Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

Tóm tắt Luận án tiến sĩ Lịch sử: Cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc của Việt Nam trên lĩnh vực đối ngoại từ năm 1954 đến năm 1975

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (613.71 KB, 29 trang )

HCVINCHNHTRQUCGIAHCHMINH

INHCDUY

Cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc
của Việt Nam trên lĩnh vực đối ngoại
từ năm 1954 đến năm 1975
Chuyờnngnh :LchsPhongtrocngsncụngnhõnquct
vgiiphúngdõntc
Mós
:62220312

tóm tắt luận án tiến sĩ

hà nội - 2019


Công trình được hoàn thành tại
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh

Người hướng dẫn khoa học: PGS,TS. Nguyễn Thị Quế

Phản biện 1: 
   
Phản biện 2: 
   
Phản biện 3: 
    

Luận án được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp Học  
viện, họp tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.


Vào hồi ..... giờ .....,  ngày ..... tháng ..... năm 2019


Có thể tìm hiểu luận án tại Thư viện Quốc gia
và Thư viện Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Sau thành công của Cách mạng Tháng 8/1945, ngày 2/9/1945 Chủ tịch  
Hồ  Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra Nước Việt Nam Dân 
chủ  Cộng hòa. Với sự  kiện trọng đại này, thật sự  Việt Nam đã giành được 
độc lập, Tuyên ngôn khẳng định: "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và  
độc lập và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt 
Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để  giữ 
vững quyền tự do, độc lập ấy". Để thể hiện quyết tâm đó, cả dân tộc Việt 
Nam đã đồng lòng, chung sức đấu tranh để bảo vệ nền độc lập  bằng thắng 
lợi qua cuộc kháng chiến chống đế quốc từ  năm 1954 đến năm 1975. Đóng 
góp vào thành công hiển hách có vai trò rất quan trọng của đối ngoại Việt 
Nam, bằng việc biết phân hóa, cô lập kẻ thù, tập hợp lực lượng, cuộc đấu 
tranh bảo vệ độc lập dân tộc nhận được nhiều sự  ủng hộ tích cực của các  
lực lượng tiến bộ và nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới. Trong đó, nhân 
dân Mỹ cũng thực hiện các phong trào phản chiến rầm rộ, góp phần buộc  
chính phủ Mỹ phải rút quân khỏi Việt Nam. Mặt khác, đối ngoại đã phối 
hợp hiệu quả với đấu tranh chính trị, quân sự, đánh bại từng bước, đánh 
đổ   từng   bộ   phận   âm   mưu   xâm   lược   của   Mỹ,   thể   hiện  tinh   thần   yêu 
chuộng hòa bình và chính nghĩa của dân tộc Việt Nam. 
Hiện nay, Việt Nam đang hội nhập quốc tế  ngày càng sâu rộng, vấn  
đề  đối ngoại trở  nên hết sức quan trọng.   Những kinh nghiệm quý báu 

trong đối ngoại để bảo vệ độc lập dân tộc và thống nhất đất nước từ năm 
1954 đến năm 1975 vẫn còn nguyên giá trị  thực tiễn và mang tính thời sự 
sâu sắc. 
Với lý do trên, tác giả chọn đề  tài "Cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập  
dân tộc của Việt Nam trên lĩnh vực đối ngoại từ  năm 1954 đến năm  
1975" làm Luận án tiến sĩ Lịch sử, chuyên ngành Lịch sử  phong trào cộng 
sản, công nhân quốc tế và giải phóng dân tộc. 
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục đích


2
Luận án phân tích làm rõ cơ sở hoạch định, nội dung và quá trình triển 
khai đấu tranh trên lĩnh vực đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ chống  
Mỹ, cứu nước từ  năm 1954 đến năm 1975, để  góp phần bảo vệ  độc lập 
dân tộc, từ đó rút ra nhận xét và kinh nghiệm. 
2.2. Nhiệm vụ của luận án
Để đạt được mục đích trên, luận án tập trung làm rõ những nhiệm vụ 
sau: Phân tích cơ sở hoạch định chính sách đối ngoại của Việt Nam trong 
cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc từ  năm 1954 đến năm 1975; Phân 
tích nội dung chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong 
cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc từ  năm 1954 đến năm 1975; Phân 
tích quá trình triển khai chính sách đối ngoại của Việt Nam trong công 
cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc từ năm 1954 đến năm 1975; Nhận 
xét và rút ra kinh nghiệm về  cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc của  
Việt Nam trên lĩnh vực đối ngoại từ năm 1954 đến năm 1975.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu 
Luận án tập trung nghiên cứu cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc  
của Việt Nam trên lĩnh vực đối ngoại trong giai  đoạn chống Mỹ, cứu  

nước. 
3.2. Phạm vi nghiên cứu 
Về  không gian: Luận án nghiên cứu quá trình bảo vệ độc lập dân tộc 
trên lĩnh vực đối ngoại để tập hợp các lực lượng tiến bộ trên thế giới ủng  
hộ  Việt Nam tiến hành chống Mỹ, cứu nước, bảo vệ  độc lập dân tộc 
trong bối cảnh thế giới đang diễn ra Chiến tranh lạnh.
Về thời gian: Luận án nghiên cứu cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân  
tộc của Việt Nam trên lĩnh vực đối ngoại từ năm 1954 đến năm 1975 . Mốc 
thời gian năm 1954, là năm Hiệp định Giơnevơ được ký kết, Pháp rút hết quân 
về  nước, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, cũng là năm cả  dân tộc Việt 
Nam  chống  sự  can thiệp của  Mỹ  để  bảo vệ  độc lập dân tộc. Năm 1975, 
Việt Nam kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, thống nhất đất  
nước, bảo vệ  vững chắc độc lập dân tộc, trong đó có sự  đóng góp công 
sức rất lớn của mặt trận đối ngoại.


3
Về  phạm vi nội dung: Trọng tâm nghiên cứu của luận án là nội dung 
chính sách đối ngoại của Đảng Lao động Việt Nam được đề ra từ Đại hội 
II đến Đại hội III trong thời kỳ  chống Mỹ, cứu nước,   từ  năm  1954  đến 
năm 1975. Đồng thời, luận án phân tích quá trình triển khai hoạt động đối  
ngoại của Đảng Lao động Việt Nam, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng  
hòa, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và Chính phủ Cách 
mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.  Trong đó, luận án tập trung 
nghiên cứu việc triển khai chính sách đối ngoại trong quan hệ  với các  
nước xã hội chủ  nghĩa; quan hệ  với Lào và Campuchia; quan hệ  với các  
nước dân chủ, các tổ  chức tiến bộ  và nhân dân yêu chuộng hòa bình thế 
giới; triển khai chiến lược đánh ­ đàm để giành thắng lợi cuối cùng.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 
­ Cơ sở lý luận: Luận án nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận 

của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và hệ  thống  
phương pháp luận sử  học mácxít. Quan điểm của chủ nghĩa Mác ­ Lênin, 
tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh về quan hệ quốc tế.  Đồng thời, luận án 
còn dựa trên Cương lĩnh chính trị, đường lối đối ngoại của Đảng Lao  
động Việt Nam.  Luận án căn cứ  trên văn kiện các đại hội, hội nghị  của 
Đảng Lao động Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975. 
­  Phương pháp nghiên cứu của luận án là: Phương pháp lịch sử, phân 
tích, so sánh, đối chiếu, thống kê, khái quát, tổng hợp, lôgic, quy nạp, diễn  
dịch v.v... 
5. Những đóng góp của luận án
Luận án phân tích làm rõ quan niệm về  bảo vệ  độc lập dân tộc trên 
lĩnh vực đối ngoại  và cơ  sở  hoạch định chính sách đối ngoại của Việt  
Nam từ  năm 1954 đến năm 1975; Luận án phân tích nội dung chính sách đối 
ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam  để bảo vệ độc lập dân tộc từ năm  
1954   đến  năm   1975  bao   gồm:   Mục   tiêu,   tư   tưởng   chỉ   đạo,   nguyên  tắc,  
phương châm, phương hướng và nhiệm vụ đối ngoại. Trên cơ sở đó, luận án 
làm rõ quá trình triển khai chính sách đối ngoại của Việt Nam để  bảo vệ 
độc lập dân tộc từ năm 1954 đến năm 1975. Đồng thời, luận án rút ra nhận 
xét về thuận lợi, khó khăn và kinh nghiệm của quá trình đấu tranh bảo vệ 
độc lập dân tộc trên lĩnh vực đối ngoại của Việt Nam từ  năm 1954 đến 


