Tải bản đầy đủ (.pdf) (181 trang)

Luận án tiến sĩ Triết học: Ý thức công dân với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.22 MB, 181 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN LƯƠNG NGỌC

Ý THỨC CÔNG DÂN VỚI VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC
PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

HÀ NỘI - 2019


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN LƯƠNG NGỌC

Ý THỨC CÔNG DÂN VỚI VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC
PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử
Mã số: 62 22 03 02

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

Người hướng dẫn khoa học: 1. GS,TS. Trần Thành
2. PGS, TS. Lê Thị Thanh Hà

HÀ NỘI - 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi


dưới sự dẫn dắt của thầy, cô hướng dẫn và góp ý của các hội
đồng khoa học. Các số liệu, tài liệu, kết quả nghiên cứu nêu
trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích
dẫn đầy đủ theo quy định.

Tác giả

Nguyễn Lương Ngọc


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ........................................6

1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề ý thức công dân, nhà nước pháp
quyền và vai trò của ý thức công dân trong xây dựng nhà nước pháp quyền ...............6
1.2. Các công trình nghiên cứu liên quan đến thực trạng và một số vấn đề đặt ra trong
việc phát huy vai trò ý thức công dân trong xây dựng nhà nước pháp quyền.............22
1.3. Các công trình nghiên cứu liên quan đến một số giải pháp nhằm phát huy vai
trò ý thức công dân trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Vam .................................................................................................................26
1.4. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu và làm sáng tỏ thêm ........................ 32
CHƯƠNG 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ Ý THỨC CÔNG DÂN VÀ
VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM HIỆN NAY ........................ 35

2.1. Khái niệm, đặc điểm, kết cấu của ý thức công dân ................................................35
2.2. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Nội dung và
đặc trưng .................................................................................................................51
2.3. Vai trò của ý thức công dân trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa Việt Nam và một số yếu tố ảnh hưởng tới việc phát huy vai trò của ý
thức công dân ..........................................................................................................61
CHƯƠNG 3: Ý THỨC CÔNG DÂN VỚI VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM HIỆN NAY - THỰC
TRẠNG VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA ................................................................ 85

3.1. Thực trạng ý thức công dân trong tham gia xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam những năm qua ................................................................ 85
3.2. Vấn đề đặt ra trong việc phát huy ý thức công dân tham gia xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay ........................................114
CHƯƠNG 4: GIẢI PHÁP CƠ BẢN PHÁT HUY VAI TRÒ Ý THỨC CÔNG DÂN
TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM HIỆN NAY ............................................................121

4.1. Phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa quyền lợi,
nghĩa vụ, trách nhiệm công dân ............................................................................121


4.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, cải cách bộ máy nhà nước và nâng cao năng
lực đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức .............................................................128
4.3. Nâng cao nhận thức và thực hành dân chủ của công dân .....................................139
KẾT LUẬN ................................................................................................................150
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ ........................152
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................153
PHỤ LỤC ...................................................................................................................168


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

CHLB


: Cộng hòa liên bang

CNTB

: Chủ nghĩa tư bản

CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

HĐND

: Hội đồng nhân dân

KHCN

: Khoa học công nghệ

NNPQ

: Nhà nước pháp quyền

QPPL

: Quy phạm pháp luật

TBCN

: Tư bản chủ nghĩa


UBND

: Ủy ban nhân dân

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

YTCD

: Ý thức công dân


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1: Cách giải quyết khó khăn khi thực hiện thủ tục với cơ quan chính quyền
(sắp xếp theo mức độ quan trọng). .............................................................108
Bảng 3.2: Mức độ thực hiện đúng và đầy đủ các quy định pháp luật của các cơ quan ..113

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1: Ý kiến của người dân về quan điểm “Hiến pháp có vị trí tối cao trong
xã hội” ....................................................................................................100
Biểu đồ 3.2: Tỉ lệ công dân đi bầu cử so sánh qua 2 năm 2011 và 2016 ....................105
Biểu đồ 3.3: Tính minh bạch trong hoạt động của các cơ quan nhà nước ..................109


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công cuộc đổi mới đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng từ Đại

hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (tháng 12-1986) đến nay đã đạt được những thành
tựu to lớn trên mọi mặt của đời sống xã hội, từ phát triển kinh tế đến phát triển xã
hội, nâng cao đời sống vật chất và đời sống tinh thần cho nhân dân, trong đó có quá
trình mở rộng và phát huy vai trò làm chủ của nhân dân. Tuy nhiên, để xây dựng
một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN) giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh, đòi hỏi cần có sự cố gắng, nỗ lực hơn nữa của cả hệ thống chính trị, cả xã hội
và mỗi công dân. Trong đó, điều rất quan trọng là mỗi người dân ý thức đầy đủ về
vai trò làm chủ của mình, tham gia tích cực, chủ động vào quá trình xây dựng, bảo
vệ đất nước, trong đó bao hàm cả trách nhiệm xây dựng nhà nước. Nói cách khác,
phát huy vai trò của ý thức công dân (YTCD) chính là một trong những điều kiện
quan trọng của việc hoàn thành mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) nói
chung ở Việt Nam hiện nay và mục tiêu xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền
(NNPQ) nói riêng.
Để thể hiện và thực hiện đầy đủ bản chất quyền lực của mình, nhà nước
XHCN phải tồn tại dưới hình thức chế độ dân chủ, hơn nữa phải là chế độ dân chủ
XHCN, chế độ dân chủ cao nhất, triệt để nhất và rộng rãi nhất. Song, thời kỳ trước
đổi mới (1986), Việt Nam đã xây dựng nhà nước mang nặng tính quan liêu, mệnh
lệnh hành chính, thiếu dân chủ, hoặc dân chủ hình thức. Vì vậy, trong thời kỳ đổi
mới, Đảng ta khẳng định cần đổi mới nhà nước theo hướng dân chủ hóa tổ chức và
phương thức hoạt động của Nhà nước, đồng thời phải gắn liền với quá trình đổi mới
căn bản tổ chức và hoạt động của Nhà nước. Để đáp ứng yêu cầu đó, việc lựa chọn
mô hình NNPQ XHCN ở Việt Nam là một tất yếu khách quan. Bởi, thực hiện dân
chủ là một trong những nội dung cơ bản của NNPQ, đặc biệt là NNPQ XHCN của
dân, do dân, vì dân. Không có NNPQ thực sự thì không có nền dân chủ rộng rãi và
bền vững. Dân chủ đóng vai trò cơ sở, động lực thúc đẩy sự phát triển của NNPQ.
Đối với nước ta, dân chủ hoá xã hội vừa là điều kiện tiên quyết để xây dựng và hoàn
thiện NNPQ XHCN, vừa là biện pháp căn bản để đẩy nhanh sự phát triển của đất


