HCVINCHNHTRQUCGIAHCHMINH
INHCDUY
Cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc
của Việt Nam trên lĩnh vực đối ngoại
từ năm 1954 đến năm 1975
Chuyờnngnh :LchsPhongtrocngsncụngnhõnquct
vgiiphúngdõntc
Mós
:62220312
tóm tắt luận án tiến sĩ
hà nội - 2019
Công trình được hoàn thành tại
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
Người hướng dẫn khoa học: PGS,TS. Nguyễn Thị Quế
Phản biện 1:
Phản biện 2:
Phản biện 3:
Luận án được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp Học
viện, họp tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
Vào hồi ..... giờ ....., ngày ..... tháng ..... năm 2019
Có thể tìm hiểu luận án tại Thư viện Quốc gia
và Thư viện Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Sau thành công của Cách mạng Tháng 8/1945, ngày 2/9/1945 Chủ tịch
Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra Nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa. Với sự kiện trọng đại này, thật sự Việt Nam đã giành được
độc lập, Tuyên ngôn khẳng định: "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và
độc lập và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt
Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ
vững quyền tự do, độc lập ấy". Để thể hiện quyết tâm đó, cả dân tộc Việt
Nam đã đồng lòng, chung sức đấu tranh để bảo vệ nền độc lập bằng thắng
lợi qua cuộc kháng chiến chống đế quốc từ năm 1954 đến năm 1975. Đóng
góp vào thành công hiển hách có vai trò rất quan trọng của đối ngoại Việt
Nam, bằng việc biết phân hóa, cô lập kẻ thù, tập hợp lực lượng, cuộc đấu
tranh bảo vệ độc lập dân tộc nhận được nhiều sự ủng hộ tích cực của các
lực lượng tiến bộ và nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới. Trong đó, nhân
dân Mỹ cũng thực hiện các phong trào phản chiến rầm rộ, góp phần buộc
chính phủ Mỹ phải rút quân khỏi Việt Nam. Mặt khác, đối ngoại đã phối
hợp hiệu quả với đấu tranh chính trị, quân sự, đánh bại từng bước, đánh
đổ từng bộ phận âm mưu xâm lược của Mỹ, thể hiện tinh thần yêu
chuộng hòa bình và chính nghĩa của dân tộc Việt Nam.
Hiện nay, Việt Nam đang hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, vấn
đề đối ngoại trở nên hết sức quan trọng. Những kinh nghiệm quý báu
trong đối ngoại để bảo vệ độc lập dân tộc và thống nhất đất nước từ năm
1954 đến năm 1975 vẫn còn nguyên giá trị thực tiễn và mang tính thời sự
sâu sắc.
Với lý do trên, tác giả chọn đề tài "Cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập
dân tộc của Việt Nam trên lĩnh vực đối ngoại từ năm 1954 đến năm
1975" làm Luận án tiến sĩ Lịch sử, chuyên ngành Lịch sử phong trào cộng
sản, công nhân quốc tế và giải phóng dân tộc.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục đích
2
Luận án phân tích làm rõ cơ sở hoạch định, nội dung và quá trình triển
khai đấu tranh trên lĩnh vực đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ chống
Mỹ, cứu nước từ năm 1954 đến năm 1975, để góp phần bảo vệ độc lập
dân tộc, từ đó rút ra nhận xét và kinh nghiệm.
2.2. Nhiệm vụ của luận án
Để đạt được mục đích trên, luận án tập trung làm rõ những nhiệm vụ
sau: Phân tích cơ sở hoạch định chính sách đối ngoại của Việt Nam trong
cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc từ năm 1954 đến năm 1975; Phân
tích nội dung chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong
cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc từ năm 1954 đến năm 1975; Phân
tích quá trình triển khai chính sách đối ngoại của Việt Nam trong công
cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc từ năm 1954 đến năm 1975; Nhận
xét và rút ra kinh nghiệm về cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc của
Việt Nam trên lĩnh vực đối ngoại từ năm 1954 đến năm 1975.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc
của Việt Nam trên lĩnh vực đối ngoại trong giai đoạn chống Mỹ, cứu
nước.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Luận án nghiên cứu quá trình bảo vệ độc lập dân tộc
trên lĩnh vực đối ngoại để tập hợp các lực lượng tiến bộ trên thế giới ủng
hộ Việt Nam tiến hành chống Mỹ, cứu nước, bảo vệ độc lập dân tộc
trong bối cảnh thế giới đang diễn ra Chiến tranh lạnh.
Về thời gian: Luận án nghiên cứu cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân
tộc của Việt Nam trên lĩnh vực đối ngoại từ năm 1954 đến năm 1975 . Mốc
thời gian năm 1954, là năm Hiệp định Giơnevơ được ký kết, Pháp rút hết quân
về nước, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, cũng là năm cả dân tộc Việt
Nam chống sự can thiệp của Mỹ để bảo vệ độc lập dân tộc. Năm 1975,
Việt Nam kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, thống nhất đất
nước, bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc, trong đó có sự đóng góp công
sức rất lớn của mặt trận đối ngoại.
3
Về phạm vi nội dung: Trọng tâm nghiên cứu của luận án là nội dung
chính sách đối ngoại của Đảng Lao động Việt Nam được đề ra từ Đại hội
II đến Đại hội III trong thời kỳ chống Mỹ, cứu nước, từ năm 1954 đến
năm 1975. Đồng thời, luận án phân tích quá trình triển khai hoạt động đối
ngoại của Đảng Lao động Việt Nam, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và Chính phủ Cách
mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Trong đó, luận án tập trung
nghiên cứu việc triển khai chính sách đối ngoại trong quan hệ với các
nước xã hội chủ nghĩa; quan hệ với Lào và Campuchia; quan hệ với các
nước dân chủ, các tổ chức tiến bộ và nhân dân yêu chuộng hòa bình thế
giới; triển khai chiến lược đánh đàm để giành thắng lợi cuối cùng.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Luận án nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận
của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và hệ thống
phương pháp luận sử học mácxít. Quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin,
tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh về quan hệ quốc tế. Đồng thời, luận án
còn dựa trên Cương lĩnh chính trị, đường lối đối ngoại của Đảng Lao
động Việt Nam. Luận án căn cứ trên văn kiện các đại hội, hội nghị của
Đảng Lao động Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.
Phương pháp nghiên cứu của luận án là: Phương pháp lịch sử, phân
tích, so sánh, đối chiếu, thống kê, khái quát, tổng hợp, lôgic, quy nạp, diễn
dịch v.v...
5. Những đóng góp của luận án
Luận án phân tích làm rõ quan niệm về bảo vệ độc lập dân tộc trên
lĩnh vực đối ngoại và cơ sở hoạch định chính sách đối ngoại của Việt
Nam từ năm 1954 đến năm 1975; Luận án phân tích nội dung chính sách đối
ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam để bảo vệ độc lập dân tộc từ năm
1954 đến năm 1975 bao gồm: Mục tiêu, tư tưởng chỉ đạo, nguyên tắc,
phương châm, phương hướng và nhiệm vụ đối ngoại. Trên cơ sở đó, luận án
làm rõ quá trình triển khai chính sách đối ngoại của Việt Nam để bảo vệ
độc lập dân tộc từ năm 1954 đến năm 1975. Đồng thời, luận án rút ra nhận
xét về thuận lợi, khó khăn và kinh nghiệm của quá trình đấu tranh bảo vệ
độc lập dân tộc trên lĩnh vực đối ngoại của Việt Nam từ năm 1954 đến
4
năm 1975; Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác
nghiên cứu, giảng dạy môn học liên quan.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, nội dung của luận án gồm 4 chương, 10 tiết.
Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Những vấn đề đã được nghiên cứu liên quan đến đề tài luận
án
1.1.1. Các nghiên cứu trong nước
1.1.1.1. Các công trình liên quan đến cơ sở hoạch định và nội dung
chính sách đối ngoại Việt Nam để đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc giai
đoạn 1954 1975
Thứ nhất, các công trình liên quan đến cơ sở lý luận và thực tiễn
nhằm hoạch định chính sách đối ngoại của Việt Nam, tiêu biểu như: Phan
Văn Rân, Nguyễn Hoàng Giáp, Chủ quyền quốc gia trong xu thế toàn cầu
hóa và vấn đề đặt ra với Việt Nam ; Nguyễn Viết Thảo, Bảo vệ chủ
quyền quốc gia và độc lập dân tộc trong xu thế toàn cầu hóa; Nguyễn Tất
Giáp, Nguyễn Thị Quế, Mai Hoài Anh, Mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ
và hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay ; Thái Văn Long, Độc lập dân
tộc của các nước đang phát triển trong xu thế toàn cầu hóa ; Nguyễn
Duy Quý, Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; Mai Hải Oanh,
Độc lập dân tộc Lợi ích cơ bản của đất nước ; Nguyễn Dy Niên, Tư
tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh ; Nguyễn Phúc Luân, Ngoại giao Việt Nam
từ Việt Bắc đến Hiệp định Giơnevơ; Lê Kim Hải, Hồ Chí Minh với quan
hệ ngoại giao Việt Pháp thời kỳ 1945 1946 v.v...
Thứ hai, các công trình liên quan đến nội dung chính sách đối ngoại
của Việt Nam: Trường Chinh, Tiến lên dưới lá cờ của Đảng; Lê Duẩn,
Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng vì độc lập, tự do, vì chủ nghĩa xã hội tiến
lên giành những thắng lợi mới; Phạm Văn Đồng, Toàn dân đoàn kết,
5
chống Mỹ cứu nước; Phạm Văn Đồng, Thắng lợi vĩ đại, tương lai huy
hoàng; Nguyễn Xuân Tú, Đảng chỉ đạo giành thắng lợi từng bước trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thời kỳ 1965 1975 ; Nguyễn Mạnh
Hùng và Phạm Minh Sơn, Đối ngoại Việt Nam truyền thống và hiện đại;
Hoàng Đức Thịnh, Đường lối tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế của Đảng giai
đoạn 1965 1975; Vũ Dương Ninh, Cách mạng Việt Nam trên bàn cờ
quốc tế, lịch sử và vấn đề v.v...
1.1.1.2. Các công trình liên quan đến quá trình triển khai đấu tranh bảo
vệ độc lập dân tộc trên lĩnh vực đối ngoại của Việt Nam từ năm 1954 đến
năm 1975
Khu di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch, Hoạt động đối
ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh với các nước Châu Á (1954 1969) ; Mai
Văn Bộ, Tấn công ngoại giao và tiếp xúc bí mật; Lưu Văn Lợi, Năm mươi
năm ngoại giao Việt Nam; Ban chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc
Bộ Chính trị, Chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945 1975 thắng lợi và
bài học; Nguyễn Phúc Luân chủ biên, Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự
nghiệp giành độc lập, tự do (1945 1975); Lê Đình Chỉnh, Quan hệ đặc
biệt hợp tác toàn diện Việt Nam Lào trong giai đoạn 1954 2000 ; Đảng
Nhân dân Cách mạng Lào Đảng Cộng sản Việt Nam, Lịch sử quan hệ
đặc biệt Việt Nam Lào, Lào Việt Nam, Biên niên sự kiện I (1930
1975); Nguyễn Duy Trinh, Mặt trận ngoại giao thời kỳ chống Mỹ, cứu
nước (1965 1975); Nguyễn Thị Mai Hoa, Các nước xã hội chủ nghĩa ủng
hộ Việt Nam kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 1975) ; Bộ Ngoại
giao Việt Nam, Sự thật về quan hệ Việt Nam Trung Quốc trong 30 năm
qua; Trần Mai Hùng, Sự giúp đỡ của Liên Xô đối với Việt Nam trong hai
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ; Nguyễn Khắc
Huỳnh, Ngoại giao Việt Nam góc nhìn và suy ngẫm; Bộ Ngoại giao chủ trì
biên soạn, Mặt trận ngoại giao với cuộc đàm phán Paris về Việt Nam;
Nguyễn Đình Bin chủ biên, Ngoại giao Việt Nam 1945 2000; Vũ Dương
Ninh, Lịch sử quan hệ đối ngoại Việt Nam 1940 2010 v.v...
1.1.2. Các công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài
Richard Reeves, Một nhiệm kỳ Tổng thống dở dang ; Richard Nixon,
6
Hồi ký; Henrry Kissinger, Hồi ký những năm bão táp và cuộc chạy đua và
nhà trắng; Micheal J.Hogan, The End of the Cold War Its Meaning and
Implications; Ang Cheng Guan, The Vietnam War 1962 1964: The
Vietnamese Communist Perspective; Mari Olsen, Soviet Vietnam Relations
and the Role of China, 1949 1964 Changing alliances; Executive Sessions
of the Senate Foreign Relations Committee, Volume XX, Ninetieth
Congress, Second Session 1968; Woodrow Wilson International Center for
Scholars, 77 Conversations between Chinese and Foreign Leaders on the
Wars in Indochina, 1964 1977; Yang Kuisong, Changes in Mao Zedong’s
attitude toward the Indochina War 1949 1973 v.v...
1.2. Đánh giá tổng quát các công trình liên quan và những vấn đề
luận án tập trung nghiên cứu
1.2.1. Đánh giá tổng quát các công trình liên quan
Các công trình, bài viết nghiên cứu trên của các tác giả trong và ngoài
nước đã liên quan đến cơ sở, nội dung và quá trình triển khai chính sách
đối ngoại của Việt Nam góp phần vào thắng lợi cuộc đấu tranh bảo vệ
độc lập dân tộc của Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.
1.2.2. Những vấn đề luận án tập trung nghiên cứu
Thứ nhất, phân tích cơ sở hoạch định chính sách đối ngoại của Việt Nam
để đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc từ năm 1954 đến năm 1975 ; thứ hai,
phân tích nội dung chính sách đối ngoại Việt Nam trong công cuộc đấu
tranh bảo vệ độc lập dân tộc từ năm 1954 đến năm 1975; thứ ba, phân tích
việc triển khai hoạt động đối ngoại góp phần vào công cuộc đấu tranh
bảo vệ độc lập dân tộc của Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975; thứ tư,
luận án trình bày một số nhận xét và kinh nghiệm trong công cuộc đấu
tranh bảo vệ độc lập dân tộc của Việt Nam trên lĩnh vực đối ngoại từ năm
1954 đến năm 1975.
