Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

Thực hành quyền công tố tại phiên tòa hình sự sơ thẩm theo luật tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (418.57 KB, 107 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHẠM THỊ HUYỀN

THùC HµNH QUYÒN C¤NG Tè T¹I PHI£N TßA H×NH
Sù S¥ THÈM THEO LUËT Tè TôNG H×NH Sù VIÖT
NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHẠM THỊ HUYỀN

THùC HµNH QUYÒN C¤NG Tè T¹I PHI£N TßA H×NH
Sù S¥ THÈM THEO LUËT Tè TôNG H×NH Sù VIÖT
NAM
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8380101.03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. LÊ LAN CHI


HÀ NỘI - 2019




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Phạm Thị Huyền


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
Danh mục các bảng
LỜI CAM ĐOAN....................................................................................................................................................
TÔI XIN CAM ĐOAN LUẬN VĂN LÀ CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA RIÊNG TÔI. CÁC
KẾT QUẢ NÊU TRONG LUẬN VĂN CHƯA ĐƯỢC CÔNG BỐ TRONG BẤT KỲ
CÔNG TRÌNH NÀO KHÁC. CÁC SỐ LIỆU, VÍ DỤ VÀ TRÍCH DẪN TRONG LUẬN
VĂN ĐẢM BẢO TÍNH CHÍNH XÁC, TIN CẬY VÀ TRUNG THỰC. TÔI ĐÃ HOÀN
THÀNH TẤT CẢ CÁC MÔN HỌC VÀ ĐÃ THANH TOÁN TẤT CẢ CÁC NGHĨA VỤ

TÀI CHÍNH THEO QUY ĐỊNH CỦA KHOA LUẬT ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI..............
VẬY TÔI VIẾT LỜI CAM ĐOAN NÀY ĐỀ NGHỊ KHOA LUẬT XEM XÉT ĐỂ TÔI CÓ THỂ
BẢO VỆ LUẬN VĂN...............................................................................................................................
TÔI XIN CHÂN THÀNH CẢM ƠN!...................................................................................................................
NGƯỜI CAM ĐOAN..............................................................................................................................................
PHẠM THỊ HUYỀN...............................................................................................................................................
MỤC LỤC.................................................................................................................................................................


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLTTHS:

Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT:

Cơ quan điều tra

HĐXX:

Hội đồng xét xử

KSV:

Kiểm sát viên

THQCT:

Thực hành quyền công tố


VKS:

Viện kiểm sát

VKSND:

Viện kiểm sát nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu

Tên bảng

Trang

Bảng 3.1

Kết quả số vụ án/ bị cáo Viện kiểm sát thành phố Hải
Phòng kháng nghị phúc thẩm từ năm 2014 - 2018

ERR
OR:
REFE
REN
CE
SOU
RCE
NOT
FOU

ND

Bảng 3.2

Các vụ án Tòa án trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra ERR
bổ sung trên địa bàn thành phố Hải Phòng giai đoạn OR:
2014 - 2018
REFE
REN
CE
SOU
RCE
NOT
FOU
ND


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Viện kiểm sát là cơ quan duy nhất được giao chức năng thực hành
quyền công tố. Hoạt động thực hành quyền công tố được thực hiện ngay từ
khi khởi tố vụ án hình sự và trong suốt quá trình tố tụng hình sự nhằm bảo
đảm không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người không có
tội. Hoạt động của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự là biểu hiện tập trung
nhất, thể hiện rõ nhất vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong thực hiện chức
năng thực hành quyền công tố. Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của cải
cách tư pháp được Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị
về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 chỉ rõ là:
Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí,
quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham

gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm
minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi
đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp [3].
Khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố tại phiên tòa hình sự,
Viện kiểm sát có trách nhiệm công bố cáo trạng hoặc quyết định truy tố theo
thủ tục rút gọn; xét hỏi, xem xét vật chứng, xem xét tại chỗ; luận tội, tranh
luận, rút một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố; kết luận về tội khác bằng
hoặc nhẹ hơn; phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa.
Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm là người thực hiện chức
năng buộc tội - thực hành quyền công tố trước phiên tòa. Bị cáo và người bào
chữa của họ là bên thực hành chức năng bào chữa trong sự bảo hộ đầy đủ của
pháp luật tố tụng. Và cuối cùng, Tòa án sẽ nhân danh Nhà nước thực hiện
chức năng xét xử, là chủ thể phán xét, xác định bị cáo có tội hay không có tội

