăng được số lứa nuôi mà không tăng được quy
mô lứa. Giá trị sản xuất dâu tằm bình quân chung ở Thái Bình là 19.760.299

đồng/hộ/năm. Trong đó, thu nhập hỗn hợp của hộ nhóm I là 12.448.331 đồng, hộ
nhóm II là 18.534.418 đồng và hộ nhóm III là 21.502.746 đồng.
Giá trị SX dâu (Tỷ)
GTSX kén tằm (Tỷ)

100
90
80
70
60
50
40
30
20
10
0

Giá trị SX kén/1 ha
(Triệu đồng)

300
275
93,59 91,78 90,15
250
89,39
87,76
219,5
225
200
170,9

GTSX kén/1 ha 175
157
154,3
145,1
201,3
150
125
18,89
100
27,35 26,89 27,14 26,45
GTSX dâu; 18,11 75
50
GTSX kén 81,84

90,44

89,87

86,43

84,23

39,31

36,88

141,6

105,2


105,3

26,75

47,79

77,6
2006

2007

2008

2009

2010

2011

2012

2013

2014

2015

Năm

Biểu đồ 4.4. Giá trị sản xuất dâu, tằm Tỉnh Thái Bình từ năm 2005 – 2014


4.2.6.2. Kết quả, hiệu quả xã hội
Năm 2006, Thái Bình có 18.905 người tham gia sản xuất. Đến cuối 2015,
dâu tằm chỉ giải quyết được 6.414 việc làm cho Tỉnh. Đây là là công việc phù hợp
cho phụ nữ, tận dụng thời gian lúc nông nhàn. Ngày nay, sản xuất có quy mô lớn hơn
và có sự tham gia của cả hộ gia đình. Nhưng công đoạn quan trọng nhất là nuôi tằm
vẫn thường do phụ nữ đảm nhiệm.
Do không đòi hỏi đầu tư lớn, chu kỳ sản xuất ngắn và đem lại thu nhập hàng
tháng nên tỷ lệ hộ dâu tằm nghèo ở mức rất thấp, chỉ bằng 1/3 so với tỷ lệ hộ nghèo
Thái Bình và tương đương với tỷ lệ hộ nghèo tại thành thị. Nông dân dâu tằm thường
cần mẫn, chăm chỉ hơn so với người khác. Do yêu cầu công việc nên ý thức của họ
trong nuôi tằm cũng như trong cuộc sống tốt hơn. Tỷ lệ hộ nuôi tằm đạt chuẩn văn
hóa cao hơn 5,1% so với bình quân chung của tỉnh.
Bảng 4.4. Kết quả phát triển sản xuất dâu tằm về mặt xã hội
Diễn giải
-Việc làm
(người)
-Tỷ lệ hộ dâu
tằm nghèo %
-Tỷ lệ hộ DT
đạt văn hóa %
-Tỷ lệ lao động
nữ %

Năm
2006

Năm
2007


Năm
2008

Năm
2009

Năm
2010

Năm
2011

Năm
2012

Năm
2013

Năm
2014

Năm
2015

18.905
(%)

13.354
-29,4


12.858
-3,7

5,2
(%)
(%)
56,8
(%)

3,3
-36,5
57,1
+0,5

4,5
+36,4
56,9
-0,4

9.121
-29,1
5,1
+13,3
79,2

9.533
+4,5
5,2
+2,0
79,3

+0,1
57,5
+1,1

9.004
-5,5
5,0
-3,8
79,3
0
57,1
-0,7

8.940
-0,7
4,6
-8,0
80,0
+0,9
56,9
-0,4

7.978
-10,8
3,8
-17,4
83,1
+3,9
57,2
+0,5


6.425
-19,5
3,9
+2,6
83,5
+0,5
57,2
0

6.414
-0,2
2,5
-35,9
84,4
+1,1
56,9
-0,5

56,9
0

%
BQ
-10,5
-5,3
+1,1
+0,02

4.2.6.3. Kết quả, hiệu quả môi trường

Nghiên cứu đã khảo sát lấy ý kiến của người dân về ảnh hưởng của trồng dâu
nuôi tằm đối với môi trường sống của họ. Hầu hết nông dân được hỏi đều cho rằng
14


trồng dâu nuôi tằm không ảnh hưởng đến môi trường. Trồng dâu không những tạo
bầu không khí trong lành, mà còn chống sạt lở đất ở ven sông. Dâu được trồng từ
lâu, cho năng suất lá ổn định là thực tế sinh động chứng minh cho tính bền vững về
môi trường. Nuôi tằm là hoạt động chăn nuôi rất gần gũi và thân thiện, chưa hề có
ghi nhận về việc nuôi tằm ảnh hưởng đến môi trường sống (Đỗ Thị Châm, 1995).
Bảng 4.5. Đánh giá ảnh hưởng của sản xuất dâu tằm đến môi trường
Mức độ ô nhiễm
nước
Ô nhiễm nặng nề
Ô nhiễm ít
Không ô nhiễm
Khó đánh giá