Chương 2
CƠ SỞ HOẠCH ĐỊNH VÀ NỘI DUNG CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI
CỦA VIỆT NAM NHẰM ĐẤU TRANH BẢO VỆ ĐỘC LẬP DÂN
TỘC
7
TỪ NĂM 1954 ĐẾN NĂM 1975
2.1. Cơ sở hoạch định chính sách đối ngoại của Việt Nam từ năm
1954 đến năm 1975
2.1.1. Một số quan niệm
2.1.1.1. Quan niệm về độc lập, dân tộc và độc lập dân tộc
* Quan niệm về độc lập: Trong Đại Từ điển Tiếng Việt, nêu ra thuật
ngữ "độc lập" của một (nước) dân tộc là: Nước, dân tộc có chủ quyền
không phụ thuộc vào nước khác, dân tộc khác.
* Quan niệm về dân tộc: Theo Đại Từ điển tiếng Việt thì "dân tộc"
là: Cộng đồng người ổn định hình thành trong quá trình lịch sử của xã hội,
có chung tiếng nói, lãnh thổ, đời sống kinh tế và tâm lý.
* Quan niệm về độc lập dân tộc: Phan Văn Rân, Nguyễn Hoàng
Giáp trong cuốn sách "Chủ quyền quốc gia dân tộc trong xu thế toàn cầu
hóa và vấn đề đặt ra với Việt Nam " đưa ra quan niệm: Độc lập dân tộc
thể hiện ở quyền độc lập tự chủ trong việc lựa ch ọn con đườ ng phát
triển của dân tộc mình, thể hiện qua việc quy ết định mọi vấn đề chính
trị, kinh tế, văn hóa và xã hội, trong việc thiết l ập và thực thi quyền lực
thông qua các hoạt động lập pháp, tư pháp, tiến hành mà không có sự
can thiệp từ phía các quốc gia khác.
Quan niệm của tác giả luận án: Độc lập dân tộc của một quốc gia ,
dùng để chỉ một thực thể quốc gia toàn vẹn lãnh thổ, thực sự làm chủ
được tất cả các quyền và lợi ích chính đáng của mình, trên các lĩnh vực:
thể chế chính trị (lập pháp, hành pháp, tư pháp), kinh tế, văn hóa, xã hội,
quốc phòng, an ninh, đối nội và đối ngoại, phù hợp với Hiến chương Liên
hợp quốc và luật pháp quốc tế.
2.1.1.2. Quan niệm bảo vệ độc lập dân tộc và bảo vệ độc lập dân tộc
trên lĩnh vực đối ngoại
* Quan niệm bảo vệ độc lập dân tộc
C. Mác và Ph. Ăngghen quan niệm về bảo vệ độc lập dân tộc là :
Giai cấp vô sản và các lực lượng tiến bộ trên thế giới phải có sự phối
8
hợp, đoàn kết để bảo vệ độc lập dân tộc, trước sự tuyên truyền của các
thế lực tư sản phản động, kêu gọi các đảng cách mạng ở các nước châu
Âu phải có chính sách đoàn kết dân tộc, đoàn kết các tầng lớp nhân dân,
tạo nên sức mạnh to lớn để bảo vệ độc lập dân tộc.
V.I. Lênin quan niệm rằng: Để bảo vệ độc lập dân tộc, bảo vệ quyền
lợi của nhân dân lao động cần phải thiết lập một chế độ mới do nhân dân
lao động làm chủ lúc đó mới thực sự là độc lập. Đồng thời, giai cấp vô
sản và nhân dân các nước phải đoàn kết, đấu tranh chống lại chiến tranh
đế quốc để bảo vệ độc lập dân tộc.
Hồ Chí Minh quan niệm rằng: Bảo vệ độc lập dân tộc của một nước
thuộc địa, trước hết phải đánh đổ tất cả những xiềng xích, bóc lột của các
thế lực ngoại xâm và phản động trong nước, giành lấy chính quyền do
nhân dân làm chủ. Độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội,
đảm bảo chính quyền, quyền lực, quyền lợi đều thuộc về nhân dân, do
nhân dân làm chủ, tiến lên xây dựng cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc
cho nhân dân.
Tác giả luận án nêu ra quan niệm về bảo vệ độc lập dân tộc : Bảo
vệ độc lập dân tộc của một quốc gia đồng nghĩa với việc bảo vệ lợi ích
hợp pháp, quyền tự quyết và bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ trên cơ sở phù hợp
với công lý và luật pháp quốc tế. Điều đó có nghĩa, chống lại mọi sự xâm
phạm, đe dọa của nước ngoài, để giữ vững hòa bình, độc lập, chủ quyền,
tự quyết về thể chế chính trị, đường lối đối nội, đối ngoại và định hướng
phát triển của một quốc gia.
* Quan niệm về bảo vệ độc lập dân tộc trên lĩnh vực đối ngoại
C. Mác và Ph. Ăngghen cho rằng: Ngoại giao của những chính phủ hoạt
động theo lối cũ, sẽ không bao giờ giải quyết được khó khăn.
Quan điểm của V.I. Lênin cho rằng: Đấu tranh bảo vệ độc lập dân
tộc trên lĩnh vực đối ngoại đối với các nước thuộc địa, phụ thuộc cần
phải đấu tranh đánh đổ ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực phản động để giành , bảo vệ độc lập, chủ quyền và
9
toàn vẹn lãnh thổ của mình.
Quan niệm của Hồ Chí Minh: Bảo vệ độc lập dân tộc trên lĩnh vực
đối ngoại là chính sách đối ngoại rộng mở, hòa hiếu với các dân tộc, đoàn
kết quốc tế rộng rãi theo phương châm "thêm bạn, bớt thù". Tư duy biện
chứng "dĩ bất biến, ứng vạn biến" trong tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh
vừa là nguyên tắc vừa là phương châm, phương pháp chỉ đạo hoạt động
đối ngoại và xử lý các vấn đề quốc tế.
Quan niệm của tác giả luận án về bảo vệ độc lập dân tộc trên lĩnh
vực đối ngoại là: Bảo vệ quyền tự quyết về đường lối, chính sách,
chiến lược, sách lược đối ngoại của quốc gia, thể hiện quyền chủ động
trong triển khai chính sách đối ngoại, để góp phần bảo vệ độc lập, chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia và không để bất kỳ quốc gia, hay
thế lực bên ngoài nào chi phối.
