Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Cư dân vương quốc Phù Nam từ góc nhìn khảo cổ học và thư tịch cổ Trung Hoa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.87 KB, 5 trang )

34

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI

CƯ DÂN VƯƠNG QUỐC PHÙ NAM TỪ GÓC
NHÌN KHẢO CỔ HỌC VÀ THƯ TỊCH CỔ TRUNG HOA
Nguyễn Thị Song Thương
Trường Đại học Đồng Tháp
Tóm tắt: Các kết quả nghiên cứu khảo cổ học, nhân chủng học cũng như thư tịch cổ về cư
dân của nền văn hóa Óc Eo đã chỉ ra rằng, cổ xưa đã có nhiều nhóm tộc người khác
nhau cùng sinh sống trong vương quốc Phù Nam ở vùng Tây Nam Bộ. Trong đó, nhóm
người Indonesien là nhóm đầu tiên trực tiếp mở đất, lập nghiệp, tiếp xúc và cộng cư với
các nhóm khác để tạo nên cộng đồng cư dân Óc Eo, nền văn hóa Óc Eo đa dạng, hòa
hợp, cùng phát triển.
Từ khóa: Cư dân Óc Eo, Tây Nam Bộ
Nhận bài ngày 08.5.2019; gửi phản biện, chỉnh sửa và duyệt đăng ngày 15.6.2019
Liên hệ tác giả: Nguyễn Thị Song Thương; Email:

1. MỞ ĐẦU
Cùng với văn hóa Đông Sơn ở Bắc Bộ, văn hóa Sa Huỳnh ở Trung Bộ, văn hóa Óc Eo
ở đồng bằng sông Cửu Long và vùng Tây Nam Bộ là một trong ba nền văn hóa lâu đời cấu
thành văn hóa Việt. Tồn tại suốt 5 thế kỉ (từ thế kỉ II đến cuối thế kỉ VI) và gắn liền với sự
hình thành, phát triển của vương quốc Phù Nam, văn hóa Óc Eo chứa đựng nhiều bí ẩn cần
khám phá về một nền văn hóa đa dạng, có sự hội tụ, giao thoa, cùng phát triển của nhiều
tộc người. Các dấu tích, di chỉ văn hóa còn lại của nền văn hóa Óc Eo, của vương quốc Phù
Nam khá rõ ràng, nhưng việc đi tìm câu trả lời cho câu hỏi chủ nhân thực sự của vương
quốc Phù Nam, của văn hóa Óc Eo đặc sắc này là ai lại không đơn giản. Bài viết này phần
nào hé ngỏ câu trả lời khả dĩ thỏa đáng từ các kết quả khảo cổ học và nhân chủng học mới
nhất gần đây.

2. NỘI DUNG


Vương quốc Phù Nam cổ xưa bao trùm toàn bộ vùng hạ lưu châu thổ sông Cửu Long,
về phía Đông kiểm soát cả vùng đất phía Nam Trung bộ (Việt Nam), về phía Tây kiểm
soát thung lũng sông Mê Nam (Thái Lan), về phía Nam kiểm soát phía Bắc bán đảo
Malaysia. Cái tên Phù Nam (FOUNAN) là do người Trung Quốc đặt, chỉ một bộ tộc/đế chế
ở phía Nam gồm 10 thuộc quốc, đã có sự qua lại, triều cống từ rất sớm, trước cả vương


