Tải bản đầy đủ (.pdf) (188 trang)

Luận án tiến sĩ Lịch sử:Đảng bộ tỉnh Yên Bái lãnh đạo phát triển kinh tế lâm nghiệp từ năm 2001 đến năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.72 MB, 188 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN QUỐC KHƯƠNG

§¶NG Bé TØNH Y£N B¸I l·nh §¹O PH¸T TRIÓN
KINH TÕ L¢M NGHIÖP Tõ N¡M 2001 §ÕN N¡M 2015

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

HÀ NỘI - 2018


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN QUỐC KHƯƠNG

§¶NG Bé TØNH Y£N B¸I l·nh §¹O PH¸T TRIÓN
KINH TÕ L¢M NGHIÖP Tõ N¡M 2001 §ÕN N¡M 2015

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Mã số: 62 22 03 15

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. NGUYỄN THỊ THANH
2. PGS.TS. ĐỖ XUÂN TUẤT

HÀ NỘI - 2018



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
quy định.

Tác giả luận án

Nguyễn Quốc Khương


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

7

1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án

7

1.2. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình đã công bố và những
vấn đề đặt ra luận án tiếp tục giải quyết


19

Chương 2: CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO PHÁT TRIỂN KINH TẾ
LÂM NGHIỆP CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH YÊN BÁI (2001 - 2010)

23

2.1. Những nhân tố tác động và chủ trương của Đảng bộ tỉnh Yên Bái về
phát triển kinh tế lâm nghiệp
2.2. Đảng bộ tỉnh Yên Bái chỉ đạo phát triển kinh tế lâm nghiệp

23
43

Chương 3: QUÁ TRÌNH ĐẢNG BỘ TỈNH YÊN BÁI LÃNH ĐẠO
ĐẨY MẠNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ LÂM NGHIỆP (2010 - 2015)

65

3.1. Những yêu cầu mới và chủ trương đẩy mạnh phát triển kinh tế lâm nghiệp
của Đảng bộ tỉnh Yên Bái

65

3.2. Đảng bộ tỉnh Yên Bái chỉ đạo đẩy mạnh phát triển kinh tế lâm nghiệp
(2010 - 2015)

80

Chương 4: NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM


114

4.1. Nhận xét

114

4.2. Một số kinh nghiệm

134

KẾT LUẬN

146

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN

151

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

152

PHỤ LỤC

167


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BV&PTR

: Bảo vệ và Phát triến rừng

CNH-HĐH

: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

DVMTR

: Dịch vụ môi trường rừng

FAO

: Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp của Liên hợp quốc (Food and
Agriculture Organization)

FDI

: Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment)

FSC

: Hội đồng Quản trị Rừng (Forest Stewardship Council)

FFF

: Chương trình hỗ trợ rừng và trang trại

GDP


: Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Product)

HTX

: Hợp tác xã

HĐND

: Hội đồng nhân dân

LNXH

: Lâm nghiệp xã hội

NN&PTNT

: Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

Nxb

: Nhà xuất bản

ODA

: Hỗ trợ phát triển chính thức (Official Development Assistance)

PFES

: Chi trả dịch vụ môi trường rừng (Payment for Forest Environmental

Service)

REDD

: Giảm phát thải (khí nhà kính) từ mất rừng và suy thoái rừng
(Reduced Emission from Deforestation and Forest Degradation
in Developping Countries)

TNHHMTV : Trách nhiệm hữu hạn một thành viên
TN&MT

Tài nguyên và Môi trường

THT

: Tổ hợp tác

Tr.

: Trang

UBND

: Ủy ban nhân dân

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa



DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Trang

Bảng 2.1: Cơ cấu giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản tính theo
giá hiện hành tỉnh Yên Bái (2001 - 2010)
Bảng 2.2: Kết quả tạo việc làm từ sản xuất lâm nghiệp (2001 - 2010)

46
62

Bảng 3.1: Giá trị sản xuất lâm nghiệp ở tỉnh Yên Bái theo giá hiện hành
phân theo ngành hoạt động (2010 - 2015)

82

Bảng 3.2: Giá trị sản xuất lâm nghiệp các tỉnh Yên Bái, Lào Cai và Hà Giang
tính theo giá hiện hành (2010 - 2015)

84

Biểu đồ 3.1: Diện tích đất quy hoạch cho lâm nghiệp ở tỉnh Yên Bái
(2010 - 2015)
Biểu đồ 3.2: Diện tích rừng trồng mới ở Yên Bái (2011 - 2015)

88
96


1


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lâm nghiệp là một ngành kinh tế đặc thù, giữ vai trò vô cùng quan trọng
trong việc bảo vệ môi trường và phát triển bền vững của nhiều quốc gia trên thế
giới, trong đó có Việt Nam. Nghề rừng là nghề tạo ra một loại tài nguyên thiên
nhiên có thể tái tạo được, có giá trị phòng hộ đầu nguồn, phòng hộ ven biển,
giúp điều hòa khí hậu, điều tiết nguồn nước, hạn chế xói mòn, rửa trôi, sạt lở,
hạn chế thiên tai lũ lụt, hạn hán, chống thoái hóa đất và hoang mạc hóa, bảo tồn
đa dạng sinh học, cung cấp nguồn nhiên liệu sinh học thay thế nhiên liệu hóa
thạch và ứng phó tích cực, hiệu quả với biến đổi khí hậu toàn cầu; góp phần hấp
thụ và giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, tạo ra môi trường sống trong lành, an
toàn cho con người và tất cả các sinh vật trên trái đất. Bên cạnh đó, nghề rừng
còn cung cấp các sản phẩm và dịch vụ môi trường cho phát triển sản xuất và đời
sống, cung cấp nơi ở, việc làm, tạo sinh kế ổn định và là khởi nguồn đời sống
văn hóa tâm linh của những cộng đồng cư dân sống gắn bó với rừng.
Đối với Việt Nam, là một bộ phận của nền kinh tế quốc dân, kinh tế lâm
nghiệp đã có những đóng góp không nhỏ, góp phần vào thành tựu to lớn có ý
nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH HĐH) đất nước và hội nhập quốc tế.
Yên Bái là một tỉnh miền núi, nằm giữa hai vùng Đông Bắc và Tây Bắc
của Tổ quốc với tổng diện tích tự nhiên là 688.627,64 ha, bằng 2% diện tích tự
nhiên của cả nước và bằng 10,4% diện tích vùng Đông Bắc, xếp thứ 8 so với 11
tỉnh thuộc vùng núi phía Bắc. Trong đó, tính đến năm 2015, rừng chiếm tới
62,2% tổng diện tích tự nhiên của tỉnh [147], đóng một vai trò hết sức quan trọng
trong phát triển kinh tế - xã hội.
Trong những năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Đảng bộ và
nhân dân các dân tộc tỉnh Yên Bái đã đạt được nhiều thành tựu về phát triển kinh
tế, văn hóa, xã hội và đảm bảo quốc phòng - an ninh. Kinh tế Yên Bái, nhất là
sản xuất nông, lâm nghiệp đã có bước phát triển mạnh mẽ, đa dạng, cơ cấu kinh
tế nông - lâm nghiệp chuyển dịch theo hướng tiến bộ, kinh tế - xã hội nông thôn