2.1.2. Truyền thống ngoại giao để bảo vệ độc lập dân tộc của
Việt Nam trên lĩnh vực đối ngoại trước năm 1954
Trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt
Nam, tổ tiên đã để lại cho hậu thế nhiều bài học ngoại giao, truyền thống
yêu nước, tinh thần quật khởi chống ngoại xâm, ý chí tự cường dân tộc và
bảo vệ độc lập, chủ quyền đất nước. Sự năng động, sáng tạo trong hoạt
động đối ngoại, kết hợp nhuần nhuyễn giữa chính trị, quân sự với ngoại giao,
vừa đánh vừa đàm, vừa cương vừa nhu, quan tâm đến việc xây dựng quan hệ
hữu nghị với các dân tộc, các nước láng giềng đã được dân tộc Việt Nam chú
trọng từ rất lâu đời. Đây là nét đặc sắc của truyền thống ngoại giao dân tộc
được Đảng và Nhà nước Việt Nam kế thừa, phát triển trong quá trình lãnh
đạo cách mạng nói chung và trong việc xây dựng, triển khai đường lối,
chính sách đối ngoại.
2.1.3. Tình hình quốc tế và khu vực tác động đến việc hoạch định
chính sách đối ngoại để bảo vệ độc lập dân tộc của Việt Nam
* Bối cảnh quốc tế
Sự ra đời của trật tự hai cực Ianta , đối đầu Xô Mỹ làm cho tình hình
10
thế giới trở nên phức tạp, các mối quan hệ quốc tế diễn ra theo chiều
hướng bất lợi, ảnh hưởng xấu đến cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc
của Việt Nam. Điều đó, gây nhiều khó khăn cho Việt Nam trong việc đánh
giá tình hình, hoạch định chiến lược ngoại giao, tập hợp lực lượng và xây
dựng các mối quan hệ quốc tế.
Sự hình thành khối các nước xã hội chủ nghĩa đã giúp đỡ, trở thành
nguồn cổ vũ to lớn, là động lực giúp Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, để
hoàn thành mục tiêu thống nhất đất nước và bảo vệ độc lập dân tộc.
Đầu những năm 70 thế kỷ XX, quan hệ Mỹ Trung từ chỗ coi nhau là
kẻ thù đã dần xích lại gần nhau , ký "Thông cáo Thượng Hải" (2/1972) và
Trung Quốc nhận được nhiều quyền lợi từ Mỹ. Để có được những quyền
lợi đó, Trung Quốc ép Việt Nam chấp nhận giải pháp của Mỹ, cam kết
với Mỹ sẽ hợp tác chặt chẽ chống lại sự "bá quyền của Liên Xô", gây khó
khăn cho Việt Nam trong cuộc đấu tranh trên lĩnh vực đối ngoại để góp
phần bảo vệ độc lập dân tộc.
Giai đoạn 1954 1975, thế giới cũng chứng kiến sự nổi dậy mạnh
mẽ của phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc ở châu Á, châu Phi, khu
vực Mỹ latinh, góp phần cổ vũ to lớn, tiếp thêm sức mạnh cho Việt Nam
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
* Bối cảnh khu vực Đông Nam Á
Trong khoảng thời gian từ năm 1954 đến năm 1975 tình hình Đông
Nam Á diễn biến phức tạp, lợi dụng sự mất đoàn kết, Mỹ đẩy mạnh xâm
nhập, can thiệp, nhằm chi phối khu vực Đông Nam Á. Vấn đề này, thực tế
đã ảnh hưởng không tốt đến cuộc đấu tranh thống nhất đất nước của Việt
Nam, gây khó khăn cho Việt Nam trong việc tập hợp lực lượng trong khu
vực. Việc thúc đẩy quan hệ với ASEAN là một bài toán khó giải đối với
Việt Nam lúc bấy giờ, ngoài sự khác biệt về hệ tư tưởng, thì sự cấu kết,
đồng thuận, thống nhất của khối lúc bấy giờ còn nhiều hạn chế. Trong
khi các nước chủ chốt trong khối như Thái Lan, Singapore, Malaysia,
Philippines đều là những đồng minh thân thiết với Mỹ.
11
2.1.4. Bối cảnh trong nước
Sau Hiệp định Giơnevơ, Mỹ dựng lên chính quyền Ngô Đình Diệm
âm mưu chia cắt Việt Nam lâu dài . Tại Đại hội đại biểu Đảng Lao động
Việt Nam toàn quốc lần thứ III (9/1960), căn cứ phân tích tình hình cụ
thể của cách mạng hai miền, khẳng định: Tiến hành cuộc cách mạng xã
hội chủ nghĩa ở miền Bắc là nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự phát
triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam, đối với sự nghiệp thống nhất
nước nhà". Miền Nam " có nhiệm vụ trực tiếp đánh đổ ách thống trị của
đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng để giải phóng miền Nam . Với
những thắng lợi trên mặt trận quân sự của qu ân dân miền Nam, sự thắng
lợi trong chống chiến tranh phá hoại của nhân dân miền Bắc trong trận
Điện Biên Phủ trên không, kết hợp với những thành quả đấu tranh trên
mặt trận ngoại giao tại bàn đàm phán Paris đã buộc Mỹ ký vào bản Hiệp
định Paris (27/1/1973) và rút quân về nước, tạo điều kiện thuận lợi để
Việt Nam tiến tới thống nh ất đất nước.
2.2. Nội dung chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt
Nam từ năm 1954 đến năm 1975
2.2.1. Mục tiêu, tư tưởng chỉ đạo, nguyên tắc và phương châm
hoạt động đối ngoại
Mục tiêu đối ngoại: Đối ngoại phải quyết tâm thực hiện: Đẩy mạnh
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, củng cố miền Bắc
thành cơ sở ngày càng vững chắc cho cuộc đấu tranh giành thống nhất Tổ
quốc; ra sức hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả
nước, giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị tàn bạo của đế quốc Mỹ và
bè lũ tay sai; thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ,
xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và
giàu mạnh.
Tư tưởng chỉ đạo đối ngoại: Kiên định chủ nghĩa Mác Lênin, đường
lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, mục tiêu độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Xem cách mạng Việt Nam là
một bộ phận tích cực của phong trào quốc tế đấu tranh cho chủ nghĩa xã
12
hội, độc lập dân tộc và hòa bình thế giới, trở thành kim chỉ nam trong
hoạch định chiến lược, sách lược, đảm bảo cho mọi thắng lợi.
Nguyên tắc đối ngoại: Đường lối đối ngoại của Việt Nam phải đứng
trên lập trường tư tưởng của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, cương lĩnh, chủ trương, đường lối của Đảng, trở thành kim chỉ nam
cho việc hoạch địch chiến lược, sách lược đối ngoại. Kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại, nhiệm vụ của dân tộc với nhiệm vụ quốc
tế trong xây dựng đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ.
Phương châm đối ngoại: Đoàn kết toàn Đảng, toàn quân, toàn dân
thực hiện quyết tâm: Giương cao ngọn cờ độc lập, hòa bình, đề cao chính
nghĩa, thế tất thắng của ta, khoét sâu vào chỗ yếu của địch về chính trị,
tập hợp lực lượng và hình thành mặt trận nhân dân thế giới rộng rãi ủng
hộ, chi viện cho cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta.