TẠP CHÍ KHOA HỌC  SỐ 32/2019

35

quốc Chân Lạp. Thế kỉ II đến cuối thế kỉ VI, vương quốc Phù Nam phát triển mạnh mẽ và
hưng thịnh nhờ sự mở rộng buôn bán, giao thương hàng hải. Đến thế kỉ VII, Phù Nam suy
yếu, bị người Chân Lạp thôn tính và chia tách thành hai vùng: Lục Chân Lạp và Thủy
Chân Lạp (vùng Tây Nam bộ hiện nay). Đến thế kỉ XVII, chúa Nguyễn Hoàng mở rộng bờ
cõi, tiêu diệt Chiêm Thành và Chân Lạp, thu phục vùng đất này. Như thế, xét cả từ khía
cạnh truyền thuyết lẫn các cứ liệu lịch sử còn lưu giữ được thì sự hình thành và phát triển
của vương quốc Phù Nam là có thật và văn hóa Óc Eo (lấy theo tên gọi địa điểm gò Óc Eo,
thuộc xã Vọng Khê, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang - nơi nhà khảo cổ học người Pháp
Louis Malleret khai quật được các di vật đầu tiên, năm 1944) là sản phẩm của cư dân
vương quốc Phù Nam.
Nghiên cứu thành phần cư dân Phù Nam để xác định tộc người nào sinh sống đầu tiên
ở vùng đất này và tạo lập dấu tích, định hình bản sắc văn hóa Óc Eo hiện gặp khá nhiều
khó khăn do tư liệu, bằng chứng khảo cổ học còn ít, chưa đầy đủ. Tuy vậy, trong các đợt
khai quật những di chỉ thuộc giai đoạn tiền Óc Eo ở vùng Nam Bộ, các nhà khảo cổ học đã
phát hiện một số mộ huyệt đất. Đây có thể coi là nguồn tư liệu xác thực nhất, để xác định
lớp người đầu tiên sinh sống ở vùng Nam Bộ Việt Nam ngày nay.
Tại di tích An Sơn (có niên đại 382070 BP và 277550 BP) vào những năm 1978,
2004, 2007, 2009, các nhà khảo cổ học đã phát hiện 35 mộ táng và nhiều di cốt nằm rải rác
trong các hố khai quật. Qua giám định về cổ nhân học cho biết, những di cốt này thuộc

nhiều lứa tuổi (từ trẻ nhỏ 2 - 3 tuổi đến người lớn trên 50 tuổi), giới tính khác nhau (có
nam, có nữ) và đều thuộc giống người có tên khoa học là Indonesien [1]. Như vậy, từ
những phát hiện trên, có thể xác định, người Indonesien chính là lớp người đầu tiên mở
đất, lập nghiệp ở vùng đất này. Đặc biệt, các di cốt người phát hiện trong cuộc khai quật tại
An Sơn năm 2009 đã được phân tích bằng nhiều phương pháp khác nhau. Kết quả cho thấy
có 3 người trưởng thành (1 nữ 40-49 tuổi, 1 nữ 20-29 tuổi, 1 nam 30-39 tuổi), 3 trẻ em từ
1-4 tuổi và 1 thiếu niên từ 10-14 tuổi. Việc phân tích nhân chủng cũng đi đến nhận định
rằng trong khi người An Sơn có các chỉ số răng gần gũi với răng của cư dân Jomon và Hoà
Bình thời kỳ Holocene, các số đo sọ cũng cho thấy sự gần gũi với cư dân Đông Sơn thời kỳ
đồ Đồng, người Việt và những người Đông Á hiện đại [5, tr.165]. Điều đó cho thấy, cư dân
ở An Sơn có thể đã bảo lưu một số đặc điểm gien của các nhóm cư dân bản địa Đông Nam
Á sớm hơn, nhưng cũng xuất phát từ một quá trình di cư từ các khu vực khác của Đông Á.
Tại địa điểm Giồng Phệt (Thành phố Hồ Chí Minh), trong đợt khai quật tháng 2 năm
1993 đã phát hiện 59 mộ chum. Vào tháng 4 năm 1993, các nhà khảo cổ tiếp tục phát hiện
5 mộ táng và 1 mộ vò, tuy nhiên, các di cốt không còn nguyên vẹn. Đến cuối năm 1993,
cũng tại địa điểm này, các nhà khảo cổ học tiếp tục phát hiện 3 mộ đất và 3 mộ chum.
Trong đó, có một bộ di cốt có hộp sọ còn tương đối nguyên vẹn, được xác định giới tính
nam, khoảng 50-60 tuổi, có quan hệ gần gũi với sọ của người Mongoloid, cư dân Đông
Sơn (nhóm loại hình Đông Nam Á).