Tỷ lệ
(%)
0,00
0,72
95,23
4,05

Mức độ ô nhiễm
đất
Ô nhiễm nặng nề
Ô nhiễm ít
Không ô nhiễm

Khó đánh giá

Tỷ lệ
(%)
0,00
0,92
94,08
5,00

Mức độ ô nhiễm
không khí
Ô nhiễm nặng nề
Ô nhiễm ít
Không ô nhiễm
Khó đánh giá

Tỷ lệ
(%)
0,00
1,54
92,36
6,10

Trồng dâu, nuôi tằm ít ảnh hưởng đến môi trường nhưng môi trường lại có ảnh
hưởng rất lớn đến sản xuất. Việc bảo vệ môi trường là hết sức quan trọng để có thể
phát triển bền vững. Có hai vấn đề cần lưu tâm là ảnh hưởng của thuốc bảo vệ thực
vật và công tác vệ sinh phòng bệnh. Việc phun thuốc trừ sâu có quy định của chính
quyền và hợp tác xã nhưng trên thực tế vẫn xảy ra tằm bị ngộ độc. Thất thu do thuốc
trừ sâu đã giảm xuống dưới 1% do công tác quy hoạch và dồn điền đổi thửa. Tổn thất
do dịch bệnh đã giảm (chỉ còn 6,25%) nhưng không phải do tiến bộ trong bảo vệ môi

trường chăn nuôi mà là do nuôi tằm đa hệ ít nhiễm bệnh hơn.
4.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG THEO TIÊU CHÍ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
Trong thời gian nghiên cứu, nếu xét trên quy mô toàn tỉnh thì sản xuất dâu tằm
vừa suy giảm về quy mô diện tích dâu vừa suy giảm về số lao động. Tuy nhiên năng
suất dâu, năng suất kén tằm đều tăng. Nếu xét trên quy mô từng nông hộ thì sản xuất
dâu tằm vẫn đang tiếp tục phát triển thể hiện bằng sự tăng trưởng sản lượng kén và
thu nhập của nông hộ ngày càng cao.
Bảng 4.6. Đánh giá sản xuất dâu tằm theo tiêu chí phát triển bền vững
Tiêu chí

Nội dung

Bền vững
về kinh tế

Phát triển nguồn lực
Quy mô sản xuất
Chuyển dịch cơ cấu
Kết quả và hiệu quả

Bền vững
về xã hội

Lao động việc làm
Xóa đói giảm nghèo
Bình đẳng giới

Bền vững
về môi
trường


Khai thác hợp lý
Không gây ô nhiễm
Tác động tiêu cực

Chỉ tiêu đánh giá
Đầu tư, kỹ thuật, liên kết, tổ chức
Quy mô toàn Tỉnh, quy mô 1 hộ
Tiến bộ về cơ cấu
Tăng giảm về kết quả và hiệu quả
Cộng
Số việc làm
Tỷ lệ hộ nghèo, hộ đạt GĐVH
Sự tham gia của phụ nữ
Cộng
Năng suất ổn định
Ô nhiễm đất, nước, không khí
Thất thu do môi trường, dịch bệnh
Cộng

Tổng cộng (E)
15

Điểm
2
1
1
2
6
1

3
3
7
4
4
3
11
24

Mức độ
bền vững
Kém Bv
Không Bv
Không Bv
Kém Bv
Không Bv
Bền vững
Bền vững
Rất Bv
Rất Bv
Bền vững
Kém Bv


Nhìn chung sản xuất dâu tằm tỉnh Thái Bình có bước tiến đáng kể theo chiều
sâu, nhưng suy giảm mạnh theo chiều rộng. Mức độ phát triển theo chiều sâu chưa đủ
bù đắp được mức giảm theo chiều rộng nên sản xuất dâu tằm tỉnh Thái Bình thời gian
qua là kém phát triển. Tổng điểm đánh giá theo tiêu chí phát triển bền vững E=24
điểm. Theo thang đo, sản xuất dâu tằm Thái Bình ở mức kém bền vững.
Kinh tế

16
12
8
6
4
0
7

11
Môi trường

Không bền vững
Kém bền vững
Bền vững
Rất bền vững
Sản xuất dâu tằm

Xã hội

Biểu đồ 4.5. Mức độ phát triển bền vững của sản xuất dâu tằm
Bằng phương pháp phân tích SWOT, nghiên cứu đã đưa ra bức tranh tổng thể
về phát triển sản xuất dâu tằm tỉnh Thái Bình, qua đó đã thấy được những thuận lợi,
khó khăn, cơ hội và thách thức khác nhau. Cần phát huy những điểm mạnh và hạn
chế những điểm yếu, tận dụng cơ hội và vượt qua thách thức để phát triển sản xuất
dâu tằm tỉnh Thái Bình trở nên bền vững hơn.
4.4. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG
4.4.1. Chủ trương, chính sách phát triển sản xuất dâu tằm
Sản xuất dâu tằm luôn được sự quan tâm của Nhà nước. Trong những giai đoạn
trước, đã có nhiều chủ trương chính sách nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển và đã có
ảnh hưởng rõ rệt, nhất là trong thập kỷ 70 và 80. Sau đổi mới, kinh tế đất nước khởi

sắc cũng là lúc Chi cục dâu tằm tơ Thái Bình giải thể, cùng lúc đó Tổng công ty dâu
tằm tơ Việt Nam chuyển vào Lâm Đồng dẫn đến sản xuất dâu tằm Thái Bình như bị
thả nổi. Trồng dâu nuôi tằm được xem là loại hình sản xuất truyền thống nhưng hiệu
quả thấp, không còn triển vọng thậm chí là đã hết vai trò lịch sử. Hơn nữa khí hậu
nóng ẩm của Thái Bình không phù hợp để nuôi tằm lưỡng hệ kén trắng chất lượng
cao. Sản xuất dâu tằm tỉnh Thái Bình chưa rõ hướng phát triển, chưa có lối thoát. Về
16