1


cũng như áp dụng loại và mức hình phạt cụ thể trong trường hợp bị cáo có tội.
Để đảm bảo hiệu quả của hoạt động thực hành quyền công tố tại phiên tòa
hình sự, đòi hỏi quy định pháp luật về trình tự, thủ tục tại phiên tòa hình sự sơ
thẩm phải rõ ràng, cụ thể, bao quát được các tình huống có thể xảy ra trên
thực tế. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 dù đã được sửa đổi, bổ sung bởi Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2015, tuy nhiên khi thi hành Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2015 vẫn còn những hạn chế khi thực hành quyền công tố tại phiên tòa
hình sự sơ thẩm cần tiếp tục khắc phục. Đó là tình trạng phân định các chức
năng tố tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm không rõ ràng, chồng chéo dẫn tới
việc Hội đồng xét xử nhiều khi còn làm thay chức năng của Kiểm sát viên; sự
chưa đầy đủ và thiết thực các quy định liên quan đến thủ tục tranh tụng dẫn
đến hoạt động tranh tụng tại phiên tòa giữa Kiểm sát viên và người bào chữa,
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự chỉ mang tính hình

thức, thủ tục, việc đưa ra các dẫn chứng, các lập luận diễn ra rất mờ nhạt. Để
góp phần xây dựng một nền công tố mạnh, có vai trò quan trọng trong việc
bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ
nghĩa thì việc nghiên cứu, hoàn thiện, nâng cao chất lượng thực hành quyền
công tố tại phiên tòa hình sự sơ thẩm là rất quan trọng.
Do đó, việc nghiên cứu đề tài “Thực hành quyền công tố tại phiên tòa
hình sự sơ thẩm theo luật tố tụng hình sự Việt Nam” có ý nghĩa về mặt lý
luận cũng như thực tiễn trong tư pháp hình sự nước ta hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Khái niệm quyền công tố và thực hành quyền công tố tại phiên tòa hình
sự sơ thẩm đã được đề cập nhiều trong khoa học pháp lý nước ta với các mức
độ khác nhau. Có bài viết đề cập khi giải quyết các vấn đề chung của tố tụng
hình sự hay bài viết có tính chất chuyên khảo phân tích có hệ thống về quyền
công tố và một số luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ cũng đề cập đến quyền công

2


tố. Nổi bật lên ở trong nước có nhiều công trình nghiên cứu khoa học ở những
cấp độ và hình thức nghiên cứu khác nhau như:
Đề tài khoa học nghiên cứu về lý luận, thực tiễn về công tố, thực hành
quyền công tố tại phiên tòa hình sự sơ thẩm và chức năng buộc tội trong tố
tụng hình sự đó là: Các đề tài khoa học cấp Bộ, gồm: "Những vấn đề lý luận
về quyền công tố và việc tổ chức thực hiện quyền công tố ở Việt Nam hiện
nay" do Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành năm 1999; “Nâng cao chất
lượng kiểm sát hoạt động tư pháp và thực hành quyền công tố về vấn đề
thông khâu và chuyên khâu trong công tác kiểm sát hình sự” do Trường Cao
đẳng kiểm sát nghiên cứu năm 2001; "Những giải pháp nâng cao chất lượng
thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp" do Viện Khoa
học kiểm sát - Viện kiểm sát nhân dân tối cao chủ trì. Tác giả GS.TSKH. Đào

Trí Úc là chủ biên cuốn sách “Hệ thống tư pháp và cải cách tư pháp ở Việt
Nam”, NXB. Khoa học xã hội năm 2001, được phát hành trong thời điểm tiến
hành đổi mới hệ thống các cơ quan tư pháp ở Việt Nam được xem là cấp thiết
theo Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về "Một số
nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới", làm sáng tỏ
những vấn đề lý luận và thực tiễn của hệ thống tư pháp và cải cách tư pháp ở
nước ta thông qua việc phân tích chuyên sâu: các cơ quan tư pháp và các chức
danh tư pháp, đào tạo pháp luật, các thủ tục tư pháp và thủ tục tài phán khác.
Tác giả Lê Thị Tuyết Hoa thực hiện Luận án tiến sĩ luật học tại Viện
Nhà nước và Pháp luật năm 2002 với đề tài “Quyền công tố ở Việt Nam”,
Luận án đã nghiên cứu lịch sử quyền công tố, việc tổ chức thực hành quyền
công tố ở một số nước trên thế giới, làm rõ khái niệm, đối tượng, phạm vi, nội
dung của quyền công tố và thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự.
Tác giả Lê Thị Thúy Nga đã thực hiện Luận án tiến sĩ luật học tại Trường Đại
học Luật Hà Nội năm 2019 với đề tài “Chủ thể buộc tội trong tố tụng hình sự

3


Việt Nam”, luận án làm sáng tỏ và phát triển những vấn đề lý luận về vai trò,
chức năng, nhiệm vụ của chủ thể buộc tội, trong đó có chức năng, nhiệm vụ
thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát.
Ngoài ra, các bài viết được đăng trên các tạp chí chuyên ngành liên
quan đến vấn đề thực hành quyền công tố tại phiên tòa hình sự sơ thẩm có thể
kể đến như: Bài viết của TS. Trần Văn Độ (2001) về “Một số vấn đề về quyền
công tố” đăng trên Tạp chí Luật học (3), tr.8 - 12. Tác giả đã đưa ra những
quan điểm của nhiều tác giả và tổng hợp thành 04 quan điểm khác nhau về
khái niệm quyền công tố và theo đó là thực hành quyền công tố, nhìn nhận từ
khía cạnh quy định của pháp luật, khoa học pháp lý cũng như thực tiễn áp
dụng để phát hiện những nhược điểm, thiếu sót của từng quan điểm, từ đó