36

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI

Tại địa điểm Giồng Cá Vồ, các cuộc khai quật trong các năm 1993, 1994 và 1997 đã
phát hiện 359 mộ chum và mộ đất, trong đó 24 sọ (13 sọ nam và 11 sọ nữ) đã được
Nguyễn Lân Cường đưa đi nghiên cứu. Tuy nhiên, chỉ 6 sọ có đủ yếu tố xác định nhân
chủng, trong đó có 5 sọ nữ khá gần với những sọ nữ thuộc nhóm loại hình Đông Nam Á
của văn hóa Đông Sơn có đặc trưng của chủng tộc Mongoloid Nam Á [2, tr.187].

Tại địa điểm Lộc Giang (Long An) đã phát hiện một hộp sọ của phụ nữ khoảng 30-35
tuổi trong tầng văn hóa Óc Eo. Tuy không còn nguyên vẹn, song nhà nghiên cứu Nguyễn
Lân Cường cho rằng sọ có một số nét của người Mongoloid [2, tr.185].
Tại khu vực Gò Rạch Rừng, huyện Mộc Hoá, Long An, người dân đã phát hiện 8 bộ
xương cốt cùng với một số đồ trang sức bằng đá, mảnh gốm, xương động vật. Trong đó, có
3 sọ có thể nghiên cứu được: 1 sọ của một người phụ nữ khoảng 25 tuổi, cao 1,54m; 1 sọ
của một người nam giới khoảng 60 tuổi, cao 1,65m; 1 sọ của một người phụ nữ khoảng 65
tuổi, cao 1,57m; Nguyễn Quang Quyền cho rằng họ thuộc loại hình “thượng cổ” gần giống
với Melanesien. Tuy nhiên, Nguyễn Lân Cường có các số đo hơi khác và cho rằng đây
chính là những người Indonesien cổ.
Năm 1997 tại địa điểm Gò Ô Chùa, các nhà khảo cổ học đã phát hiện 2 di cốt (trong số 12
di cốt), được xác định là của một cá thể nam khoảng 40 tuổi, cao 1,67m và một cá thể nam
khác khoảng 18-20 tuổi, cao 1,63m. Sọ của hai cá thể này gần nhất với sọ người Việt [2, tr.182].
Tại di tích Cạnh Đền (Trăm Phố), Malleret phát hiện 7 sọ người và được xác định là
thuộc thời đại Đồng - Đá, cách ngày nay 4000 năm. Theo E. Genet Varcin, đây là những sọ
của người Indonesien. Hai sọ và một số xương cốt do các nhà khảo cổ học Việt Nam phát
hiện sau này, cũng trong khu vực phát hiện được nhóm di cốt nói trên, được Nguyễn
Quang Quyền cho là có các đặc điểm của người Thượng (Indonesien), với nhiều đặc điểm
của đại chủng Australoid [3, tr.247-250].
Tại di tích Gò Tháp, các nhà khảo cổ học cũng đã phát hiện một số di cốt người cổ.
Trong đó, sọ kí hiệu ĐT.84.TS.X.03 có dáng rất giống sọ Cạnh Đền (sọ Thnal Mroy
24.359, nữ 30 tuổi). Lê Trung Khá cho rằng, sọ ở Gò Tháp và Cạnh Đền thuộc cùng thời kì
văn hóa Óc Eo hay sớm muộn hơn đôi chút, có nhiều nét tương tự sọ nữ cổ ở An Sơn và
Samrongsen và mang đặc điểm của người Thượng, nhóm người được xếp vào tiểu chủng
hay loại hình nhân chủng Indonesien. Di duệ của lớp người này hiện nay vẫn còn ở Đông
Nam Á lục địa và hải đảo [3, tr.247-250].
Một sọ cổ (OE84.TS.X01) của cá thể nam, khoảng 30 tuổi phát hiện ở Lung Lớn cũng
có dáng dấp giống sọ Gò Tháp nhưng kích thước lớn và thô hơn. Kết quả nghiên cứu cho
thấy sọ có thể có cùng niên đại với sọ Gò Tháp và Cạnh Đền, thuộc chủng Indonesian [3,
tr.247-250].