chính sách, hỗ trợ của trung ương chỉ tập trung vào lĩnh vực giống, hỗ trợ của Tỉnh
rất hạn chế do chủ trương chưa rõ. Chủ trương, chính sách là nhân tố có ảnh hưởng
lớn, cần thống nhất chủ trương thay đổi định hướng nuôi tằm lưỡng hệ kén trắng lấy
tơ, điều chỉnh, bổ sung chính sách để sản xuất dâu tằm phát triển bền vững.
4.4.2. Quy hoạch phát triển sản xuất dâu tằm
Nghiên cứu đã phân tích quy hoạch tổng thể phát triển sản xuất dâu tằm với 3
nội dung chính là quy hoạch phát triển sản xuất, quy hoạch mạng lưới các tác nhân và
quy hoạch đất đai của ngành dâu tằm tơ và của tỉnh Thái Bình.
Trước đây, vùng đồng bằng sông Hồng là vùng dâu tằm truyền thống. Sản
phẩm, lĩnh vực chủ lực là nuôi tằm đa hệ kén vàng, gắn với nghề ươm tơ, dệt lụa cổ
truyền. Thái Bình nằm ở trung tâm vùng nên tập trung nhiều cơ sở sản xuất của
ngành. Năm 1985, Tổng công ty dâu tằm tơ Việt Nam xác định sản phẩm chủ lực là
nuôi tằm lưỡng hệ kén trắng, gắn với ươm tơ tự động và cho rằng vùng đồng bằng
sông Hồng nóng ẩm không thích hợp nuôi tằm kén trắng nên đã chuyển vào Lâm
Đồng. Từ đó, Thái Bình không còn nằm trong quy hoạch sản xuất chính của ngành.
Do khí hậu nóng ẩm, Thái Bình vẫn tiếp tục thực hiện nuôi tằm đa hệ lai, ươm tơ thủ
công và cơ khí để sản xuất tơ chất lượng thấp và trung bình. Quy hoạch phát triển sản
xuất của địa phương không phù hợp với xu thế phát triển, sản xuất hiệu quả thấp, thị
trường không thuận lợi nên dần dần các nhà máy ươm tơ không tồn tại được. Đến
năm 2006-2007, ngay cả các cơ sở ươm thủ công cũng gặp khó, nông dân chuyển
sang nuôi tằm làm thực phẩm, quy hoạch sản xuất cũ bị phá vỡ.

Sau cải cách mở cửa, mạng lưới các tác nhân có thêm người thu gom. Họ có
ảnh hưởng tích cực, nhưng cũng có hạn chế đến phát triển sản xuất dâu tằm thời gian
qua. Hiện nay, họ là người phân phối trứng tằm và thu mua kén tằm cho nông dân
nhưng chưa đủ khả năng kết nối với thị trường tơ kén có nhu cầu cao và ổn định.
Quy hoạch đất đai của ngành ít có ảnh hưởng do diện tích đất hiện sử dụng
thấp hơn nhiều so với quy hoạch. Ở địa phương, các xã dâu tằm thực hiện chủ trương
dồn điền đổi thửa, điều chỉnh lại ruộng đất, hoàn thiện một bước về quy hoạch. Nhìn
chung, quy hoạch ở cơ sở đã có ảnh hưởng tích cực đến sản xuất dâu tằm Thái Bình.
Đến nay, khả năng nuôi tằm lưỡng hệ kén trắng tại Thái Bình đã thành hiện
thực, Tỉnh cần quy hoạch lại sản xuất, mạng lưới các tác nhân, quy hoạch bố trí sử
dụng đất để tham gia sản xuất tơ kén chất lượng cao, phù hợp với xu thế chung.
4.4.3. Năng lực trình độ của cán bộ
Cán bộ địa phương đều là những người có năng lực, trình độ và có nhiều kinh
nghiệm trong sản xuất nông nghiệp nhưng lại hạn chế về lĩnh vực dâu tằm. Trong
thực tiễn công tác, họ được tập huấn qua các lớp khuyến nông với nội dung chỉ tập
trung vào vấn đề kỹ thuật mà thiếu những thông tin tổng quan. Cán bộ địa phương
cho biết họ nắm được tỉnh hình sản xuất dâu tằm nhưng ít được tiếp cận với thông tin
về tiềm năng, xu thế phát triển và những bài học kinh nghiệm phát triển sản xuất dâu
tằm, đặc biệt là của nước ngoài. Do đó, khi được hỏi về khả năng phát triển sản xuất
dâu tằm, 92% cán bộ địa phương không tin vào triển vọng phát triển trong tương lai.
17