4
năm 1975;  Luận án có thể  sử  dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác  
nghiên cứu, giảng dạy môn học liên quan.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở  đầu, kết luận,   danh mục  tài liệu tham khảo và phụ 
lục, nội dung của luận án gồm 4 chương, 10 tiết.
Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Những vấn đề đã được nghiên cứu liên quan đến đề tài luận  
án
1.1.1. Các nghiên cứu trong nước 
1.1.1.1.  Các công trình liên quan đến cơ  sở  hoạch định và nội dung  
chính sách đối ngoại Việt Nam để đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc giai 
đoạn 1954 ­ 1975 
Thứ  nhất, các công trình liên quan đến cơ  sở  lý luận và thực tiễn 
nhằm hoạch định chính sách đối ngoại của Việt Nam, tiêu biểu như: Phan 
Văn Rân, Nguyễn Hoàng Giáp, Chủ quyền quốc gia trong xu thế toàn cầu  
hóa  và vấn  đề  đặt ra  với Việt Nam ;  Nguyễn Viết Thảo,  Bảo  vệ  chủ  
quyền quốc gia và độc lập dân tộc trong xu thế toàn cầu hóa; Nguyễn Tất 
Giáp, Nguyễn Thị Quế, Mai Hoài Anh, Mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ 
và hội nhập quốc tế   ở Việt Nam hiện nay ; Thái Văn Long, Độc lập dân  
tộc của các nước đang phát triển trong xu thế  toàn cầu hóa ;  Nguyễn 
Duy Quý, Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; Mai Hải Oanh, 
Độc lập dân tộc ­ Lợi ích cơ  bản của đất nước ; Nguyễn Dy Niên,  Tư  
tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh ; Nguyễn Phúc Luân, Ngoại giao Việt Nam  
từ Việt Bắc đến Hiệp định Giơnevơ; Lê Kim Hải, Hồ Chí Minh với quan  
hệ ngoại giao Việt ­ Pháp thời kỳ 1945 ­ 1946 v.v...
Thứ  hai, các công trình liên quan đến nội dung chính sách đối ngoại 
của Việt Nam:  Trường Chinh,  Tiến lên dưới lá cờ  của Đảng; Lê Duẩn, 
Dưới lá cờ vẻ  vang của Đảng vì độc lập, tự  do, vì  chủ nghĩa xã hội tiến  
lên   giành   những  thắng   lợi   mới;   Phạm   Văn   Đồng,  Toàn   dân   đoàn  kết,  


5
chống Mỹ  cứu nước; Phạm Văn Đồng,  Thắng lợi vĩ đại, tương lai huy  
hoàng; Nguyễn Xuân Tú, Đảng chỉ  đạo giành thắng lợi từng bước trong  
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thời kỳ 1965 ­ 1975 ; Nguyễn Mạnh 
Hùng và Phạm Minh Sơn, Đối ngoại Việt Nam truyền thống và hiện đại; 

Hoàng Đức Thịnh, Đường lối tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế của Đảng giai  
đoạn 1965 ­ 1975; Vũ Dương Ninh,  Cách mạng Việt Nam trên bàn cờ  
quốc tế, lịch sử và vấn đề v.v...
1.1.1.2. Các công trình liên quan đến quá trình triển khai đấu tranh bảo  
vệ độc lập dân tộc trên lĩnh vực đối ngoại của Việt Nam từ năm 1954 đến  
năm 1975
Khu di tích Chủ  tịch Hồ  Chí Minh tại Phủ  Chủ  tịch,  Hoạt động đối  
ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh với các nước Châu Á (1954 ­ 1969) ; Mai 
Văn Bộ, Tấn công ngoại giao và tiếp xúc bí mật; Lưu Văn Lợi, Năm mươi  
năm ngoại giao Việt Nam; Ban chỉ  đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc 
Bộ  Chính trị, Chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945 ­ 1975 thắng lợi và  
bài học; Nguyễn Phúc Luân chủ biên, Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự  
nghiệp giành độc lập, tự  do (1945 ­ 1975); Lê Đình Chỉnh,  Quan hệ  đặc  
biệt hợp tác toàn diện Việt Nam ­ Lào trong giai đoạn 1954 ­ 2000 ; Đảng 
Nhân dân Cách mạng Lào ­ Đảng Cộng sản Việt Nam,  Lịch sử  quan hệ  
đặc biệt Việt Nam ­ Lào, Lào ­ Việt Nam, Biên niên sự  kiện I (1930 ­  
1975); Nguyễn Duy Trinh,  Mặt trận ngoại giao thời kỳ  chống Mỹ, cứu  
nước (1965 ­ 1975); Nguyễn Thị Mai Hoa, Các nước xã hội chủ nghĩa ủng  
hộ  Việt Nam kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 ­ 1975) ; Bộ  Ngoại 
giao Việt Nam, Sự thật về quan hệ Việt Nam ­ Trung Quốc trong 30 năm  
qua; Trần Mai Hùng,  Sự  giúp đỡ  của Liên Xô đối với Việt Nam trong hai  
cuộc  kháng   chiến   chống   thực  dân  Pháp   và  đế   quốc  Mỹ;   Nguyễn  Khắc 
Huỳnh, Ngoại giao Việt Nam góc nhìn và suy ngẫm; Bộ  Ngoại giao chủ  trì 
biên soạn,  Mặt trận ngoại giao với cuộc đàm phán Paris về  Việt Nam; 
Nguyễn Đình Bin chủ biên, Ngoại giao Việt Nam 1945 ­ 2000; Vũ Dương 
Ninh, Lịch sử quan hệ đối ngoại Việt Nam 1940 ­ 2010 v.v...
1.1.2. Các công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài
Richard Reeves,  Một nhiệm kỳ  Tổng thống dở  dang ;  Richard Nixon, 



6
Hồi ký; Henrry Kissinger, Hồi ký những năm bão táp và cuộc chạy đua và  
nhà trắng;  Micheal J.Hogan,  The End of the Cold War  ­ Its Meaning and  
Implications;  Ang   Cheng   Guan,  The   Vietnam   War   1962   ­   1964:   The  
Vietnamese Communist Perspective; Mari Olsen, Soviet ­ Vietnam Relations  
and the Role of China, 1949 ­1964 Changing alliances; Executive Sessions 
of   the  Senate   Foreign   Relations   Committee,  Volume  XX,  Ninetieth 
Congress,  Second Session  1968;  Woodrow Wilson International Center for 
Scholars,  77 Conversations  between Chinese and Foreign Leaders on the  
Wars in Indochina, 1964 ­ 1977; Yang Kuisong, Changes in Mao Zedong’s  
attitude toward the Indochina War 1949 ­ 1973 v.v...
1.2. Đánh giá tổng quát các công trình liên quan và những vấn đề 
luận án tập trung nghiên cứu
1.2.1. Đánh giá tổng quát các công trình liên quan
Các công trình, bài viết nghiên cứu trên của các tác giả trong và ngoài  
nước đã liên quan đến cơ  sở, nội dung và quá trình triển khai chính sách  
đối ngoại của Việt Nam góp phần vào thắng lợi cuộc đấu tranh bảo vệ 
độc lập dân tộc của Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975. 
1.2.2. Những vấn đề luận án tập trung nghiên cứu 
Thứ nhất, phân tích cơ sở hoạch định chính sách đối ngoại của Việt Nam  
để đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc từ năm 1954 đến năm 1975 ; thứ hai,  
phân tích nội dung chính sách đối ngoại Việt Nam trong công cuộc đấu 
tranh bảo vệ độc lập dân tộc từ năm 1954 đến năm 1975; thứ ba, phân tích 
việc triển khai hoạt động đối ngoại góp phần vào công cuộc đấu tranh  
bảo vệ độc lập dân tộc của Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975; thứ tư, 
luận án  trình bày  một số  nhận xét và kinh nghiệm trong công cuộc đấu 
tranh bảo vệ độc lập dân tộc của Việt Nam trên lĩnh vực đối ngoại từ năm 
1954 đến năm 1975. 
Chương 2
CƠ SỞ HOẠCH ĐỊNH VÀ NỘI DUNG CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI 