2.2.2. Phương hướng và nhiệm vụ hoạt động đối ngoại
Phương hướng đối ngoại: Việt Nam phải tập hợp được lực lượng
dân chủ, yêu chuộng hòa bình trên thế giới ủng hộ ngày càng mạnh cuộc
kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam. Đẩy mạnh quan hệ với Liên Xô,
Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa, thắt chặt quan hệ với các nước
láng giềng. Mặt trận đối ngoại phải đẩy mạnh tuyên truyền, giải thích,
vận động để thế giới hiểu được sự chính nghĩa của Việt Nam trong cuộc
chiến với Mỹ.
Nhiệm vụ đối ngoại: Phân tích sâu sắc tình hình thế giới, khu vực,
tình hình trong nước, kết hợp lý luận với thực tiễn để hoạch định chiến
lược, sách lược, phát huy thế chủ động, hiệu quả trong đối ngoại ở từng
thời điểm cụ thể để tập hợp lực lượng. Nhiệm vụ mặt trận đối ngoại
phải tích cực, chủ động, phối hợp chặt chẽ với mặt trận chính trị, quân
sự, kiên quyết đấu tranh, có chiến lược lâu dài và sách lược cụ thể trong
từng giai đoạn, chủ động đấu tranh buộc Mỹ sớm rút quân khỏi Việt Nam.
Tiểu kết chương 2
Đảng và Nhà nước Việt Nam trên cơ sở phân tích những thuận lợi,
khó khăn của tình hình thế giới, tình hình khu vực , tình hình trong nước
đồng thời căn cứ trên quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ
13
Chí Minh và truyền thống ngoại giao Việt Nam , để hoạch định chính sách đối
ngoại bao gồm mục tiêu, tư tưởng chỉ đạo, nguyên tắc, phương châm,
phương hướng và nhiệm vụ nhằm đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc.
Trong đó thể hiện sự chủ động, tích cực, linh hoạt, phát huy sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại, đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối
ngoại nhân dân kết hợp chặt chẽ tạo nên sức mạnh tổng hợp . Thể hiện
việc chú trọng xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với các nước xã hội chủ
nghĩa, thắt chặt tình đoàn kết với các nước láng giềng, tập hợp được đông
đảo lực lượng tiến bộ, yêu chuộng hòa bình thế giới ủng hộ cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước của Việt Nam.
Chương 3
TRIỂN KHAI ĐẤU TRANH BẢO VỆ ĐỘC LẬP DÂN TỘC
CỦA VIỆT NAM TRÊN LĨNH VỰC ĐỐI NGOẠI
TỪ NĂM 1954 ĐẾN NĂM 1975
3.1. Quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa
* Giai đoạn 1954 1964
Trong giai đoạn này, Liên Xô viện trợ cho Việt Nam số tiền vào
khoảng 320 triệu rúp, trong đó 94,5 triệu rúp cho vay không hoàn lại, số
còn lại cho vay với điều kiện ưu đãi, giúp Việt Nam khôi phục kinh tế,
chống thiên tai, dịch bệnh, ổn định đời sống nhân dân. Bên cạnh đó, Liên
Xô còn giúp Việt Nam huấn luyện tác chiến và sử dụng vũ khí hiện đại cho
quân đội nhân dân Việt Nam. Những bước đi ngoại giao chủ động, tích cực
của Việt Nam đã có tác động lớn đến quan điểm đối ngoại Liên Xô. Nhận
thấy vị trí địa chính trị hết sức quan trọng của Việt Nam trên bàn cờ chính trị
quốc tế, qua đây có thể giúp nâng cao vai trò, vị trí của mình, Liên Xô quyết
định ủng hộ mạnh mẽ Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ và đóng
một vai trò quan trọng trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Trong giai đoạn này,
Trung Quốc cũng giành cho Việt Nam những gói viện trợ không hoàn lại lớn,
tính trong 10 năm 1954 1964, viện trợ kinh tế của Trung Quốc cho Việt
Nam là 1,1 triệu nhân dân tệ. Ngoài ra, Trung Quốc còn ký với Việt Nam
nhiều hiệp định giúp xây dựng công trình công nghiệp, giúp đỡ về kĩ thuật,
14
cung cấp hàng hóa, mậu dịch dài hạn, cử các chuyên gia sang giúp đỡ và đào
tạo nhân lực cho Việt Nam. Bên cạnh sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô, Trung
Quốc, các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác trong khối cũng có nhiều
hành động thiết thực đã giúp đỡ Việt Nam v.v...
* Giai đoạn 1964 1975
Sự giúp đỡ của Liên Xô giành cho Việt Nam từ năm 1964 1975 là hết
sức to lớn trên tất cả nhiều mặt, đặc biệt trong lĩnh vực quân sự, giúp
quân đội Việt Nam có đủ trình độ tác chiến và vũ khí hiện đại để đương
đầu với Mỹ. Chuyến thăm của Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Liên Xô,
A.N.Cosygin (2/1965) đến Việt Nam là dấu mốc quan trọng đánh dấu quan
hệ Liên Xô với Việt Nam được thắt chặt . Đặc biệt, trong giai đoạn quan
trọng quyết định sự thành công của cuộc kháng chiến chống Mỹ từ 1972
1975, theo thống kê của Việt Nam, Liên Xô đã viện trợ cho Việt Nam 754
triệu Rúp sự giúp đỡ này là hết sức thiết thực tiếp thêm sức mạnh cho
Việt Nam đi đến giành thắng lợi cuối cùng. Sự giúp đỡ của Trung Quốc
cho Việt Nam trong suốt thời kỳ chống Mỹ là rất to lớn, với số hàng hóa
viện trợ lên đến 1.594.724 tấn, trong đó chủ yếu viện trợ không hoàn lại
cho Việt Nam, chỉ tính riêng từ năm 1972 đến 1975 Trung Quốc đã viện
trợ cho Việt Nam 325 triệu nhân dân tệ. Ngoài ra, Trung Quốc còn tổ
chức nhiều cuộc mít tinh lớn, thu hút hàng triệu người tham gia lên án
Mỹ, ủng hộ Việt Nam. Trung Qu ốc c ử hàng ngàn chuyên gia sang giúp
Việt Nam xây dựng các công trình quân sự, dân sự, giúp Việt Nam đào
tạo nhiều học viên có chuyên môn, kĩ thuật để trở về xây dựng đất nước,
phục vụ kháng chiến. Hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa đều giành cho
Việt Nam sự ủng hộ nhiệt tình cả về vật chất lẫn tinh thần. Theo tổng
kết của Việt Nam, từ năm 1955 đến năm 1975 viện trợ của các nước xã
hội chủ nghĩa anh em dành cho Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là
2.362.491 tấn v.v...