4.4.4. Nhận thức, hiểu biết của người sản xuất dâu tằm
Nhận thức, hiểu biết của người sản xuất dâu tằm là nhân tố quan trọng ảnh
hưởng tích cực đến phát triển sản xuất dâu tằm bền vững. Để nuôi tằm đạt được kết
quả như mong muốn thì cần phải có trình độ kỹ thuật trong tất cả các khâu của toàn
bộ quá trình sản xuất. Qua điều tra tại các địa bàn cho thấy người sản xuất có thâm
niên nuôi tằm rất cao (29,5 năm), 82,7% đã được tập huấn kỹ thuật và thành thạo
công việc dâu tằm nhưng có nhược điểm là tuổi đời cao, hài lòng với việc nuôi tằm

làm thực phẩm, chưa nhận thức được có thể chuyển sang nuôi tằm lấy tơ chất lượng
cao. Từ trước đến nay vẫn quen với nuôi tằm kén vàng, ít khi nuôi tằm kén trắng. Các
hộ đã đầu tư, trang bị điều hòa nhiệt độ để nuôi tằm nhưng vẫn nuôi tằm kén vàng và
nuôi trên nong mà chưa áp dụng kỹ thuật nuôi tằm mới. Thực trạng đó cần có giải
pháp giúp họ thay đổi, đưa sản xuất ngày càng tiên tiến, hiệu quả và bền vững.
4.4.5. Sự hỗ trợ, trợ giúp của các cấp, các ngành và các tác nhân
Sự hỗ trợ, trợ giúp của các cấp, các ngành và các tác nhân trong thời gian qua
đã giúp cho sản xuất đứng vững được trước biến động của thị trường và tạm thời
chuyển sang nuôi tằm làm thực phẩm. Tuy nhiên, sự hỗ trợ này còn rất nhiều hạn chế,
bất cập, không đủ giúp cho sản xuất phát triển. Sự hỗ trợ của các cấp chính quyền là
chưa đủ và không tập trung vào những vấn đề bức xúc. Hỗ trợ của ngành nông nghiệp
chỉ tập trung vào lĩnh vực giống. Ngành dâu tằm suy yếu, không còn hỗ trợ cho sản
xuất dâu tằm nói chung nhưng định hướng nuôi tằm lưỡng hệ, ươm tơ tự động chất
lượng cao là những mô hình tốt tỉnh Thái Bình có thể noi theo.
Hộ nông dân là chủ thể của quá trình sản xuất. Hợp tác xã là tác nhân đóng vai
trò liên kết các hộ sản xuất và liên kết giữa sản xuất với thị trường tiêu thụ. Vai trò
của hợp tác xã thời gian qua còn nhiều hạn chế chưa thực sự thúc đẩy sản xuất phát
triển. Người ươm tơ, người thu gom chưa trở thành chỗ dựa tin cậy cho nông dân.
Nhà khoa học chưa thể hiện được rõ vai trò. Trong điều kiện sản xuất nhỏ lẻ việc đổi
mới công nghệ chưa thực sự thu hút được người dân.
4.4.6. Thị trường, giá cả tiêu thụ
Thị trường, giá cả là yếu tố có ảnh hưởng lớn đến sản xuất. Qua nghiên cứu thị
trường kén tằm cho thấy thị trường kén vàng đa hệ lai lấy tơ là các cơ sở ươm tơ nhỏ
chủ yếu xuất bán tơ cho Thái Lan, Lào... chưa thể là chỗ dựa vững chắc cho người
sản xuất. Trong thời gian qua, thị trường này bất ổn là nguyên nhân chính, trực tiếp
gây ra sự sụt giảm sản xuất dâu tằm tại tỉnh Thái Bình. Thị trường kén trắng lưỡng hệ
có nhu cầu cao và ổn định là xu hướng chung của cả trong và ngoài nước. Giá kén
trắng 115.000 đồng/kg cao hơn nhiều so với kén vàng lai 85.000 đồng/kg và kén vàng
nguyên lấy nhộng 90.000 đồng/kg. Thị trường kén lấy nhộng làm thực phẩm thực
chất là thị trường bán nhộng, sản phẩm phụ sau ươm tơ đã có từ trước. Trong thời

gian tới, cần có giải pháp khai thác thị trường kén trắng, chuyển đổi từ nuôi tằm làm
thực phẩm trở về nuôi tằm lấy tơ trong đó chú trọng nuôi tằm kén trắng để có hiệu
quả kinh tế cao hơn và thị trường ổn định hơn.
18


4.5. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT DÂU TẰM BỀN VỮNG TẠI TỈNH
THÁI BÌNH
4.5.1. Quan điểm, định hướng và cơ sở đề xuất giải pháp
4.5.1.1. Quan điểm
Xem dâu tằm là nghề truyền thống quý, phát huy tối đa nội lực, gắn chặt trồng
dâu nuôi tằm với thị trường, coi trọng phát triển nuôi tằm công nghệ cao sử dụng điều
hòa nhiệt độ, phát triển nhanh ươm tơ tự động, dệt lụa và chế biến các sản phẩm từ tơ
tằm. phát huy và sử dụng có hiệu quả mọi tiềm năng và nguồn lực cho mục tiêu tăng
trưởng nhanh và bền vững, đưa sản xuất dâu tằm tỉnh Thái Bình trở thành tỉnh có
trình độ phát triển dẫn đầu ở Vùng đồng bằng sông Hồng.
4.5.1.2. Định hướng
Thái Bình cần tận dụng cơ hội thị trường kén trắng có nhu cầu cao và ổn định,
phát huy thế mạnh nuôi tằm điều hòa nhiệt độ đang tăng nhanh, chuyển sang nuôi
tằm lưỡng hệ kén trắng chất lượng cao. Giai đoạn trước mắt, thực hiện chuyển đổi
các hộ đã có điều hòa, phát triển cả sản xuất kén lấy tơ và kén lấy nhộng làm thực
phẩm. Sau năm 2020, sản xuất kén lấy tơ là chính, nhộng là sản phẩm phụ sau khi
ươm tơ. Đẩy mạnh ươm tơ tự động, chế biến các sản phẩm, kết nối với các làng dệt
lụa tại địa phương nhằm khai thác giá trị kinh tế, văn hóa và lịch sử của nghề truyền
thống, tạo thị trường tiêu thụ sản phẩm vững chắc cho sản xuất.
Phương hướng cơ bản để phát triển bền vững sản xuất dâu tằm tại Thái Bình là
hình thành hệ thống các cơ sở nuôi tằm con để cung cấp tằm giống cho dân nuôi thay
cho nuôi từ trứng, nông dân chỉ nuôi tằm lớn. Tăng cường đầu tư nhà nuôi tằm, trang
bị điều hòa nhiệt độ để nuôi tằm lưỡng hệ kén trắng chất lượng cao trên nền nhà hoặc
trên giá nuôi phẳng. Áp dụng đồng bộ công nghệ mới về giống, về kỹ thuật chăm sóc