2

nước. Thậm chí, ở một góc độ nhất định, có thể nói, việc xây dựng NNPQ XHCN
của dân, do dân, vì dân ở nước ta có ảnh hưởng rất lớn đến sự thành bại của chế độ,
của Đảng Cộng sản. Điều này cũng đã thể hiện rõ trong thực tiễn đấu tranh chống
tham nhũng, chống lại một trong bốn nguy cơ lớn của Đảng và chế độ suốt nhiều
năm qua cũng như trong việc kiện toàn, hoàn thiện, nâng cao hiệu lực của bộ máy
nhà nước. Có thể nói rằng, nếu chúng ta không tạo dựng được một NNPQ thực sự
của dân, do dân, vì dân thì trong tương lai, xã hội ta, dân tộc ta có thể sẽ phải chịu
những hậu quả mà hiện nay khó lường được.
Theo đó, tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, tháng
1/1994, Đảng Cộng sản Việt Nam chính thức đưa ra quan điểm xây dựng NNPQ.
Nội dung này tiếp tục được nhấn mạnh nhiều lần qua Hội nghị Trung ương (TW) 8
khóa VII, Hội nghị TW3 khóa VIII và các kỳ đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII, IX, X, XI, XII của Đảng. Đặc biệt, vấn đề xây dựng NNPQ xã hội chủ nghĩa
(XHCN) của dân, do dân, vì dân đã trở thành một trong tám đặc trưng của CNXH
mà Việt Nam đang xây dựng với mục tiêu là:
Thứ nhất, xây dựng NNPQ XHCN nhằm hướng tới của một xã hội tiến bộ,
văn minh, gắn liền với phát huy quyền dân chủ của công dân, phù hợp với xu thế
vận động, phát triển, tiến bộ của nhân loại.
Thứ hai, xây dựng NNPQ XHCN phải khẳng định hiến pháp và pháp luật giữ
vị trí tối thượng, tất cả mọi người, mọi tổ chức phải tôn trọng pháp luật, bộ máy nhà
nước chịu sự ràng buộc của chính pháp luật do nhà nước tạo ra, quy định rõ trách
nhiệm qua lại giữa nhà nước và công dân, công dân với nhà nước.
Để xây dựng thành công NNPQ XHCN phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: sự
lãnh đạo của Đảng, quá trình tổ chức và vận hành bộ máy nhà nước, sự hoàn thiện
của hệ thống pháp luật, đội ngũ công chức, viên chức thực thi tốt công vụ, v.v...
Trong đó, đặc biệt phải kể đến vai trò quan trọng của công dân - với vị thế đặc biệt
của mình, vừa là chủ thể nhưng cũng đồng thời là đối tượng quản lý của nhà nước.
Tự bản thân nhà nước cùng với thể chế và thiết chế của nó không làm nên thành
công sự nghiệp xây dựng NNPQ XHCN, mà bắt buộc phải có nhân tố công dân
trong nhà nước, công dân của nhà nước đó. Vì vậy, xây dựng NNPQ XHCN phải đề



3
cập tới vị trí, vai trò, quyền lợi, trách nhiệm của công dân và việc thực hiện nó trong
thực tế, bởi: (i) Công dân là chủ thể quan trọng cùng với nhà nước xây dựng nên
Hiến pháp, pháp luật của quốc gia; (ii) Công dân là người thực thi Hiến pháp, pháp
luật; (iii) Công dân là chủ thể đóng vai trò quyết định trong việc quyền lực nhà nước
được thực thi trong thực tế. Có nghĩa là, công dân trong mối quan hệ với Nhà nước
có vai trò quyết định tới tiến trình xây dựng một NNPQ XHCN văn minh, tiến bộ.
Điều đó đòi hỏi một sự nhận thức đầy đủ, trách nhiệm cao và những hành động cụ
thể, công dân phát huy tốt quyền làm chủ để đóng góp vào quá trình xây dựng
NNPQ XHCN. Trong đó, YTCD với tư cách là một bộ phận của ý thức xã hội đóng
vai trò quan trọng, thông qua những hành vi cụ thể, tác động tới nhà nước và quá
trình xây dựng NNPQ XHCN.
Khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được thành lập đã khẳng định vị thế
người dân là công dân của nước Việt Nam tự do, độc lập và dân chủ. YTCD dần
được hình thành và phát triển. Công dân ngày càng ý thức được quyền lợi, nghĩa vụ,
trách nhiệm của mình trong xã hội cũng như quá trình tương tác với nhà nước, góp
phần tham gia xây dựng nhà nước; các cơ chế thực hiện dân chủ được chú ý xây
dựng, ban hành và thực thi trong cuộc sống, đáp ứng phần nào nhu cầu dân chủ hoá
đời sống xã hội.
Tuy nhiên, sau hơn 30 năm đổi mới đất nước, bên cạnh những thành tựu là
cơ bản, thì những bất cập, hạn chế đang tồn tại, nảy sinh những lực cản, khó khăn
mới trên con đường tiến tới hoàn thiện NNPQ XHCN. Trong đó, trình độ dân trí của
một bộ phận công dân còn thấp, nhất là ý thức về quyền và nghĩa vụ của công dân
trong mối quan hệ với nhà nước còn hạn chế, công dân chưa thực sự chủ động tham
gia xây dựng NNPQ XHCN. Chưa tạo ra sự gắn kết phát triển của cá nhân công dân
với nhiệm vụ xây dựng nhà nước và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Điều đó ảnh hưởng
không nhỏ tới quá trình xây dựng NNPQ XHCN.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu sâu mối quan hệ giữa YTCD với xây dựng

NNPQ và trên cơ sở đó nghiên cứu, phân tích, tìm ra hướng giải pháp phát huy vai
trò của YTCD đối với việc xây dựng NNPQ XHCN là một trong những nhiệm vụ
cần thiết hiện nay.


4
Xuất phát từ lý do đó, tác giả chọn chủ đề “Ý thức công dân với việc xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay” làm đề tài
nghiên cứu luận án tiến sĩ triết học.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu
Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận và thực trạng ý thức công dân
trong quá trình xây dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam những năm qua, luận án đề
xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của YTCD trong xây dựng
NNPQ XHCN ở Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ của đề tài
Để thực hiện mục tiêu, đề tài giải quyết một số nhiệm vụ sau:
- Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án.
- Phân tích những vấn đề lý luận về YTCD, vấn đề xây dựng NNPQ XHCN
Việt Nam; vai trò của YTCD trong xây dựng NNPQ XHCN ở nước ta hiện nay.
- Phân tích thực trạng và những vấn đề đặt ra trong việc phát huy vai trò
YTCD trong xây dựng NNPQ XHCN ở nước ta những năm qua.
- Đề xuất một số nhóm giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò YTCD trong
xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu YTCD trong xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án nghiên cứu vai trò của YTCD trong xây dựng NNPQ XHCN Việt
Nam từ năm 1994 đến nay, khi Đảng Cộng sản Việt Nam đưa ra quan điểm xây

dựng NNPQ tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, các quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, pháp luật của Nhà
nước Cộng hòa XHCN Việt Nam về nhà nước, pháp luật, ý thức pháp luật, YTCD.