CỦA VIỆT NAM NHẰM ĐẤU TRANH BẢO VỆ ĐỘC LẬP DÂN 
TỘC 


7
TỪ NĂM 1954 ĐẾN NĂM 1975 
2.1. Cơ sở hoạch định chính sách đối ngoại của  Việt Nam từ năm 
1954 đến năm 1975 
2.1.1. Một số quan niệm 
2.1.1.1. Quan niệm về độc lập, dân tộc và độc lập dân tộc 
* Quan niệm về độc lập: Trong Đại Từ điển Tiếng Việt, nêu ra thuật 
ngữ  "độc lập" của một (nước) dân tộc là: Nước, dân tộc có chủ  quyền 
không phụ thuộc vào nước khác, dân tộc khác. 
* Quan niệm về dân tộc: Theo Đại Từ  điển tiếng Việt thì "dân tộc" 
là: Cộng đồng người ổn định hình thành trong quá trình lịch sử của xã hội,  
có chung tiếng nói, lãnh thổ, đời sống kinh tế và tâm lý. 
  *  Quan niệm về  độc lập dân tộc:  Phan Văn Rân, Nguyễn Hoàng 
Giáp trong cuốn sách "Chủ quyền quốc gia dân tộc trong xu thế toàn cầu  
hóa và vấn đề  đặt ra với Việt Nam " đưa ra quan niệm: Độc lập dân tộc 
thể  hiện  ở  quyền độc lập tự  chủ  trong việc lựa ch ọn con đườ ng phát 
triển của dân tộc mình, thể hiện qua việc quy ết định mọi vấn đề  chính 
trị, kinh tế, văn hóa và xã hội, trong việc thiết l ập và thực thi quyền lực  
thông qua các hoạt động   lập pháp, tư  pháp, tiến hành mà không có sự 
can thiệp từ phía các quốc gia khác.
Quan niệm của tác giả  luận án: Độc lập dân tộc của một quốc gia ,  
dùng để  chỉ  một thực thể  quốc gia toàn vẹn lãnh thổ, thực sự  làm chủ  
được tất cả các quyền và lợi ích chính đáng của mình, trên các lĩnh vực:  
thể  chế chính trị (lập pháp, hành pháp, tư  pháp), kinh tế, văn hóa, xã hội,  
quốc phòng, an ninh, đối nội và đối ngoại, phù hợp với Hiến chương Liên  
hợp quốc và luật pháp quốc tế.

2.1.1.2. Quan niệm bảo vệ độc lập dân tộc và bảo vệ độc lập dân tộc 
trên lĩnh vực đối ngoại 
* Quan niệm bảo vệ độc lập dân tộc 
C.  Mác và  Ph.  Ăngghen  quan niệm về  bảo vệ  độc lập dân tộc là : 
Giai cấp vô sản và các lực lượng tiến bộ  trên thế  giới phải có sự  phối 


8
hợp, đoàn kết để bảo vệ độc lập dân tộc, trước sự tuyên truyền của các 
thế  lực tư sản phản động, kêu gọi các đảng cách mạng ở các nước châu 
Âu phải có chính sách đoàn kết dân tộc, đoàn kết các tầng lớp nhân dân,  
tạo nên sức mạnh to lớn để bảo vệ độc lập dân tộc. 
V.I. Lênin quan niệm rằng: Để bảo vệ độc lập dân tộc, bảo vệ quyền 
lợi của nhân dân lao động cần phải thiết lập một chế độ mới do nhân dân 
lao động làm chủ  lúc  đó mới thực sự  là độc lập. Đồng thời, giai cấp vô  
sản và nhân dân các nước phải đoàn kết, đấu tranh chống lại chiến tranh 
đế quốc để bảo vệ độc lập dân tộc.
Hồ Chí Minh quan niệm rằng: Bảo vệ độc lập dân tộc của một nước 
thuộc địa, trước hết phải đánh đổ tất cả những xiềng xích, bóc lột của các 
thế  lực ngoại xâm  và phản động trong nước,  giành lấy chính quyền do 
nhân dân làm chủ. Độc lập dân tộc phải gắn liền với   chủ  nghĩa xã hội, 
đảm bảo chính quyền, quyền lực, quyền lợi đều thuộc về  nhân dân, do 
nhân dân làm chủ, tiến lên xây dựng cuộc sống tự  do,  ấm no, hạnh phúc  
cho nhân dân.
Tác giả  luận án nêu ra quan niệm về  bảo vệ  độc lập dân tộc : Bảo  
vệ  độc lập dân tộc của một quốc gia đồng nghĩa với việc bảo vệ lợi ích  
hợp pháp, quyền tự quyết và bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ trên cơ sở phù hợp  
với công lý và luật pháp quốc tế. Điều đó có nghĩa, chống lại mọi sự xâm  
phạm, đe dọa của nước ngoài, để giữ vững hòa bình, độc lập, chủ quyền,  
tự quyết về thể chế chính trị, đường lối  đối nội, đối ngoại và định hướng  

phát triển của một quốc gia. 
* Quan niệm về bảo vệ độc lập dân tộc trên lĩnh vực đối ngoại 
C. Mác và Ph. Ăngghen cho rằng: Ngoại giao của những chính phủ hoạt 
động theo lối cũ, sẽ không bao giờ giải quyết được khó khăn. 
Quan điểm của  V.I.  Lênin  cho rằng:  Đấu tranh bảo vệ  độc lập dân 
tộc  trên lĩnh vực đối ngoại  đối với các nước thuộc địa, phụ  thuộc  cần 
phải đấu tranh đánh đổ ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế 
quốc và các thế  lực phản động để  giành , bảo vệ  độc lập, chủ  quyền và 


9
toàn vẹn lãnh thổ của mình. 
Quan niệm của Hồ  Chí Minh: Bảo vệ  độc lập dân tộc trên lĩnh vực 
đối ngoại là chính sách đối ngoại rộng mở, hòa hiếu với các dân tộc, đoàn  
kết quốc tế rộng rãi theo phương châm "thêm bạn, bớt thù". Tư  duy biện 
chứng "dĩ bất biến, ứng vạn biến" trong tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh 
vừa là nguyên tắc vừa là phương châm, phương pháp chỉ  đạo hoạt động  
đối ngoại và xử lý các vấn đề quốc tế. 
Quan niệm của tác giả  luận án về  bảo vệ  độc lập dân tộc trên lĩnh 
vực   đối   ngoại   là:  Bảo   vệ   quyền   tự   quyết   về   đường   lối,   chính   sách,  
chiến lược, sách lược đối ngoại của  quốc gia, thể hiện quyền chủ động  
trong triển khai chính sách đối ngoại, để  góp phần bảo vệ độc lập, chủ  
quyền, toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia và không để bất kỳ quốc gia, hay  
thế lực bên ngoài nào chi phối. 
2.1.2.  Truyền thống ngoại giao  để  bảo vệ  độc lập dân tộc của  
Việt Nam trên lĩnh vực đối ngoại trước năm 1954
Trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt 
Nam, tổ tiên đã để lại cho hậu thế nhiều bài học ngoại giao, truyền thống  
yêu nước, tinh thần quật khởi chống ngoại xâm, ý chí tự cường dân tộc và 
bảo vệ  độc lập,  chủ  quyền đất nước. Sự  năng động,  sáng tạo trong hoạt 