và phòng trừ sâu bệnh để tăng năng suất, giảm chi phí, giảm công lao động, giảm tổn
thất từ đó nâng cao hiệu quả cho người trồng dâu nuôi tằm.
4.5.1.3. Căn cứ đề xuất các giải pháp
Các căn cứ đề xuất như sau: (i) Kết quả nghiên cứu; (ii) Kinh nghiệm và bài học
phát triển sản xuất dâu tằm bền vững trong và ngoài nước; (iii) Thị trường tơ kén trong
nước và thế giới; (iv) Điều kiện sản xuất của địa phương; (v) Phát triển của khoa học kỹ
thuật; và (vi) Bám sát chủ trương đường lối của Đảng và nhà nước.
4.5.2. Giải pháp phát triển sản xuất dâu tằm bền vững tại tỉnh thái bình
4.5.2.1. Thống nhất chủ trương, hoàn thiện chính sách
UBND tỉnh, Sở Nông nghiệp và PTNT phối hợp với Vietseri tổ chức hội nghị,
hội thảo với các huyện, các xã, các hợp tác xã trồng dâu nuôi tằm, các doanh nghiệp,
nhà khoa học, các cá nhân liên quan để thống nhất về chủ trương quay lại nuôi tằm
lấy tơ nhưng là nuôi tằm lưỡng hệ sử dụng điều hòa nhiệt độ.
Sở Nông nghiệp kiến nghị bổ sung nghị quyết 23/2014/NQ-HĐND, quyết định
số 16/2014/QĐ-UBND, đưa dâu tằm vào danh sách khuyến khích đầu tư. Chính sách
cho phát triển sản xuất cần bổ sung và hoàn thiện là: 1) Chính sách đất đai: khuyến
khích các tác nhân tham gia phát triển sản xuất dâu tằm ở địa bàn như giao đất, bố trí
đất cho các doanh nghiệp nhất là doanh nghiệp ươm tơ. Hỗ trợ nông dân trong dồn
điền đổi thửa, tích tụ ruộng đất để tăng quy mô sản xuất; 2) Chính sách tín dụng đầu
tư: hỗ trợ vay vốn không thế chấp, tạo điều kiện thuận lợi về thủ tục và thời hạn vay
19


vốn chỉnh trang nhà nuôi, điều hòa nhiệt độ... Các xã nuôi tằm chủ động làm việc với
cơ quan điện lực đảm bảo hạ tầng về điện, đáp ứng nhu cầu điều hòa nhiệt độ để nuôi
tằm; 3) Chính sách hỗ trợ chuyển giao tiến bộ kỹ thuật: thông qua chương trình
khuyến nông hỗ trợ các tác nhân liên quan đến nuôi tằm lưỡng hệ tham gia chuyển
giao kỹ thuật mới; 4) Chính sách thị trường: khuyến khích các tác nhân tìm kiếm thị
trường tiêu thụ kén trắng, tạo điều kiện về thủ tục, hỗ trợ phát triển thị trường mới
thông qua sự kết nối của Vietseri. Hỗ trợ các doanh nghiệp tham gia các hội chợ,