5
Đồng thời, luận án tiếp thu, kế thừa có chọn lọc những giá trị khoa học của một số
công trình nghiên cứu đã công bố liên quan đến nội dung của luận án.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận để triển khai luận án là chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngoài ra, luận án sử dụng phương pháp cụ thể như lôgíc
và lịch sử, phân tích và tổng hợp, phương pháp hệ thống, phương pháp đối chiếu, so
sánh, xử lý số liệu để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ mà đề tài luận án đặt ra.
5. Những đóng góp khoa học của luận án
- Góp phần nghiên cứu sâu thêm về khái niệm, đặc điểm của YTCD, mối
quan hệ giữa YTCD với NNPQ và vai trò của nó đối với quá trình xây dựng NNPQ
XHCN Việt Nam hiện nay.
- Góp phần chỉ ra thành tựu và hạn chế của YTCD trong việc xây dựng
NNPQ XHCN Việt Nam những năm qua.
- Đề xuất một số nhóm giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò YTCD trong
xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Luận án góp phần cung cấp thêm một số cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu
vấn đề ý thức xã hội, YTCD trong quá trình xây dựng NNPQ XHCN.
- Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo, phục vụ nghiên cứu và
giảng dạy một số chuyên đề triết học phần chủ nghĩa duy vật lịch sử.
7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình khoa học đã công bố, phụ
lục, danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm có 4 chương, 12 tiết.


6
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Từ trước đến nay, vấn đề YTCD và tác động của nó đến việc xây dựng
NNPQ đã nhận được sự quan tâm, nghiên cứu của nhiều học giả trong nước, ngoài
nước dưới các góc độ khác nhau, lĩnh vực khác nhau. Trên cơ sở khảo cứu các công
trình nghiên cứu gồm sách chuyên khảo, sách tham khảo, đề tài nghiên cứu khoa
học, giáo trình, luận án, bài báo khoa học trên các tạp chí chuyên ngành, nghiên cứu
sinh xin được khái quát, tóm tắt những quan điểm, tư tưởng của các nhà nghiên cứu
đi trước, cụ thể là:
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN VẤN ĐỀ Ý THỨC
CÔNG DÂN, NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VÀ VAI TRÒ CỦA Ý THỨC CÔNG DÂN
TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN

1.1.1. Các công trình nghiên cứu về ý thức công dân
Đã có nhiều nhà khoa học, nhà tư tưởng nước ngoài và trong nước với các
công trình nghiên cứu trực tiếp, gián tiếp về vấn đề YTCD, có thể kể đến như:
Các công trình nước ngoài:
Quan niệm về ý thức công dân (civic conciousness), Johan Sandahl cho rằng,
YTCD phải bắt đầu từ việc giáo dục ý thức lịch sử và khái niệm này song hành với ý
thức lịch sử. Trên nền tảng hiểu biết về lịch sử giúp cho công dân suy nghĩ về hiện tại,
tương lai quốc gia, về dân chủ, về tuân thủ pháp luật, hiểu bản sắc của chính mình và
người khác [199]. Theo cách tiếp cận của Johan Sandal, YTCD hình thành và phát triển
gắn kết cả quá khứ, hiện tại và tương lai của mỗi quốc gia dân tộc và từ lâu đã được coi
là một phần quan trọng của con người. Tuy nhiên, trong nghiên cứu của mình, Johan
Sandal chưa đề cập một cách rõ ràng mối quan hệ và sự tác động của YTCD tới xây

dựng nhà nước. Chủ thể chính đảm bảo thực thi dân chủ cho công dân.
Trên bình diện toàn cầu, John M.Bunzl cho rằng, YTCD được hình thành
dựa trên nhận thức của người dân rằng quản trị là cần thiết, rằng nó là chức năng để
giải quyết các vấn đề của xã hội, môi trường hoặc kinh tế ở một mức độ nhất định,
có thể ở cấp độ địa phương, quốc gia hay toàn cầu [190]. Nghiên cứu vấn đề mang
tính vĩ mô và có cấp độ khác nhau phụ thuộc vào không gian hành động của công


7
dân, J.M. Bunzl đã tiếp cận YTCD hướng đến thúc giục công dân tham gia hoạt
động quản trên ba lĩnh vực xã hội, môi trường và kinh tế. Tuy vậy, J.M. Bunzl chưa
làm rõ những phương thức, cơ chế tham gia và điều kiện cùng phối hợp, thúc đẩy,
hỗ trợ công dân tham gia hoạt động quản lý.
Dưới góc độ trách nhiệm, YTCD được Jenifer Self cho rằng, trách nhiệm công
dân bao gồm các hành động và thái độ gắn liền với quản trị dân chủ và sự tham gia vào
các hoạt động xã hội. Trách nhiệm công dân có thể bao gồm việc tham gia vào chính
phủ, nhà thờ, tình nguyện viên và hội viên các hiệp hội tự nguyện. Hành động trách
nhiệm công dân có thể được thể hiện trong các vấn đề chính trị, kinh tế, dân sự, môi
trường hoặc chất lượng cuộc sống. Các giá trị đó bao gồm công lý, tự do, bình đẳng, đa
dạng, quyền hạn, quyền riêng tư, theo đúng trình tự, tài sản, tự tham gia, chân lý, lòng
yêu nước, nhân quyền, luật pháp, khoan dung, hỗ trợ lẫn nhau, tự kiềm chế và tự tôn
trọng. Trường học dạy trách nhiệm công dân cho thế hệ trẻ nhằm tạo ra những công
dân có trách nhiệm và những người tham gia tích cực trong cộng đồng và chính phủ
[200]. Trong nghiên cứu của mình, J.Shelf đã đề cập khá toàn diện các giá trị, các lĩnh
vực, các khía cạnh của đời sống xã hội mà công dân bằng ý thức, trách nhiệm của mình
có những đóng góp nhất định, tích cực cho cộng đồng và nhà nước.
Abdumalik A. Akramov quan niệm rằng, YTCD là một thành phần quan trọng
của ý thức công cộng, nó phản ánh các lý tưởng quan trọng, mục đích, ý tưởng về
những cách thức phát triển của cá nhân cụ thể là thành viên của xã hội. Ông cho rằng,
công dân, nhất là thế hệ trẻ phải nhận thức được trách nhiệm xã hội, mỗi cá nhân phải

là người bảo vệ tích cực cho các giá trị truyền thống và giá trị công cộng. Khi đề cập
đến người công dân Uzbekistan, Abdumalik A. Akramov còn nhấn mạnh, nếu người
đó không có ý niệm về quê hương, Tổ quốc thì không thể coi là người công dân thực
sự. Tuy nhiên, YTCD không chỉ giới hạn trong cảm giác yêu mến đất nước, mà còn
được xác định bởi việc thực hiện có ý thức nhiệm vụ công dân, tham gia tích cực vào
sự phát triển đất nước. YTCD không thể tách rời sự phục vụ tận tuỵ đối với quốc gia,
và điều đó làm nên một trong những giá trị quốc gia [188]. Đề cao giá trị của YTCD,
gắn vai trò của YTCD với sự phát triển quốc gia, nhưng A.A. Akramov chưa đề cập
tới mối quan hệ giữa YTCD với nhà nước. Có lẽ, những phân tích của A.A. Akramov