2

có nhiều khởi sắc. Một trong những thành công của Đảng bộ tỉnh Yên Bái là
động viên được nhân dân các dân tộc trong tỉnh phát triển mạnh các ngành kinh
tế, trong đó có kinh tế lâm nghiệp, phát huy tính năng động sáng tạo, ý chí tự lực
tự cường, khơi dậy tiềm năng và nguồn lực về đất đai, lao động và nguồn vốn,
nội lực của địa phương để xóa đói, giảm nghèo, làm giàu.
Thực hiện chủ trương của Đảng về khuyến khích phát triển lâm nghiệp
trong những năm đổi mới, kinh tế lâm nghiệp Yên Bái đã có những bước chuyển
biến căn bản, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương, đảm bảo quốc phòng - an ninh, bảo vệ môi trường sinh thái, giảm thiểu
tác động của biến đổi khí hậu.
Những kết quả đạt được từ kinh tế lâm nghiệp ở tỉnh Yên Bái trong những
năm đổi mới cho thấy chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, quá trình
vận dụng sáng tạo của Đảng bộ, chính quyền và người dân Yên Bái là những
nhân tố đặc biệt quan trọng quyết định hình thức, bước đi, tốc độ phát triển của
kinh tế lâm nghiệp. Cho đến nay, kinh tế lâm nghiệp ở Yên Bái, đã khẳng định
được những mặt tích cực nhưng cũng có những hạn chế và đang đứng trước
nhiều khó khăn, thách thức mới.
Do đó, việc tổng kết quá trình Đảng bộ tỉnh Yên Bái lãnh đạo phát triển
kinh tế lâm nghiệp, nhằm đúc rút kinh nghiệm để góp phần nâng cao hiệu quả
lãnh đạo kinh tế lâm nghiệp của Đảng bộ tỉnh trong giai đoạn hiện nay, là một
nội dung quan trọng trong định hướng tổng kết những vấn đề lý luận và thực tiễn
của 30 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng. Chính vì vậy, tìm hiểu,
nghiên cứu về sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Yên Bái trong phát triển kinh tế lâm
nghiệp những năm 2001-2015 là một vấn đề cần thiết.
Với lý do trên, tôi chọn đề tài "Đảng bộ tỉnh Yên Bái lãnh đạo phát triển
kinh tế lâm nghiệp từ năm 2001 đến năm 2015" để viết luận án tiến sĩ lịch sử,
chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.

2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục đích
Nhằm làm rõ hoạt động lãnh đạo phát triển kinh tế lâm nghiệp của Đảng
bộ tỉnh Yên Bái từ năm 2001 đến năm 2015.


3

Đánh giá những kết quả đạt được trong quá trình Đảng bộ tỉnh Yên Bái
lãnh đạo phát triển kinh tế lâm nghiệp và bước đầu rút ra một số kinh nghiệm có
giá trị tham khảo trong giai đoạn tới.
2.2. Nhiệm vụ
- Tập hợp, hệ thống hóa tư liệu liên quan đến đề tài.
- Phân kỳ lịch sử, trình bày và phân tích các sự kiện lịch sử một cách có
hệ thống theo trình tự thời gian, gắn với hoàn cảnh lịch sử trong mỗi giai đoạn.
- Phân tích những yếu tố tác động đến sự lãnh đạo phát triển kinh tế lâm
nghiệp ở Yên Bái
- Trình bày hệ thống các quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách của
Nhà nước về phát triển kinh tế lâm nghiệp trong những năm 2001 - 2015.
- Làm sáng tỏ quá trình Đảng bộ tỉnh Yên Bái quán triệt và vận dụng quan
điểm, chủ trương của Đảng về phát triển kinh tế lâm nghiệp vào điều kiện thực
tiễn của địa phương: từ việc đề ra chủ trương, chính sách và lãnh đạo, tổ chức
chỉ đạo thực hiện trong những năm 2001 - 2015.
- Nhận xét, đánh giá ưu điểm, hạn chế trong hoạt động lãnh đạo của Đảng
bộ tỉnh Yên Bái về phát triển kinh tế lâm nghiệp giai đoạn 2001 - 2015, làm rõ
nguyên nhân và rút ra những kinh nghiệm lịch sử.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu hoạt động lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Yên Bái về
phát triển kinh tế lâm nghiệp từ năm 2001 đến năm 2015.

3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian: từ năm 2001 - năm bắt đầu nhiệm kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh
Yên Bái lần thứ XV đến năm 2015 - năm kết thúc nhiệm kỳ Đại hội Đảng bộ
tỉnh lần thứ XVII.
- Về không gian: Địa bàn tỉnh Yên Bái
- Về nội dung: Luận án nghiên cứu chủ trương, quá trình tổ chức chỉ đạo
thực hiện của Đảng bộ tỉnh Yên Bái về phát triển kinh tế lâm nghiệp từ năm
2001 đến năm 2015. Trong đó, tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực: 1. Phát triển
kinh tế lâm nghiệp theo hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế; 2. Quy hoạch, giao,


4

khoán rừng và đất lâm nghiệp; 3. Đổi mới tổ chức sản xuất, kinh doanh và
khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia phát triển lâm nghiệp; 4. Xây
dựng cơ chế, chính sách tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế lâm nghiệp.
4. Cơ sở lý luận, nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển kinh
tế nông, lâm nghiệp.
4.2. Nguồn tài liệu của luận án
- Các văn kiện của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế lâm nghiệp.
- Các văn bản của Ban Chấp hành Đảng bộ, Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Hội
đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái, các cấp bộ Đảng, chính quyền và
ban ngành trong tỉnh Yên Bái về lĩnh vực có liên quan.
- Nguồn tài liệu được lưu trữ ở Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh, Hội đồng
nhân dân tỉnh; Báo cáo và số liệu thống kê của Cục Thống kê, Sở Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn tỉnh Yên Bái; Sở Tài Nguyên và Môi trường có liên quan
đến đề tài.

- Các công trình khoa học được xuất bản, công bố trên các tạp chí chuyên
ngành; luận án tiến sĩ và luận văn thạc sĩ viết về kinh tế lâm nghiệp.
- Các dữ liệu, số liệu thu thập qua điều tra thực tế của tác giả luận án.
4.3. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp logic là chủ yếu để
mô tả, trình bày một cách hệ thống quá trình Đảng bộ tỉnh Yên Bái lãnh đạo phát
triển kinh tế lâm nghiệp từ năm 2001 đến năm 2015.
Ngoài ra, luận án kết hợp các phương pháp nghiên cứu khác như thống kê,
so sánh, phân tích, tổng hợp, khảo sát thực tế và phỏng vấn các nhân chứng lịch
sử. Trên cơ sở các số liệu báo cáo của các tổ chức, cơ quan, tác giả thống kê,
phân tích và so sánh, đánh giá sự phát triển của kinh tế lâm nghiệp qua các giai
đoạn, so sánh với sự phát triển của nền kinh tế tỉnh Yên Bái nói chung và với các
ngành kinh tế trong khối ngành nông - lâm - thủy sản nói riêng.