triển lãm, festival tơ lụa tổ chức thường xuyên tại nhiều địa phương trong nước.
4.5.2.2. Điều chỉnh quy hoạch phát triển sản xuất dâu tằm
Hiện trạng quy hoạch phát triển không còn phù hợp, cần điều chỉnh, bổ sung
nhằm thực hiện định hướng nuôi tằm lưỡng hệ kén trắng gắn với ươm tơ tự động.
Về quy hoạch sản xuất gắn với thị trường tiêu thụ: cần quy hoạch phát triển
theo 3 giai đoạn: (1) Chuyển các hộ đã trang bị điều hòa sang nuôi tằm lưỡng hệ. Thị
trường tiêu thụ kén là các cơ sở ươm tơ trong tỉnh và các tỉnh lân cận thông qua
người thu gom là chính; (2) Là giai đoạn hình thành cơ sở ươm tơ tự động khi các hộ
nuôi tằm lưỡng hệ kén trắng đạt 100 ha dâu. Sản xuất dâu tằm gắn với thị trường tiêu
thụ trong tỉnh nhưng vẫn thông người thu gom; (3) Là giai đoạn phát triển ổn định,
gắn trực tiếp với thị trường không thông qua người thu gom. Các cơ sở ươm tơ tự
động đủ khả năng tiêu thụ kén tằm trong tỉnh và thu mua từ các tỉnh khác.
Quy hoạch mạng lưới tác nhân tương ứng với quy hoạch sản xuất: Giai đoạn 1,
ngoài các tác nhân hiện có cần quy hoạch thêm hệ thống người nuôi tằm con. Người
thu gom là cầu nối sản xuất với thị trường, họ giữ vai trò quan trọng trong việc thúc
đẩy nông dân chuyển sang nuôi tằm lưỡng hệ. Giai đoạn 2, tác nhân ươm tơ đầu tư
đổi mới công nghệ ươm tự động. Những người thu gom ưu tú, đủ năng lực có thể
chuyển đổi thành tác nhân ươm tơ. Người thu gom vừa cung cấp kén trắng cho ươm
tơ vừa cung cấp kén vàng làm thực phẩm. Giai đoạn 3, quy hoạch tác nhân ươm tơ
gắn trực tiếp với nông dân không thông qua trung gian. Người thu gom kén chuyển
thành người thu mua nhộng là sản phẩm phụ của nhà máy ươm tơ.
Về quy hoạch đất đai: Thái Bình cần rà soát, đánh giá các loại đất thích hợp
cho dâu tằm; Xác định vùng dâu tằm trọng điểm của tỉnh là huyện Vũ Thư, Hưng Hà.
Các vùng này cần giữ quy hoạch ổn định, lâu dài. Bên cạnh đó mở rộng thêm ở các
địa phương có thế mạnh, có lịch sử phát triển nhưng nay bị mai một. Quy hoạch tổng
thể phát triển sản xuất dâu tằm cho toàn Tỉnh giai đoạn 1 nên ở mức hiện có, giai
đoạn 2 ở mức 600 - 700ha và giai đoạn 3 ổn định không quá 1.500ha.
4.5.2.3. Tổ chức sản xuất và hệ thống các tác nhân
Các xã dâu tằm tổ chức sản xuất một cách hợp lý để thực hiện định hướng nuôi
tằm lưỡng hệ kén trắng nhưng vẫn đảm bảo quyền lợi của tác nhân tham gia. Nhà

nông chỉ nuôi tằm lớn, hợp tác xã xây dựng hệ thống cơ sở nuôi tằm con tập trung đủ
sức cung cấp tằm con giống cho sản xuất. Tổ chức cho những hộ đã trang bị điều hòa
nhiệt độ thành một nhóm chuyển ngay sang nuôi tằm lưỡng hệ kén trắng hiệu quả
hơn. Nông dân cần tăng lứa, tăng quy mô lứa hợp lý, tiến tới tích tụ, tập trung đất đai,
từ đó hình thành những hộ sản xuất dâu tằm quy mô lớn hơn.
Kiện toàn lại hệ thống các tác nhân nhằm nâng cao sự hỗ trợ của họ cho sản
xuất. Nhà nước phát huy vai trò trong giai đoạn chuyển hướng, tạo sự đồng thuận về
20


chủ trương, quy hoạch, đồng thời huy động các nguồn lực để hỗ trợ nông dân thực
hiện tốt chủ trương này. Hợp tác xã đứng ra tổ chức sản xuất, kết nối nông dân với
người thu gom và với thị trường tiêu thụ. Người ươm tơ chủ động phương án sản
xuất, nâng cấp công nghệ thích ứng với nhu cầu thị trường kén trắng, nâng cao giá trị
gia tăng cho chuỗi sản xuất trên địa bàn. Người thu gom cần ủng hộ chủ trương nuôi
tằm lưỡng hệ. Tiếp tục khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho họ tham gia, hướng
họ nhanh chóng tiếp cận với thị trường để chuyển sang thu gom cả kén trắng. Nhà
khoa học cần tăng cường vai trò trong đào tạo cán bộ, tập huấn nông dân, chuyển
giao tiến bộ kỹ thuật để Thái Bình có thể chuyển hướng sản xuất đạt kết quả.
4.5.2.4. Thu hút đầu tư cho phát triển sản xuất
Thu hút đầu tư của Nhà nước từ các nguồn như: Chương trình xây dựng nông
thôn mới; Nguồn khuyến nông trung ương và địa phương quản lý; Nguồn khuyến
khích đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp nông thôn của tỉnh; Nguồn đầu tư từ “Chương
trình hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao tiến bộ khoa học và công nghệ thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội nông thôn, miền núi”.
Đầu tư của doanh nghiệp: khuyến khích và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp,
trang trại chăn nuôi đầu tư trong lĩnh vực nuôi tằm con và lĩnh vực chế biến tơ kén để
đảm bảo con giống, cũng như đảm bảo thị trường tiêu thụ cho người sản xuất.
Đầu tư của dân: cần thu hút vốn đầu tư của cả người thu gom và nông dân sản
xuất dâu tằm. Vận động người thu gom ứng trước tiền giống, cho nông dân trả chậm,

