Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Một số hoạt động khơi dậy sự sáng tạo của người học trong dạy học ngoại ngữ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (337.3 KB, 8 trang )

PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v

MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG KHƠI DẬY
SỰ SÁNG TẠO CỦA NGƯỜI HỌC
TRONG DẠY HỌC NGOẠI NGỮ
NGUYỄN THỊ NGỌC TÚ*
*
Học viện Khoa học Quân sự, 
Ngày nhận bài: 09/4/2019; ngày sửa chữa: 03/6/2019; ngày duyệt đăng: 10/6/2019

TÓM TẮT
Tư duy sáng tạo là một kỹ năng quan trọng vì sáng tạo luôn hiện hữu trong mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội. Ngoài những ngành học mà sáng tạo là đặc trưng (như hội họa, thiết kế), thì hoạt
động dạy và học ngoại ngữ cũng ẩn chứa tiềm năng sáng tạo to lớn. Bài viết đưa ra cái nhìn khái
quát về sự sáng tạo, về ý nghĩa của nó trong dạy học nói chung và trong dạy học ngoại ngữ nói
riêng; đồng thời đưa ra một số hoạt động dạy ngoại ngữ cụ thể khơi gợi và khuyến khích người
học sáng tạo nhằm nâng cao kết quả học môn học này.
Từ khóa: sáng tạo, dạy, học, khơi gợi, khuyến khích, ngoại ngữ

1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tư duy sáng tạo là kỹ năng cần thiết cho tất
cả mọi người, là mấu chốt để con người phát triển
và đạt dến văn minh tiến bộ. Sáng tạo liên quan
mật thiết đến sự tương tác, trí tưởng tượng, hoạt
động vui chơi, sự thay đổi cũng như sự hào hứng
trải nghiệm. Chính vì thế, hoạt động dạy và học
là một trong những mảnh đất “màu mỡ” để thúc
đẩy sự sáng tạo. Cimermanova (2015, tr.197) cho
hay, “Quá trình dạy học mang đến nhiều cơ hội
phát triển khả năng sáng tạo ở học trò, vì có thể
tạo điều kiện để người học phát triển, không chỉ về


trí thông minh, mà còn về cảm xúc, về xã hội…”.
Fisher (2006, tr.5) cho rằng: “Khi người học được
khuyến khích suy nghĩ sáng tạo, họ thường có
động cơ và lòng nhiệt huyết học tập và cống hiến
cao độ”. Strakova (2012) khẳng định tầm quan
trọng của giáo dục đối với sáng tạo và chỉ ra rằng

“người học muốn khả năng sáng tạo phát triển rất
cần có người dạy sáng tạo”.
Đối với ngoại ngữ, hoạt động dạy và học mang
tính sáng tạo giúp cho việc học ngoại ngữ trở nên
dễ dàng và thuận lợi hơn. Ngược lại, việc khám
phá một ngôn ngữ mới đòi hỏi người học cũng
phải rèn luyện não bộ ghi nhớ, ứng biến với các
tình huống và bình tĩnh trước thất bại, nhờ đó thúc
đẩy khả năng sáng tạo. Do vậy, dạy và học ngoại
ngữ cũng là một cách tuyệt vời để trí sáng tạo được
rèn luyện và phát triển.
2. KHÁI NIỆM VỀ SÁNG TẠO
2.1. Quan niệm về sáng tạo
Có nhiều quan điểm rất khác nhau về sự sáng
tạo. Một số người cho rằng, “sáng tạo là khả năng
của mỗi cá nhân nhằm phát triển ý tưởng để giải
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ

Số 20 (7/2019)