động đối ngoại, kết hợp nhuần nhuyễn giữa chính trị, quân sự với ngoại giao, 
vừa đánh vừa đàm, vừa cương vừa nhu, quan tâm đến việc xây dựng quan hệ 
hữu nghị với các dân tộc, các nước láng giềng đã được dân tộc  Việt Nam chú 
trọng từ rất lâu đời. Đây là nét đặc sắc của truyền thống ngoại giao dân tộc  
được Đảng và Nhà nước Việt Nam kế thừa, phát triển trong quá trình lãnh 
đạo cách mạng nói  chung và trong việc xây dựng, triển khai đường lối, 
chính sách đối ngoại.
2.1.3. Tình hình quốc tế và khu vực tác động đến việc hoạch định  
chính sách đối ngoại để bảo vệ độc lập dân tộc của Việt Nam
* Bối cảnh quốc tế
Sự ra đời của trật tự hai cực Ianta , đối đầu Xô ­ Mỹ làm cho tình hình 


10
thế  giới trở  nên phức tạp, các mối quan hệ  quốc tế  diễn ra theo chiều  
hướng bất lợi, ảnh hưởng xấu đến cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc  
của Việt Nam. Điều đó, gây nhiều khó khăn cho Việt Nam trong việc đánh  
giá tình hình, hoạch định chiến lược ngoại giao, tập hợp lực lượng và xây 
dựng các mối quan hệ quốc tế. 
Sự  hình thành khối các nước xã hội chủ  nghĩa đã giúp đỡ, trở  thành 
nguồn cổ vũ to lớn, là động lực giúp Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, để 
hoàn thành mục tiêu thống nhất đất nước và bảo vệ độc lập dân tộc. 
Đầu những năm 70 thế kỷ XX, quan hệ Mỹ ­ Trung từ chỗ coi nhau là 
kẻ thù đã dần xích lại gần nhau , ký "Thông cáo Thượng Hải" (2/1972) và 
Trung Quốc nhận được nhiều quyền lợi từ  Mỹ. Để có được những quyền 
lợi  đó,  Trung Quốc ép Việt Nam chấp nhận giải pháp của   Mỹ, cam kết 
với Mỹ sẽ hợp tác chặt chẽ chống lại sự "bá quyền của Liên Xô", gây khó 
khăn cho Việt Nam trong cuộc đấu tranh  trên lĩnh vực đối ngoại để  góp 
phần bảo vệ độc lập dân tộc.
Giai đoạn 1954 ­ 1975, thế  giới cũng chứng kiến sự  nổi dậy mạnh  

mẽ của phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc ở châu Á, châu Phi, khu 
vực Mỹ latinh, góp phần cổ vũ to lớn, tiếp thêm sức mạnh cho Việt Nam  
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. 
* Bối cảnh khu vực Đông Nam Á
Trong khoảng thời gian từ  năm 1954 đến năm 1975  tình hình Đông 
Nam Á diễn biến phức tạp, lợi dụng sự mất đoàn kết, Mỹ đẩy mạnh xâm  
nhập, can thiệp, nhằm chi phối khu vực Đông Nam Á. Vấn đề này, thực tế 
đã ảnh hưởng không tốt đến cuộc đấu tranh thống nhất đất nước của Việt 
Nam, gây khó khăn cho Việt Nam trong việc tập hợp lực lượng trong khu  
vực. Việc thúc đẩy quan hệ với ASEAN là một bài toán khó giải đối với 
Việt Nam lúc bấy giờ, ngoài sự khác biệt về hệ tư tưởng, thì sự  cấu kết,  
đồng thuận, thống nhất của khối lúc bấy giờ  còn nhiều hạn chế. Trong 
khi   các   nước   chủ   chốt  trong   khối   như   Thái   Lan,   Singapore,   Malaysia, 
Philippines đều là những đồng minh thân thiết với Mỹ. 


11
2.1.4. Bối cảnh trong nước 
Sau Hiệp định Giơnevơ, Mỹ  dựng lên chính quyền Ngô Đình Diệm 
âm mưu chia cắt Việt Nam lâu dài . Tại Đại hội đại biểu Đảng Lao động 
Việt Nam toàn quốc lần thứ  III (9/1960), căn cứ  phân tích tình hình cụ 
thể  của cách mạng hai miền, khẳng định:  Tiến hành cuộc cách mạng xã 
hội chủ  nghĩa  ở  miền Bắc là nhiệm vụ  quyết định nhất đối với sự  phát  
triển của toàn bộ  cách mạng Việt Nam, đối với sự  nghiệp thống nhất  
nước nhà". Miền Nam " có nhiệm vụ trực tiếp đánh đổ  ách thống trị  của 
đế  quốc Mỹ  và bọn tay sai của chúng để  giải   phóng miền Nam .  Với 
những thắng lợi trên mặt trận quân sự của qu ân dân miền Nam, sự thắng 
lợi trong chống chiến tranh phá hoại của nhân dân miền Bắc trong trận  
Điện Biên Phủ  trên không, kết hợp với những thành quả  đấu tranh trên 
mặt trận ngoại giao tại bàn đàm phán Paris đã buộc Mỹ ký vào bản Hiệp 

định Paris (27/1/1973)  và rút quân về  nước, tạo điều kiện thuận lợi để 
Việt Nam tiến tới thống nh ất đất nước. 
2.2. Nội dung chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt 
Nam từ năm 1954 đến năm 1975
2.2.1. Mục tiêu, tư  tưởng chỉ   đạo, nguyên tắc và phương châm  
hoạt động đối ngoại
Mục tiêu đối ngoại: Đối ngoại phải quyết tâm thực hiện: Đẩy mạnh 
công cuộc xây dựng  chủ  nghĩa xã hội  ở  miền Bắc, củng cố  miền Bắc  
thành cơ sở ngày càng vững chắc cho cuộc đấu tranh giành thống nhất Tổ 
quốc; ra sức hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ  nhân dân trong cả 
nước, giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị tàn bạo của đế quốc Mỹ và 
bè lũ tay sai; thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, 
xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ  và  
giàu mạnh. 
Tư tưởng chỉ đạo đối ngoại: Kiên định chủ nghĩa Mác ­ Lênin, đường 
lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng và Chủ  tịch Hồ Chí Minh, mục tiêu độc  
lập dân tộc gắn liền với  chủ  nghĩa xã hội. Xem cách mạng Việt Nam là  
một bộ phận tích cực của phong trào quốc tế  đấu tranh cho chủ  nghĩa xã 


12
hội, độc lập dân tộc và hòa bình thế  giới, trở  thành kim chỉ  nam trong  
hoạch định chiến lược, sách lược, đảm bảo cho mọi thắng lợi. 
Nguyên tắc đối ngoại: Đường lối đối ngoại của Việt Nam phải đứng 
trên lập trường tư  tưởng của  chủ  nghĩa Mác ­ Lênin,  tư  tưởng Hồ  Chí 
Minh, cương lĩnh, chủ trương, đường lối của Đảng, trở thành kim chỉ nam  
cho việc hoạch địch chiến lược, sách lược đối ngoại. Kết hợp sức mạnh  
dân tộc với sức mạnh thời đại, nhiệm vụ của dân tộc với nhiệm vụ quốc  
tế trong xây dựng đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ. 
Phương châm đối ngoại:  Đoàn kết toàn Đảng, toàn quân, toàn dân 