trả dần bằng sản phẩm. Thông qua các mô hình trình diễn để vận động người trồng
dâu nuôi tằm đầu tư cho sản xuất.
Ngoài ra, cần tìm cách tiếp cận với các nguồn vốn tín dụng ưu đãi phát triển
nông nghiệp giúp dân vay vốn không lãi suất hoặc lãi suất thấp để sửa chữa, nâng cấp
nhà nuôi tằm và trang bị điều hòa nhiệt độ nuôi tằm lưỡng hệ kén trắng.
4.5.2.5. Nâng cao năng lực cán bộ, nhận thức hiểu biết người sản xuất
Đối với cán bộ chính quyền, UBND các cấp (có liên quan) tổ chức hội nghị/hội
thảo thông tin về tình hình phát triển sản xuất, phổ biến quán triệt chủ trương, định
hướng và các giải pháp nhằm thúc đẩy sản xuất dâu tằm phát triển bền vững; Tổ chức
tham quan mô hình tiên tiến để học hỏi, trao đổi kinh nghiệm.
Đối với cán bộ chuyên môn của các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, ngoài việc
nâng cao năng lực như đối với cán bộ chính quyền thì cần tổ chức các lớp tập huấn về
kỹ thuật, về thị trường để thích ứng với định hướng nuôi tằm lưỡng hệ. Về lâu dài,
cần xây dựng chính sách thu hút nguồn nhân lực, quy hoạch, đào tạo cán bộ, từ đó
hình thành đội ngũ cán bộ có chất lượng.
Đối với người sản xuất, trước mắt sử dụng nguồn khuyến nông và huy động
các cơ quan trên địa bàn tổ chức các lớp tập huấn kỹ thuật cho nông dân. Về lâu dài
cần đưa vào chương trình đào tạo của các trường dạy nghề để tổ chức các lớp đào tạo
bài bản. Mỗi năm đào tạo tập huấn cho khoảng 500 nông dân, đến cuối năm 2020 có
khoảng 3.000 hộ sản xuất dâu tằm được đào tạo kỹ thuật.
4.5.2.6. Chuyển sang nuôi tằm lưỡng hệ, trồng giống dâu lai mới
Giải pháp này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với phát triển sản xuất dâu
tằm bền vững. Đây là giải pháp mang tính cơ bản, cần phải nhanh chóng thực hiện:
Những hộ đã trang bị điều hòa nhiệt độ nuôi tằm tại Vũ Thư sẽ là người đi tiên
21


phong trong việc chuyển đổi sang nuôi tằm lưỡng hệ. UBND và hợp tác xã tổ chức
họp dân cùng với những người thu gom để thống nhất phương án triển khai. Về giống
tằm, có thể lựa chọn giống GQ2218 hoặc LQ2 năng suất cao 12 -13 kg/vòng trứng,

chất lượng kén tốt có thể ươm tơ tự động. Công ty CP giống tằm Thái Bình và nhiều
cá nhân có khả năng cung cấp trứng giống phục vụ sản xuất.
Giống dâu lai VH15 là giống dâu năng suất cao và ổn định đạt 25-30 tấn/ha.
Chất lượng lá tốt, lá dày thích hợp cho cả tằm con và tằm lớn. Tổng diện tích dâu cần
thay thế từ nay đến 2020 của Thái Bình là 280ha. Lượng hạt giống mỗi năm cần
khoảng 20kg, nằm trong khả năng cung cấp của Trạm Việt Hùng. Phương án để có
cây con là tổ chức gieo ươm tập trung trong vườm ươm tại Trạm.
4.5.2.7. Đẩy mạnh áp dụng tiến bộ kỹ thuật
Về kỹ thuật mới, dùng điều hòa nhiệt độ kết hợp với tăng ẩm để có thể nuôi
tằm lưỡng; Chuyển sang nuôi tằm trên nền nhà hoặc trên giá phẳng; Cho tằm chín tự
lên né; Sử dụng né gỗ ô vuông từng con kết hợp công cụ gỡ kén cải tiến.
Về chăm sóc, thực hiện đúng quy trình kỹ thuật trồng, chăm sóc và thu hoạch
dâu, quy trình kỹ thuật nuôi tằm con tập trung, quy trình kỹ thuật nuôi tằm lớn trên nền
nhà đã được ban hành.
Về phòng trừ sâu bệnh hại, cần thực hiện nghiêm chỉnh quy trình quản lý cây
trồng tổng hợp cho cây dâu (ICM), quy trình phòng trừ bệnh hại tổng hợp trên con
tằm để đảm bảo tính ổn định của sản xuất trong hiện tại cũng như trong tương lai,
tránh tổn thất và gián đoạn sản xuất do dịch bệnh.
4.5.2.8. Tăng cường liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm
Nâng cấp mối liên kết dọc để thực hiện chủ trương nuôi tằm lưỡng hệ sản xuất
kén lấy tơ. Hỗ trợ hợp tác xã trở thành tác nhân chính giữ vai trò hạt nhân liên kết, là
đầu mối kết nối với các cơ sở cung cấp giống và ươm tơ trong ngoài tỉnh. Thúc đẩy
liên kết thông qua hợp đồng bằng văn bản.
Tăng cường liên kết ngang, khắc phục tình trạng mạnh ai nấy làm, tổ chức nuôi
tằm theo lứa, vệ sinh sát trùng đồng loạt theo đợt, giám sát sử dụng thuốc bảo vệ thực
vật, xây dựng quy định phân rõ trách nhiệm khi rủi ro thiệt hại, tiếp cận với tiến bộ kỹ
thuật mới, nâng cao trình độ sản xuất cho nông dân.
4.5.2.9. Phát triển thị trường tiêu thụ kén, tơ tằm
Việc chuyển hướng từ nuôi tằm đa hệ kén vàng sang nuôi tằm lưỡng hệ kén
trắng bản thân nó đã là một giải pháp then chốt về thị trường Đây là giải pháp có tính