8
mới chỉ dừng lại như một lời kêu gọi tất cả mọi công dân phải làm, nên làm và cần
phát huy trách nhiệm của mình đối với đất nước.
Tác giả Tong Huasheng trong bài Một cuộc khảo sát về ý thức công dân ở
Trung Quốc đương đại [201] đã đề cập đến vấn đề YTCD như là một hình thức,
một cấu trúc của ý thức xã hội. Theo nghĩa hẹp, ông cho rằng, YTCD là trái ngược
với ý thức thần dân (servant consciousness). YTCD chủ yếu đề cập đến nhận thức
về phẩm chất và địa vị của công dân với sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Còn
theo nghĩa rộng, YTCD hiện đại bao gồm một số khía cạnh: sáng kiến tri thức về
mối quan hệ giữa cá nhân với nhà nước và xã hội; nhận thức hợp lý về quyền và
nghĩa vụ công dân và các đức tính của công dân; nội bộ hoá và xác định các định
mức hành vi xã hội và các giá trị cơ bản. Trên cơ sở một cuộc khảo sát thực nghiệm,
tác giả phân loại YTCD thành một số nội dung: ý thức công dân nói chung, ý thức
quốc gia dân tộc, ý thức chính trị, ý thức pháp luật, ý thức đạo đức, ý thức văn minh
sinh thái và ý thức toàn cầu. Tác giả nhận định rằng, việc nâng cao YTCD Trung
Quốc đương đại thực sự cần thiết nhằm mang đến sự phát triển toàn diện cá nhân và
là chìa khoá để thực hiện hiện đại hoá xã hội, nhưng không phải là sự phát triển qua
một đêm, bởi điều đó còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: phải thay đổi ý thức thần
dân đã tồn tại trong xã hội phong kiến hàng ngàn năm, phải chú trọng vấn đề giáo

dục, nâng cao trình độ dân trí cho công dân với những nội dung, mục tiêu và
phương pháp đúng. Dù có thể có những ý kiến khác nhau về cách chia YTCD trong
các lĩnh vực khác nhau, nhưng công trình nghiên cứu của Tong Huasheng rất có giá
trị tham khảo đối với luận án.
Khi viết về Phong trào đòi Hiến pháp đế chế ở Đức những năm đầu thế kỷ
XIX với linh hồn phong trào là giai cấp tiểu tư sản, còn gọi là tầng lớp thị dân - là
giai cấp chiếm ưu thế trong xã hội lúc bấy giờ, Ph.Ăngghen đã đề cập tới “ý thức
giác ngộ”, “nghĩa vụ công dân”, ông miêu tả họ hăng hái “tham gia vào các liên
minh tháng Ba, vào các liên minh dân chủ lập hiến, vào các liên minh yêu nước,...
và hầu hết vào tất cả các báo chí dân chủ... thực ra, chỉ là ý thức giác ngộ của bản
thân đang nâng cao tâm hồn của nghĩa vụ công dân đã được làm tròn” [21, tr.461].
Ph.Ăngghen đã có những luận điểm phản ánh mối quan hệ công dân với việc xây
dựng nhà nước, YTCD về xây dựng một nhà nước dân chủ, tiến bộ thời kỳ đó.


9
Các công trình trong nước:
Cuốn sách Toàn cầu hóa và quyền công dân ở Việt Nam do tác giả Trần Văn
Bính chủ biên đánh giá rằng: “Thực tiễn lịch sử đã chứng minh rằng, sự tồn tại,
hưng vong của một nhà nước, trước hết tuỳ thuộc vào sự hoạt động của bản thân
nhà nước đó, nhưng không thể không tùy thuộc vào điều kiện có tính quyết định là:
ý thức công dân, về trách nhiệm và quyền lợi của mình được phát huy ra sao, đến
mức độ nào” [11, tr.49-50]. Luận điểm này cho thấy, một khi nhà nước ra đời, đồng
thời thiết lập mối quan hệ giữa nhà nước với thành viên trong nhà nước đó và mối
quan hệ này có sự chi phối, ràng buộc, tác động lẫn nhau. Thậm chí, “ý thức công
dân” là “điều kiện có tính quyết định” đối với sự phát triển của nhà nước.
Trong cuốn sách Dân chủ và dân chủ hoá ở cơ sở nông thôn trong tiến trình
đổi mới, tác giả Hoàng Chí Bảo cho rằng “Không có ý thức dân chủ thì không thể
hình thành được năng lực dân chủ và năng lực thực hành dân chủ” [6, tr.14]. Tác giả
đưa ra định nghĩa: “Ý thức dân chủ trước hết là sự nhận thức của con người về

chính bản thân mình, là khả năng tự ý thức về vị thế của mình, về sự ràng buộc giữa
lợi ích và trách nhiệm, giữa quyền và nghĩa vụ, bổn phận” [6, tr.14-15]. Có thể thấy,
tác giả đã gián tiếp đề cập tới YTCD, nếu không muốn nói là, dù không sử dụng
thật ngữ YTCD nhưng những luận điểm của tác giả chính là nói đến YTCD. Nói
cách khác, cách tiếp cận ý thức dân chủ của tác giả rất gần nghĩa với YTCD.
Nghiên cứu YTCD dưới giác độ “tính tích cực chính trị” của công dân, tác
giả Nguyễn Thị Kim Hoa cho rằng:
Tính tích cực chính trị của công dân là toàn bộ những biểu hiện của sự tự
giác, chủ động, sáng tạo trong hoạt động của công dân tham gia vào quá
trình chính trị, trên những cơ sở, điều kiện xác định nhằm thực hiện
những mục tiêu chính trị tiến bộ, thúc đẩy sự phát triển của công dân và
của cộng đồng [85, tr.106].
Tác giả cho rằng, thông qua thái độ quan tâm tới chính trị, tích cực tham gia
các hoạt động chính trị và rộng hơn cả là thông qua lao động có ích công dân thực
hiện các mục tiêu chính trị vì cộng đồng và nó chỉ xuất hiện ở những công dân đã
trưởng thành, là chủ thể mang nhân cách.