29



v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
quyết vấn đề và khai thác các cơ hội và sáng tạo
là điều có thể học” (Batey, 2012); “sáng tạo không
phải là được thừa hưởng từ gen mà nó thực sự là
một kỹ năng, mà kỹ năng đều có thể học”(Lejrer,
2012). Trong khi đó, giáo sư tâm lý học Sternberg
(2007) cho rằng: “những người sáng tạo phần
lớn không phải bởi bất kỳ đặc điểm bẩm sinh cụ
thể nào mà bởi thái độ của họ đối với cuộc sống.
Những người sáng tạo thường phản ứng với các
vấn đề theo những cách mới mẻ chứ không cho
phép bản thân đưa ra câu trả lời cho bất kỳ vấn đề
nào một cách đơn điệu, không suy nghĩ.”
Ở một khía cạnh khác, Naiman (1998) nói
rằng, sáng tạo là quá trình biến những ý tưởng giàu
trí tưởng tượng thành hiện thực. Nếu một người có
ý tưởng, nhưng không biến ý tưởng đó thành hành
động, nghĩa là dù họ có trí tưởng tượng nhưng họ
không sáng tạo.
Với những quan điểm này, có thể thấy những
yếu tố mang tính chủ quan như nỗ lực học tập,
thực hành mới là yếu tố quan trọng trong quá trình
phát triển trí sáng tạo của mỗi người.
2.2. Những yếu tố phát triển khả năng sáng tạo
Theo Tiến sỹ Clarke (2005), một số người có
thể cho rằng tài năng là yếu tố quan trọng nhưng
một mình tài năng không tạo ra đủ “nhiên liệu”
để thúc đẩy sáng tạo. Tuy nhiên, nếu tài năng đặc
biệt đi kèm với nỗ lực sáng tạo có thể dẫn đến
một kết quả tuyệt vời. Tương tự, sự thông minh

là yếu tố cần thiết trong quá trình sáng tạo nhưng
bản thân nó không đảm bảo kết quả sáng tạo, vì
trong nhiều trường hợp, các đặc điểm khác như
sự không linh hoạt có thể dễ dàng khiến trí thông
minh trở nên mờ nhạt. Hơn nữa, sự khác biệt giữa
một người sáng tạo và một người không có đầu óc
sáng tạo có thể được phân biệt bằng khả năng chấp
nhận và giải quyết tích cực các sai lầm. Ngay cả
người tài năng và thông minh nhất cũng mắc rất
nhiều sai lầm, nhưng người thành công thường rút
kinh nghiệm từ những sai lầm ấy. Do đó, không sợ
phạm sai lầm là điều quan trọng khi thử điều mới
và chính ở “vùng lãnh thổ” của sự lo sợ về sai lầm
này lại là nơi sáng tạo được tạo ra, được thách thức

30

KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ

Số 20 (7/2019)

và thử nghiệm. Như vậy, sai lầm là một phần thiết
yếu của quá trình sáng tạo.
Trong khi đó, Strakova (2012) cho rằng, người
có tinh thần sáng tạo cao độ thường tìm thấy cảm
hứng khi tin vào khả năng sáng tạo của bản thân.
Do vậy, trong quá trình dạy học, người dạy cần
khám phá xem niềm tin này phát triển như thế nào,
yếu tố nào thúc đẩy khả năng ấy. Cùng quan điểm,
Clarke (2005) khẳng định, không có hoạt động

sáng tạo nào được hoàn thành, hoặc dẫn đến kết
luận có ý nghĩa mà không lần lượt trải qua những
yếu tố sau:
- Chủ đề cần giải quyết phải có ý nghĩa đối với
người sáng tạo để tạo hứng thú.
- Luôn đặt câu hỏi, đây là khâu thiết yếu trong
quá trình sáng tạo.
- Sau khi tự đặt câu hỏi, dành thời gian xem xét
các cách trả lời.
- Không ngại thử nghiệm các phương án trả lời
để tìm phương án tốt nhất. Đây là giai đoạn cung
cấp nhiều thông tin nhất và học hỏi được nhiều
nhất trong suốt quá trình sáng tạo.
- Đắm mình hoàn toàn vào trải nghiệm khi áp
dụng linh hoạt phương án thử nghiệm vào các đối
tượng khác nhau.
- Phân tích và tổng hợp kết quả.
- Đưa ra cách suy nghĩ và làm việc mới để phát
huy hơn nữa kết quả sáng tạo.
3. KHƠI GỢI SỰ SÁNG TẠO TRONG
DẠY VÀ HỌC NGOẠI NGỮ
3.1. Ý nghĩa
Dạy học ngoại ngữ không phải lúc nào cũng
là quá trình sáng tạo, nhưng có nhiều tiềm năng
cho sự sáng tạo to lớn vì nó sản sinh ra nhiều kết
hợp và nhiều lựa chọn. Ngôn ngữ rất phong phú
và phức tạp, trong đó người dùng sử dụng và kết
hợp các yếu tố kiến ​​thức theo những cách mới



PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v

một cách liên tục. Nói một cách ví von, ngôn ngữ
chứa đựng nhiều ‘nguyên liệu” cho người đầu bếp
tha hồ chế biến. Sự sáng tạo cũng được thúc đẩy
thông qua các khía cạnh văn hóa của chính ngôn
ngữ đang học vì người học thường được tiếp xúc
với một loạt các hình thức sáng tạo (văn học, nghệ
thuật, phim ảnh, âm nhạc, nền văn hóa...) liên quan
đến ngôn ngữ. Clarke (2005) cho rằng, khơi dậy sự
sáng tạo trong bài học sẽ mang đến những thuận
lợi cho hoạt động dạy và học ngoại ngữ như sau:
- Thứ nhất, sáng tạo kích thích việc sử dụng
ngôn ngữ, kích thích tính chủ động và sáng tạo
trong thực hành kỹ năng nghe, nói. Bằng cách
cung cấp cho người học các bài tập sáng tạo, người
dạy giúp họ có nhu cầu sử dụng ngôn ngữ và cố
gắng dùng, diễn đạt và sáng tạo ngôn ngữ để mọi
người có thể “nghe”, “nhìn” và hiểu được suy nghĩ
của họ,
- Thứ hai, sáng tạo đòi hỏi người học phải sử
dụng những biện pháp phi ngôn ngữ như dùng ngôn
ngữ cơ thể, nét mặt, biểu cảm, vẽ…, những yếu tố
thực chất rất cần thiết trong hoạt động giao tiếp,
hỗ trợ cho mục đích chính là sử dụng ngoại ngữ
truyền đạt nội dung giao tiếp một cách tự nhiên.
- Thứ ba, thực tế cho thấy, một số người không
thể học được gì nếu họ không biết mục đích của
việc thực hành ngôn ngữ đó̀ .
- Thứ tư, hầu hết người học thường trở nên có

động lực, được truyền cảm hứng hoặc cảm thấy
được thách thức hơn nếu có thể tạo ra thứ gì đó có
giá trị, phản ánh được họ là ai. Từ đó tạo ra nhu
cầu mạnh mẽ sử dụng ngôn ngữ để thể hiện giá trị
bản thân.
- Thứ năm, công việc sáng tạo trong lớp học
ngôn ngữ có thể dẫn đến sự giao tiếp và hợp tác
tích cực. Người học sử dụng ngôn ngữ để thực
hiện nhiệm vụ sáng tạo, vì vậy họ sử dụng ngôn
ngữ để truyền đạt ý tưởng, nhờ đó kích thích việc
thực hành ngôn ngữ. Điều này chuẩn bị cho người
học tiến tới sử dụng ngôn ngữ bên ngoài lớp học.
- Thứ sáu, những nhiệm vụ sáng tạo làm cho
các hoạt động trong lớp học phong phú thêm và

biến các hoạt động đó trở nên đa dạng và thú vị
hơn do khai thác tài năng, ý tưởng và suy nghĩ cá
nhân - của cả người học và người dạy.
3.2. Vai trò của người dạy trong việc khơi
gợi sự sáng tạo của người học trong dạy học
ngoại ngữ
Giảng dạy là một công việc đòi hỏi khắt khe
về chuyên môn và kiến ​​thức chuyên sâu để có
thể thiết kế các hoạt động khác nhau nhằm thu
hút người học tham gia vào bài học. Người dạy
cần cân nhắc trong khâu thiết kế bài giảng, đặc
biệt khi kết quả học tập của người học không như
mong đợi. Các hoạt động học tập được thiết kế
cần hướng đến nhu cầu của người học để họ tham
gia nhiều hơn vào hoạt động học, trong đó học tập

khơi gợi sự sáng tạo thường tạo động lực lớn cho
người học (Hernán A.Avila, 2015).
Với ngoại ngữ, theo quan điểm của nhà tâm lý
học Csikszentmihaly (2017, tr.1049), “giảng dạy
ngoại ngữ mang tính sáng tạo giúp người dạy có
thể xây dựng một chiến lược khơi dậy sự mới lạ
trong ngôn ngữ và mang đến một tinh thần sáng
tạo trong lĩnh vực ngoại ngữ, nhờ đó mở rộng tiềm
năng học ngoại ngữ đến tối đa”. Ví dụ, viết được
cho là một kỹ năng khó khi học ngoại ngữ vì sự
phức tạp trong việc chọn đúng câu từ và cú pháp.
Vecino (2007) cho rằng, viết là một sự sáng tạo,
vì vậy, khơi dậy sự sáng tạo trong kỹ năng viết là
một phương pháp khoa học để cải thiện cảm xúc
của học viên nhằm nâng cao chất lượng học kỹ
năng này. Bằng việc khơi gợi sự sáng tạo, quá trình
dạy viết sẽ dễ dàng hơn và thu hút sự chú ý của
học viên nhiều hơn. Amado (2010, tr.153-164) cho
rằng, phương pháp viết sáng tạo cho phép người
học “tuôn ra từ ngữ, mở cổng trí tưởng tượng, hiểu
được sự chính xác của ngôn từ và quan trọng nhất
là trải nghiệm niềm vui hứng thú của việc học
ngoại ngữ”.
Từ đó Csikszentmihalyi (2017) mô tả năm
bước của sự khơi gợi sáng tạo mà người dạy ngoại
ngữ cần chú ý khi thiết kế bài giảng như sau:
(1) Chuẩn bị: Tìm cách khơi gợi sự tò mò của
một tình huống tạo vấn đề.
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ


Số 20 (7/2019)

31


v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
(2) Ấp ủ: Đặt ra nhiều câu hỏi cùng lúc
(3) Ý tưởng: tìm ra một số ý tưởng giải quyết
vấn đề.
(4) Đánh giá: Lựa chọn ý tưởng có giá trị và
đáng theo đuổi.
(5) Xây dựng: Biến ý tưởng đã chọn thành
hành động.
Các bước này có liên quan đến quan điểm của
Carr và Kemmis (1986), người cho rằng, nghiên
cứu hành động giúp người dạy thực hiện những
thay đổi trong lớp học và lập kế hoạch, thực hiện
và đánh giá chúng.
Kemmis và McTaggart (1988) nói thêm rằng,
nghiên cứu hành động có nghĩa là lập kế hoạch,
hành động, quan sát và phản ánh rõ kinh nghiệm
sư phạm của người dạy. Quá trình quan sát, hành
động và suy ngẫm về các hoạt động này giúp
người dạy tạo ra một không gian thích hợp để diễn
ra trải nghiệm sư phạm và để người học truyền đạt
cảm xúc và ý tưởng của mình khi học ngôn ngữ.
Các hoạt động cần được thiết kế để giúp người học
viết/nói với sự tập trung và định hướng phát triển ý
tưởng và khám phá giọng nói của chính mình cũng
như áp dụng các quy tắc ngữ pháp một cách vui vẻ.

Do đó, để khơi gợi sự hứng thú, tăng cường khả
năng học ngoại ngữ, khi thiết kế các hoạt động dạy
học trên lớp, người dạy hãy đặt những câu hỏi sau:
- Có cung cấp (đủ) cho người học cơ hội đặt
câu hỏi, tìm hiểu, thử nghiệm và khám phá không?
- Có cung cấp một môi trường cởi mở để sự
sáng tạo được phát triển không? Có cho người học
có cảm giác tự tin khi là chính mình không?
- Có cung cấp một môi trường không phán xét,
không thiên vị, trong đó việc mắc sai lầm là chấp
nhận được?
- Có phản ứng tích cực khi người học mắc lỗi
không?
- Có tạo ra cơ hội để sửa chữa sai lầm không?
- Có nhận ra năng khiếu của người học thông
qua các câu trả lời của họ không?

32

KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ

Số 20 (7/2019)

- Có thể hiểu về người học của mình không: (sở
thích, tài năng, mối quan tâm, phong cách học, ...)?
- Có cho người học cơ hội tham gia vào việc
chuẩn bị tài liệu học tập không?
- Lớp học/Khóa học có tạo động lực cho người
học không?
- Người học có sợ đặt câu hỏi không?

Nếu câu trả lời cho tất cả các câu hỏi trên là có
thì người dạy đang đi đúng hướng và góp phần đưa
giờ học ngoại ngữ trên lớp trở thành những bài học
không thể nào quên đối với người học.
3.3. Một số hoạt động dạy học ngoại ngữ
khuyến khích, khơi gợi sáng tạo
Bài viết mô tả chín hoạt động ngôn ngữ từ đơn
giản đến phức tạp và tác động tích cực của chúng.
Người học tham gia được gọi tên bằng các chữ cái
(ví dụ: Người học A, B, C). Các hoạt động được
sắp xếp từ cơ bản đến nâng cao.
Hoạt động 1: Ghi nhớ ngữ pháp và cấu trúc
tiếng Anh
Trong hoạt động này, người học ngồi thành
hình bán nguyệt. Mỗi người phải nói một từ, từng
người một, theo cấu trúc đã được người dạy hướng
dẫn. Ví dụ, Người học A nói “I” hoặc “you” hoặc
“he”. Sau đó, Người học B tiếp tục với một từ
khác tiếp nối từ mà Người học A vừa nói, tiếp theo
là Người học C, D... Ví dụ, Người học B nói “I
went” vì biết quy tắc ngữ pháp rằng theo sau một
đại từ nhân xưng thường là một động từ. Tiếp theo,
Người học C sẽ thêm từ thứ ba: “I went to”, …
(Xem bảng 1).
Bảng 1. Trò chơi dây chuyền luyện ngữ pháp
Người học A