5

5. Đóng góp mới của luận án
- Làm rõ được những yếu tố tác động đến việc hoạch định chủ trương và
quá trình chỉ đạo phát triển kinh tế lâm nghiệp của Đảng bộ tỉnh Yên Bái từ năm
2001 đến năm 2015.
- Khái quát được những chủ trương quan trọng và tái hiện khá cụ thể,
chân thực, khách quan quá trình chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Yên Bái về phát triển
kinh tế lâm nghiệp.
- Đánh giá ưu điểm và hạn chế; phân tích rõ một số nguyên nhân khách
quan, chủ quan của ưu điểm, hạn chế trong quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế
lâm nghiệp của Đảng bộ tỉnh Yên Bái từ năm 2001 đến năm 2015. Từ đó, luận
án đúc kết những kinh nghiệm, có thể tham khảo cho quá trình bổ sung, hoàn
thiện chủ trương cũng như quá trình chỉ đạo phát triển kinh tế lâm nghiệp của
Đảng bộ Tỉnh cho hiện tại và tương lai.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa khoa học
- Hệ thống hóa chủ trương, sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Yên Bái về phát
triển kinh tế lâm nghiệp từ năm 2001 đến năm 2015.
- Rút ra những nhận xét về ưu điểm, hạn chế, đúc rút kinh nghiệm từ quá
trình Đảng bộ tỉnh Yên Bái lãnh đạo phát triển kinh tế lâm nghiệp, góp phần
tổng kết sự lãnh đạo của Đảng trong thực hiện Chiến lược Phát triển lâm nghiệp
Việt Nam từ một Đảng bộ tỉnh.
- Góp phần cung cấp những cơ sở khoa học, kinh nghiệm để Đảng bộ tỉnh
Yên Bái tiếp tục lãnh đạo phát triển kinh tế lâm nghiệp trong giai đoạn mới.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Góp phần tổng kết thực tiễn, cung cấp một số dữ liệu để Đảng bộ tỉnh
Yên Bái tiếp tục hoạch định chủ trương, chỉ đạo phát triển kinh tế lâm nghiệp
trên địa bàn tỉnh Yên Bái hiện nay và những năm tiếp theo.
- Những kết quả nghiên cứu của luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho
các địa phương khác có điều kiện, hoàn cảnh tương đồng như tỉnh Yên Bái và
những độc giả quan tâm đến phát triển kinh tế lâm nghiệp.


6

- Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác
nghiên cứu, giảng dạy lịch sử Đảng bộ địa phương cũng như Lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình của tác giả luận án,
danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án được cấu trúc thành 4
chương, 8 tiết.



7

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

Kinh tế lâm nghiệp luôn được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học, nhà
quản lý và những người trực tiếp làm nghề rừng. Nhiều công trình nghiên cứu
liên quan tới vấn đề này đã được công bố dưới dạng sách, đề tài, đề án, chương
trình khoa học, luận văn, luận án và các bài viết đăng trên tạp chí khoa học
chuyên ngành, ở các khía cạnh khác nhau.
1.1.1. Nhóm các công trình nghiên cứu về kinh tế lâm nghiệp trên
thế giới
* Một số cuốn sách về kinh tế lâm nghiệp của các học giả nước ngoài
Nghiên cứu những lợi ích đem lại từ rừng, Font, X và Tribe, J với bài viết
“Recreation, Conservaton and Timber Prodcution: a Sustainable Relationship”
(tác giả tự dịch: Giải trí, bảo vệ rừng và gỗ rừng: một mối quan hệ bền vững)
đăng trong cuốn sách Du lịch và Du lịch Lâm nghiệp - Các nghiên cứu điển hình
về Quản lý Môi trường, đã chỉ rõ giá trị nhiều mặt của rừng như là cung cấp gỗ,
bảo vệ nguồn nước, bảo vệ và phục hồi đất, điều hòa khí hậu, hấp thụ cacbon,
tạo vẻ đẹp cảnh quan cho giải trí. Những giá trị này của rừng đã đem lại rất
nhiều lợi ích khác nhau cả về kinh tế, sinh thái, môi trường. Việc đánh giá đầy đủ
giá trị của rừng và môi trường rừng là cơ sở để khai thác và quản lý rừng bền
vững. Mặc dù, đã nhận biết được giá trị nhiều mặt của rừng nhưng trong một
thời gian dài con người mới chỉ quan tâm đến giá trị từ khai thác gỗ. Chỉ đến khi
các vấn đề về ảnh hưởng của việc khai thác gỗ quá mức gây ra những ảnh hưởng
tiêu cực đến môi trường thì những vai trò của môi trường của rừng và dịch vụ
môi trường rừng mới được thực sự quan tâm. Theo bài viết này, để quản lý và sử

dụng bền vững tài nguyên rừng phải đảm bảo chức năng kinh tế - xã hội của
rừng [156]. Công trình nghiên cứu đã chỉ ra việc quản lý rừng hiện tại ở khu vực
này không chỉ đơn thuần là quản lý để khai thác các giá trị sử dụng trực tiếp của


8

rừng (giá trị thị trường), mà còn phải bao gồm việc quản lý để khai thác các giá
trị sử dụng gián tiếp (giá trị dịch vụ môi trường rừng) hay giá trị phi thị trường.
Cũng trong cuốn sách này, Kearsley, G có bài viết “Balancing Tourism and
Wilderness Qualities in New Zealand’s Native Forests” (tác giả tự dịch: Cân
bằng du lịch và tính hoang dã của rừng bản địa ở New Zealand). Nghiên cứu tại
Newzealand cho thấy, diện tích che phủ của rừng tự nhiên chiếm 1/4 diện tích cả
nước và các rừng tự nhiên này phần lớn được bảo vệ hoàn toàn bởi một hệ thống
các vườn quốc gia và lâm viên. Chính phủ có quan điểm rằng bảo tồn được đặt
lên trên tất cả các lợi ích khác, các hoạt động giải trí truyền thống như săn bắn
trong rừng hoặc câu cá ở một số sông, hồ đều bị kiểm soát trong các giới hạn
nhất định. Trong những năm gần đây, nhu cầu về giải trí ngoài trời đã tăng
nhanh nhưng các hệ thống rừng vẫn được quản lý rất tốt do sự quản lý chặt chẽ
cũng như quan điểm nhất quán về bảo tồn của Chính phủ [158].
Natasha Landell - Mills trong cuốn sách A global view of markets for forest
environment services and their impact on the poor (tác giả tự dịch: Quan điểm
toàn cầu về thị trường dịch vụ môi trường rừng và tác động của chúng đến
người nghèo) đã có những đánh giá cho thấy, rừng có thể cung cấp nhiều loại
dịch vụ khác nhau và mỗi dịch vụ này sẽ có một giá trị nhất định trong tổng giá
trị kinh tế của rừng, như: Hấp thụ các bon chiếm 27%; Bảo tồn đa dạng sinh học
chiếm 25%; Bảo vệ đầu nguồn chiếm 21%; Vẻ đẹp cảnh quan chiếm 17% và giá
trị khác chiếm 10% [159]. Sự đánh giá này cho thấy, rừng có thể cung cấp nhiều
loại dịch vụ khác nhau và mỗi dịch vụ này sẽ có một giá trị nhất định trong tổng
giá trị kinh tế của rừng.