10
Tác giả Đào Duy Tấn trong luận án tiến sĩ triết học Những đặc điểm của quá
trình hình thành ý thức pháp luật ở Việt Nam hiện nay [148], cho rằng, xã hội Việt
Nam chưa trải qua thể chế “xã hội công dân” mà từ “xã hội thần dân” phong kiến
quá độ lên xây dựng CNXH, người dân Việt Nam quen với “lệ làng”, chưa quen
sống theo phép nước. Tác giả nhìn thấy sự thay đổi “thân phận” của người dân từ
“thần dân” lên “công dân” và mối quan hệ giữa công dân với nhà nước, ở đó phản
ánh tính hai chiều thông qua cầu nối pháp luật.
Dưới góc nhìn lịch sử, tác giả Nguyễn Trọng Phúc trong bài viết Bản lĩnh
truyền thống của dân tộc Việt Nam với qua trình xây dựng đất nước, phát triển xã
hội [127] cho rằng, “Sự ra đời và hoạt động của bộ máy nhà nước Văn Lang - Âu
Lạc đánh dấu sự phát triển về tổ chức cộng đồng của văn minh sông Hồng... là nhà

nước sơ khai của một hình thái dân chủ làng xã của cư dân nông nghiệp... Cư dân
Việt đã bám chắc địa bàn làng xã để xây dựng kinh tế, giữ gìn giá trị văn hóa,
truyền thống, mặt khác kiên cường và khôn khéo chống lại chiến lược đồng hóa của
một quốc gia mạnh hơn nhiều lần”. Điều đó cho thấy ý thức về một đất nước, lãnh
thổ có chủ quyền, có nền văn hóa riêng của người dân Việt Nam đã được hun đúc
nên từ xa xưa. Tương đồng với quan điểm trên, tác giả Phạm Văn Đức trong bài viết
Phát huy tinh thần dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa ở Việt Nam hiện nay [68]
cũng khẳng định, tinh thần dân tộc Việt Nam chính là ý thức dân tộc Việt Nam đã
được hình thành trong suốt tiến trình lịch sử và được biểu hiện ở các giá trị trong
truyền thống văn hóa của người Việt. Trong điều kiện hiện nay, tinh thần dân tộc (ý
thức dân tộc) đóng vai trò hết sức quan trọng đối với công cuộc cải cách, hiện đại của
quốc gia, trong đó được thể hiện trong việc tìm kiếm mô hình phát triển cho xã hội
Việt Nam. Bên cạnh hai quan điểm này, các tác giả Trần Văn Phòng, Ngô Thị Nụ
trong bài viết Cơ sở của ý thức cộng đồng Việt Nam [126] cũng đề cập khá sâu sắc tới
lịch sử hình thành và phát triển của YTCD dưới góc nhìn là “ý thức cộng đồng”. Các
tác giả đã làm toát lên tính đặc thù của YTCD ở Việt Nam, của người Việt Nam
mang tính cộng đồng, hòa với cộng đồng nhiều hơn là YTCD của cá nhân.
Trên cơ sở quan điểm của Hồ Chí Minh “Nhân dân có quyền lợi làm chủ thì
phải có nghĩa vụ làm tròn bổn phận công dân, giữ đúng đạo đức công dân” [113,


11
tr.258], tác giả Phạm Thị Hương [94], đã phân tích trách nhiệm công dân trong nền
hành chính nhà nước theo những gợi ý của Người, bao gồm: tuân theo pháp luật nhà
nước; tuân theo kỷ luật lao động; giữ gìn trật tự kỷ cương; đóng góp đúng kỳ, đúng
số để xây dựng mục đích chung; hăng hái tham gia công việc chung; bảo vệ tài sản
công cộng và bảo vệ Tổ quốc. Cũng nhấn mạnh đến trách nhiệm công dân, tác giả
Nguyễn Hữu Khiển [96] cho rằng, trách nhiệm công dân trong quá trình xây dựng
nhà nước dân chủ là rất quan trọng. Đó là một phạm trù của nền dân chủ, nó có sức
mạnh ghê gớm cả trên phương diện kinh tế, thể chế và văn minh, ở đó, quyền và

trách nhiệm của người dân là thống nhất trong mọi hành vi, quyền lợi và trách
nhiệm công dân gắn bó hữu cơ với nhau.
Một điểm thú vị khác, khi phân tích Quyền công dân và cơ chế bảo vệ quyền
công dân theo Hiến pháp 2013 [73], các tác giả Vũ Công Giao, Nguyễn Minh Tâm
đã đề cập tới khái niệm công dân trong lịch sử, so sánh quyền công dân với quyền
con người, các tác giả đã thống kê có 41 quyền được đề cập đến trong Hiến pháp
năm 2013 trong đó 16 quyền dành cho công dân và 25 quyền là quyền chung dành
cho tất cả mọi người. Các tác giả đã chỉ ra sự tiến bộ của Hiến pháp năm 2013 là
không đồng nhất quyền công dân với quyền con người, bổ sung cơ chế bảo vệ Hiến
pháp cũng chính là bảo vệ quyền công dân. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc quan
tâm tới vai trò của ý thức công dân trong quá trình xây dựng NNPQ XHCN.
Khái lược đánh giá các công trình nghiên cứu nêu trên, nghiên cứu sinh nhận
thấy, có tác giả đã đề cập thẳng vào YTCD, làm toát lên vai trò của công dân trong
việc xây dựng nhà nước và nhà nước đó quay lại phục vụ chính họ. Công dân ý thức
được việc mình làm, thấy được trách nhiệm của mình trong đó và nhận được kết
quả cho mình hay dưới cái nhìn là ý thức cộng đồng, ý thức dân tộc, ý thức về chủ
quyền lãnh thổ quốc gia, ý thức chính trị - YTCD là nhận thức về chính mình trước
cộng đồng, đóng góp cho cộng đồng, vì quê hương, vì sự tồn tại và phát triển đất
nước (Johan Sandahl, A.A.Akramov, Tong Huasheng, Trần Văn Phòng, Ngô Thị
Nụ, Phạm Văn Đức, Nguyễn Trọng Phúc, Trần Văn Bính và cộng sự); là trách
nhiệm tham gia vào các hoạt động kinh tế, chính trị, hành chính, dân sự, môi
trường, chất lượng cuộc sống, công dân phải sáng suốt, tích cực để tham gia bảo vệ


12
pháp luật, bảo vệ cộng đồng, YTCD là sự dấn thân vì cái chung, vì xã hội (Jenifer
Shelf, Phạm Thị Hương, Nguyễn Hữu Khiển); là tính tích cực chính trị để thúc đẩy
sự phát triển của công dân và cộng đồng (Nguyễn Thị Kim Hoa). Bên cạnh đó, một
số tác giả tiếp cận trên phương diện ý thức pháp luật và sự cần thiết phải nâng cao ý
thức pháp luật của nhân dân trong bối cảnh phát triển đất nước ngày nay (Đào Duy