Tại di tích Nhơn Thành (Cần Thơ), phát hiện 1 sọ nam khoảng 55-60 tuổi và 2 sọ trẻ
em khoảng 8-11 tuổi, được Nguyễn Quang Quyền xác định thuộc loại hình Thượng hoặc
Việt. Cũng tại di tích này, 2 sọ khác của một nam và một nữ, đều ở độ tuổi 60 được
Nguyễn Lân Cường và Nguyễn Kim Thuỷ xác định thuộc nhóm người Việt.


TẠP CHÍ KHOA HỌC  SỐ 32/2019

37

Tại địa điểm Gò Cây Tung (An Giang), trong các cuộc khai quật năm 1993-1994 đã
phát hiện 19 ngôi mộ và có tới 23 cá thể, có niên đại khoảng thế kỉ 6-5 TCN đến 4-5 SCN.
Các di cốt đã được xác định gồm 7 nữ, 9 nam và 7 cá thể không xác định, hầu hết các cá
thể ở độ tuổi 20-50, 1 cá thể gần 70 tuổi. Các sọ thuộc loại ngắn, mặt thuộc loại rộng trung
bình, nghiêng về hẹp ở nữ và rộng ở nam, được cho là gần gũi với sọ của cư dân Thái Lan,
Việt và cư dân Đông Sơn cổ (nhóm loại hình Đông Nam Á), khác biệt hẳn với người
Thượng và người Khmer [2, tr.188-189].
Như vậy, từ các nghiên cứu nhân chủng, chủ yếu phát hiện trong các di tích tiền Óc Eo
và Óc Eo sớm, có thể thấy sự có mặt của nhiều nhóm tộc người khác nhau trên vùng đất
Nam Bộ. Trong đó, các nhà nghiên cứu nhân chủng cho rằng, nét nổi bật của cư dân cổ ở
vùng Nam Bộ là những người Mongoloid gần gũi với người Việt, nhóm loại hình Đông
Nam Á của người Đông Sơn.
Khi nói về chủ nhân của nền văn hóa Óc Eo, thư tịch cổ Trung Hoa cho biết người Phù
Nam có nước da đen, tóc quăn, mặt tròn, mũi ngắn. Nam sử và Thông chí cũng mô tả
người Phù Nam nước da đen, xấu, búi tóc (có lẽ là chỉ phụ nữ, như Lương thư cũng nói
đến), vẽ mình, ở trần, đi chân đất. Những mô tả này cho thấy những phong tục gần gũi với
các nhóm cư dân vùng Tây Nguyên (người Thượng), theo chế độ mẫu hệ, vốn là hậu duệ
của lớp cư dân bản địa có nguồn gốc từ sự kết hợp giữa các tộc người nói tiếng Nam Đảo
với các tộc người nói tiếng Môn - Khmer [4, tr.50-55].
Ngoài ra, qua các ghi chép của sứ thần Trung Hoa, truyền thuyết và bia kí, có thể thấy

rằng từ khoảng đầu Công nguyên người Ấn Độ đã có mặt trên vùng đất này. Điều này
được thể hiện trước hết qua cuộc hôn nhân của thủ lĩnh địa phương (Liễu Diệp) với giới
quý tộc người Ấn Độ (Hỗn Điền). Những dấu tích sớm của các ngôi nhà lợp ngói kiểu Ấn
Độ, các loại đồ gốm cao cấp có bề mặt miết bóng màu vàng bò (buff ware) kiểu Ấn phủ
thành lớp dày trong hố khai quật tại gò Tư Trâm cho thấy ở đây có thể đã có những kiều
dân Ấn hoặc ít nhất là những người mang hai dòng máu Ấn và bản địa. Từ những đồ trang
sức và một số bản điêu khắc thể hiện sâu đậm đặc trưng Ấn Độ, có thể cho rằng đã có các
nhóm thợ thủ công người Ấn cư trú trong vùng. Các giáo sĩ và nhà sư người Ấn không chỉ
theo các con tàu đi truyền giáo, mà còn định cư một số nơi trong vùng Đông Nam Á, trong
đó có vùng đất Nam Bộ. Họ đặc biệt được coi trọng trong đế chế Phù Nam. Vào năm 484,
vua Jayavarman (Đồ Gia Bạt Ma) còn cử nhà sư Na Gia Tiên (Nagasena) sang sứ Trung
Quốc. Từ các nguồn tư liệu trên, không thể phủ nhận rằng có một số lượng cư dân gốc Ấn
đáng kể trong thành phần dân cư nơi đây. Đồng thời, qua các tác phẩm thể hiện tính chất
tôn giáo, những tượng đất nung nhỏ hoặc các hình nhân phát hiện ở Óc Eo (An Giang),
Nhơn Thành (Cần Thơ), Gò Tháp (Đồng Tháp), có thể thấy dấu hiệu về sự hiện diện của
các nhóm cư dân ngoại lai từ Trung Hoa và các khu vực khác. Các điêu khắc tôn giáo cũng
đã phản ánh phần nào thành phần dân cư trong cộng đồng Óc Eo. Điều này được thể hiện
qua các điêu khắc của hai vị thần Vishnu và Siva trong khoảng nửa đầu thiên niên kỷ I với