* Một số công trình nghiên cứu về kinh tế lâm nghiệp đã được công bố
dưới dạng các báo cáo khoa học và các bài viết trên các tạp chí có uy tín trên
thế giới.
Từ năm 1992, báo cáo của tổ chức Liên Hiệp Quốc đã chỉ ra, trong những
thập kỷ gần đây người ta mới nhận thức được rằng một trong những nguyên
nhân cơ bản của suy thoái rừng là không xác định được giá trị môi trường của
rừng bên cạnh sự phá rừng của cộng đồng địa phương [155]. Những sự thay đổi


9

về nhận thức giá trị môi trường rừng được thể hiện rõ nét thông qua những thay
đổi về chính sách và luật về lâm nghiệp của nhiều nước trên thế giới.
Sven Wunder với công trình nghiên cứu “Payments for environmental
services” (tác giả tự dịch: Chi trả cho các dịch vụ môi trường) khẳng định giá trị
của rừng là rất lớn. Với tầm quan trọng này nhiều tổ chức, quốc gia đã hình
thành các cơ chế khác nhau nhằm quản lý dịch vụ môi trường rừng trên quan
điểm coi dịch vụ môi trường là một loại hàng hoá. Một số quốc gia đã tiến hành
nghiên cứu và xây dựng cơ chế chi trả cho dịch vụ môi trường rừng - PFES
(Payment for Environment Services) nhằm quản lý bền vững các dịch vụ môi
trường rừng. Theo đó, các khái niệm và thuật ngữ được thừa nhận để chỉ sự
thương mại các dịch vụ môi trường như: chi trả, đền đáp, thị trường, bồi thường
[160]. Đây được coi là những xu hướng mới nhằm quản lý dịch vụ môi trường
rừng và hướng tới phát triển bền vững.
Bước sang thế kỷ XXI, vai trò của rừng đã được đánh giá một cách toàn
diện hơn. Theo đánh giá của tổ chức Lương thực và Nông nghiệp của Liên hợp
quốc (FAO) trong “Making forest pay” (đăng trên Tạp chí Quốc tế về lâm nghiệp
và công nghiệp rừng), rừng được coi là bộ phận không thể thay thế của môi
trường sinh thái, giữ vai trò quan trọng trong đời sống con người và là cơ sở để
phát triển nhiều ngành kinh tế khác [156]. Vì vậy, giá trị của rừng không chỉ là

giá trị trực tiếp mà còn có giá trị gián tiếp (giá trị dịch vụ môi trường rừng).
Hultala.A với bài viết “What price recreation in Finland? Contingent
valuation study of non - market benefits of public outdoor recreation areas. (tác
giả tự dịch: Giá nào cho hoạt động giải trí ở Phần Lan? Nghiên cứu định giá
ngẫu nhiên các lợi ích phi thị trường của các khu vui chơi ngoài trời công cộng)
đăng trên Tạp chí Nghiên cứu giải trí đã chỉ ra rằng, hiện nay môi trường rừng
đang bị coi là thứ hàng hoá công cộng nên mọi người đều có thể tự do tiếp cận,
tự do sử dụng và hưởng lợi từ giá trị của môi trường rừng [157]. Theo bài viết,
tình trạng này, nhất là ở những nước nghèo, đã không khuyến khích người làm
lâm nghiệp bảo vệ và phát triển những giá trị môi trường rừng, dẫn đến thiệt hại
cho nhiều ngành sản xuất và đời sống nói chung. Thực tế đó đã buộc những
người làm nghề rừng và những người hưởng lợi chính từ giá trị môi trường rừng


10

phải hợp tác với nhau, chia sẻ với nhau trách nhiệm trong việc bảo vệ và phát
triển những giá trị môi trường rừng. Trong quá trình đó, những giá trị môi trường
rừng được phân tích, lượng giá, mua bán, trao đổi như những hàng hoá và dịch
vụ khác. Người ta gọi những lợi ích môi trường của rừng được đưa ra trao đổi,
mua bán như vậy là dịch vụ môi trường rừng. Tuy nhiên, trong thời gian dài kết
quả nghiên cứu giá trị của môi trường rừng chỉ có ý nghĩa làm tăng kiến thức của
con người về giá trị nhiều mặt của rừng, làm thay đổi giá trị của rừng mà chưa
trở thành căn cứ cho những quyết định về biện pháp tác động vào rừng.
1.1.2. Nhóm các công trình nghiên cứu về kinh tế lâm nghiệp ở Việt Nam
* Một số cuốn sách về kinh tế lâm nghiệp
Ở Việt Nam, các cuốn sách viết về lâm nghiệp rất đa dạng và phong phú,
chủ yếu tập trung vào khía cạnh kĩ thuật trên 3 lĩnh vực: lâm sinh, công nghiệp
rừng, chính sách kinh tế lâm nghiệp.
Trong cuốn sách Lâm nghiệp Việt Nam 1945 - 2000, tác giả Nguyễn Văn

Đắng (chủ biên), đã tập hợp nhiều bài viết của nhiều nhà lãnh đạo, nhà nghiên
cứu khoa học lâm nghiệp tổng kết quá trình phát triển lâm nghiệp Việt Nam.
Trong đó, khái quát quá trình xây dựng và phát triển ngành Lâm nghiệp Việt
Nam trong 55 năm từ 1945 đến năm 2000 [47]. Cuốn sách đã hệ thống những tư
liệu, sự kiện, thành tựu và hạn chế của ngành lâm nghiệp qua 55 năm phát triển.
Cũng qua thực tiễn nghiên cứu, tổng hợp, các nhà lãnh đạo, nhà khoa học lâm
nghiệp bước đầu đã đúc rút những kinh nghiệm về sự quản lý, xây dựng, bảo vệ
và phát triển của ngành Lâm nghiệp giai đoạn 1945 - 2000. Tuy nhiên, sự phát
triển kinh tế lâm nghiệp chưa khái quát một cách hệ thống, xuyên suốt, liên tục,
nên khó nhận thấy sự khác biệt giữa các giai đoạn phát triển của ngành.
Trong cuốn sách Nghiên cứu nhu cầu nông dân, do Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn (NN&PTNT) và UNDP biên soạn, các tác giả đã đánh giá
quá trình phát triển lâm nghiệp Việt Nam (tr.90-97) dưới góc độ tổ chức quản lý
trong lâm nghiệp, về quyền chứng nhận sổ đỏ, về thái độ đối với lâm nghiệp.
Tác giả Nguyễn Duy Quý trong cuốn sách Việt Nam - 20 năm đổi mới đã
phân tích, so sánh, tổng kết, đánh giá thành tựu trên tất cả các lĩnh vực của 20
năm đổi mới, trong đó có những thành tựu về kinh tế nông - lâm nghiệp - thủy