Người học B

Người học C


Người học D

I…

I went …

I went to ….

I went to Hanoi ….

Người học E

Người học F

Người học G Người học H

I went to Hanoi I went to Hanoi I went to Hanoi I went to Hanoi
yesterday ….
yesterday and yesterday and yesterday and I was

I (hmmm) was sick …



PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v

Hoạt động này giúp người học không chỉ
nhớ cấu trúc ngữ pháp mà còn có thể kiểm tra kỹ
năng ghi nhớ. Họ cũng tương tác với nhau nhờ

nghe giọng nói của nhau. Họ được khuyến khích
và mạnh dạn vì không sợ bị chế nhạo nếu lỡ nói
sai. Trò chơi dây chuyền này nên được sử dụng
để củng cố ngữ pháp cũng như các cấu trúc trong
tiếng Anh.
Hoạt động 2: Tạo một câu chuyện hư cấu
Trong hoạt động này, người học cũng ngồi
thành hình bán nguyệt. Tuy nhiên, quy trình có
chút phức tạp hơn vì thay vì một từ, mỗi người
phải nói một câu hoàn chỉnh. Người học cần cố
gắng sáng tạo câu chuyện mạch lạc nhất có thể,
Ví dụ:
Người học A: Pepito went to school.
Người học B: Pepito went to school and he had
a bike accident.
Người học C: It was very serious; his leg
was bleeding (từ mới).
Người học D: He called his mother.
Người học E: His mother fainted (từ mới).
Trong khi người học sáng tạo câu chuyện,
người dạy cần khuyến khích họ sử dụng từ điển và
hỗ trợ họ trong suốt quá trình sáng tạo này, khiến
họ hứng thú tham gia và không ngại sáng tạo. Với
hoạt động này, người học cần giúp đỡ lẫn nhau, vì
thế thúc đẩy tinh thần đồng đội. Với tinh thần đồng
đội, họ trở nên muốn tham gia đầy đủ hơn và thực
tế cho thấy người học không còn im lặng e ngại
như lúc ban đầu mà ngày càng nhiệt tình tham gia
hơn theo mạch câu chuyện.
Hoạt động 3: Thúc đẩy viết sáng tạo

Trong hoạt động này, người học được chia
thành hai nhóm. Cả hai nhóm ngồi thành hình bán
nguyệt và được phát một tờ giấy có nội dung: “It
was dark and stormy.” (Trời tối và bão.) Sau đó,
người học của mỗi nhóm có ba phút để viết một

câu chuyện. Nhóm nào có câu chuyện với ngữ
pháp, nội dung chuẩn và hay nhất sẽ được điểm.
Hoạt động này giúp người học viết tự do mà
không e ngại. Người học chuẩn bị các nhân vật của
mình với những đặc điểm về thể chất, cảm xúc,
ươm mầm ý tưởng, đánh giá và phát triển nội dung
câu chuyện bằng các mô tả. Cả hai nhóm đều cho
phép sự sáng tạo và trí tưởng tượng bay bổng với
một thế giới viễn tưởng của riêng mình.
Chiến lược giảng dạy này cho phép cung cấp
cấu trúc thông tin và cảm xúc, trong đó ngữ pháp
là một cách tự nhiên để thể hiện ý tưởng. Hoạt
động như thế này không chỉ thúc đẩy tinh thần làm
việc theo nhóm để cùng nhau chỉnh sửa, mà còn
giúp người học tự do thể hiện, hứng thú và có mục
tiêu làm việc rõ ràng. Mỗi câu chuyện đều có cấu
trúc phù hợp vì các bài tập sẽ được xây dựng theo
nguyên tắc phát triển kỹ năng viết mà người dạy
đưa ra.
Hoạt động 4: Tăng cường từ vựng thông qua
việc viết kịch bản
Theo Amado (2010), kịch bản là một tài liệu
phác thảo mọi yếu tố âm thanh, hình ảnh, hành vi
và ngôn ngữ cần có để kể một câu chuyện. Cách