38

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI

khuôn mặt khá nặng nề, có đôi má bầu, mũi to, mặt hơi ngắn. Từ thế kỉ VII trở đi, họa tiết
trong các bản điêu khắc nhân thể có sự thay đổi, khuôn mặt vuông vức, hơi dài, trán phẳng.
Điều này cho thấy rõ ràng ngoài cộng đồng Óc Eo bản địa, còn có các tộc người khác, với ý
thức hệ, văn hóa, tín ngưỡng khác cùng chung sống ở nơi này, song tộc người Indonesien bản
địa vẫn giữ vị trí chủ đạo trong kiến tạo, hình thành bản sắc và các giá trị văn hóa đặc thù.


3. KẾT LUẬN
Từ kết quả phân tích nhân cổ học, khảo cổ học và thư tịch cổ Trung Hoa, bước đầu có
thể đi đến kết luận rằng chủ nhân nền văn hóa Óc Eo là người bản địa thuộc chủng
Indonesien. Trong quá trình tồn tại và phát triển, cư dân bản địa đã có sự cộng cư, giao
thoa, chung sống hòa hợp với các tộc người khác để cùng kiến tạo và xây dựng văn hóa Óc
Eo, xây dựng Phù Nam thành một đế chế hùng mạnh suốt mười ba triều đại trước khi bị
thôn tính và thu phục. Chính sự giao thoa đa dạng, đặc sắc này đã góp phần tạo nên tính
cách, văn hóa đặc trưng của vùng Nam Bộ, người Nam Bộ hiện nay.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Nguyễn Lân Cường (2005), Báo cáo về di cốt người cổ ở di tích An Sơn, tư liệu Bảo tàng
Long An.

2.

Nguyễn Lân Cường (2008), Di cốt người cổ ở Nam Bộ, trong Văn hóa Óc Eo và Vương quốc
Phù Nam - Kỷ yếu hội thảo khoa học nhân 60 năm phát hiện văn hóa Óc Eo (1944-2004), Nxb Thế giới, Hà Nội.

3.

Lê Trung Khá (1985), Về những sọ cổ mới phát hiện ở An Giang và Đồng Tháp trong Những
phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1984.

4.

Ngô Đức Thịnh (2010), “Bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống các tộc người ở Tây
Nguyên”, Tạp chí Phát triển kinh tế và xã hội Đà Nẵng, (02 và 03).


5.

Bellwood, Peter, et. al (2011), “An Son and the Neolithic of Southern Vietnam”, - AP, Vol. 50
(1&2), Spring/ Fall 2011, 144-175.

THE RESIDENTS OF FUNAN KINGDOM FROM
THE POINT OF VIEW OF ARCHEOLOGY
AND ANCIENT CHINESE DOCUMENTS
Abstract: Basing on the archeological, anthropological and ancient documents on the
resident of Oc Eo culture, they are showed that there have ever been many different
ethnic groups living in Funan Kingdom in the South-western region. In which, Indonesien
group is the first one to open land and settle on this land. In the process of development,
they had contacted with other communities that made the Oc Eo. community together to
build the powerful Funan kingdom.
Keywords: Oc Eo’s residents, South-western region.



×