chiến lược lâu dài, cần thực hiện đồng bộ ở cả thị trường trong và ngoài tỉnh:
Một là, khai thác thị trường kén trắng. Thị trường trong tỉnh là các cơ sở ươm
tơ ở huyện Vũ Thư, các cơ sở kéo sợi đũi tại huyện Kiến Xương. Thị trường ngoại
tỉnh có Cỗ Lễ (Nam Định), Tiên Phong (Hà Nam).
Hai là, duy trì thị trường kén vàng lai lấy tơ. Khuyến khích các cơ sở ươm tơ
tiếp tục thu mua kén vàng lai, nhưng hỗ trợ họ chuyển dần sang ươm tơ kén trắng,
đầu tư đổi mới công nghệ, vươn lên trở thành thị trường kén trắng.
Ba là, tiếp tục củng cố và khai thác thị trường tiêu thụ nhộng làm thực phẩm,
tạo điều kiện để mở rộng thêm bởi vì nhộng là sản phẩm phụ của ươm tơ nên vẫn cần
phải tiêu thụ một lượng lớn nhộng ra thị trường.
Bốn là, phát triển thị trường tơ lụa. Mặc dù không trực tiếp tiêu thụ kén tằm
22


nhưng có tác động gián tiếp mạnh. Thị trường tơ lụa có nhu cầu cao và ổn định thì
sản xuất dâu tằm mới có điều kiện để có thể phát triển bền vững.
Năm là, kết nối với các làng nghề dệt lụa nổi tiếng trong tỉnh và xây dựng
thương hiêu tơ lụa Thái Bình, hình thành chuỗi sản xuất dâu, tằm, tơ, lụa để đảm bảo
thị trường tiêu thụ vững chắc cho người sản xuất dâu tằm.
Sáu là, tăng cường các hoạt động giao lưu, liên kết như tham gia Hiệp hội dâu tằm
tơ Việt Nam. Hỗ trợ các hoạt động xúc tiến thương mại như tham gia các lễ hội tơ lụa,
tham quan học tập từ đó tạo mối liên kết với các địa phương khác.
4.5.2.10. Tổ chức thực hiện các giải pháp
Để sản xuất dâu tằm phát triển bền vững, chính quyền địa phương phải là chủ
thể đứng ra tổ chức thực hiện và chịu trách nhiệm đối với kết quả phát triển sản xuất
trên địa bàn. Các giải pháp trên cần thực hiện logic, đầy đủ và đồng bộ mới phát huy
hết tác dụng. Việc thống nhất chủ trương chuyển hướng sang nuôi tằm lưỡng hệ kén
trắng cần phải làm trước, kết hợp với nâng cao năng lực cán bộ, nhận thức hiểu biết
người sản xuất. Sau đó là điều chỉnh quy hoạch phát triển sản xuất dâu tằm. Các giải
pháp tổ chức sản xuất, thu hút đầu tư, đẩy mạnh áp dụng tiến bộ kỹ thuật mới, tăng

cường liên kết cần thực hiện một cách đồng bộ để chuyển sang nuôi tằm lưỡng hệ,
trồng giống dâu lai mới. Giải pháp phát triển thị trường tiêu thụ kén, tơ tằm thực hiện
liên tục trong suốt quá trình phát triển.
PHẦN 5. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
5.1. KẾT LUẬN
1) Đã hệ thống hóa và làm rõ được cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển sản
xuất dâu tằm bền vững. Phát triển sản xuất dâu tằm bền vững là quá trình thực hiện các
nội dung như quy mô, tổ chức, đầu tư, kỹ thuật, liên kết để tạo ra sản phẩm kén tằm ngày
càng tăng dần về lượng, tiến bộ về chất, đồng thời có sự kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa
kinh tế với xã hội và môi trường trong hiện tại cũng như tương lai. Trên cơ sở phân tích
tình hình và kinh nghiệm phát triển sản xuất dâu tằm trên thế giới và trong nước thời
gian qua, nghiên cứu khẳng định rằng đối với vùng truyền thống như Thái Bình, sản
xuất dâu tằm vẫn có cơ hội để phát triển và phát triển bền vững. Đề tài đã đúc rút thành
bảy bài học kinh nghiệm cho địa bàn nghiên cứu.
2) Đã đánh giá, phân tích thực trạng phát triển sản xuất dâu tằm tỉnh Thái Bình từ
2006 đến 2015. Kết quả nghiên cứu cho thấy sản xuất dâu tằm hiện mang lại thu nhập
cho 2.905 hộ gia đình và giải quyết công ăn việc làm thường xuyên cho 6.414 lao động
trong đó chủ yếu là lao động nữ, lao động nông nhàn. Trong 10 năm qua, sản xuất dâu
tằm gặp rất nhiều khó khăn và suy giảm nghiêm trọng theo chiều rộng, diện tích dâu
giảm 65,1%, số hộ nuôi tằm giảm 67,2%. Nếu xét theo chiều sâu thì sản xuất dâu tằm có
bước tiến đáng kể: năng suất dâu tăng 13,1%; năng suất kén tăng 159%; giá trị sản xuất
kén tằm/hecta đất trồng dâu tăng nhanh nhưng không đủ bù đắp được sản lượng và giá
trị do sự giảm sâu về quy mô sản xuất. Trên tổng thể dâu tằm Thái Bình vẫn là sản xuất
nhỏ, lao động thủ công, lạc hậu và kém phát triển. Nghiên cứu đã sử dụng thang đo 4
mức với bộ tiêu chí đánh giá để đo mức độ bền vững của sản xuất dâu tằm Thái Bình,
kết quả chỉ đạt 24/40 điểm, ở mức độ kém bền vững.
Thực tế sản xuất dâu tằm tỉnh Thái Bình đang tồn tại rất nhiều khó khăn bất cập
23



×