người học hình dung câu chuyện muốn viết sẽ dựa
trên kinh nghiệm hoặc trí tưởng tượng của họ để
có được sự trôi chảy trong quá trình viết.
Với hình thức viết sáng tạo này, người học bắt
đầu bằng việc tạo ra một ý tưởng; sau đó hiện thực
hóa ý tưởng đó thành hành động, lời thoại, nhân
vật và bối cảnh. Kể cả với những ý tưởng đơn giản
nhất, người học cũng có thể hình dung và phát
triển thành một câu chuyện, hình thành kịch bản
với format phù hợp.
Để thực hành viết kịch bản trong lớp, người
học được xem một bộ phim và sau đó đọc lời kịch
bản của ba cảnh trong bộ phim đó. Người học gạch
chân hoặc khoanh tròn từ mới và suy ra nghĩa của
từ dựa vào nội dung của ba cảnh phim đã xem.
Nhờ đó, dù không biết nhiều từ nhưng người học
dễ dàng tiếp tục đọc hiểu kịch bản, khác hẳn so với
việc đọc hiểu các văn bản thông thường (bài luận
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ

Số 20 (7/2019)

33


v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
thiếu hình ảnh, khô khan) dễ khiến người học nản
lòng khi gặp nhiều từ mới. Và với lượng từ vựng
vừa có được sau khi đọc và hiểu như vậy, người
học thường thấy hào hứng hơn và dễ dàng hơn

trong việc bắt tay vào viết kịch bản của riêng mình.
Hoạt động 5: Chia sẻ bài phát biểu
Người dạy đề nghị người học viết và chia sẻ
một bài phát biểu về bất kỳ chủ đề nào. Trong hoạt
động này, người học có thể nói về bất cứ điều gì
họ muốn. Người học được cho 20 phút để viết và
được tự do sử dụng kiến ​​thức riêng để viết về một
chủ đề mà họ thấy dễ dàng, chẳng hạn về thông tin
cá nhân, về gia đình, về tình yêu, cuộc sống, những
vấn đề nổi cộm, bộ phim yêu thích, trải nghiệm tốt
nhất hoặc tồi tệ nhất, ...
Với hoạt động này, người dạy không chỉ có cơ
hội nhìn ra những hạn chế về ngôn ngữ của người
học mà còn hiểu biết thêm và xây dựng tốt mối
quan hệ với học trò của mình. Cách người học đặt
vấn đề và chia sẻ bài phát biểu của mình thường bị
ảnh hưởng bởi những kinh nghiệm trong quá khứ,
kỳ vọng cho tương lai và điều đó sẽ đóng góp tích
cực vào trải nghiệm thực tiễn của người giáo viên
(Kelchtermans, 2009).
Hoạt động 6: Vòng tròn cuộc sống
Để người học nói và chia sẻ, giáo viên yêu cầu
người học vẽ ba vòng tròn lớn, mỗi vòng tròn họ
phải viết về điều quan trọng nhất trong cuộc sống
của mình. Ví dụ trong Vòng tròn 1, họ viết con số
có ý nghĩa nhất đối với bản thân họ; trong Vòng
tròn 2, đối tượng họ không thể sống thiếu; trong
Vòng tròn 3, cái tên quan trọng nhất đối với họ.