11

sản; đồng thời chỉ ra những khó khăn, hạn chế của ngành lâm nghiệp, nhất là
hiện tượng rừng và tài nguyên bị xâm hại nghiêm trọng [77].
Trong cuốn sách Lâm nghiệp Việt Nam - nhìn lại chặng đường hơn 20 năm
đổi mới cùng đất nước [14], các tác giả đã đánh giá về thành tựu của ngành Lâm
nghiệp qua hơn 20 năm đổi mới. Cuốn sách gồm 15 chương, với nhiều nội dung
khác nhau, trong đó chương "Lâm nghiệp Việt Nam trước thời kỳ đổi mới" luận
giải nhiều vấn đề của ngành Lâm nghiệp trước thời kỳ đổi mới. Chương VI của
cuốn sách viết về ngành chế biến, thương mại gỗ và lâm sản trong thời kỳ đổi
mới. Số lượng các doanh nghiệp trong ngành chế biến gỗ, sự phân bố doanh

nghiệp, khối lượng xuất khẩu gỗ, nhập khẩu gỗ của Việt Nam được thống kê một
cách chi tiết từ năm 2004 đến năm 2008.
Tuy nhiên, các tác giả chủ yếu khái quát những kết quả chính của ngành
lâm nghiệp như: sự thay đổi trong hệ thống chính sách, thể chế, phương thức
quản lý. Cuốn sách chưa phân tích toàn diện về chuyển biến của kinh tế lâm
nghiệp trong các giai đoạn lịch sử như xuất nhập khẩu, dịch vụ lâm nghiệp, tác
động lâm nghiệp đến môi trường.
Cuốn sách Chi trả dịch vụ môi trường (PFES) vì người nghèo ở Việt Nam
của tác giả Trần Hải đã phân tích tác động của lâm nghiệp đối với việc xóa đói
giảm nghèo, cải thiện đời sống nhân dân vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc
biệt khó khăn [50].
Đánh giá về sự phát triển của ngành lâm nghiệp giai đoạn 2001 - 2010,
Tổng cục Lâm nghiệp Việt Nam đã xuất bản cuốn sách Lâm nghiệp Việt Nam
trong thập kỷ đầu của thế kỷ XXI. Trên cơ sở phân tích những thuận lợi và khó
khăn, thách thức đối với ngành lâm nghiệp trong những năm đầu thế kỉ XXI, các
nhà khoa học đã đánh giá những thành tựu và hạn chế của ngành lâm nghiệp
trong suốt những năm 2001 - 2010 [112].
Tuy nhiên, hiệu quả kinh tế lâm nghiệp chưa được tìm hiểu sâu sắc, toàn
diện. Bên cạnh đó, vai trò của kinh tế lâm nghiệp đối với môi trường và giải
quyết việc làm tăng thu nhập cho một bộ phận người dân ở các vùng sâu, vùng
xa chưa được đề cập đầy đủ.


12

* Một số đề tài nghiên cứu, kỷ yếu hội thảo khoa học về kinh tế lâm nghiệp.
Cuốn Kỷ yếu Chính sách và thực tiễn phục hồi rừng ở Việt Nam, do Bộ
NN&PTNT hợp tác với IUCN ấn hành năm 1999 trên cơ sở Hội thảo Quốc gia
"Chính sách và thực tiễn phục hồi rừng ở Việt Nam” ngày 04 - 05/11/1999 tại
Hòa Bình, là một công trình tập hợp nhiều bài báo khác nhau, trong đó thống kê,

đánh giá chi tiết về thực trạng mất và thoái hóa rừng trong giai đoạn 1986 1999. Các bài viết đã phân tích và chỉ ra được các nguyên nhân dẫn đến tình
trạng mất và thoái hóa rừng là do nhu cầu lấy gỗ củi của người dân, do khai thác
quá tải gỗ và lâm sản ngoài gỗ của nhà nước, do hiện tượng cháy rừng.
Xem xét về mối quan hệ giữa lâm nghiệp với các mục tiêu xã hội, trong
đề tài nghiên cứu Lâm nghiệp, giảm nghèo và sinh kế nông thôn Việt Nam [92]
(Chương trình Hỗ trợ ngành Lâm nghiệp & Đối tác - FSSP&P), tác giả Đinh
Đức Thuận và các cộng sự đã đưa ra những luận giải về tác động và mối quan hệ
sâu sắc qua lại giữa đói nghèo và rừng ở khu vực nông thôn miền núi, vùng đặc
biệt khó khăn. Qua điều tra và nghiên cứu quá trình thực hiện các chương trình
dự án lâm nghiệp, các phương kế giảm nghèo cho khu vực này đã có những cải
thiện đáng kể. Trong nghiên cứu, các tác giả cũng đã đưa ra một số nhận xét,
kiến nghị về việc thực hiện các phương thức giảm nghèo đạt hiệu quả.
Định giá rừng là một nội dung quan trọng trong quản lý sử dụng rừng và là
cơ sở xác định giá thuê rừng ở Việt Nam. Tiêu biểu trong lĩnh vực này là
Nguyễn Nghĩa Biên với công trình nghiên cứu Phương pháp định giá rừng tự
nhiên ở Việt Nam [4]. Trong công trình này, tác giả đã xác định các hợp phần giá
trị của rừng và phương pháp định giá rừng tự nhiên với kết quả tổng hợp lại. Tuy
nhiên, việc hạch toán đầy đủ các giá trị trên là vô cùng khó khăn hoặc nếu có
hạch toán được để xác định giá cho thuê thì chắc chắn mức giá đó sẽ rất cao,
không mang tính khả thi và nghiên cứu này chủ yếu mới dừng lại ở khía cạnh
định hướng và gợi ý về phương pháp thực hiện việc định giá rừng tự nhiên.
Trong công trình Nghiên cứu định giá rừng ở Việt Nam [69], tác giả Vũ
Tấn Phương và nhóm nghiên cứu đã nghiên cứu khá toàn diện và quy mô cả về
lý luận và thực tiễn về định giá rừng ở nước ta cho đến nay. Đề tài đã tập trung
nghiên cứu 4 nội dung chính là: Cơ sở khoa học về nguyên tắc và phương pháp