luận giải đưa ra những nhận định, phân tích về khái niệm quyền công tố, thực
hành quyền công tố.
Các bài viết của TS. Lê Lan Chi: Một số ý kiến về hoạt động kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử các vụ án hình sự nhìn từ yêu cầu
chuyển đổi Viện kiểm sát thành Viện công tố (3/2006) Tạp chí Nhà nước và
pháp luật, Số 215, Tr.73-75; bài viết Một số ý kiến về công tác đào tạo Kiểm
sát viên trong xu thế cải cách tư pháp và mở rộng tranh tụng ở nước ta hiện
nay, (2/2012), tạp chí Nghề luật; bài viết Nhu cầu nâng cao chất lượng xét xử
đặt ra từ Hiến pháp năm 2013 (2017), tạp chí Tòa án nhân dân, Số 4, tr. 4243. Các bài viết của TS. Hoàng Thị Minh Sơn đăng trên Tạp chí Luật học
như: bài viết “Các chức năng buộc tội, bào chữa và xét xử trong tố tụng hình
sự” (1998), tạp chí Luật học (Số 2), tr.35-38; bài viết “Thực hiện quyền công
tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự của Viện kiểm
sát” (2004), tạp chí Luật học (số đặc san tố tụng hình sự), tr.65-73; bài viết
“Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam qua các BLTTHS” (2007), tạp chí Luật
học (Số 1), tr.36-41. Các bài viết đã luận giải những quan điểm khác nhau về

4


khái niệm quyền công tố, thực hành quyền công tố từ đó phân tích và chỉ ra
những điểm chính xác và hạn chế của từng quan điểm để từ đó đưa ra khái
niệm quyền công tố, thực hành quyền công tố đồng thời làm rõ mối quan hệ
giữa thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật.
Các tác giả TS. Tô Văn Hòa (2014) với bài viết “Mối quan hệ giữa các
cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp theo tinh thần Hiến
pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013” đăng trên Tạp chí
Luật học (9), tr.34-45 và GS.TSKH. Đào Trí Úc (2010) có bài viết “Bàn về
quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” đăng trên Tạp
chí Luật học (08), tr.61-70 đã nghiên cứu về quyền tư pháp ở những góc độ,
phạm vi khác nhau. Bài viết đều làm rõ về quyền tư pháp, cơ quan tư pháp và

vai trò của quyền tư pháp trong đời sống xã hội, trong việc tổ chức quyền lực
nhà nước từ đó chỉ ra vị trí của Viện kiểm sát trong hệ thống các cơ quan nhà
nước, vị trí của quyền công tố trong số các quyền năng của nhà nước về mặt
lý luận khoa học pháp lý và theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Như vậy có thể thấy, thực hành quyền công tố tại phiên tòa hình sự sơ
thẩm theo luật tố tụng hình sự Việt Nam là đối tượng nghiên cứu của nhiều
ngành, nhiều cấp, các tác giả đề cập đến nội dung này ở những góc độ khác
nhau trên cơ sở quy định trong bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và các văn
bản pháp luật hướng dẫn từ năm 2015 trở về trước. Tuy nhiên, chưa công trình
nào nghiên cứu và đánh giá trên cơ sở luật thực định mới có hiệu lực là Bộ luật
tố tụng hình sự năm 2015 và thực tiễn thi hành tại Viện kiểm sát nhân dân hai
cấp thành phố Hải Phòng, một địa phương có số lượng án lớn, phức tạp, một
điểm nóng về an ninh trật tự so với các địa phương khác trên cả nước.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn: Trên cơ sở nghiên cứu một số vấn
đề lý luận và quy định của pháp luật thực hành quyền công tố tại phiên tòa

5


hình sự sơ thẩm, luận văn đề xuất một số giải pháp để nâng cao hiệu quả thực
hành quyền công tố tại phiên tòa hình sự sơ thẩm.
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận như chủ thể, đối tượng, phạm vi của
thực hành quyền công tố tại phiên tòa hình sự sơ thẩm để đưa ra khái niệm về
thực hành quyền công tố tại phiên tòa hình sự sơ thẩm.
- Nội dung, ý nghĩa về thực hành quyền công tố tại phiên tòa hình sự sơ
thẩm theo luật tố tụng hình sự Việt Nam được thể hiện như thế nào?
- Khái quát pháp luật Việt Nam trong giai đoạn trước khi Bộ luật hình
sự năm 2015 được ban hành.