Tấn). Tất cả những quan điểm, đánh giá, phân tích của các nhà khoa học có điểm
chung là đều khẳng định công dân với ý thức của mình, trách nhiệm của mình
không chỉ tỏ thái độ và hành động vì lợi ích cá nhân mà cao hơn thế, luôn hướng tới
lợi ích của cộng đồng, xã hội, quốc gia dân tộc, là sự kết hợp hài hòa giữa cái riêng
và cái chung, giữa suy nghĩ, thái độ và hành vi, hành động. Những công trình nêu
trên là vô cùng quý giá, giúp cho nghiên cứu sinh có cái nhìn nhiều chiều cạnh về
YTCD trước khi đi phân tích, tìm hiểu vai trò của nó đối với quá trình xây dựng
NNPQ XHCN Việt Nam hiện nay.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về nhà nước pháp quyền:
Các công trình nước ngoài:
Chúng ta biết rằng, tư tưởng pháp quyền đã có từ thời Hy Lạp, La Mã cổ đại
với những đại biểu như Solon, Pitagore, Heraclite, Socrate, Democrite, Platon,
Aristotle, Masillius, Ciceron và được tiếp nối phát triển thành những luận thuyết
ngày càng hoàn chỉnh về NNPQ thời kỳ Phục hưng cận hiện đại với những đại biểu
như N.Machiavelli, Jean Bodin, Thomas Hobbes, John Locke, C.Montesquieu,
J.J.Rousseau, Voltaire, D.Diderot, B.d’Holbach, Christian Thomasius, Christian
Wolff, I.Kant, J.G.Fichte, G.W.Hegel, R.v.Mohl, C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin,
Ernst Rudolf Bierling, Rudolf Jhering, Hans Kelsen, Gustav Radbruch, John Rawls,
Arthur Kaufmann, cùng nhiều học giả khác.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin không đặt ra cho mình nhiệm vụ
(xét thấy chưa cần thiết vào lúc đó) là nêu những quan điểm trực tiếp về một NNPQ
dành cho giai cấp vô sản khi họ giành được chính quyền, mà nhiệm vụ trước mắt
của các ông là phơi bày bản chất của giai cấp tư sản, sự bóc lột, áp bức bất công của
giai cấp tư sản đối với giai cấp vô sản, giúp cho giai cấp vô sản cách mạng hiểu rõ
và có định hướng, mục tiêu, con đường, cách thức đấu tranh cách mạng đúng đắn để


13
xoá bỏ bóc lột, áp bức, bất công để tiến tới xây dựng xã hội cộng sản. Nhưng, bằng
việc phân tích, lột tả cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra trong quốc hội Pháp giữa các

phe phái như “đảng trật tự”, “phái Núi”, “phái chính thống”, “phái Óoc-lê-ăng”,
“phái bảo hoàng”, v.v... là những lực lượng đại diện cho các giai tầng, nhóm lợi ích
trong xã hội Pháp lúc bấy giờ, C.Mác đã sử dụng những thuật ngữ như “quyền lực
nhà nước”, “vấn đề ủy quyền, phân quyền, tập quyền”, “kéo dài nhiệm kỳ của Tổng
thống”, “chế độ phổ thông đầu phiếu là kết quả của ý chí chủ quyền nhân dân”,
“ban hành đạo luật”, “cơ sở pháp lý của pháp luật”, “quyền lập pháp, quyền hành
pháp, chế độ cộng hòa”, v.v.. cho thấy ông hoàn toàn nắm rõ vấn đề nhà nước nói
chung và nhà nước pháp quyền tư sản nói riêng. Ph.Ăngghen cũng đã nhắc tới thuật
ngữ “nhà nước pháp quyền” khi phê phán quan điểm của Các Hai-nơ-xten khi ông
này “gắng sức” thiết lập một nhà nước pháp quyền thực sự (!) bằng việc “tiến hành
tất cả những cuộc cải cách xã hội mà tính đúng đắn về mặt lý luận (!) và tính hiệu
lực thực tế (!) của chúng bắt nguồn từ sự phát triển phổ biến (!)”!!!. Ph.Ăngghen
cho rằng, ý định thì tốt đẹp, nhưng văn phong trình bày lại rối rắm, sáo rỗng và lý
luận mang tính ảo tưởng [19, tr.402]. Bên cạnh đó, khi nói về thực chất, sức mạnh
của nhà nước kiểu mới lại được các ông đề cập sâu sắc, đó là dân chủ triệt để, dân
chủ đến cùng, là một nhà nước hợp hiến, hợp pháp, do nhân dân tự quy định, từ
“nhân dân của nhà nước” sang “nhà nước của nhân dân”. Trong tác phẩm Nội chiến
ở Pháp C.Mác đã khẳng định: “sự cai quản nhân dân do chính nhân dân đảm
nhiệm” [20, tr.461] là một xu hướng tất yếu dưới CNXH. V.I.Lênin trong tác phẩm
Nhà nước và cách mạng cho rằng, đó là một nhà nước mà “quần chúng nhân dân
vươn lên tham gia một cách độc lập không những vào việc bầu cử và tuyển cử, mà
cả vào việc quản lý hàng ngày nữa” [176, tr.143].
Trong cuốn sách Bàn về chính quyền (On Government), nhà tư tưởng vĩ đại
thời kỳ La Mã Marcus Tullius Cicero (106-43 TCN) trên cơ sở kế thừa tư tưởng về
nền cộng hòa của Platon, đã nêu lên tư tưởng pháp quyền rất rõ nét, ông viết: “Chức
năng của một quan chức nhà nước là điều hành cũng như ban hành các chỉ thị công
bằng, hữu ích và đúng luật. Quả thật, có thể nói một cách đúng đắn là: quan chức là
luật pháp biết nói, còn luật pháp là quan chức lặng thầm” [37, tr.261], “Một dân tộc