3.2. Quan hệ với Lào và Campuchia
3.2.1. Củng cố và phát triển liên minh Việt Lào
Mối quan hệ đặc biệt với Lào có vai trò và ý nghĩa rất quan trọng
trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc và thống nhất đất nước
15
của Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975. Thứ nhất, để bảo vệ độc lập
dân tộc, Việt Nam phải giương cao ngọn cờ chính nghĩa, tập hợp đông
đảo lực lượng tiến bộ, xây dựng mối quan hệ đoàn kết, tin tưởng với các
nước láng giềng trong đó có Lào. Thứ hai, hai nước Việt Nam, Lào đều có
chung kẻ thù là đế quốc Mỹ và các thế lực tay sai, sự đoàn kết chiến đấu
của hai nước đã tạo thêm sức mạnh cho hai dân tộc khi đương đầu với kẻ
thù mạnh như Mỹ. Thứ ba, sự giúp đỡ của Việt Nam đối với Lào trên tinh
thần tôn trọng, đồng chí thân ái, hiểu biết và tin cậy lẫn nhau. Mối quan
hệ giữa Việt Nam Lào là mối quan hệ của của hai " cơ thể" cùng chung
một "xương sống", đó là chung lý tưởng chủ nghĩa Mác Lênin, mục tiêu
chủ nghĩa xã hội, gắn bó mật thiết với nhau liên quan đến những lợi ích
thiết thực trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị xã hội, quốc phòng an
ninh.
3.2.2. Xây dựng và phát triển quan hệ Việt Nam Campuchia
Việt Nam khẳng định, xây dựng quan hệ tốt đẹp với Campuchia, có vị
trí chiến lược quan trọng trong cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc và
thống nhất đất nước. Ngày 20/6/1967, Vương quốc Campuchia và Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao, cơ quan
đại diện của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam có trụ sở
tại Phnôm Pênh. Sự kiện này, mở ra một bước ngoặt quan trọng trong
quan hệ hai nước, có lợi cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam của
Việt Nam. Quan hệ hai nước Việt Nam Campuchia phát triển thêm một
bước quan trọng, khi Campuchia chính thức công nhận Chính phủ Cách
mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam (15/6/1969) sau đó đón Thủ
tướng Huỳnh Tấn Phát thăm Campuchia và ký hiệp định thương mại giữa
hai chính phủ. Để thắt chặt tình đoàn kết giữa ba nước Đông Dương, theo
sáng kiến của Campuchia, ngày 24 đến 25/4/1970 Hội nghị nhân dân ba
nước Đông Dương diễn ra tại Bắc Kinh có sự tham dự của Thủ tướng
Phạm Văn Đồng, Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ, Quốc trưởng N.Sihanouk,
Hoàng thân Suphanuvong. Hội nghị đã ra tuyên bố, thể hiện quyết tâm,
tăng cường tình đoàn kết, ủng hộ, giúp đỡ lẫn nhau cùng chống kẻ thù
chung là Mỹ. Sự giúp đỡ của Việt Nam cho Campuchia, giúp bạn cũng là
16
giúp chính mình, một mặt giúp cách mạng Campuchia phát triển, mặt khác
giúp Việt Nam trong việc bảo vệ con đường mòn Trường Sơn huyết
mạch để đảm bảo việc miền Bắc chi viện cho miền Nam không bị gián
đoạn.
3.3. Quan hệ với các nước dân chủ, các tổ chức tiến bộ và nhân
dân thế giới ủng hộ Việt Nam chống Mỹ, cứu nước, bảo vệ độc lập
dân tộc
Thứ nhất, Đảng Cộng sản các nước, các tổ chức, ủy ban, các hội
khắp nơi trên thế giới ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của Việt Nam .
Có thể khẳng định, chưa có cuộc chiến tranh nào được khắp nơi trên thế
giới có nhiều ủy ban, nhiều hội, nhiều tổ chức lên án mạnh mẽ như cuộc
chiến tranh Việt Nam. Sự ủng hộ này đã tạo nên một làn sóng mạnh mẽ
trên thế giới, tác động đến chính phủ, nhân dân nhiều nước, tạo nên phong
trào phản đối mạnh mẽ chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam. Không chỉ giúp
đỡ về mặt tinh thần, các tổ chức này còn có nhiều giúp đỡ thiết thực cho
Việt Nam về mặt vật chất như ủng hộ Việt Nam các dụng cụ y tế, hiến
máu tặng Việt Nam, quyên góp tiền, cung cấp các nhu yếu phẩm cần thiết
cho Việt Nam.
Thứ hai, chính phủ các nước dân chủ tiến bộ và nhân dân yêu chuộng
hòa bình thế giới ủng hộ Việt Nam. Trong cuộc chiến tranh Việt Nam,
nhiều nước dân chủ tiến bộ lên tiếng và có nhiều hành động thiết thực
ủng hộ cuộc đấu tranh thống nhất đất nước, bảo vệ độc lập dân tộc của
Việt Nam. Ở khu vực Tây Bắc Âu, các nước Phần Lan, Thụy Điển ủng
hộ Việt Nam tích cực. Đối với các nước trong khối ASEAN, Indonesia là
nước có nhiều tuyên bố và hành động ủng hộ Việt Nam. Sự xâm lược của
Mỹ ở Việt Nam, đã vấp phải sự phản ứng dữ dội của nhân dân Mỹ cùng
với các cuộc đấu tranh quyết liệt chống Mỹ ở những nơi khác làm thành
phong trào đấu tranh rầm rộ, tiến công đế quốc Mỹ từ mọi phía. Từ năm
1965, để phản đối việc Mỹ đưa quân ồ ạt vào miền Nam Việt Nam, nhiều
cuộc biểu tình của thanh niên, sinh viên, công nhân và nhân dân nhiều
nước trên thế giới thu hút hàng ngàn người tham gia . Trong giai đoạn 1973
1975 sau khi Hiệp định Paris được ký kết, các tổ chức, ủy ban, các hội,
17
Đảng cộng sản các nước, chính phủ các nước dân chủ tiến bộ và nhân dân
yêu chuộng hòa bình thế giới vẫn tiếp tục tiến hành các cuộc đấu tranh
thiết thực để ủng hộ Việt Nam.
3.4. Triển khai chiến lược đánh đàm
Tại Hội nghị lần thứ 13 (1/1967) của Đảng Lao động Việt Nam đã
khẳng định, phải đẩy mạnh đấu tranh ngoại giao, chủ động tiến công địch,
phục vụ sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước. Việt Nam xác định rõ mục tiêu
chiến lược đánh đàm, đàm đánh: Có nghĩa là trong khi ở miền Nam vẫn
tranh thủ đánh để giành thắng lợi quyết định thì giữa ta và địch có thể nói
chuyện từ hình thức tiếp xúc cho đến hội đàm. Đương nhiên, thắng lợi trên
chiến trường miền Nam là yếu tố quyết định; khi chưa giành được thắng
lợi đó thì trên bàn hội nghị cũng chưa giành được thắng lợi . Cuộc tổng
tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968, gây cho Mỹ và đồng minh
nhiều tổn thất, thêm vào đó, làn sóng dư luận thế giới phản đối cuộc
chiến tranh do Mỹ gây ra ngày càng dâng cao đã gây sức ép lên Chính phủ
Mỹ, ngày 31/3/1968 Tổng thống Johnson tuyên bố ném bom hạn chế miền
Bắc và chấp nhận ngồi vào bàn thương lượng với Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa. Trên bàn đàm phán, việc thảo luận những vấn đề chính vẫn
chưa có nhiều chuyển biến thì những thắng lợi liên tiếp trên mặt trận
quân sự đã có những tác động lớn đến bàn đàm phán, đặc biệt là chiến
thắng trong trận Điện Biên Phủ trên không, buộc Mỹ phải ký vào bản
Hiệp định Paris (27/1/1973) và rút quân về nước. Điều đó, tạo điều kiện
thuận lợi để Việt Nam giải phóng miền Nam (30/4/1975), thống nhất đất
nước.