- Phân tích, đánh giá quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về
thực hành quyền công tố tại phiên tòa hình sự sơ thẩm.
- Phân tích, đánh giá thực tiễn về thực hành quyền công tố tại phiên
tòa hình sự sơ thẩm ở thành phố Hải Phòng trong 05 năm (từ năm 2014 đến
năm 2018).
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện cụ thể để nâng cao chất lượng thực
hành quyền công tố tại phiên tòa hình sự sơ thẩm theo luật tố tụng hình sự
Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và quy
định của pháp luật về thực hành quyền công tố tại phiên tòa hình sự sơ thẩm.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chỉ chú trọng hoạt động thực hành
quyền công tố mà không nghiên cứu hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp
luật, nếu có đề cập hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật chỉ nhằm làm
rõ tính chất, phạm vi hoạt động thực hành quyền công tố; luận văn nghiên cứu
tại phiên tòa hình sự sơ thẩm mà không đề cập đến giai đoạn chuẩn bị xét xử
trước phiên tòa hình sự sơ thẩm. Luận văn nghiên cứu thực tiễn thực hành

6


quyền công tố tại phiên tòa hình sự sơ thẩm tại thành phố Hải Phòng 05 năm,
từ năm 2014 đến năm 2018.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử đã áp dụng các phương pháp nghiên cứu sau để thực
hiện luận văn:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp lý thuyết được sử dụng để làm rõ
các vấn đề lí luận về thực hành quyền công tố tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
theo luật tố tụng hình sự Việt Nam.

- Phương pháp lịch sử, so sánh pháp luật được sử dụng trong việc
nghiên cứu về quá trình hình thành, phát triển của quy định pháp luật về thực
hành quyền công tố tại phiên tòa hình sự sơ thẩm trong giai đoạn từ năm 1945
đến năm 2015. Phương pháp so sánh pháp luật khi nghiên cứu quy định của
pháp luật nước ngoài.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp được vận dụng trong việc nghiên
cứu quy định pháp luật về thực hành quyền công tố tại phiên tòa hình sự sơ
thẩm của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
- Phương pháp tổng hợp kinh nghiệm thực tiễn sử dụng trong nghiên
cứu thực tiễn thực hành quyền công tố tại phiên tòa hình sự sơ thẩm trên địa
bàn thành phố Hải Phòng.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, khái quát hoá được sử dụng khi
luận văn dựa trên cơ sở lí luận đã được nhận diện cũng như các vấn đề của
thực tiễn thi hành đặt ra hiện nay nêu những nhận định, đánh giá hay rút ra
các bài học kinh nghiệm, phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật.
Trong phần lớn các nội dung nghiên cứu của luận văn, các phương
pháp nghiên cứu trên đây được sử dụng kết hợp và linh hoạt.

7


6. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Luận văn hệ thống hóa, làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn áp
dụng về thực hành quyền công tố tại phiên tòa hình sự sơ thẩm trong tố tụng
hình sự Việt Nam. Từ đó đặt ra một số kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp
luật và nâng cao hiệu quả thực hành quyền công tố tại phiên tòa hình sự sơ
thẩm theo luật tố tụng hình sự Việt Nam, đặc biệt là giai đoạn sau khi Bộ luật
tố tụng hình sự năm 2015 được ban hành.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa khoa học của luận văn

Luận văn góp phần bổ sung và làm rõ hơn những vấn đề lý luận về chức
năng thực hành quyền công tố tại phiên tòa hình sự sơ thẩm trong tố tụng hình
sự Việt Nam. Ngoài ra luận văn cũng chỉ ra và đánh giá được những điểm mới
trong quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về nội dung này. Đề ra
được một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật quy định về thực hành quyền
công tố tại phiên tòa hình sự sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam.
Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
- Đề xuất được một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hành
quyền công tố tại phiên tòa hình sự sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam
phù hợp với thực trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng.
- Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho người học ở
các cơ sở đào tạo luật của Việt Nam chuyên ngành luật tố tụng hình sự; cho
Điều tra viên, Kiểm sát viên nghiên cứu, vận dụng và thực hiện trong thực
tiễn công tác; là tài liệu tham khảo trong việc hoàn thiện quy định của pháp
luật, cho việc xây dựng các quy chế hoạt động của ngành Kiểm sát nhân dân
cũng như các quy chế phối hợp liên ngành, phục vụ cho công tác quản lý, chỉ
đạo, bồi dưỡng cán bộ của ngành Kiểm sát nhân dân và là một nguồn tài liệu
cho những bạn đọc quan tâm đến lĩnh vực khoa học này.

8


8. Bố cục của luận văn
Ngoài các phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung chính của luận văn được chia làm ba chương sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố tại phiên
tòa hình sự sơ thẩm.
Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về thực
hành quyền công tố tại phiên tòa hình sự sơ thẩm.
Chương 3: Thực tiễn thực hiện quy định về thực hành quyền công tố tại

phiên tòa hình sự sơ thẩm ở thành phố Hải Phòng và một số giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố tại phiên tòa sơ thẩm.