thực hiện quyết tâm: Giương cao ngọn cờ độc lập, hòa bình, đề  cao chính  
nghĩa, thế  tất thắng của ta, khoét sâu vào chỗ  yếu của địch về  chính trị,  
tập hợp lực lượng và hình thành mặt trận nhân dân thế  giới rộng rãi ủng 
hộ, chi viện cho cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta. 
2.2.2. Phương hướng và nhiệm vụ hoạt động đối ngoại
Phương hướng đối ngoại:  Việt Nam phải tập hợp được lực lượng 
dân chủ, yêu chuộng hòa bình trên thế  giới  ủng hộ ngày càng mạnh cuộc  
kháng chiến chống Mỹ  của Việt Nam.  Đẩy mạnh quan hệ  với Liên Xô, 
Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa, thắt chặt quan hệ với các nước  
láng giềng.  Mặt trận đối ngoại phải đẩy mạnh tuyên truyền, giải thích, 
vận động để thế giới hiểu được sự  chính nghĩa của Việt Nam trong cuộc  
chiến với Mỹ. 
Nhiệm vụ  đối ngoại:  Phân tích sâu sắc tình hình thế  giới, khu vực, 
tình hình trong nước, kết hợp lý luận với thực tiễn để  hoạch định chiến 
lược, sách lược, phát huy thế  chủ động, hiệu quả trong đối ngoại ở  từng  
thời điểm cụ  thể  để  tập hợp lực lượng.  Nhiệm vụ  mặt trận đối ngoại  
phải tích cực, chủ  động, phối hợp chặt chẽ  với mặt trận chính trị, quân 
sự, kiên quyết đấu tranh, có chiến lược lâu dài và sách lược cụ  thể  trong  
từng giai đoạn, chủ động đấu tranh buộc Mỹ sớm rút quân khỏi Việt Nam. 
Tiểu kết chương 2
Đảng và Nhà nước  Việt Nam  trên cơ  sở  phân tích những thuận lợi, 
khó khăn của tình hình thế  giới, tình hình khu vực ,  tình hình trong nước 
đồng thời căn cứ trên quan điểm của chủ nghĩa Mác ­ Lênin, tư tưởng Hồ 


13
Chí Minh và truyền thống ngoại giao Việt Nam , để hoạch định chính sách đối 
ngoại  bao   gồm   mục   tiêu,   tư   tưởng   chỉ   đạo,   nguyên   tắc,   phương   châm,  
phương hướng  và nhiệm  vụ  nhằm  đấu  tranh  bảo vệ   độc lập dân tộc. 
Trong đó thể hiện sự chủ động, tích cực, linh hoạt, phát huy sức mạnh dân  

tộc với sức mạnh thời  đại, đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối 
ngoại nhân dân kết hợp chặt chẽ tạo nên sức mạnh tổng hợp . Thể  hiện 
việc chú trọng xây dựng mối quan hệ   tốt đẹp  với các nước  xã hội chủ 
nghĩa, thắt chặt tình đoàn kết với các nước láng giềng, tập hợp được đông 
đảo lực lượng tiến bộ, yêu chuộng hòa bình thế  giới  ủng hộ  cuộc kháng  
chiến chống Mỹ, cứu nước của Việt Nam. 
Chương 3
TRIỂN KHAI ĐẤU TRANH BẢO VỆ ĐỘC LẬP DÂN TỘC 
CỦA VIỆT NAM TRÊN LĨNH VỰC ĐỐI NGOẠI 
TỪ NĂM 1954 ĐẾN NĂM 1975 
3.1. Quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa
* Giai đoạn 1954 ­ 1964 
Trong  giai  đoạn này,  Liên  Xô  viện  trợ   cho Việt  Nam  số  tiền  vào  
khoảng 320 triệu rúp, trong đó 94,5 triệu rúp cho vay không hoàn lại, số 
còn lại cho vay với điều kiện  ưu đãi,  giúp Việt Nam khôi phục kinh tế, 
chống thiên tai, dịch bệnh,  ổn định đời sống nhân dân. Bên cạnh đó, Liên  
Xô còn giúp Việt Nam huấn luyện tác chiến và sử dụng vũ khí hiện đại cho 
quân đội nhân dân Việt Nam. Những bước đi ngoại giao chủ động, tích cực 
của Việt Nam đã có tác động lớn đến quan điểm đối ngoại Liên Xô. Nhận  
thấy vị trí địa chính trị hết sức quan trọng của Việt Nam trên bàn cờ chính trị 
quốc tế, qua đây có thể giúp nâng cao vai trò, vị trí của mình, Liên Xô quyết  
định ủng hộ mạnh mẽ Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ và đóng 
một vai trò quan trọng trong cuộc chiến tranh Việt Nam.  Trong giai đoạn này, 
Trung Quốc cũng giành cho Việt Nam những gói viện trợ không hoàn lại lớn, 
tính  trong 10 năm 1954 ­  1964, viện trợ  kinh tế  của Trung Quốc cho Việt 
Nam là 1,1 triệu nhân dân tệ. Ngoài ra, Trung Quốc còn ký với Việt Nam 
nhiều hiệp định giúp xây dựng công trình công nghiệp, giúp đỡ  về  kĩ thuật, 


14

cung cấp hàng hóa, mậu dịch dài hạn, cử các chuyên gia sang giúp đỡ và đào  
tạo nhân lực cho Việt Nam. Bên cạnh sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô, Trung  
Quốc, các nước  xã hội chủ  nghĩa  anh em khác trong khối cũng có nhiều 
hành động thiết thực đã giúp đỡ Việt Nam v.v...
* Giai đoạn 1964 ­ 1975
Sự giúp đỡ của Liên Xô giành cho Việt Nam từ năm 1964 ­ 1975 là hết 
sức to lớn trên tất cả  nhiều mặt, đặc biệt trong lĩnh vực quân sự, giúp  
quân đội Việt Nam có đủ  trình độ  tác chiến và vũ khí hiện đại để  đương 
đầu với  Mỹ. Chuyến thăm của Chủ  tịch Hội đồng bộ  trưởng Liên Xô, 
A.N.Cosygin (2/1965) đến Việt Nam là dấu mốc quan trọng đánh dấu quan  
hệ  Liên Xô với Việt Nam được thắt chặt . Đặc biệt, trong giai đoạn quan 
trọng quyết định sự thành công của cuộc kháng chiến chống Mỹ từ 1972 ­  
1975, theo thống kê của Việt Nam, Liên Xô đã viện trợ cho Việt Nam 754  
triệu Rúp sự  giúp đỡ  này là hết sức thiết thực tiếp thêm sức mạnh cho  
Việt Nam đi đến giành thắng lợi cuối cùng.  Sự  giúp đỡ  của Trung Quốc 
cho Việt Nam trong suốt  thời  kỳ  chống Mỹ  là rất to lớn, với số  hàng hóa 
viện trợ lên đến 1.594.724 tấn, trong đó chủ  yếu viện trợ  không hoàn lại 
cho Việt Nam, chỉ tính riêng từ  năm 1972 đến 1975 Trung Quốc đã viện 
trợ  cho Việt Nam 325 triệu nhân dân tệ.   Ngoài ra, Trung Quốc còn tổ 
chức nhiều cuộc mít tinh lớn, thu hút hàng triệu người tham gia lên án 
Mỹ,  ủng hộ  Việt Nam. Trung Qu ốc c ử hàng ngàn chuyên gia sang giúp  
Việt Nam xây dựng các công trình quân sự, dân sự, giúp Việt Nam đào 
tạo nhiều học viên có chuyên môn, kĩ thuật để trở về xây  dựng đất nước, 
phục vụ  kháng chiến. Hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa đều giành cho 
Việt Nam sự   ủng hộ  nhiệt tình cả  về  vật chất lẫn tinh thần.   Theo tổng 
kết của Việt Nam, từ năm 1955 đến năm 1975 viện trợ của các nước xã 
hội chủ  nghĩa  anh em dành cho Nước Việt Nam Dân chủ  Cộng hòa là  
2.362.491 tấn v.v...
3.2. Quan hệ với Lào và Campuchia
3.2.1. Củng cố và phát triển liên minh Việt ­ Lào

Mối quan hệ  đặc biệt với Lào có vai trò và ý nghĩa rất quan trọng  
trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc và thống nhất đất nước  