Sau đó, người học đứng lên và đi xung quanh

lớp học chia sẻ vòng tròn với các người học khác.
Ví dụ, như trong hình trên, Người học A chia sẻ
với các bạn cùng lớp rằng 2 là con số ý nghĩa nhất
vì có hai chị. Người học A tiếp tục nói thêm về
cuộc sống của mình và tự hào về những người chị
của mình như thế nào. Sau đó, với vòng tròn 2
những người khác biết rằng, đọc sách là niềm đam
mê của học viên ấy. Người học đó cũng tự hào nói
thêm rằng Mai là tên mẹ và hào hứng đưa ra thông
tin cá nhân về bà.
Hoạt động này, mặc dù khá đơn giản, nhưng
rất hiệu quả vì người học có cơ hội tương tác với
nhau, lắng nghe những gì người kia nói. Một tình
bạn có thể được hình thành theo cách này và nhờ
đó tạo cơ hội thực hành kỹ năng nói. Chính vì thế,
thay vì chỉ viết thông tin vào vở, việc nói theo
vòng tròn là một sự sáng tạo thú vị giúp người học
tự tin hơn trong việc dùng kỹ năng nói để thể hiện
câu chuyện của mình, nâng cao tính mục đích là
giao tiếp, trao đổi thông tin của ngôn ngữ.
Hoạt động 7: Vẽ và nói
Để thực hành nói, người dạy yêu cầu một
người học vẽ một cái gì đó mà họ muốn chia sẻ lên
bảng và giải thích tại sao vẽ nó. Sau đó, người học
khác lên bảng và vẽ một hình khác bên cạnh. Sau
khi tất cả người học lần lượt lên bảng vẽ đối tượng
của họ, họ sẽ phải tạo ra một câu chuyện dựa trên
những hình vẽ trên bảng.
Với hoạt động này, không khí lớp học vô cùng
sôi nổi và đầy hứng khởi, người học tự chủ và tự

tin khi chia sẻ câu chuyện và cảm xúc của mình
với người khác, tự tạo ra một câu chuyện dựa trên
những hình vẽ
Ví dụ, một người học vẽ một cây đàn guitar,
người khác vẽ con thỏ, một người khác vẽ giáo
viên, hoặc chỉ viết một cái tên, người học đã có
thử thách để tạo ra một câu chuyện với những bức
vẽ đó, điều đó làm giờ học sống động, hài hước và
vui nhộn, tất cả đều tham gia, không khí lớp học
trở nên cởi mở, chia sẻ, trao đổi, cho phép họ nói

34

KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ

Số 20 (7/2019)


PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v

thoải mái, giúp cho việc thực hành kỹ năng nói trở
nên tự nhiên hơn bao giờ hết.
Hoạt động 8: Đặt câu hỏi và trả lời
Bài tập này giúp người học học các cấu trúc
câu hỏi bằng ngoại ngữ. Giáo viên yêu cầu người
học viết càng nhiều câu hỏi càng tốt trong vòng 15
phút về bất cứ điều gì họ muốn hỏi, chú ý về ngữ
pháp và các cấu trúc đặt câu hỏi. Sau khi tất cả
người học hoàn thành, mỗi người lần lượt lên ngồi
trước mặt các người học còn lại để nghe và trả lời

các câu hỏi “phỏng vấn”.
Lớp học sôi động vì tất cả người học đều được
(hoặc phải) tham gia, được hỏi những câu hỏi mà
họ cảm thấy thú vị hoặc “vắt óc” trả lời những câu
hỏi của bạn học. Với hoạt động này, người học sẽ
dần hình thành kỹ năng hỏi và trả lời trong các
cuộc phỏng vấn tương lai.
Hoạt động 9: Để người học tự chủ lên kế hoạch
thực hiện hoạt động
Việc cho học viên được tự làm, tự chuẩn bị
những hoạt động vui vẻ và hiệu quả cho các bạn
mình như trò chơi, thuyết trình… nhằm kích thích
việc sử dụng ngôn ngữ được cho là kỹ thuật dạy
học tốt nhất. Với hoạt động này, người học hoàn
toàn làm chủ lớp học, tự mình lựa chọn ngôn ngữ.
Ví dụ rất nhiều người học sử dụng hoạt động
vui nhộn và dễ hiểu như trò đoán chữ, đoán từ, trò

chơi ô chữ, tìm kiếm đồ vật trong lớp để học giới
từ, cũng như sử dụng các phương tiện trực quan
như điện thoại, ra khỏi lớp học,... Khi học viên tạo
ra các trò chơi của riêng họ và đề xuất chúng cho
lớp học, họ tham gia nhiều hơn và có nhiều động
lực hơn so với thụ động làm theo hoặc chơi theo
những gì được yêu cầu. Do đó, sự tự chủ của người
học được đẩy lên cao nhất, đạt được những tiến bộ
đáng kể trong việc học ngoại ngữ.
4. KẾT LUẬN
Tóm lại, sáng tạo hiện diện ở hầu hết các lĩnh
vực đời sống, phá vỡ những lối mòn, mang đến cái