9


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN
CÔNG TỐ TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM
1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
Ở Việt Nam, cụm từ “thực hành quyền công tố” (THQCT) lần đầu tiên
xuất hiện trong các văn bản pháp lý là Hiến pháp năm 1980 khi đề cập đến
chức năng của Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) tại Điều 138 và được nhắc
lại ở các Điều 1 và 3 Luật tổ chức VKSND năm 1981. Từ đó, đã có nhiều tài
liệu, bài viết bàn về quyền công tố và THQCT, gần với đó là những tranh luận
về chức năng, nhiệm vụ của ngành Kiểm sát nhân dân. Có quan điểm cho
rằng VKSND chỉ tập trung thực hiện tốt chức năng công tố; quan điểm khác
cho rằng VKSND giữ nguyên chức năng THQCT và kiểm sát các hoạt động
tư pháp như hiện nay; nhưng có quan điểm lại cho rằng phải mở rộng nhiệm
vụ của VKSND hơn nữa, ngoài THQCT phải mở rộng chức năng, nhiệm vụ
THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp luật như ngành Kiểm sát đã thực
hiện từ những năm 1960 đến 2002. Mặc dù có những ý kiến và cách lý giải
khác nhau nhưng hầu hết các quan điểm đều thừa nhận THQCT là chức năng
đặc biệt mà Đảng và Nhà nước giao cho VKSND.
Việc xác định khái niệm quyền công tố và khái niệm THQCT có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn rất quan trọng, giải quyết tốt vấn đề này giúp cho
việc xác định chính xác vai trò, vị trí của VKSND trong hệ thống cơ quan nhà
nước nói chung và trong các cơ quan tư pháp nói riêng. Để làm rõ khái niệm
THQCT, trước tiên cần làm rõ khái niệm quyền công tố.
Tại Từ điển Tiếng Việt có nêu: “Công tố là truy tố, buộc tội bị cáo và

phát biểu ý kiến trước Tòa án, nhân danh Nhà nước”[14]. Theo Từ điển Luật
học thì: Công tố “là quyền của Nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự đối
với người phạm tội” [39].

10


Trong sách báo pháp lý nước ta còn có nhiều quan điểm khác nhau về
quyền công tố, nhưng có thể tóm tắt các quan điểm khác nhau đó thành 4
nhóm chính như sau:
Quan điểm 1: Quyền công tố là quyền đại diện cho Nhà nước để đưa
các vụ việc vi phạm trật tự pháp luật ra cơ quan xét xử để bảo vệ lợi ích nhà
nước, bảo vệ trật tự pháp luật [33]. Quan điểm này cho rằng, quyền công tố
xuất hiện từ khi có Nhà nước và pháp luật, được thể hiện đầu tiên trong lĩnh
vực hình sự, tố tụng hình sự, sau đó mở rộng sang lĩnh vực dân sự, tố tụng
dân sự và các lĩnh vực tố tụng tư pháp khác. Quan điểm này đã xác định
phạm vi quyền công tố quá rộng, đồng nhất quyền công tố trong tố tụng hình
sự với quyền hạn của VKSND trong những lĩnh vực tố tụng khác như dân
sự, kinh tế và các lĩnh vực tố tụng khác, xóa nhòa ranh giới giữa tố tụng hình
sự và hoạt động tư pháp.
Quan điểm 2: Quyền công tố chỉ là một quyền năng, một hình thức
thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát trong
tố tụng hình sự [30]. Quan điểm này đồng nhất khái niệm THQCT với kiểm
sát việc tuân theo pháp luật, dẫn đến việc không xác định được hoạt động nào
của VKSND là để thực hiện chức năng THQCT, hoạt động nào là để thực
hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự.
Quan điểm 3: Quyền công tố là quyền Nhà nước giao cho Viện kiểm
sát truy tố người phạm tội ra trước tòa án và thực hành việc buộc tội đó tại
phiên tòa [32]. Quan điểm này khẳng định chức năng duy nhất của VKSND
khi thực hiện quyền công tố ở một lĩnh vực là tố tụng hình sự và ở một giai

đoạn tố tụng là giai đoạn xét xử hình sự sơ thẩm. Quan niệm như trên đã thu
hẹp khái niệm, nội dung, phạm vi của quyền công tố, không phản ánh được
đầy đủ bản chất của quyền này, đồng nhất hoạt động THQCT nói chung với
hoạt THQCT tại phiên tòa hình sự.