14
chỉ có thể được cho là tồn tại khi cá nhân tạo nên nó bị ràng buộc với nhau bởi một
mối quan hệ cộng tác được hình thành dựa trên luật” [37, tr.253].
Là một trong những người khởi xướng nền dân chủ pháp quyền, C.Montesquieu
quan niệm rằng, pháp luật là điều kiện tiên quyết để ngăn chặn tình trạng độc tài và
tránh cho xã hội đi đến chỗ diệt vong. Pháp luật còn là phương tiện hữu hiệu trong
việc duy trì trật tự xã hội, chế ước quyền lực nhà nước. Ông tin rằng, nền dân chủ
được thiết lập trên tinh thần thượng tôn pháp luật là cách tốt nhất để giải quyết
những xung đột và bất đồng xã hội, điều hòa các quan hệ lợi ích, mang lại bình
đẳng và tự do cho mọi người. C.Montesquieu viết: “Tự do là quyền được làm tất cả
những điều mà luật cho phép. Nếu một công dân làm điều trái luật thì anh ta không
còn được tự do nữa…” [117, tr.105].
Nhà tư tưởng theo trường phái tự do người Pháp Claude Frederic Bastiat (18011850) đã viết: “Nếu luật pháp không được tôn trọng, ở một mức độ nhất định nào đó,
thì xã hội không thể tồn tại được. Biện pháp an toàn nhất làm cho người ta tôn trọng
luật pháp là làm cho luật pháp đáng được tôn trọng” [9, tr.54]. Trong NNPQ, mối quan
hệ giữa nhà nước và công dân đều được chi phối bởi pháp luật. Ở đây, pháp luật chứa
đựng những giá trị ổn định, chuẩn mực của các quan hệ xã hội và có các chức năng đặc
biệt là tổ chức, bảo vệ và trọng tài. Pháp luật là sản phẩm của quá trình con người
khách quan hóa cái chủ quan, nhưng điều đó đòi hỏi cái chủ quan của công dân nói
chung, chủ thể cầm quyền nói riêng phải phản ánh được quy luật khách quan.
A.V.Dicey (1835-1922) nhà lập pháp nổi tiếng người Anh khi nghiên cứu và
đề cập tới NNPQ, ông đã chỉ ra 8 đặc trưng cơ bản của NNPQ gồm: (1) Tính tối
thượng của pháp luật, tất cả mọi cá nhân và chính phủ đều phải tuân theo pháp luật;
(2) Công lý và quyền con người được đảm bảo; (3) Hạn chế việc thực thi quyền lực
tuỳ tiện; (4) Dựa trên lý luận về Tiền lệ án và phương pháp luận Thông luật; (5)
Pháp luật cần phải theo hướng vượt trước (prospective) chứ không phải hồi tố; (6)
Tư pháp độc lập; (7) Quyền lập pháp do nghị viện thực thi và quyền hành pháp sẽ
hạn chế thực thi quyền lập pháp; (8) Tất cả các điều luật phải xuất phát từ đạo đức
[208]. Bên cạnh những đặc trưng mà A.V.Dicey nêu ra, Joseph Raz (sinh năm
1939) nhà triết học chính trị, đạo đức và luật pháp gốc Israel, đã bổ sung thêm một



15
số đặc trưng nữa, đó là: (1) Bình đẳng trước pháp luật; (2) Trách nhiệm giải trình;
(3) Công bằng trong việc áp dụng pháp luật; (4) Người dân phải được tham gia vào
quá trình ra quyết định; (5) Minh bạch về khung pháp luật và thủ tục [191].
Tác giả Bodo Pieroth (giáo sư đại học Munster, CHLB Đức) trong bài viết
Sự phát triển và các yếu tố cơ bản của nhà nước pháp quyền [130] khẳng định rằng,
NNPQ là một nhu cầu phổ quát. Nếu nhiều người cho rằng tài phán hiến pháp là
đỉnh cao của NNPQ, thì điều đó lần đầu tiên được ghi nhận trong Hiến pháp Áo
năm 1920. Bodo Pieroth chỉ ra rằng, dù khái niệm NNPQ lần đầu tiên xuất tại Đức
vào khoảng năm 1800, thì nó cũng trải qua sự phát triển lịch sử thăng trầm, thậm chí
là méo mó cực đoan thời kỳ chủ nghĩa quốc xã. Điều đó để thấy rằng, NNPQ không
phải cái gì đó bất biến và đã sinh ra là cứ thế tồn tại, mà biến đổi đa dạng trong lịch
sử phát triển. Ông cho rằng, NNPQ bao gồm hai yếu tố: Một là, sự ràng buộc nhà
nước vào pháp luật - nghĩa là, nhà nước thống trị qua pháp luật chứ không theo ý
muốn của người thống trị và thống trị qua pháp luật là đối cực của thống trị tùy tiện.
Tuy trong NNPQ cũng có những lĩnh vực cuộc sống không được pháp luật bao trùm
hay không được bao trùm tuyệt đối, nhưng ở đâu đã có luật thì luật đứng cao hơn mọi
thước đo khác (kinh tế, đạo đức, đạo lý, tôn giáo hay chính trị). Tính cưỡng bách đó
của pháp luật không chỉ có giá trị áp dụng cho công dân một nhà nước, mà còn cho cả
chính nhà nước, các cơ quan nhà nước, công chức và nhân viên nhà nước. Nhà nước
phải tuân thủ pháp luật, cả khi trong trường hợp cụ thể thấy khó chịu và phiền nhiễu.
Chỉ có thế thì chúng ta mới có một NNPQ, khi pháp luật mạnh hơn mọi trở lực. Hai
là, bảo đảm quyền con người, quyền công dân là điểm cốt lõi của NNPQ. Như vậy,
nhà nước phụ thuộc vào người dân và chỉ vì dân mà tồn tại.
Các công trình trong nước:
Ở Việt Nam, thuật ngữ NNPQ được đề cập chính thức trong văn kiện Đảng
năm 1994 và được ghi nhận chính thức trong Hiến pháp và các văn bản quy phạm
pháp luật (QPPL) nước ta từ năm 2001, nhưng tư tưởng về NNPQ thì đã có từ

những năm đầu thế kỷ XX.
Tiếp thu tư tưởng pháp quyền của các tác gia lớn như J.J.Rousseau,
C.Montesquieu, trong bài diễn thuyết có tựa đề “Quân trị chủ nghĩa và dân trị chủ


16
nghĩa”, nhà yêu nước Phan Chu Trinh đã nêu bật mong muốn xây dựng Hiến pháp
và một nhà nước dân chủ, ông nhấn mạnh:
Trong nước có Hiến pháp, ai cũng phải tôn trọng Hiến pháp, cái quyền
của Chính phủ cũng bởi Hiến pháp quy định cho, lười biếng không được
mà dẫu có muốn áp chế cũng không chỗ nào thò ra được. Vả lại khi có
điều gì vi phạm đến pháp luật thì người nào cũng như người nào, từ ông
Tổng thống cho đến một người nhà quê cũng chịu theo pháp luật như
nhau [48, tr.817].
So sánh chế độ quân chủ với chế độ dân chủ, ông viết:
So sánh hai cái chủ nghĩa quân trị và dân trị thì ta thấy chủ nghĩa dân trị
hay hơn chủ nghĩa quân trị nhiều lắm. Lấy theo ý riêng của một người hay
của một triều đình mà trị một nước thì cái nước ấy không khác nào một
đàn dê được no ấm vui vẻ hay đói khát khổ sở tùy theo lòng của người
chăn. Còn như theo cái chủ nghĩa dân trị thì quốc dân lập ra Hiến pháp,
luật lệ, đặt ra các cơ quan để lo việc chung của cả nước, lòng quốc dân thế
nào thì làm thế đấy, dù không có người tài giỏi thì cũng không đến nỗi
phải để dân khốn khổ làm tôi mọi một nhà, một họ nào [48, tr.816].
Trong Yêu sách của nhân dân An Nam [106, tr.440-441] gửi tới Hội nghị
Versailles tổ chức ngày 18/6/1919, các nhà yêu nước Nguyễn Ái Quốc, Phan Chu
Trinh, Phan Văn Trường đã đề cập tới tinh thần pháp quyền khi đề nghị “cải cách
nền pháp lý ở Đông Dương bằng cách cho người bản xứ cũng được quyền hưởng
những đảm bảo về mặt pháp luật như người châu Âu”, được “tự do báo chí và tự do
ngôn luận”, “tự do lập hội và hội họp” và “Thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra
các đạo luật”. Những luận điểm này sau được chuyển sang thể lục bát để phổ biến