13

xác định giá rừng; định giá một số loại rừng tại miền Bắc, miền Trung và miền

Nam; xây dựng nguyên tắc, phương pháp và khung giá rừng tại các địa điểm và
đối tượng nghiên cứu; thử nghiệm, hoàn thiện nguyên tắc và phương pháp xác
định giá trị các loại rừng. Nhìn chung, các điểm khảo sát tương đối đại diện cho
mẫu nghiên cứu. Tuy nhiên, việc lý giải về chọn điểm nghiên cứu chưa được
trình bày một cách rõ ràng và thuyết phục. Tác giả chưa làm rõ được lý do khảo
sát và tính đại diện của điểm nghiên cứu. Việc nghiên cứu định giá rừng được
tiếp cận dưới hai giác độ là giá trị sử dụng trực tiếp và giá trị sử dụng gián tiếp
của rừng. Giá trị sử dụng trực tiếp của rừng được tính toán cụ thể cho từng loại
rừng tự nhiên và rừng trồng. Giá trị sử dụng gián tiếp của rừng, được khẳng định
là những giá trị rất khó hạch toán được một cách chính xác.
Nhóm tác giả Phạm Thu Thủy, trong nghiên cứu Chi trả dịch vụ môi
trường rừng tại Việt Nam - Từ chính sách đến thực tiễn [93], đã đưa ra những
đánh giá so sánh về PFES đang triển khai thí điểm ở Việt Nam, từ đó so sánh các
cách tiếp cận cho việc triển khai và nhận biết các bài học thực tiễn trong quá
trình thực hiện. Qua nghiên cứu này, có thể thấy được thực tiễn chi trả dịch vụ
môi trường rừng trong những năm gần đây.
Tác giả Tô Xuân Phúc và Trần Hữu Nghị trong Báo cáo Giao đất Giao
rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội và thách thức, xác
định Việt Nam có gần 15,4 triệu ha đất lâm nghiệp, trong đó có trên 13 triệu ha
là đất rừng. Vấn đề đặt ra trong giai đoạn hiện nay chính là việc giao quyền quản
lý cho người lao động [68]. Báo cáo cũng có những nghiên cứu và luận giải về
vấn đề giao đất, giao rừng mang tính khách quan.
* Một số luận án tiến sĩ thuộc nhiều chuyên ngành viết về đề tài Lâm nghiệp.
Tiêu biểu là luận án tiến sĩ chuyên ngành Luật Kinh tế của tác giả
Nguyễn Thanh Huyền Hoàn thiện pháp luật về quản lý và bảo vệ tài nguyên
rừng ở Việt Nam hiện nay, đã đánh giá các vai trò của pháp luật đối với việc
quản lý và bảo vệ tài nguyên rừng và khẳng định pháp luật là cơ sở cho việc
quản lý rừng bền vững. Luận án đã đưa ra các định hướng hoàn thiện pháp luật
quản lý và bảo vệ tài nguyên rừng, đưa ra các định hướng hoàn thiện pháp luật
trong lĩnh vực này như: Quan điểm, đường lối của Đảng về hoàn thiện pháp luật



14

quản lý và bảo vệ tài nguyên rừng; bảo đảm quản lý của Nhà nước đối với tài
nguyên rừng. Tác giả cũng đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật quản lý và bảo vệ tài nguyên rừng như: đổi mới quản lý nhà nước; tăng
cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật quản lý và bảo vệ tài
nguyên rừng; tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật; tăng cường cơ sở vật
chất cho hoạt động quản lý và bảo vệ tài nguyên rừng [59].
Luận án tiến sĩ chuyên ngành Kinh tế Nông nghiệp của tác giả Bùi Thị
Minh Nguyệt với đề tài Chính sách cho thuê môi trường rừng tại các vườn quốc
gia ở khu vực phía Bắc Việt Nam - Nghiên cứu tại Vườn quốc gia Ba Vì, Tam
Đảo, Bến En đã hệ thống hóa cơ sở lý luận về chính sách cho thuê môi trường
rừng và cho thuê với mục đích kinh doanh du lịch sinh thái tại các vườn quốc
gia; tổng kết kinh nghiệm cho thuê môi trường rừng trên thế giới và rút ra những
bài học kinh nghiệm cho Việt Nam; tổng hợp các văn bản chính sách có liên
quan đến thuê môi trường rừng ở Việt Nam, phân tích những hạn chế và tồn tại
của chính sách cho thuê môi trường tại các vườn quốc gia [67]. Tác giả đánh giá
thực trạng tổ chức thực hiện chính sách cho thuê môi trường rừng; đánh giá
những mặt tích cực, tiêu cực trong tổ chức thực hiện chính sách cho thuê môi
trường rừng; đánh giá tính phù hợp của các chính sách liên quan đến thuê môi
trường; đưa ra những bài học kinh nghiệm trong tổ chức thực hiện chính sách
cho thuê môi trường rừng tại các vườn quốc gia. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn,
tác giả đã đề xuất ra những định hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách
và tổ chức thực hiện chính sách cho thuê môi trường rừng tại các vườn quốc gia
ở khu vực phía Bắc Việt Nam.
Tác giả Đỗ Thị Diệu với luận án tiến sĩ chuyên ngành Lịch sử Việt Nam:
Quá trình phát triển của kinh tế lâm nghiệp Việt Nam từ năm 1991 đến năm
2010, đã hệ thống và làm rõ một số vấn đề cơ bản về lý luận, chủ trương, chính

sách của Đảng, Nhà nước, của Bộ NN&PTNT, các cơ quan chuyên trách về phát
triển kinh tế lâm nghiệp giai đoạn 1991 - 2010 [27]. Luận án dựng lại bức tranh
về kinh tế lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 1991 - 2010 dưới góc độ lịch sử; làm
rõ những chuyển biến trong kinh tế lâm nghiệp giữa 2 giai đoạn 1991 - 2000 và
2001 - 2010; phân tích những tác động của quá trình chuyển biến kinh tế lâm