Tiểu kết chương 3
Việc triển khai chính sách đối ngoại khôn khéo giúp Việt Nam tập
hợp lực lượng, nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ của Liên Xô, Trung Quốc,
các nước xã hội chủ nghĩa, hai nước láng giềng Lào và Campuchia, các
nước dân chủ, các tổ chức tiến bộ và nhân dân yêu chuộng hòa bình thế
giới. Trên tinh thần phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại,
phát huy nội lực, thể hiện sự độc lập, sáng tạo trong chính sách đối ngoại
của Việt Nam đã tranh thủ sự giúp đỡ của các nước cả vật chất lẫn tinh
18
thần. Qua đó, giúp xây dựng miền Bắc trở thành hậu phương vững chắc
và tăng thêm sức mạnh cho tiền tuyến miền Nam trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước. Sự sáng tạo trong chính sách đối ngoại còn được
thể hiện qua chiến lược đánh đàm, kế hợp hiệu quả giữa quân sự với
ngoại giao để giành thắng lợi cuối cùng.
Chương 4
NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM VỀ CUỘC ĐẤU TRANH BẢO VỆ
ĐỘC LẬP DÂN TỘC CỦA VIỆT NAM TRÊN LĨNH VỰC ĐỐI NGOẠI
TỪ NĂM 1954 ĐẾN NĂM 1975
4.1. Nhận xét về cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc của Việt
Nam trên lĩnh vực đối ngoại từ năm 1954 đến năm 1975
4.1.1. Thuận lợi
Thứ nhất, sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Lao động Việt Nam với
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ và tranh thủ được sự ủng hộ, giúp đỡ
của các nước xã hội chủ nghĩa. Sự chủ động, chân thành, quyết tâm của
Việt Nam tác động lớn đến các nước xã hội chủ nghĩa, nhận được sự
đồng cảm, thấu hiểu và từng bước ủng hộ tích cực cho cuộc kháng chiến
chống Mỹ của Việt Nam.
Thứ hai, triển khai hiệu quả chính sách đối ngoại, xây dựng được liên
minh chiến đấu vững chắc Việt Nam Lào Campuchia . Việt Nam đã
triển khai hiệu quả chính sách đối ngoại, xây dựng mối quan hệ gắn bó
mật thiết, tin tưởng lẫn nhau, tạo nên liên minh đoàn kết chiến đấu vững
chắc với Lào và Campuchia. Điều này, không chỉ là biểu hiện sinh động
cho tình đoàn kết của ba nước Đông Dương mà còn mang tính chất chiến
lược, hợp đồng tác chiến giữa ba nước, tăng thêm thế và lực cho chiến
trường, đem đến những thắng lợi quan trọng cho Việt Nam.
Thứ ba, nắm bắt được xu thế phát triển của thời đại, chủ động tập
hợp lực lượng các nước dân chủ, nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới
và các tổ chức quốc tế tiến bộ ủng hộ Việt Nam . Đối ngoại của Việt
Nam đã nắm bắt được xu thế vận động, phát triển của thế giới với sự
19
xuất hiện "ba dòng thác cách mạng" giúp Việt Nam triển khai chính sách
đối ngoại để tập hợp đông đảo lực lượng ủng hộ.
Thứ tư, đoàn kết, nhất trí triển khai chính sách đối ngoại "tuy hai mà
một", kiên trì thực hiện chiến lược "vừa đánh, vừa đàm" đúng thời điểm
và phát huy hiệu quả tích cực tiến đến giành thắng lợi cuối cùng.
4.1.2. Khó khăn
Thứ nhất, trong mối quan hệ với Liên Xô: Khó khăn trong giai đoạn
1954 1964, với "Chính sách hòa hoãn" dưới thời Khrushchev, Liên Xô
chưa quan tâm nhiều đến cuộc chiến tranh Việt Nam. Điều đó, gây khó
khăn cho Việt Nam trong việc tri ển khai nh ững b ước đi ngoại giao để
thu hút sự chú ý và tranh thủ sự ủng hộ của Liên Xô. Mặt khác, từ năm
1967 trở đi, Việt Nam triển khai chiến l ược "đánh đàm", thu được
những kết quả tích cực thì Liên Xô lại thúc giục Việt Nam phải sớm
đàm phán với Mỹ trong thời điểm "chưa chín muồi" gây không ít khó
khăn cho Việt Nam trong triển khai chính sách đối ngoại và chiến lược
"đánh đàm".
Thứ hai, trong quan hệ với Trung Quốc : Trong quan hệ với Trung
Quốc, Việt Nam gặp khó khăn trong việc đoán định ý nghĩ sâu xa đằng sau
sự giúp đỡ của Trung Quốc. Trung Quốc đã giành cho Việt Nam những
khoản viện trợ lớn để đóng một vai trò quan trọng trong cuộc chiến tranh
Việt Nam, tranh giành ảnh hưởng với Liên Xô, buộc Việt Nam phụ thuộc
vào mình và thông qua cuộc chiến này làm cho Mỹ suy yếu. Điều đó, gây
nhiều khó khăn cho Việt Nam trong triển khai chính sách đối ngoại độc
lập, tự chủ, bởi sự tác động và can thiệp có chủ ý của Trung Quốc.
Thứ ba, mâu thuẫn Xô Trung đã ảnh hưởng không tốt đến sự ủng hộ
đối với Việt Nam: Mâu thuẫn Xô Trung là bất lợi rất lớn cho Việt Nam
trong việc tập hợp, tranh thủ sự ủng hộ, bởi thực tế Việt Nam rất c ần s ự
giúp đỡ của cả Liên Xô và Trung Quốc trong công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh chống Mỹ để giải phóng miền Nam.
Mâu thuẫn Xô Trung, đã đẩy Việt Nam rơi vào hoàn cảnh khó khăn, vừa
phải đối đầu với Mỹ, vừa phải đương đầu với những vấn đề khó phát
sinh tác động xuất phát từ sự bất hòa của hai nước. Điều đó, gây ra những
20
ảnh hưởng không tốt, tạo ra những khó khăn cho Việt Nam trong triển
khai chính sách đối ngoại để đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc.
4.2. Kinh nghiệm trong đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc của
Việt Nam trên lĩnh vực đối ngoại từ năm 1954 đến năm 1975
Thứ nhất, kết hợp sáng tạo lý luận với thực tiễn để xây dựng đường
lối đối ngoại phù hợp. Trên cơ sở nghiên cứu chủ nghĩa Mác Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, vấn đề thời đại, nắm rõ quy luật
vận động của các mối quan hệ quốc tế, xu thế phát triển của cách mạng
thế giới, giải quyết mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, nội lực và
ngoại lực, chủ quan và khách quan. Đảng Lao động Việt Nam đã bổ sung
làm sắc bén thêm lý luận, mang tính chiến đấu cao trở thành kim chỉ nam
cho hoạch định, triển khai chính sách đối ngoại khoa học, hiệu quả góp
phần đem đến thắng lợi cho cách mạng Việt Nam.