trong dân chúng: “Trăm điều phải có thần linh pháp quyền” một cách ngắn gọn, dễ
nhớ, dễ hiểu và đầy đủ ý nghĩa. Nghĩa là, tất cả mọi việc, mọi hoạt động trong đời
sống xã hội đều phải có và cần có sự điều chỉnh của pháp luật, phải được quy định và
hạn chế bằng luật. “Thần linh pháp quyền” khẳng định sức mạnh của pháp luật, một
sức mạnh mang tính linh thiêng, phải được tôn trọng trong mọi hoàn cảnh. Tất nhiên,
đó phải là một pháp luật đúng, theo kịp đời sống, bảo vệ quyền lợi và phục vụ cho đời
sống con người, những quyền mà người ta đã mang theo từ khi sinh ra.


17
Trong cuốn sách chuyên khảo Lịch sử tư tưởng triết học pháp quyền Đức từ
thế kỷ XVIII đến thế kỷ XX [42, tr.15, tr.19, tr.45], tác giả Ngô Thị Mỹ Dung đã khái
lược tư tưởng triết học pháp quyền từ thời cổ đại, trung đại (trung cổ) đã được các
nhà tư tưởng Đức kế thừa và phát triển mạnh mẽ. Chẳng hạn, Arthur Kaufmann
(1923-2001), học giả người Đức cho rằng, sự hội nhập và phát triển mang tính toàn
cầu hóa trên toàn thế giới đòi hỏi phải có một khái niệm chung vừa đáp ứng nội
dung của luật và cả những điều vượt ra ngoài thực tiễn của nó, thực tiễn của các đạo
luật. Tuy nhiên, khó có thể xây dựng được một khái niệm có tính nội dung về pháp
quyền có giá trị cho mọi nền văn hóa. Trên cơ sở phân tích tư tưởng, quan điểm của
các nhà tư tưởng pháp quyền Đức, có sự so sánh với các nhà tư tưởng trước đó
trong lịch sử, tác giả Ngô Thị Mỹ Dung kết luận: các nhà triết học pháp quyền
phương Tây thế kỷ XX cho rằng, một khái niệm pháp quyền hiện đại không thể
thiếu các nguyên tắc pháp quyền chung và yếu tố hiện thực với những điều kiện
kinh tế - xã hội cụ thể của mỗi dân tộc.
Trong tác phẩm Tư tưởng lập hiến Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX [151], hai tác
giả Trương Đăng Thanh, Trương Thị Hoà đã khái quát, hệ thống hoá các luồng tư
tưởng lập hiến trong giai đoạn đầu nước ta chuyển mình từ một nước quân chủ
phong kiến, thuộc địa trở thành một quốc gia độc lập theo chính thể cộng hoà, từ
một nền pháp luật cổ truyền không có hiến pháp đến sự ra đời của Hiến pháp năm
1946. Đó là bản hiến pháp của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt

Nam, một hiến pháp dân chủ và tiến bộ ở Đông Nam Á lúc bấy giờ. Các tác giả cho
rằng, tư tưởng lập hiến là một bộ phận quan trọng của tư tưởng pháp quyền. Ban
đầu tư tưởng lập hiến rất đa dạng, có diễn biến đầy cam go, trải qua con đường đấu
tranh quyết liệt với nhau trong bối cảnh lịch sử vô cùng phức tạp. Nhờ đó, chúng ta
càng thấy rõ tính chất cách mạng, dân chủ, tiến bộ của tư tưởng pháp quyền Hồ Chí
Minh và được hiện thực hoá bằng bản Hiến pháp năm 1946, đánh dấu sự ra đời của
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa [151].
Các tác giả Nguyễn Duy Quý, Nguyễn Tất Viễn trong cuốn sách Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân - lý luận và thực tiễn
[142] tập hợp các nhà khoa học là những chuyên gia đầu ngành trong các lĩnh vực triết


18
học, chính trị học, luật học và một số lĩnh vực khác như Hoàng Văn Hảo, Đào Trí Úc,
Nguyễn Đình Lộc, Hoàng Chí Bảo, Lê Minh Tâm, Đinh Ngọc Vượng,... đã tổng hợp
trong lịch sử tư tưởng nhân loại về học thuyết NNPQ của phương Tây và phương
Đông, quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và
pháp luật XHCN, nêu lên những đặc trưng của NNPQ XHCN Việt Nam, phân tích một
số yếu tố quy định, chi phối quá trình xây dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam và đề ra
một số phương hướng, giải pháp chủ yếu xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam. Đây là
công trình nghiên cứu với các nội dung khá toàn diện, công phu, hệ thống về vấn đề
nhà nước pháp quyền nói chung và NNPQ XHCN Việt Nam nói riêng.
Trong cuốn sách Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với công
cuộc đổi mới của Việt Nam, tác giả Lê Hữu Nghĩa đã khái quát sự phát triển của tư
tưởng về NNPQ trong lịch sử, đề cập tới quá trình nhận thức của Đảng Cộng sản
Việt Nam về NNPQ XHCN, trong đó khẳng định rằng, “Nhà nước pháp quyền
không phải là một kiểu nhà nước mà là hình thức phân công và tổ chức quyền lực
nhà nước” [121, tr.561]. Và “một thời kỳ dài chúng ta nhận thức không đúng về nhà
nước pháp quyền.... Về sau, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thức ra rằng, nhà
nước pháp quyền không phải là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa xã hội

cũng phải thực hiện nhà nước pháp quyền” [132, tr.562]. Tác giả cho rằng, quá trình
xây dựng NNPQ XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân trong thời kỳ đổi
mới ở Việt Nam trước hết phải nâng cao nhận thức về NNPQ XHCN. Hai là, phát
huy dân chủ, đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng nhà nước và
quản lý xã hội. Ba là, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức
thực hiện pháp luật thật tốt. Bốn là, đổi mới tổ chức và hoạt động của nhà nước.
Năm là, đảm bảo vai trò lãnh đạo và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam đối với NNPQ XHCN. Tuy không đề cập trực tiếp đến mối quan hệ
giữa YTCD với quá trình xây dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam, nhưng những
phương hướng lớn được tác giả nêu lên đều gián tiếp tác động tới YTCD, thúc đẩy
YTCD, đó là quan tâm trước tiên tới vấn đề nâng cao nhận thức và phát huy dân
chủ. Đồng quan điểm, tác giả Phạm Văn Đức trong bài Về một số nét đặc thù của
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam [69] cũng khẳng định NNPQ


×