15

nghiệp đối với kinh tế - xã hội đất nước, góp phần đánh giá khách quan vai trò
của kinh tế lâm nghiệp với nền kinh tế quốc dân.
* Một số bài nghiên cứu về lâm nghiệp đăng trên các tạp chí chuyên ngành
trong nước.
Trong bài viết “Vài nét về quá trình hình thành và phát triển ngành Lâm
nghiệp Việt Nam” [154], tác giả Phan Thanh Xuân đã khái quát sự phát triển lâm
nghiệp theo từng giai đoạn với chu kỳ 10 năm. Các giai đoạn được chia nhỏ như
giai đoạn trước năm 1945, giai đoạn 1945 - 1960, giai đoạn 1960 - 1975, giai
đoạn 1975 - 1985, giai đoạn 1985 - 1995 và giai đoạn từ năm 1995 trở đi. Bài
viết chủ yếu đề cập dưới góc độ quản lý của các tổ chức lâm nghiệp, việc đánh
giá hiệu quả kinh tế lâm nghiệp chưa được bàn luận sâu sắc.
Trong bài viết “Người Việt, rừng núi và nạn phá rừng” [128], tác giả
Nguyễn Tùng đã nghiên cứu sâu về phong tục, tín ngưỡng người Việt gắn với
rừng và thực trạng phá rừng của Việt. Qua nghiên cứu của tác giả làm rõ hơn vai
trò của rừng đối với người dân sống gần rừng và luận giải lý do phá rừng.
Tác giả Vũ Long trong bài "Phát triển kinh tế lâm nghiệp bền vững" đã khái
quát thực trạng ngành lâm nghiệp Việt Nam và đưa ra những nhận định về
nguyên nhân dẫn đến hạn chế của ngành lâm nghiệp từ năm 1991 đến năm 2004.
Đồng thời, tác giả đưa ra những kiến nghị nhằm xây dựng một nền kinh tế lâm
nghiệp bền vững trong thời kỳ hội nhập quốc tế [63].
Tác giả Nguyễn Từ trong bài viết "Thành tựu nông nghiệp Việt Nam sau 20

năm đổi mới" [129], đã có những đánh giá sự phát triển của ngành lâm nghiệp
trong xu hướng phát triển chung của khối ngành nông nghiệp qua 20 năm đổi
mới. Trong đó, xác định nguồn thu của ngành lâm nghiệp chỉ chiếm khoảng 5%
GDP khối nông nghiệp hằng năm.
1.1.3. Nhóm các công trình nghiên cứu có liên quan đến phát triển
kinh tế lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh Yên Bái
* Một số cuốn sách viết về tỉnh Yên Bái, về kinh tế lâm nghiệp của tỉnh.
Tiêu biểu là cuốn sách Kinh tế trang trại gia đình ở tỉnh miền núi Yên Bái
của nhóm tác giả Vũ Ngọc Kỳ, Trần Đức và Vũ Sửu. Cuốn sách là sự tổng kết
bước đầu về một mô hình sản xuất có hiệu quả của tỉnh Yên Bái [61]. Tác giả đã


16

khái quát quá trình hình thành, phát triển của mô hình kinh tế trang trại trong
những năm đầu của thời kì đổi mới, đặc biệt có những trang trại lâm nghiệp có
quy mô lớn, đem lại hiệu quả kinh tế cao như ở huyện Yên Bình. Bên cạnh đó,
tác giả còn đặt ra nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu để giải quyết nhằm đưa
mô hình kinh tế này ở Yên Bái phát triển đúng hướng.
Cuốn sách Nông nghiệp nông thôn Yên Bái trong sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hóa [81] của Vũ Sửu (chủ biên) đã có những phân tích, đánh giá
sâu sắc về tình hình sản xuất lâm nghiệp ở tỉnh Yên Bái. Theo tác giả, nếu sản
xuất lâm sinh ở Yên Bái không phát triển hoặc phát triển không tương ứng với
nhu cầu khai thác rừng thì đến một lúc nào đó rừng sẽ cạn kiệt. Thực trạng kinh
tế lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh Yên Bái cho thấy còn nhiều hạn chế về công tác
quản lý đất lâm nghiệp. Từ đó, tác giả đề ra một số giải pháp để phát triển loại
hình kinh tế này.
Cuốn sách Lịch sử Đảng bộ tỉnh Yên Bái, Tập II (1975 - 2005) [2] đã phản
ánh trung thực và có hệ thống các sự kiện lịch sử tiêu biểu của Đảng bộ tỉnh Yên
Bái trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước, nhằm giáo dục

truyền thống, nhân lên niềm tự hào của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân
dân các dân tộc trong tỉnh; góp phần vào tổng kết thực tiễn công tác lãnh đạo, chỉ
đạo của các cấp uỷ Đảng trong việc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng,
pháp luật của Nhà nước vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của địa phương. Cuốn
sách cũng đã khái quát tình hình kinh tế lâm nghiệp ở tỉnh Yên Bái dưới sự lãnh
đạo của Đảng bộ địa phương từ những năm đầu tái lập tỉnh đến năm 2005.
* Một số đề tài nghiên cứu, kỷ yếu hội thảo khoa học có liên quan đến
kinh tế lâm nghiệp tỉnh Yên Bái
Kinh tế lâm nghiệp ở Yên Bái cũng được phát triển mạnh mẽ với mô hình
trang trại lâm nghiệp. Ngày 23/3/1999, Tỉnh ủy, HĐND và UBND tỉnh Yên Bái
tổ chức cuộc Hội thảo khoa học về kinh tế trang trại. Loại hình trang trại lâm
nghiệp và tính hiệu quả của nó được đề cập đến trong nhiều bài tham luận đăng
trong Kỷ yếu. Tiêu biểu như: “Chính sách đất đai đối với phát triển kinh tế nông
lâm nghiệp và kinh tế trang trại” của Trần Cương; “Những vấn đề về tổ chức và
quản lý kinh tế trang trại ở Yên Bái hiện nay” của Trần Viết Hưởng. Theo các


17

tác giả, ở thời điểm năm 1999, có 777 trang trại hộ gia đình trồng rừng ở tỉnh
Yên Bái. Đây là những hộ có diện tích rừng từ 10 ha trở lên, chủ yếu trồng các
loại rừng kinh tế như bồ đề, keo, quế. Theo tác giả, Đảng bộ tỉnh Yên Bái cần
tiếp tục bổ sung và đề ra những chủ trương, chính sách mới nhằm khai thác có
hiệu quả thế mạnh của mô hình kinh tế này [97].
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ NN&PTNT Đánh giá hiệu quả các
mô hình trang trại Lâm nghiệp ở Yên Bái và Phú Thọ của tác giả Trần Thị Thu
Thuỷ. Đề tài đi sâu điều tra, nghiên cứu các mô hình trang trại lâm nghiệp ở 8
xã thuộc huyện Yên Bình (Yên Bái) và huyện Hạ Hoà (Phú Thọ). Kết quả
nghiên cứu đã khẳng định hiệu quả kinh tế của các trang trại lâm nghiệp ở Yên
Bái nhìn chung lớn hơn các trang trại lâm nghiệp ở Phú Thọ. Tác giả cũng đề ra

một số khuyến nghị về chính sách phát triển kinh tế trang trại lâm nghiệp tại
hai tỉnh Yên Bái và Phú Thọ [94].
Phạm Xuân Hoàn và Ngô Đình Quế (2007) với đề tài nghiên cứu khoa
học cấp tỉnh Nghiên cứu kinh nghiệm quản lý đất sau nương rẫy của bà con
người Dao tại Yên Bái. Trên cơ sở tìm hiểu tập quán canh tác trên sườn đất dốc,
nghiên cứu kinh nghiệm quản lý và sử dụng đất sau nương rẫy của người Dao ở
tỉnh Yên Bái, nhóm tác giả đã đề xuất giải pháp nhằm từng bước thay thế
phương thức đốt nương làm rẫy của người Dao bằng cách trồng quế theo hướng
có hiệu quả và ổn định [53].
* Một số luận án tiến sĩ và luận văn thạc sĩ về kinh tế Yên Bái nói chung
và kinh tế lâm nghiệp nói riêng.
Tiêu biểu là luận án Tiến sĩ kinh tế của tác giả Lương Văn Phượng,
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành và lãnh thổ ở Yên Bái. Trên cơ sở phân
tích quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh Yên Bái trong nửa đầu thập niên
90, tác giả khẳng định vai trò quan trọng của kinh tế lâm nghiệp đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội ở địa phương [70].
Luận văn thạc sĩ của tác giả Hoàng Quốc Cường, Giải pháp phát triển
nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá ở tỉnh Yên Bái đã nghiên cứu thực
trạng sản xuất nông - lâm nghiệp của tỉnh Yên Bái. Từ đó, đưa ra định hướng,