15
của Việt Nam từ  năm 1954 đến năm 1975. Thứ  nhất, để  bảo vệ độc lập 
dân tộc, Việt Nam phải giương cao ngọn cờ  chính nghĩa, tập hợp đông  
đảo lực lượng tiến bộ, xây dựng mối quan hệ đoàn kết, tin tưởng với các 
nước láng giềng trong đó có Lào. Thứ hai, hai nước Việt Nam, Lào đều có 
chung kẻ thù là đế quốc Mỹ và các thế lực tay sai, sự đoàn kết chiến đấu 
của hai nước đã tạo thêm sức mạnh cho hai dân tộc khi đương đầu với kẻ 
thù mạnh như Mỹ. Thứ ba, sự giúp đỡ của Việt Nam đối với Lào trên tinh  
thần tôn trọng, đồng chí thân ái, hiểu biết và tin cậy lẫn nhau. Mối quan  
hệ  giữa Việt Nam ­ Lào là mối quan hệ của của hai " cơ thể" cùng chung 
một "xương sống", đó là chung lý tưởng chủ  nghĩa Mác ­ Lênin, mục tiêu 
chủ  nghĩa xã hội, gắn bó mật thiết với nhau liên quan đến những lợi ích  
thiết thực trong các lĩnh vực  kinh tế,  chính trị  ­ xã hội, quốc phòng ­ an  
ninh. 
3.2.2. Xây dựng và phát triển quan hệ Việt Nam ­ Campuchia
Việt Nam khẳng định, xây dựng quan hệ tốt đẹp với Campuchia, có vị 
trí chiến lược quan trọng trong cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc và  
thống nhất đất nước.  Ngày 20/6/1967,  Vương quốc  Campuchia và Việt 
Nam Dân chủ Cộng hòa chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao, cơ quan  
đại diện của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam có trụ sở 
tại Phnôm Pênh. Sự  kiện này, mở  ra một bước ngoặt quan trọng trong  
quan hệ  hai nước, có lợi cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam của 
Việt Nam. Quan hệ hai nước Việt Nam ­ Campuchia phát triển thêm một 
bước quan trọng, khi Campuchia chính thức công nhận Chính phủ  Cách 
mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam (15/6/1969) sau đó đón Thủ 
tướng Huỳnh Tấn Phát thăm Campuchia và ký hiệp định thương mại giữa  

hai chính phủ. Để  thắt chặt tình đoàn kết giữa ba nước Đông Dương, theo 
sáng kiến của Campuchia, ngày 24 đến 25/4/1970 Hội nghị  nhân dân ba 
nước Đông Dương diễn ra tại Bắc Kinh có sự  tham dự  của Thủ  tướng  
Phạm Văn Đồng, Chủ  tịch Nguyễn Hữu Thọ, Quốc trưởng   N.Sihanouk, 
Hoàng thân Suphanuvong. Hội nghị  đã ra tuyên bố, thể  hiện quyết tâm, 
tăng cường tình đoàn kết,  ủng hộ, giúp đỡ  lẫn nhau cùng chống kẻ  thù 
chung là Mỹ. Sự giúp đỡ của Việt Nam cho Campuchia, giúp bạn cũng là  


16
giúp chính mình, một mặt giúp cách mạng Campuchia phát triển, mặt khác  
giúp   Việt   Nam   trong   việc   bảo   vệ   con   đường   mòn   Trường   Sơn   huyết 
mạch để  đảm bảo việc miền Bắc chi viện cho miền Nam không bị  gián  
đoạn. 
3.3. Quan hệ với các nước dân chủ, các tổ  chức tiến bộ  và nhân 
dân thế giới ủng hộ Việt Nam chống Mỹ, cứu nước, bảo vệ độc lập 
dân tộc 
Thứ  nhất, Đảng Cộng sản các nước, các tổ  chức,  ủy ban, các hội  
khắp nơi trên thế  giới  ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của Việt Nam . 
Có thể  khẳng định, chưa có cuộc chiến tranh nào được khắp nơi trên thế 
giới có nhiều ủy ban, nhiều hội, nhiều tổ chức lên án mạnh mẽ như cuộc  
chiến tranh Việt Nam. Sự  ủng hộ này đã tạo nên một làn sóng mạnh mẽ 
trên thế giới, tác động đến chính phủ, nhân dân nhiều nước, tạo nên phong  
trào phản đối mạnh mẽ chiến tranh của Mỹ  ở Việt Nam. Không chỉ  giúp 
đỡ về mặt tinh thần, các tổ chức này còn có nhiều giúp đỡ thiết thực cho 
Việt Nam về mặt vật chất như  ủng hộ Việt Nam các dụng cụ y tế, hiến  
máu tặng Việt Nam, quyên góp tiền, cung cấp các nhu yếu phẩm cần thiết 
cho Việt Nam. 
Thứ hai, chính phủ các nước dân chủ tiến bộ và nhân dân yêu chuộng  
hòa bình thế  giới  ủng hộ  Việt Nam.  Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, 

nhiều nước dân chủ  tiến bộ  lên tiếng  và  có nhiều hành động thiết thực 
ủng hộ cuộc đấu tranh thống nhất đất nước, bảo vệ độc lập dân tộc của 
Việt Nam. Ở  khu vực Tây Bắc Âu, các nước Phần Lan, Thụy Điển  ủng 
hộ Việt Nam tích cực.  Đối với các nước trong khối ASEAN, Indonesia  là 
nước có nhiều tuyên bố và hành động  ủng hộ Việt Nam. Sự xâm lược của 
Mỹ ở Việt Nam, đã vấp phải sự phản  ứng dữ dội của nhân dân Mỹ  cùng 
với các cuộc đấu tranh quyết liệt chống Mỹ  ở những nơi khác làm thành  
phong trào đấu tranh rầm rộ, tiến công đế  quốc Mỹ  từ  mọi phía. Từ năm 
1965, để phản đối việc Mỹ đưa quân ồ ạt vào miền Nam Việt Nam, nhiều  
cuộc biểu tình của thanh niên, sinh viên, công nhân và nhân dân nhiều  
nước trên thế giới thu hút hàng ngàn người tham gia . Trong giai đoạn 1973 
­ 1975 sau khi Hiệp định Paris được ký kết, các tổ  chức,  ủy ban, các hội, 


17
Đảng cộng sản các nước, chính phủ các nước dân chủ tiến bộ và nhân dân  
yêu chuộng hòa bình thế  giới  vẫn tiếp tục tiến hành các cuộc đấu tranh  
thiết thực để ủng hộ Việt Nam. 
3.4. Triển khai chiến lược đánh ­ đàm 
Tại Hội nghị  lần thứ  13 (1/1967) của  Đảng Lao động Việt Nam đã 
khẳng định, phải đẩy mạnh đấu tranh ngoại giao, chủ động tiến công địch, 
phục vụ  sự  nghiệp chống Mỹ, cứu nước. Việt Nam xác định rõ mục tiêu  
chiến lược đánh ­ đàm, đàm ­ đánh: Có nghĩa là trong khi  ở miền Nam vẫn 
tranh thủ  đánh  để  giành thắng lợi quyết định thì giữa ta và địch có thể  nói  
chuyện từ hình thức tiếp xúc cho đến hội đàm. Đương nhiên, thắng lợi trên  
chiến trường miền Nam là yếu tố  quyết định; khi chưa giành được thắng  
lợi đó thì trên bàn hội nghị  cũng chưa giành được thắng lợi .  Cuộc tổng 
tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968, gây cho   Mỹ  và đồng minh 
nhiều tổn thất, thêm vào đó, làn sóng dư  luận thế  giới phản  đối cuộc  
chiến tranh do Mỹ gây ra ngày càng dâng cao đã gây sức ép lên Chính phủ 