11


Quan điểm 4: Quyền công tố là quyền của cơ quan nhà nước được ủy
quyền thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội
nhằm đưa người đó ra xét xử trước tòa án và đồng thời bảo vệ sự buộc tội đó
[8]. Quan điểm này cho rằng quyền công tố là quyền của Nhà nước, chỉ có thể
được xem xét trong mối liên hệ với pháp luật tố tụng hình sự, gắn liền với
việc nhân danh Nhà nước chống lại hình thức vi phạm pháp luật nghiêm trọng
và việc thực hiện quyền này sẽ được Nhà nước ủy quyền cho một cơ quan nhà
nước thực hiện.
Như vậy, khái niệm quyền công tố hiện nay có rất nhiều quan điểm
khác nhau, mỗi quan điểm đều một số nội dung hợp lý nhưng cũng đều bộc lộ
những bất cập: Hoặc là đánh đồng quyền công tố với kiểm sát tuân theo pháp
luật, coi quyền công tố chỉ là quyền năng của Viện kiểm sát trong kiểm sát
tuân theo pháp luật nên đã mở rộng phạm vi của quyền công tố sang các lĩnh
vực khác ngoài tố tụng hình sự; hoặc là quá thu hẹp phạm vi của quyền công
tố, cho rằng quyền công tố chỉ có trong giai đoạn xét xử sơ thẩm; hoặc xác
định không đúng chủ thể của quyền công tố… Do đó, để xác định khái niệm
quyền công tố cần phải làm rõ những vấn đề sau:
Thứ nhất, về bản chất của quyền công tố: Quyền công tố có bản chất là
quyền yêu cầu trừng trị công khai hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng đó
là tội phạm. Đại diện cơ quan nhà nước, chủ thể buộc tội thực hiện chức năng
buộc tội có trách nhiệm đưa ra lời cáo buộc đối với những cá nhân có hành vi
vi phạm pháp luật bằng những chứng cứ cho sự cáo buộc đó. Để làm được

điều này, cơ quan được giao nhiệm vụ buộc tội phải điều tra, xác định tội
phạm và người phạm tội nhằm truy tố bị can ra trước Tòa án và bảo vệ sự
buộc tội đó trước phiên tòa. Vì thế, quyền lực nhà nước trong tố tụng hình sự
gắn liền với sự buộc tội nhân danh Nhà nước, hay nói cách khác là nhân danh
công quyền, sự buộc tội nhân danh công quyền này được gọi là quyền công

12


tố. Và quyền công tố mang tính cụ thể, tức chỉ xuất hiện trong trường hợp tội
phạm cụ thể đã được thực hiện và đối với những người phạm tội cụ thể.
Không tồn tại quyền công tố chung chung [8]. Quyền công tố với tư cách
quyền của nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội
chỉ xuất hiện khi có tội phạm trên thực tế được thực hiện, không có tội
phạm thì quyền công tố của nhà nước không xuất hiện và không được thực
thi. Quyền công tố thể hiện rõ mối quan hệ giữa Nhà nước và người phạm
tội do chính hành vi phạm tội làm phát sinh ra. C.Mác đã viết: "Sự trừng
phạt là quyền của Nhà nước không thể chuyển giao cho tư nhân. Mọi quyền
của Nhà nước đối với người phạm tội, đồng thời cũng là nghĩa vụ của
người đó đối với Nhà nước”[4].
Thứ hai, chủ thể của quyền công tố: Trong một xã hội có giai cấp nào
cũng tồn tại những mâu thuẫn mang tính giai cấp và những hành vi đấu tranh
giai cấp dưới các hình thức khác nhau, biểu hiện là những hành vi vi phạm
pháp luật chống lại ý chí giai cấp thống trị. Để trừng trị người vi phạm pháp
luật thì quyền tư pháp của Nhà nước cần được thực thi, “quyền tư pháp là
quyền của Nhà nước, trong đó cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý các vụ
việc vi phạm phạm luật bằng cách áp dụng chế tài pháp lý đối với các vi
phạm, qua đó thực thi công lý và bảo đảm pháp luật được thực thi” [13].
Trong các hành vi vi phạm pháp luật thì nghiêm trọng nhất là hành vi vi phạm
pháp luật hình sự, là tội phạm. Để pháp luật được tôn trọng và chấp hành

nghiêm chỉnh cần thiết phải sử dụng quyền lực nhà nước, nhân danh công
quyền thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi
phạm tội. Điều đó có nghĩa là trong Nhà nước pháp quyền có tồn tại quyền
công tố [9]. Muốn xử lý ai đó bắt buộc phải có sự buộc tội đó chính là quyền
công tố của Nhà nước. Quyền công tố là một quyền lực công bắt nguồn từ nhu
cầu phải duy trì trật tự xã hội để bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị và những lợi

13


ích chung có liên quan mà nhà nước. Một hành vi bị coi là tội phạm được thực
hiện sẽ làm phát sinh một loại quan hệ pháp luật giữa một bên là nhà nước và
bên kia là người phạm tội: Nhà nước là chủ thể sử dụng quyền lực nhà nước để
thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt đối với người
phạm tội; còn người phạm tội là chủ thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự và gánh
chịu các chế tài hình sự do Nhà nước quy định và áp dụng.
Nhà nước thực hiện quyền công tố bằng cách ủy quyền cho cơ quan
trong bộ máy nhà nước thực hiện. Khi khẳng định một quyền công tố là
quyền năng của nhà nước, gắn liền với nhà nước thì phải hiểu rằng nhà nước
không phải tự mình thực hiện quyền năng đó mà “Nhà nước ủy quyền cho cơ
quan cụ thể thực hiện quyền này trong bộ máy cơ quan nhà nước phân quyền
hoặc phân công thực hiện chức năng” [8]. Trên mỗi lĩnh vực quyền lực nhà
nước cụ thể, Nhà nước tổ chức ra một hệ thống các cơ quan nhất định để thực
hiện quyền lực đó. Mỗi cơ quan Nhà nước cần phải có một chức năng, nhiệm
vụ riêng. Sự phân công càng rành mạch, cụ thể thì hiệu quả quản lý nhà nước
sẽ đạt kết quả càng cao và phát huy cao độ vai trò của cơ quan đó trong từng
lĩnh vực, từng ngành, từng cấp. Nếu không, sẽ xảy ra tình trạng là ở một lĩnh
vực nào đó có nhiều cơ quan cùng làm dẫn đến sự chồng chéo, hoặc có lĩnh
vực bị bỏ trống, hoặc bị buông lỏng sự quản lý của Nhà nước dẫn đến sự vi
phạm pháp luật, phá vỡ sự thống nhất trong quản lý nhà nước… mà không có