18

mục tiêu và những giải pháp chủ yếu để thúc đẩy phát triển nông - lâm nghiệp
Yên Bái theo hướng sản xuất hàng hoá [24].
Trong hoạt động sản xuất lâm nghiệp ở tỉnh Yên Bái, những kiến thức bản
địa, kinh nghiệm truyền thống của đồng bào thiểu số đã phát huy hiệu quả tích
cực. Tác giả Dương Thị Thanh Vân với luận văn thạc sĩ Kiến thức bản địa của
người Dao trong hoạt động sản xuất nông, lâm nghiệp ở tỉnh Yên Bái đã phân
tích những phương thức ứng xử văn hóa với môi trường tự nhiên trong hoạt động

sản xuất nông, lâm nghiệp của người Dao ở tỉnh Yên Bái, thông qua hệ thống
kiến thức bản địa. Làm rõ được những biến đổi của các kiến thức bản địa trong
hoạt động sản xuất nông, lâm nghiệp của người Dao hiện nay. Từ đó, tác giả đề
xuất các giải pháp nhằm phát huy tính tích cực của kiến thức bản địa trong sản
xuất nông, lâm nghiệp của người Dao, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống
và đảm bảo sự phát triển bền vững cho đồng bào [152].
Nghiên cứu về công tác khuyến lâm, luận văn thạc sĩ với đề tài Đánh giá
hiệu quả một số mô hình khuyến lâm tại tỉnh Yên Bái giai đoạn 2010 - 2014 của
tác giả Lương Văn Hiệp đã tiến hành nghiên cứu một số mô hình khuyến lâm
trên địa bàn 2 huyện Yên Bình và Văn Chấn là 2 huyện đại diện cho 2 vùng có
địa hình, khí hậu, thổ nhưỡng tương đối khác nhau của tỉnh Yên Bái và có diện
tích đất lâm nghiệp lớn, nhiều mô hình khuyến lâm đã được triển khai. Bên cạnh
đó, tác giả cũng nghiên cứu các mô hình khuyến lâm do Trung tâm Khuyến nông
khuyến lâm tỉnh Yên Bái và phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
(NN&PTNT) các huyện thực hiện từ năm 2010 - 2014 [52]. Tuy nhiên, đề tài
này chỉ tiến hành so sánh đánh giá các mô hình hiện còn tồn tại và có thể thu
thập được đủ thông tin. Trên cơ sở phân tích, đánh giá các mô hình khuyến lâm
ở các địa phương, tác giả đề xuất lựa chọn các mô hình hiệu quả, phương pháp
chuyển giao tốt để nhân rộng cho người dân và giúp cho các nhà quản lý hoạch
định chính sách phù hợp cho chương trình xây dựng mô hình khuyến lâm.
* Những nghiên cứu về kinh tế lâm nghiệp tỉnh Yên Bái trên các tạp chí và
các phương tiện thông tin và truyền thông.
Tác giả Nguyễn Trung Lợi trong bài viết “Yên Bái qua 10 năm phát triển
kinh tế đồi rừng và trang trại gia đình” đã chỉ ra kết quả rõ nét nhất trong việc


19

thúc đẩy phát triển kinh tế đồi rừng và trang trại ở tỉnh Yên Bái là đã hình
thành được các vùng sản xuất hàng hóa tập trung. Tác giả nhận định, tỉnh Yên

Bái đã thực hiện tốt chủ trương xã hội hóa nghề rừng đồng thời khẳng định tính
hiệu quả của các chương trình 327 và chương trình 661 về đầu tư phát triển lâm
nghiệp [65].
Nguyễn Quốc Khương với bài viết: “Tỉnh Yên Bái phát triển lâm nghiệp
theo hướng bền vững (2006 - 2015)”, đã phân tích thực trạng kinh tế lâm nghiệp
tỉnh Yên Bái. Theo tác giả, bằng nhiều giải pháp và hướng đi phù hợp, kinh tế
lâm nghiệp ở Yên Bái đã được khẳng định rõ nét, là trụ cột của kinh tế nông, lâm
nghiệp. Kinh tế lâm nghiệp ở Yên Bái không chỉ đóng góp lớn vào phát triển
kinh tế - xã hội địa phương, xóa đói giảm nghèo, làm giàu mà còn góp phần bảo
vệ môi trường sinh thái. Song, bên cạnh những kết quả đã đạt được vẫn còn
những tồn tại cần tháo gỡ từ phát triển vùng nguyên liệu đến chế biến [60].
Tác giả Nguyễn Thị Kim Phượng trong bài viết “Chi trả dịch vụ môi
trường rừng - một động lực thúc đẩy công tác quản lý bảo vệ rừng” nhận định,
việc chi trả dịch vụ môi trường rừng, khoán bảo vệ rừng, giao đất giao rừng cho
người dân hiện nay đang là một trong những động lực thúc đẩy người dân sống
bằng nghề rừng, yên tâm với công việc và đồng thời cũng đang ngày càng thúc
đẩy kinh tế lâm nghiệp tỉnh Yên Bái phát triển bền vững [71].
1.2. KHÁI QUÁT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ
CÔNG BỐ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA LUẬN ÁN TIẾP TỤC GIẢI QUYẾT

1.2.1. Những vấn đề đã được nghiên cứu
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu kể trên về phương diện nào đó đã
chỉ ra những vấn đề liên quan, một khía cạnh nhất định của kinh tế lâm nghiệp,
cũng như những kinh nghiệm nhất định. Trước những đòi hỏi của quá trình hội
nhập và phát triển kinh tế thì việc đổi mới, hoàn thiện về mặt lý luận và thực tiễn
về kinh tế lâm nghiệp là xu thế tất yếu ở Việt Nam nói chung và tỉnh Yên Bái
nói riêng.
Các công trình trên đã làm rõ lịch sử phát triển của ngành lâm nghiệp nói
chung và sự chuyển biến của kinh tế lâm nghiệp trong quá trình xây dựng nền



×