Mỹ, ngày 31/3/1968 Tổng thống Johnson tuyên bố ném bom hạn chế miền  
Bắc và chấp nhận ngồi vào bàn thương lượng với  Việt Nam Dân chủ 
Cộng hòa.  Trên bàn đàm phán, việc thảo luận những vấn đề  chính vẫn 
chưa có nhiều chuyển biến thì những thắng lợi liên tiếp  trên mặt trận 
quân sự  đã có những tác động lớn đến bàn đàm phán, đặc biệt là chiến 
thắng trong trận  Điện Biên Phủ  trên không,  buộc Mỹ  phải ký vào bản 
Hiệp định Paris (27/1/1973) và rút quân về nước. Điều đó, tạo điều kiện 
thuận lợi để Việt Nam giải phóng miền Nam (30/4/1975), thống nhất đất 
nước.
Tiểu kết chương 3
Việc triển khai  chính sách  đối ngoại khôn khéo giúp Việt Nam tập  
hợp lực lượng, nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ của  Liên Xô, Trung Quốc, 
các nước  xã hội chủ  nghĩa, hai nước láng giềng Lào và Campuchia, các 
nước dân chủ, các tổ  chức tiến bộ  và nhân dân yêu chuộng hòa bình thế 
giới.  Trên tinh thần phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, 
phát huy nội lực, thể hiện sự độc lập, sáng tạo trong  chính sách đối ngoại 
của Việt Nam đã tranh thủ sự  giúp đỡ  của các nước cả  vật chất lẫn tinh  


18
thần. Qua đó, giúp xây dựng miền Bắc trở thành hậu phương vững chắc 
và tăng thêm sức mạnh cho tiền tuyến miền Nam trong cuộc kháng chiến 
chống Mỹ, cứu nước. Sự  sáng tạo trong chính sách đối ngoại còn được 
thể  hiện qua chiến lược  đánh ­ đàm, kế  hợp hiệu quả  giữa quân sự  với 
ngoại giao để giành thắng lợi cuối cùng.
Chương 4
NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM VỀ CUỘC ĐẤU TRANH BẢO VỆ 
ĐỘC LẬP DÂN TỘC CỦA VIỆT NAM TRÊN LĨNH VỰC ĐỐI NGOẠI 
TỪ NĂM 1954 ĐẾN NĂM 1975 
4.1. Nhận xét về cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc của Việt 

Nam trên lĩnh vực đối ngoại từ năm 1954 đến năm 1975 
4.1.1. Thuận lợi 
Thứ  nhất,  sự  lãnh đạo sáng suốt của Đảng Lao động Việt Nam với  
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ và tranh thủ được sự  ủng hộ, giúp đỡ 
của các nước xã hội chủ  nghĩa.  Sự  chủ  động, chân thành, quyết tâm của 
Việt Nam  tác động lớn đến  các nước  xã hội chủ  nghĩa, nhận được  sự 
đồng cảm, thấu hiểu và từng bước ủng hộ tích cực cho cuộc kháng chiến 
chống Mỹ của Việt Nam. 
Thứ hai, triển khai hiệu quả chính sách đối ngoại, xây dựng được liên 
minh chiến đấu vững chắc Việt Nam ­ Lào ­ Campuchia .  Việt Nam  đã 
triển khai hiệu quả  chính sách đối ngoại, xây dựng mối quan hệ  gắn bó 
mật thiết, tin tưởng lẫn nhau, tạo nên liên minh đoàn kết chiến đấu vững  
chắc với Lào và Campuchia. Điều này, không chỉ  là biểu hiện sinh động  
cho tình đoàn kết của ba nước Đông Dương mà còn mang tính chất chiến 
lược, hợp đồng tác  chiến giữa ba nước, tăng thêm thế  và lực cho chiến 
trường, đem đến những thắng lợi quan trọng cho Việt Nam. 
Thứ  ba, nắm bắt được xu thế  phát triển của thời đại, chủ  động tập 
hợp lực lượng các nước dân chủ, nhân dân yêu chuộng hòa bình thế  giới  
và các tổ  chức quốc tế  tiến bộ   ủng hộ  Việt Nam . Đối ngoại của Việt 
Nam đã nắm bắt được xu thế  vận động, phát triển của thế  giới với sự 


19
xuất hiện "ba dòng thác cách mạng" giúp Việt Nam triển khai chính sách  
đối ngoại để tập hợp đông đảo lực lượng ủng hộ.
Thứ  tư, đoàn kết, nhất trí triển khai chính sách đối ngoại "tuy hai mà 
một", kiên trì thực hiện chiến lược "vừa đánh, vừa đàm" đúng thời điểm  
và phát huy hiệu quả tích cực tiến đến giành thắng lợi cuối cùng.
4.1.2. Khó khăn
Thứ  nhất, trong mối quan hệ với Liên Xô: Khó khăn trong giai đoạn 

1954 ­ 1964, với "Chính sách hòa hoãn" dưới thời   Khrushchev, Liên Xô 
chưa quan tâm nhiều đến cuộc chiến tranh Việt Nam. Điều đó, gây khó  
khăn cho Việt Nam trong việc tri ển khai nh ững b ước  đi ngoại giao để 
thu hút sự  chú ý và tranh thủ  sự   ủng hộ của Liên Xô. Mặt khác, từ  năm 
1967   trở   đi,   Việt   Nam   triển   khai   chiến   l ược   "đánh   ­   đàm",   thu   được  
những kết quả  tích cực thì Liên Xô lại thúc giục Việt Nam phải sớm  
đàm phán với Mỹ  trong thời  điểm "chưa chín muồi" gây không ít khó  
khăn cho Việt Nam trong triển khai chính sách đối ngoại và chiến lược 
"đánh ­ đàm". 
Thứ  hai, trong quan hệ  với Trung Quốc : Trong quan hệ  với Trung  
Quốc, Việt Nam gặp khó khăn trong việc đoán định ý nghĩ sâu xa đằng sau  
sự  giúp đỡ  của Trung Quốc. Trung Quốc đã giành cho Việt Nam những  
khoản viện trợ lớn để đóng một vai trò quan trọng trong cuộc chiến tranh  
Việt Nam, tranh giành ảnh hưởng với Liên Xô, buộc Việt Nam phụ thuộc  
vào mình và thông qua cuộc chiến này làm cho Mỹ  suy yếu. Điều đó, gây 
nhiều khó khăn cho Việt Nam trong triển khai chính sách đối ngoại độc 
lập, tự chủ, bởi sự tác động và can thiệp có chủ ý của Trung Quốc.
Thứ ba, mâu thuẫn Xô ­ Trung đã ảnh hưởng không tốt đến sự ủng hộ  
đối với Việt Nam: Mâu thuẫn Xô ­ Trung là bất lợi rất lớn cho Việt Nam  
trong việc tập hợp, tranh thủ sự ủng hộ, bởi thực tế Việt Nam rất c ần s ự 
giúp đỡ  của cả  Liên Xô và Trung Quốc trong công cuộc xây dựng  chủ 
nghĩa xã hội  ở miền Bắc, đấu tranh chống Mỹ để giải phóng miền Nam. 
Mâu thuẫn Xô ­ Trung, đã đẩy Việt Nam rơi vào hoàn cảnh khó khăn, vừa  
phải đối đầu với Mỹ, vừa phải đương đầu với những vấn đề  khó phát 
sinh tác động xuất phát từ sự bất hòa của hai nước. Điều đó, gây ra những 


20
ảnh hưởng không tốt, tạo ra những khó khăn cho Việt Nam trong   triển 
khai chính sách đối ngoại để đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc. 