một cơ quan nào chịu trách nhiệm. Hiện nay, Việt Nam đang thực hiện chủ
trương xây dựng Nhà nước pháp quyền là Nhà nước mà quản lý nhà nước
được tổ chức theo nguyên tắc phân công rành mạch trong việc thực hiện ba
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp để thực hiện chức năng kiểm tra, giám
sát hoạt động quyền lực nhằm hạn chế sự lộng quyền, lạm quyền, xâm phạm
tới lợi ích hợp pháp của công dân từ phía Nhà nước [9].
Như phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm về quyền công tố như sau:

14


“Quyền công tố là quyền lực của Nhà nước được trao cho một cơ quan nhà
nước nhất định thực hiện với nội dung là thực hiện quyền truy cứu trách
nhiệm đối với người phạm tội về tội phạm mà người đó đã thực hiện.”
Đối với khái niệm THQCT, theo Từ điển Luật học: “Thực hành quyền
công tố là việc sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung
quyền công tố để truy cứu trách nhiệm đối với người phạm tội trong các giai
đoạn điều tra, truy tố và xét xử”[39]. Hiện nay có nhiều quan điểm khoa học
khác nhau về khái niệm THQCT nên không ít người làm công tác nghiên cứu
và thực tiễn có nhận thức khác nhau trong việc phân biệt hành vi tố tụng
THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp, cụ thể có những quan điểm sau đây:
Quan điểm 1: Thực hành quyền công tố là việc Viện kiểm sát thực hiện
các quyền năng tố tụng nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người
phạm tội [27].
Quan điểm 2: Thực hành quyền công tố là việc thực hiện các hành vi tố
tụng cần thiết theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự để truy cứu trách
nhiệm hình sự người phạm tội, đưa người phạm tội ra xét xử trước tòa án và
bảo vệ sự buộc tội đó [11].
Quan điểm 3: Thực hành quyền công tố là việc sử dụng tổng hợp các
quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để buộc tội và yêu cầu

trừng phạt đối với người phạm tội trong tố tụng hình sự qua các giai đoạn
khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử [12].
Quan điểm 4: Thực hành quyền công tố là hoạt động của VKSND
trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với
người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố,
xét xử vụ án hình sự [29].
Sau khi xem xét các khái niệm về THQCT nêu trên nhận thấy các quan

15


điểm chưa thống nhất vấn đề phạm vi về thời gian của THQCT; quan điểm 2
và quan điểm 3 chưa nêu được chủ thể THQCT là cơ quan nhà nước nào được
Nhà nước ủy quyền thực hiện quyền công tố. Mặc dù có nhiều quan điểm
khác nhau về THQCT, nhưng ở góc độ tổng thể của quá trình truy cứu trách
nhiệm hình sự thì THQCT chính là thực hiện các hành vi tố tụng cần thiết
theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự để truy cứu trách nhiệm hình sự
người phạm tội, đưa người phạm tội ra xét xử trước Tòa án và bảo vệ sự buộc
tội đó. Với mục đích mọi hành vi phạm tội xảy ra đều phải được phát hiện và
xử lý theo quy định pháp luật nên về mặt nguyên tắc, cứ có tội phạm xảy ra là
đòi hỏi quyền công tố phải được thực hiện. Khi quyền công tố được thực hiện
thì đồng nghĩa với hoạt động THQCT được triển khai và khi quyền công tố
không còn thì hoạt động THQCT cũng được kết thúc. Vì vậy, phạm vi
THQCT được bắt đầu từ khi khởi tố vụ án hình sự và kết thúc khi bản án có
hiệu lực pháp luật, không bị kháng nghị, hoặc vụ án được đình chỉ theo quy
định của pháp luật tố tụng hình sự. Để buộc tội đối với người đã thực hiện
hành vi phạm tội, pháp luật đã quy định các quyền năng pháp lý của VKSND
trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử người phạm tội như: Yêu cầu khởi
tố, hủy bỏ quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án trái pháp luật, phê

chuẩn, không phê chuẩn quyết định khởi tố bị can; Quyết định, phê chuẩn
việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp hạn chế quyền con người; Yêu
cầu điều tra; Quyết định việc truy tố, buộc tội bị cáo tại phiên tòa; Kháng nghị
bản án, quyết định của Tòa án...Việc sử dụng các quyền năng pháp lý trong
hoạt động tố tụng như vậy chính là nội dung THQCT của VKSND.
Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm về THQCT như
sau: Thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân
trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với
người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về