nhìn mới mẻ về thế giới xung quanh. Việc khơi gợi
và phát huy trí sáng tạo không thể bỏ qua vai trò
của dạy học với khả năng thúc đẩy sự sáng tạo tiềm
tàng ở mỗi người. Trong đó, dạy học ngoại ngữ với
những hoạt động được đề cập trên đây mang đến
các giờ học ngoại ngữ trở nên có mục đích trong
mọi hoạt động, thu hút sự tham gia nhiệt tình của
người học nhờ kỹ thuật dạy học khơi gợi và khuyến
khích sáng tạo, vì thế, kỹ thuật này có thể được lặp
lại ở bất kỳ nhóm người học nào. Hơn nữa, với sự
đóng góp tích cực của người học qua những bài học
cần vận dụng sự sáng tạo, người dạy cũng có thể
mở rộng kiến ​​thức sư phạm của mình. Điều đó cho
thấy mối quan hệ biện chứng giữa dạy học và sáng
tạo nói chung và giữa dạy học ngoại ngữ với sáng
tạo nói riêng càng trở nên rõ nét hơn bao giờ hết./.

Tài liệu tham khảo:
Amado, H. (2010). Screenwriting: A strategy for the improvement of writing instructional practices. PROFILE
Issues in Teachers’ Professional Development, 12(2), 153-164.
Batey, M. (2012). Working Creativity. Psychology Today, [online] [cit. 2012/5/24] Available at: psychologytoday.com/intl/blog/working-creativity/201205/top-ten-creativity-questions>.
Carr, W., & Kemmis, S. (1986). Becoming critical: Education, knowledge and action research. Melbourne, AU:
Deakin University Press.
Cimermanova, I. (2015). Creativity in EFL teacher training and its transfer to language teaching. Procedia-Social
and Behavioral Sciences, Vol.197, 1969-1975.

KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ

Số 20 (7/2019)


35


v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY

Clarke, M. A. (2005). Creativity in modern foreign language teaching and learning. Higher Education Academy
Journal. < />Csikszentmihalyi, M. (2017). Creativity: The psychology of discovery and invention. New York, NY: Harper
Perennial. (Kindle Locations 1049-1050). New York : HarperCollins e-books. EPub Edition.
Fisher, R., (2006). Expanding Minds: Developing Creative Thinking in Young Learners. The IATEFL Young
Learners SIG journal, 5-9.
Hernán A.Avila, (2015). Creativity in the English Class: Activities to Promote EFL Learning. HOW, 22(2), 91-103.
Kelchtermans, G. (2009). Who I am in how I teach is the message: Self-understanding, vulnerability, and reflection.
Teachers and Teaching: Theory and Practice, 15(2), 257-272.
Kemmis, S., & McTaggart, R. (1988). The action research planner (3rd ed.). Geelong, AU: Deakin University
Press. [online] [cit. 2014/10/15] Available at: < />Lehrer, J. (2012). How To Be Creative. Wall Street Journal, [online] [cit. 2012/3/12]. Available at: wsj.com/articles/SB10001424052970203370604577265632205015846>.
Naiman, L. (1998). Fostering innovation in an IT world. Canadian Information Processing Society Journal, May
1998. < />Strakova, Z. (2012). Developing Cognitive Strategies in Foreign Language Education. Journal of Language
and Cultural Education (2013), 1.1 ISSN 1339-4045 (print) Copyright © 2013 SlovakEdu semanticscholar.org/5635/14c914fada8d19d61f78a55d367c5400f881.pdf>.
Sternberg, R.J (2007). Creativity as a habit. In Tan, A. (Ed.), Creativity: A handbook for teachers (pp.3-25). HA:
World Scientific
Vecino, A. M. (2007). Exploring the wonder of creative writing in two EFL writers. (Master’s thesis). Universidad
Distrital Francisco José de Caldas, Bogotá.

SOME ACTIVITIES TO AROUSE LEARNERS’ CREATIVITY
IN FOREIGN LANGUAGE TEACHING
NGUYEN THI NGOC TU
Abstract: Creative thinking is an important skill since it always exists in all areas of social life. In

addition to the disciplines that creativity is characterized by (such as painting and design), foreign
language teaching activities also contain great creative potential. The article provides an overview of
creativity and of its significance in teaching in general and in foreign language teaching in particular.
At the same time, a number of specific foreign language teaching activities are offered to arouse and
encourage learners’ creativity in order to enhance their outcomes in learning languages.
Keywords: creativity, teaching, learning, arouse, encourage, foreign language
Received: 09/4/2019; Revised: 03/6/2019; Accepted: 10/6/2019

36

KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ

Số 20 (7/2019)



×