4.2.  Kinh nghiệm trong đấu tranh bảo vệ  độc lập dân tộc của 
Việt Nam trên lĩnh vực đối ngoại từ năm 1954 đến năm 1975
Thứ nhất, kết hợp sáng tạo lý luận với thực tiễn để xây dựng đường  
lối đối ngoại phù hợp. Trên cơ  sở  nghiên cứu chủ  nghĩa Mác ­ Lênin, tư 
tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, vấn đề thời đại, nắm rõ quy luật 
vận động của các mối quan hệ quốc tế, xu thế phát triển của cách mạng 
thế  giới, giải quyết mối quan hệ  giữa cái chung và cái riêng, nội lực và  
ngoại lực, chủ quan và khách quan. Đảng Lao động Việt Nam đã bổ sung 
làm sắc bén thêm lý luận, mang tính chiến đấu cao trở thành kim chỉ nam 
cho hoạch định, triển khai  chính sách  đối ngoại khoa học, hiệu quả  góp 
phần đem đến thắng lợi cho cách mạng Việt Nam. 
Thứ hai, giương cao ngọn cờ hòa bình, độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh 
thổ  và phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để  giành thắng 
lợi. Chính quyết tâm bảo vệ độc lập dân tộc, phát huy sức mạnh dân tộc  
với sức mạnh thời đại, không chỉ giúp Việt Nam tập hợp được đông đảo  
lực lượng ủng hộ, mà còn giúp Việt Nam chủ động trong triển khai chiến  
lược đối ngoại, hạn chế những tác động xấu của tình hình, cục diện quốc 
tế thay đổi trước những tác động của các nước lớn. 
Thứ ba, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, dĩ bất biến ­ ứng vạn biến  
trong thực hiện chiến lược, sách lược. Khẳng định, sự lãnh đạo của Đảng 
Lao động Việt Nam là nhân tố  quyết định mọi thắng lợi cho cách mạng 
Việt Nam.  Mục đích bất di bất dịch của ta vẫn là hòa bình, thống nhất, 
độc lập, dân chủ. Nguyên tắc của ta thì phải giữ  vững chắc, nhưng sách  
lược của ta thì linh hoạt. 
Tiểu kết chương 4 
Trong điều kiện mối quan hệ  quốc tế  hết sức phức tạp trong Chiến  
tranh lạnh, trong khi Việt Nam   đang đấu tranh chống  Mỹ,  do  vậy  Việt 
Nam không có nhiều thời gian, điều kiện để nghiên cứu thấu đáo  một số 
vấn đề khó liên quan đến việc triển khai chính sách đối ngoại. Trong xây 
dựng quan hệ với Liên Xô giai đoạn 1954 ­ 1964, vẫn chưa đạt hiệu quả 



21
như  Việt Nam mong muốn và vẫn chưa lường trước hết được những hệ 
lụy xấu trong quan hệ với Trung Quốc. Tuy vậy, cuộc đấu tranh bảo vệ 
độc lập của Việt Nam trên lĩnh vực đối ngoại từ năm 1954 đến năm 1975 
đã để  lại những kinh nghiệm quý báu. Đó là sự  kết hợp sáng tạo lý luận  
với thực tiễn để xây dựng chính sách đối ngoại phù hợp, căn cứ tình hình 
cụ  thể  để  triển khai có hiệu quả. Giương cao ngọn cờ hòa bình, độc lập  
dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ  và phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh  
thời đại để  giành thắng lợi. Trong bất cứ  hoàn cảnh nào đều cần phải  
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, kiên định mục tiêu đã định, dĩ bất biến  
­  ứng vạn biến trong thực hiện sách lược, chiến lược để  đem đến thắng 
lợi cuối cùng.
KẾT LUẬN 
  Thứ  nhất,  Đảng Lao động Việt Nam và Nước Việt Nam Dân chủ 
Cộng hòa đã kế  thừa và phát huy hiệu quả  những giá trị  ngoại giao của  
ông cha vào trong sự  nghiệp chống Mỹ, cứu nước, bảo vệ  độc lập dân  
tộc. Lịch sử  ngoại giao của các thế  hệ  ông cha người Việt đã để  lại cho 
hậu bối bài học "ngoại giao tâm công", "vừa đánh, vừa đàm", biết người, 
biết ta, phân tích sâu sắc điểm mạnh, điểm yếu để  giành thắng lợi. Với 
nguyên tắc luôn giữ  vững độc lập, chủ  quyền, toàn vẹn lãnh thổ, được 
thực hiện  bằng phương  châm  "dĩ  bất  biến,  ứng  vạn  biến".  Vận  dụng 
"ngoại giao tâm công" trong đối ngoại, một mặt chứng minh Việt Nam là 
dân tộc yêu chuộng hòa bình, nêu cao tinh thần chính nghĩa trong cuộc đấu 
tranh bảo vệ  độc lập dân tộc. Mặt khác, đối ngoại thể  hiện sự  sắc sảo  
trong vạch trần bản chất, tội ác của đế  quốc Mỹ  đối với nhân dân Việt  
Nam và thức tỉnh lương tri của nhân loại. Từ 1967 trở đi, Việt Nam đưa ra  
chiến lược "đánh ­ đàm", phối hợp chặt chẽ giữa mặt trận quân sự ­ ngoại 
giao. Theo đó, những thắng lợi trên mặt trận quân sự sẽ giúp thế đàm phán 

trên mặt trận ngoại giao mạnh mẽ  hơn, ngược lại những đàm phán trên 
mặt trận ngoại giao sẽ giúp Việt Nam đoán định được phần nào các mục  
đích, thủ  đoạn Mỹ  dự  định sẽ  tiến hành trên chiến trường. Kết quả của  


22
những thắng lợi trên mặt trận quân sự, ngoại giao đã bổ trợ cho nhau hiệu  
quả, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Paris (1973), rút quân về nước, tạo thời  
cơ  thuận lợi cho cuộc tổng tiến công và nổi dậy, giải phóng miền Nam,  
thống nhất đất nước (30/4/1975).
Thứ  hai,  trên cơ  sở  chủ  nghĩa Mác ­ Lênin, tư  tưởng Hồ  Chí Minh, 
Đảng Lao động Việt Nam và Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã nhận 
định, đánh giá đúng đắn tình hình thế  giới, tình hình trong nước và hoạch 
định được chính sách đối ngoại hiệu quả. Đánh giá tình hình thế giới, tình  
hình khu vực Đông Nam Á trong Chiến tranh lạnh,  Đảng Lao động Việt 
Nam  nhận định, sự  đối đầu Xô ­ Mỹ  sẽ  trở  nên hết sức quyết liệt, tác  
động đến hầu hết các nước và các vấn đề  quan hệ quốc tế. Bên cạnh đó, 
quan hệ giữa các cường quốc như Xô ­ Trung, Mỹ ­ Trung cũng có những 
diễn biến phức tạp. Tuy nhiên, mục đích chung của các cường quốc đều  
tìm mọi cách kiềm chế  lẫn nhau và cạnh tranh quyết liệt để  thiết lập  
phạm vi ảnh hưởng ở các khu vực trên thế giới. Đối với các nước ở Đông  
Nam Á, trong khi ba nước Đông Dương đoàn kết chống Mỹ thì đa số  các  
nước khác trong khối ASEAN đều chịu sự chi phối của Mỹ, nên việc tiếp  
cận để  xây dựng mối quan hệ, tranh thủ sự  ủng hộ là hết sức khó khăn. 
Bên cạnh khó khăn, tình hình thế  giới cũng có những thuận lợi, khi phong  
trào đấu tranh giải phóng dân tộc thoát khỏi ách thống trị, kìm kẹp của chủ 
nghĩa đế quốc phát triển mạnh ở châu Á, châu Phi, khu vực Mỹ latinh, đó  
là sự  cổ  vũ, động viên to lớn cho cuộc đấu tranh bảo vệ  độc lập dân tộc  
của Việt Nam. Đánh giá tình hình trong nước, Đảng Lao động Việt Nam 
nhận định, tình hình đất nước trước mắt tạm thời phân chia thành hai  

miền. Mục tiêu đối ngoại của Việt Nam góp phần  xây dựng chủ nghĩa xã 
hội  ở miền Bắc trở  thành hậu phương vững chắc, giải phóng miền Nam 
khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ, thống nhất đất nước và xây dựng một 
nước Việt Nam giàu mạnh. Với  tư  tưởng chỉ  đạo, kiên định  chủ  nghĩa 
Mác ­ Lênin, đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng Lao động Việt Nam 
và Chủ  tịch Hồ Chí Minh, quyết tâm thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc 
gắn liền với chủ  nghĩa xã hội. Nhiệm vụ  của mặt trận đối ngoại là xây 
dựng đường lối đối ngoại độc lập, tự  chủ  và kiên quyết đấu tranh đến 


×