Thứ hai, giương cao ngọn cờ hòa bình, độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh
thổ và phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để giành thắng
lợi. Chính quyết tâm bảo vệ độc lập dân tộc, phát huy sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại, không chỉ giúp Việt Nam tập hợp được đông đảo
lực lượng ủng hộ, mà còn giúp Việt Nam chủ động trong triển khai chiến
lược đối ngoại, hạn chế những tác động xấu của tình hình, cục diện quốc
tế thay đổi trước những tác động của các nước lớn.
Thứ ba, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, dĩ bất biến ứng vạn biến
trong thực hiện chiến lược, sách lược. Khẳng định, sự lãnh đạo của Đảng
Lao động Việt Nam là nhân tố quyết định mọi thắng lợi cho cách mạng
Việt Nam. Mục đích bất di bất dịch của ta vẫn là hòa bình, thống nhất,
độc lập, dân chủ. Nguyên tắc của ta thì phải giữ vững chắc, nhưng sách
lược của ta thì linh hoạt.
Tiểu kết chương 4
Trong điều kiện mối quan hệ quốc tế hết sức phức tạp trong Chiến
tranh lạnh, trong khi Việt Nam đang đấu tranh chống Mỹ, do vậy Việt
Nam không có nhiều thời gian, điều kiện để nghiên cứu thấu đáo một số
vấn đề khó liên quan đến việc triển khai chính sách đối ngoại. Trong xây
dựng quan hệ với Liên Xô giai đoạn 1954 1964, vẫn chưa đạt hiệu quả
21
như Việt Nam mong muốn và vẫn chưa lường trước hết được những hệ
lụy xấu trong quan hệ với Trung Quốc. Tuy vậy, cuộc đấu tranh bảo vệ
độc lập của Việt Nam trên lĩnh vực đối ngoại từ năm 1954 đến năm 1975
đã để lại những kinh nghiệm quý báu. Đó là sự kết hợp sáng tạo lý luận
với thực tiễn để xây dựng chính sách đối ngoại phù hợp, căn cứ tình hình
cụ thể để triển khai có hiệu quả. Giương cao ngọn cờ hòa bình, độc lập
dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ và phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại để giành thắng lợi. Trong bất cứ hoàn cảnh nào đều cần phải
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, kiên định mục tiêu đã định, dĩ bất biến
ứng vạn biến trong thực hiện sách lược, chiến lược để đem đến thắng
lợi cuối cùng.
KẾT LUẬN
Thứ nhất, Đảng Lao động Việt Nam và Nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa đã kế thừa và phát huy hiệu quả những giá trị ngoại giao của
ông cha vào trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, bảo vệ độc lập dân
tộc. Lịch sử ngoại giao của các thế hệ ông cha người Việt đã để lại cho
hậu bối bài học "ngoại giao tâm công", "vừa đánh, vừa đàm", biết người,
biết ta, phân tích sâu sắc điểm mạnh, điểm yếu để giành thắng lợi. Với
nguyên tắc luôn giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, được
thực hiện bằng phương châm "dĩ bất biến, ứng vạn biến". Vận dụng
"ngoại giao tâm công" trong đối ngoại, một mặt chứng minh Việt Nam là
dân tộc yêu chuộng hòa bình, nêu cao tinh thần chính nghĩa trong cuộc đấu
tranh bảo vệ độc lập dân tộc. Mặt khác, đối ngoại thể hiện sự sắc sảo
trong vạch trần bản chất, tội ác của đế quốc Mỹ đối với nhân dân Việt
Nam và thức tỉnh lương tri của nhân loại. Từ 1967 trở đi, Việt Nam đưa ra
chiến lược "đánh đàm", phối hợp chặt chẽ giữa mặt trận quân sự ngoại
giao. Theo đó, những thắng lợi trên mặt trận quân sự sẽ giúp thế đàm phán
trên mặt trận ngoại giao mạnh mẽ hơn, ngược lại những đàm phán trên
mặt trận ngoại giao sẽ giúp Việt Nam đoán định được phần nào các mục
đích, thủ đoạn Mỹ dự định sẽ tiến hành trên chiến trường. Kết quả của
22
những thắng lợi trên mặt trận quân sự, ngoại giao đã bổ trợ cho nhau hiệu
quả, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Paris (1973), rút quân về nước, tạo thời
cơ thuận lợi cho cuộc tổng tiến công và nổi dậy, giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước (30/4/1975).
Thứ hai, trên cơ sở chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
Đảng Lao động Việt Nam và Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã nhận
định, đánh giá đúng đắn tình hình thế giới, tình hình trong nước và hoạch
định được chính sách đối ngoại hiệu quả. Đánh giá tình hình thế giới, tình
hình khu vực Đông Nam Á trong Chiến tranh lạnh, Đảng Lao động Việt
Nam nhận định, sự đối đầu Xô Mỹ sẽ trở nên hết sức quyết liệt, tác
động đến hầu hết các nước và các vấn đề quan hệ quốc tế. Bên cạnh đó,
quan hệ giữa các cường quốc như Xô Trung, Mỹ Trung cũng có những
diễn biến phức tạp. Tuy nhiên, mục đích chung của các cường quốc đều
tìm mọi cách kiềm chế lẫn nhau và cạnh tranh quyết liệt để thiết lập
phạm vi ảnh hưởng ở các khu vực trên thế giới. Đối với các nước ở Đông
Nam Á, trong khi ba nước Đông Dương đoàn kết chống Mỹ thì đa số các
nước khác trong khối ASEAN đều chịu sự chi phối của Mỹ, nên việc tiếp
cận để xây dựng mối quan hệ, tranh thủ sự ủng hộ là hết sức khó khăn.
Bên cạnh khó khăn, tình hình thế giới cũng có những thuận lợi, khi phong
trào đấu tranh giải phóng dân tộc thoát khỏi ách thống trị, kìm kẹp của chủ
nghĩa đế quốc phát triển mạnh ở châu Á, châu Phi, khu vực Mỹ latinh, đó
là sự cổ vũ, động viên to lớn cho cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc
của Việt Nam. Đánh giá tình hình trong nước, Đảng Lao động Việt Nam
nhận định, tình hình đất nước trước mắt tạm thời phân chia thành hai
miền. Mục tiêu đối ngoại của Việt Nam góp phần xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở miền Bắc trở thành hậu phương vững chắc, giải phóng miền Nam
khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ, thống nhất đất nước và xây dựng một
nước Việt Nam giàu mạnh. Với tư tưởng chỉ đạo, kiên định chủ nghĩa
Mác Lênin, đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng Lao động Việt Nam
và Chủ tịch Hồ Chí Minh, quyết tâm thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ của mặt trận đối ngoại là xây
dựng đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ và kiên quyết đấu tranh đến