16


tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy
tố, xét xử vụ án hình sự”.
Để làm rõ khái niệm THQCT tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, cần hiểu về
khái niệm xét xử sơ thẩm. Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một giai đoạn đặc
biệt quan trọng trong tố tụng hình sự, trong đó Tòa án có thẩm quyền tiến
hành xem xét, giải quyết vụ án, ra bản án, quyết định tố tụng theo quy định
của pháp luật. Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được tiến hành khi Cơ quan điều
tra đã kết thúc điều tra vụ án, Viện kiểm sát đã truy tố bị can ra trước Tòa án
bằng bản Cáo trạng hay quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn và chuyển hồ
sơ vụ án đến Tòa án. Trên cơ sở hồ sơ vụ án và quyết định truy tố do Viện
kiểm sát chuyển sang, Tòa án sẽ nghiên cứu để quyết định có đưa vụ án ra xét
xử hay không. Mọi chứng cứ đã có trong hồ sơ vụ án chỉ là tài liệu để Tòa án
xem xét, kiểm tra nhằm đưa ra những phán quyết khách quan phù với với quy
định của pháp luật. Bởi lẽ những thông tin, tài liệu, đồ vật thu thập được trong
giai đoạn điều tra, truy tố đều được đưa ra xem xét công khai tại phiên tòa
thông qua việc xét hỏi, tranh luận. Qua việc xét hỏi và tranh luận công khai tại
phiên tòa, Tòa án sẽ kiểm tra, đánh giá lại toàn bộ những chứng cứ, tình tiết

của vụ án đã có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa để đưa ra phán quyết cuối
cùng. Như vậy, vụ án hình sự lần đầu tiên sẽ được đưa ra xem xét công khai
tại phiên tòa. Nếu như bản kết luận điều tra của Cơ quan điều tra, bản Cáo
trạng của Viện kiểm sát chỉ là những kết luận về vụ án của chủ thể buộc tội
trong các giai đoạn tiền xét xử thì bản án của Tòa án mới là kết luận chính
thức về việc người bị buộc tội là bị cáo có tội hay không có tội, nếu có tội thì
tội gì, quy định tại điều, khoản, điểm nào của Bộ luật hình sự và mức hình
phạt cụ thể được áp dụng đối với bị cáo.
Thẩm phán được phân công xét xử sơ thẩm vụ án sẽ chuẩn bị xét xử
bằng việc nghiên cứu hồ sơ vụ án, nếu thấy thiếu chứng cứ hoặc có vi phạm

17


nghiêm trọng thủ tục tố tụng hình sự sẽ ra Quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm
sát để điều tra bổ sung. Trường hợp thấy vụ án đã có đủ điều kiện để xét xử
thì Thẩm phán sẽ ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử, lúc này tư cách tham gia
tố tụng của bị can sẽ là bị cáo. Tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, Hội đồng xét
xử bao gồm chủ thể là Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân sẽ phải xác định
đầy đủ những tình tiết về từng sự việc, từng tội trong vụ án và từng người.
Chủ tọa phiên tòa điều hành tại phiên tòa hình sự sơ thẩm sẽ là Thẩm phán,
quyết định việc xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa với sự tham gia của Kiểm sát
viên - Đại diện của VKSND thực hiện chức năng buộc tội và những người
tham gia tố tụng khác. Trên cơ sở kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng
xét xử nghị án và ra bản án, quyết định sơ thẩm giải quyết vụ án, trong đó
gồm các nội dung: Bị cáo có phạm tội không, nếu có phạm tội thì phạm tội
gì, theo khung hình phạt nào; áp dụng hình phạt tương xứng với mức độ
nguy hiểm hành vi phạm tội của bị cáo; xử lý vật chứng và giải quyết các
vấn đề dân sự trong vụ án hình sự.
Theo nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, bản án và quyết định

sơ thẩm của Tòa án không bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn luật định
thì có hiệu lực pháp luật nhưng nếu bị kháng cáo, kháng nghị thì vụ án phải
được xét xử phúc thẩm. Như vậy, khác với hình thức xét xử phúc thẩm, xét xử
sơ thẩm là bắt buộc đối với tất cả các vụ án hình sự. Xét xử phúc thẩm là cấp
xét xử thứ hai, trong đó Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại
quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có
hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị nhằm khắc phục sai lầm của Tòa
án cấp dưới, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật, bảo vệ lợi ích nước nhà,
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Từ những phân tích làm rõ những nội dung nêu trên, có thể định nghĩa
khái niệm THQCT tại phiên tòa hình sự sơ thẩm như sau: Thực hành quyền
công tố tại phiên tòa hình sự sơ thẩm là hoạt động của Viện kiểm sát nhân

18


×